Thành Thật Luận

Thành Thật Luận

Đỗ Quang Huy 35

QUYỂN THỨ 19

PHẨM TRÍ-TƯỚNG TRONG TRÍ LUẬN NHÓM ĐẠO ĐẾ THỨ 189

Chân-huệ gọi là trí. Chân là không, vô-ngã. Trong ấy trí huệ gọi là chân-trí; huệ trong giả-danh là tưởng chẳng phải trí. Tại vì sao? Vì trong kinh nói: “Như dao năng cắt”. Đệ-tử Phật lấy dao trí-huệ năng cắt dứt: gút, trói, khiến, buộc tất cả phiền-não, chứ chẳng nói pháp nào khác. Chẳng phải chẳng thật mà năng dứt phiền-não được. Nên biết trí-huệ là thật.

Hỏi: Ông chỉ nói năng dứt phiền-não. Việc ấy chẳng phải lẽ. Tại vì sao? Vì tưởng cũng năng dứt các phiền-não. Như trong kinh nói: “Khéo tu tưởng vô-thường là năng phá dục-nhiễm, sắc nhiễm, và vô-sắc nhiễm, tất cả hý-diệu, kiêu mạn, vô-minh?”.

Đáp: Chẳng phải lẽ. Huệ mới dứt phiền-não, lấy tên tưởng mà gọi. Phật có hai lối nói: một thật ngữ; hai danh-tự ngữ. Như trong kinh nói: “Từ tâm dứt giận dữ”. Mà thật chẳng phải từ pháp dứt gút, duy trí mới năng dứt. Như nói dao trí dứt các phiền-não. Nên biết nói “từ năng dứt giận dữ” là danh tự ngữ. Lại nghĩa trong kinh nói hiểu biết nên gọi tuệ. Năng hiểu biết việc gì? Là sắc vô-thường như thật biết vô-thường; thọ tưởng hành thức vô-thường như thật biết vô-thường. Đấy là trí huệ. Lại nói Đệ-tử Phật là kẻ tu Định nhiếp tâm như thật thấy biết. Vậy nên biết duyên Đệ nhất nghĩa gọi là trí huệ. Lại trong ví dụ, trí tuệ gọi là con trí dao-huệ mũi tên thảy. Trong dụ nầy đều chỉ rõ nghĩa dứt trừ phiền-não, duy chân trí huệ mới có thể dứt phiền-não. Nên biết trí tuệ là thật. Lại trong kệ nói: Hành-giả thấy thế-gian, tất cả các Thiên-nhân, vì mất chân trí, tham đắm nơi danh sắc. Thế-gian phần đông chấp hư vọng cho là Thường-Lạc-Tịnh thảy gọi là mất chân trí. Nếu thấy chân thật không, vô ngã thảy gọi được chân trí. Nên biết trí huệ thật. Lại trong kinh Phật nói: “Như người mất của gọi mất tiểu lợi. Nếu mất trí tuệ gọi mất đại lợi”. Lại nói: “Với trong các lợi của là lợi nhỏ mọn: Huệ là lớn lao”. Lại nói: “Với trong các sáng, nhật nguyệt sáng nhỏ, tuệ sáng đệ nhất. “Nếu tuệ chẳng phải thật, Phật vì sao phải nói lên như thế ấy? Lại trong kinh nói huệ căn nhiếp thuộc Thánh đế. Lại nói Khổ Tập trí thảy phải biết chân thật, quyển đệ nhất gọi là tí tuệ. Lại nói, với trong các pháp trí tuệ là thượng. Lại nói Vô-thượng-Chánh-Biến-Tri, cũng nói tuệ-nhãn. Nên biết trí tuệ là thật, vì duyên đệ-nhất-nghĩa.

Hỏi: Nếu vậy thời không có thế gian trí-tuệ?

Đáp: Thế-gian thật không có trí-tuệ. Tại vì sao biết? Vì tâm thế-gian duyên giả-danh; mà tâm xuất-thế-gian mới duyên không, vô-ngã. Tại vì sao? Vì thế gian là giả danh; mà vượt khỏi giả-danh mới gọi xuất-thế-gian.

Hỏi: Ông nói chẳng phải lẽ. Tại vì sao? Vì trong kinh nói: “Thức biết chỗ nào? Là biết sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp”. Như vậy ấm, giới, nhập thảy đều nhờ Thức biết. Nay biết này đều nên gọi là xuất-thế-gian. Vậy nên ông nói tâm thế-gian duy duyên giả danh chẳng năng duyên thật. Việc nầy chẳng phải lẽ. Lại ý-thức cũng năng duyên thật, vì năng duyên thọ, tưởng, hành thảy vậy. Lại Phật nói hai món chính-kiến: thế-gian và xuất-thế-gian. Thấy có phước tội thảy gọi là thế-gian. Như thánh đệ-tử duyên Khổ-Tập-Diệt-Đạo, vô-lậu niệm tương ưng tuệ gọi là xuất-thế-gian. Lại trong kệ nói: Được Chính-kiến trên đời, dù qua lại sinh tử, trải đến trăm ngàn đời, thường chẳng đọa ác đạo. Lại trong kinh nói:: “Kẻ tà-hành được sinh về chỗ lành”. Người nầy tội nghiệp chưa thành, mà duyên lành chính trước, hoặc chính khi chết chính-kiến tương-ưng, thiện-tâm, hiện tiền, nên được sinh chỗ lành. Lại trong thập-thiện-đạo cũng có nói chính kiến. Ông nói sao không thế-gian trí? Lại Phật tự nói có ba món tuệ: văn-tuệ, tư-tuệ và tu-tuệ. Văn-tuệ tư-tuệ đều là thế-gian, mà tu-tuệ gồm cả hai. Lại Phật sinh nghĩ: Tỳ-kheo La-Hầu-La chưa có thể thành tựu được tuệ giải thoát. Lại nói có năm pháp có thể khiến tâm chưa thể thành-thục giải thoát được thành-thục. Đấy đều là trí-tuệ thế-gian. Lại trong kinh nói: “Có người năng ra mà chẳng năng xem; có người năng xem mà chẳng năng ra”. Được thế-gian trí nên gọi năng ra; chưa thấy tứ-đế nên chẳng năng xem. Nếu thấy tứ-đế mà chưa được hết lậu nên gọi chẳng năng qua. Lại Phật tự nói: Pháp-trí, tỷ-trí, tha-tâm-trí, thế-trí. Lại nói: Túc-mạng-trí, sinh-tứ-trí. Đều là hữu-lậu. Lại nói: pháp-trụ-trí. Nê-Hoàn-trí. Do trong kinh nói có như thế thảy. Nên mới biết có hữu-lậu-trí?

Đáp: Nếu có trí-tuệ hữu-lậu, thì nay cần phải nói tướng sai khác của trí hữu-lậu và vô-lậu đi?

Hỏi: Nếu pháp “đọa có” gọi là hữu-lậu, mà khác đi thời vô-lậu.

Đáp: Pháp nào là “đọa có”, pháp nào chẳng “đọa có”, việc nầy nên phải đáp. Nếu chẳng đáp được thời chẳng phải tướng hữu-lậu và vô-lậu. Ngươi nói có thế-gian tâm duyên chẳng phải giả-danh nghĩa là thức duyên các trần thảy. Việc nầy chẳng phải lẽ. Tại vì sao? Vì Phật nói phàm-phu thường chạy theo giả-danh. Nghĩa nầy vì tất cả tâm phàm-phu chẳng phá được giả-danh, nên thường chạy theo ngã-tướng trọn chẳng thể lìa được; tuy thấy sắc chẳng lìa được tướng cái bình thảy, nên tâm phàm-phu chẳng duyên thật nghĩa được. Dù có duyên thọ tưởng thảy các pháp cũng vẫn thấy là ngã và ngã-sở. Nên biết tất cả tâm thế-gian đều duyên giả-danh. Ngươi nói có các thế-gian trí-huệ là hai món chính-kiến thảy. Nay sẽ đáp: Tâm có hai thứ: si-tâm và trí-tâm. Duyên pháp giả-danh gọi là si-tâm; nếu chỉ duyên pháp nghĩa là không, vô-ngã gọi là trí-tâm. Như trong kinh nói để giải nghĩa vô-minh: “Vô-minh ấy: chẳng biết trước, chẳng biết sau, chẳng biết trước sau; chẳng biết nghiệp, chẳng biết báo, chẳng biết nghiệp báo trước sau. Như vậy thảy chỗ chỗ như-thật chẳng biết chẳng hiểu si vọng tối đen, nên mới gọi là vô-minh”. Như-thật chẳng biết ấy: Nghĩa là chẳng biết trống-không vô-ngã, vì là tâm phàm-phu thường ở trong giả-danh và duyên giả-danh nên gọi là vô-minh. Duyên “không” gọi là trí. Nay, nếu tất cả tâm thế-gian đều duyên giả-danh, vì tâm duyên giả-danh gọi là vô-minh, thời làm sao được nói thế-gian có trí-tuệ?

Hỏi: Ông nói trí-tuệ tướng duyên giả-danh gọi vô-minh ấy. Nay thấy A-La-Hán lẽ phải có vô-minh, vì cũng có tâm duyên cái bình thảy vậy?

Đáp: A-La-Hán không có tâm duyên cái bình thảy. Tại vì sao? Vì khi mới đắc Đạo đã phá vỡ các tướng giả-danh rồi. Nhưng chỉ vì sự dụng nên nói bình thảy mà chẳng chấp đắm kiêu-mạn. Có ba thứ lời: một do thấy sinh; hai do mạn sinh; ba do sự dụng sinh. Phàm-phu hoặc nói bình, hoặc nói người, những lời ấy đều do thấy sinh. Học nhân tuy không ngã-kiến, vì mất chánh-niệm nên với trong kinh Sai-Ma-Già đã nói. Sự dụng: Là A-La-Hán như Ngài Đại-Ca-Diếp thấy áo tăng-già-lê nói: Vật nầy của Ta Thiên-Thần sinh nghi? Phật giải-thích rằng: “Người ấy đã nhổ hẳn gốc mạn, đốt hết nhân-duyên làm sao có mạn? Nhưng vì danh-tự thế-gian nên nói thế thôi”. Nên biết A-La-Hán không có tâm cái bình thảy.

Hỏi: Nếu thế-gian không trí tuệ, mà nói hai món chính-kiến thảy, thời làm sao thông với kinh được?

Đáp: Đấy đều là tưởng, lấy tên trí mà nói. Phật năng thông đạt thật tướng các pháp; tùy theo có thể độ chúng-sinh mới lập nhiều danh tự, như trí-huệ lấy tên thọ thảy mà nói, chỗ gọi thọ giả đối với các pháp được giải thoát. Cũng nói, khéo tu tưởng vô-thường thảy năng phá tất cả phiền-não. Cũng nói nghiệp thứ tư chẳng đen chẳng trắng năng hết các nghiệp, chỗ gọi học tư. Lại nói, lấy ý dứt các tham đắm. Lại nói, tin năng qua sông, nhất tâm qua biển; tinh tiến trừ khổ, huệ năng thanh tịnh. Lại nói, mắt muốn thấy sắc, mắt thật không muốn chỉ tâm muốn thấy, lấy tên mắt mà nói.

Hỏi: Nếu thế gian trí thật là tưởng ấy, tại sao gọi trí? Nếu không lý do mà nói gọi là trí, thời tất cả tưởng đều phải gọi trí. Cũng nên nói có hai thứ tưởng: một duyên thế đế; hai duyên đệ-nhất-nghĩa-đế?

Đáp: Chẳng phải lẽ. Tưởng có nhiều thứ sai khác: có tưởng rất ngu si, đến nổi chẳng biết thiện ác. Có tưởng ít si hơn nữa năng duyên tướng xương thảy. Chẳng lìa giả danh thời chẳng năng hoại tướng các ấm. Tưởng này năng thuận với trí hoại ấm tướng, nên Phật gọi là trí. Thế-gian có lối nói quả trong nhân: như nói ăn vàng; thí người năm việc; gái làm cấu dơ giới pháp; bờ tốt ngòi xinh; pháp phục người vui. Lại trong kinh bảy lậu nói: “dụng đoạn thảy lậu-nhân gọi là lậu”. Lại nói, lấy ăn làm mạng; cỏ làm trâu dê. Cũng nói, áo cơm thảy vật đều là ngoại mạng. Như cướp của người tức là cướp mạng. Đấy đều nói nhân làm quả. Như vậy trí nhân nói là trí, nên không bị lỗi vậy.

Hỏi: Các niệm-xứ là trong Noãn pháp thảy, tâm năng duyên thật pháp là vô-lậu sao?

Đáp: Tâm vô-lậu năng phá giả danh. Vậy nên tùy tâm năng phá giả-danh, từ đấy về sau gọi là vô-lậu.

Hỏi: Tâm đến bực nào năng phá giả-danh?

Đáp: Tùy năng thấy đầy đủ tướng ngũ-ấm sinh diệt, bấy giờ được vô-thường-tưởng. Vô-thường-tưởng năng khiến hành-giả đủ vô-ngã-tưởng. Như nói; Thánh đệ tử dùng vô-thường-tưởng tu tâm thời năng trụ vô-ngã-tưởng; dùng vô-ngã-tưởng tu tâm năng chóng được giải thoát tham sân si thảy. Tại vì sao? Vì nếu dùng vô-ngã-tưởng tu tâm thời năng trụ khổ-tưởng, vì ngã-tưởng nên dù bị khổ vẫn chẳng biết. Vậy nên, nếu pháp vô-thường vô-ngã mà cũng khổ thời kẻ trí vẫn có thể rất sinh ghét nhàm. Nên vô-ngã-tưởng năng đủ khổ-tưởng.

Hỏi: Tại sao ông phá thuyết thứ lớp? Trong kinh nói: “Như vô-thường tức là khổ; khổ tức là vô-ngã” Nên vô-thường-tưởng năng đủ khổ-tưởng; khổ-tưởng năng đủ vô-ngã-tưởng?

Đáp: Trong kinh nói: “Tu vô-thường-tưởng, tâm Thánh đệ-tử năng tu vô-ngã-tưởng.” Nên vô-thường-tưởng năng đầy đủ vô-ngã-tưởng. Lại nói như thế cũng có đạo lý. Tại vì sao? Vì kẻ nói ngã muốn để thành lập đời sau, nên mới nói ngã là thường. Vậy nên, nếu thấy ngũ-ấm vô-thường liền biết vô-ngã. Như trong kinh nói: “Nếu người nói mắt là ngã thời không đạo lý”. Tại vì sao? Vì mắt có sinh diệt. Nếu mắt là ngã sinh diệt? Có những lỗi như thế.

Hỏi: Hai kinh ấy nên nói thế nào cho thông?

Đáp: Tướng khổ có hai thứ: một do vô-thường tưởng sinh gọi là tướng hoại khổ; hai do vô-ngã-tưởng sinh, gọi là tướng hành khổ. Vậy nên hai kinh ấy vẫn chẳng trái nhau.

Hỏi: Nếu như vậy thời niệm xứ trong pháp Noãn thảy có vô-thường tưởng; pháp nầy đều phải là vô-lậu?

Đáp: Trong niệm xứ thảy, nếu là vô-lậu đâu có lỗi chi?

Hỏi: Tâm phàm-phu chẳng nên vô-lậu được, vì tâm phàm-phu còn có vọng niệm-xứ thảy làm sao mà vô-lậu được?

Đáp: Người nầy chẳng phải hoàn toàn là phàm-phu. Người ấy gọi là tu đáng của Tu-Đà-Hoàn.

Hỏi: Tu quả Tu-Đà-Hoàn ở trong kiến-đạo-đế, Pháp niệm-xứ thảy chẳng gọi kiến-đế?

Đáp: Tu quả Tu-Đà-Hoàn có gần có xa: An-trụ trong niệm-xứ thảy là xa; hành-giả kiến-đế là gần. Tại sao biết được? Phật nói trong kinh ví dụ cán búa rằng: “Hoặc biết hoặc thấy nên được hết lậu”. Biết thấy pháp gì? Nghĩa là đây sắc thảy; đây sắc thảy sinh, đây sắc thảy diệt. Nếu chẳng tu Đạo thời chẳng hết-lậu; mà tu đi thời được, như ví dụ ấp trứng. Lại hành-giả thường tu Đạo-phẩm phiền-não mòn dần hết, tuy chẳng đếm biết được, nhưng hết rồi mới hay, như dụ cán búa. Lại hành-giả thường 37 phẩm trợ Đạo thời dục, buộc, gút, trói dễ có thời tán hoại như ví dụ hải-thuyền. Nên biết do niệm-xứ rồi tu tập Đạo-phẩm đều gọi là kẻ tu hành sơ-quả. Lại nếu trong một niệm hoặc mười lăm niệm chẳng được tu tập, phải biết đấy là kẻ xa tu hành Tu-Đà-Hoàn.

Hỏi: Trước nói: đây sắc thảy; đây sắc thảy sinh, đây sắt diệt, là Đạo sơ-quả; ba dụ sau là dụ tam-quả. Vậy nên chẳng gọi kẻ tu hành sơ-quả?

Đáp: Nếu trứng chẳng ấp thời hư, ấp là thành-tựu. Như vậy từ niệm-xứ trở đi pháp tu tập. Nếu chẳng thành chẳng gọi là hành; mà năng hành là kẻ học-nhân nầy gọi chẳng hư hoại vì có thể kham-thọ. Vậy nên, nếu với trong niệm-xứ thảy hư hoại thời gọi phàm-phu. Nếu tu tập thành thời gọi kẻ hành sơ-quả. Như hãy còn ở trong vỏ-trứng, nếu được ra khỏi vỏ gọi Tu-Đà-Hoàn. Nên biết còn ở trong niệm-xứ thảy gọi là kẻ xa tu. Lại như Úc-già trưởng-giả cúng-dường Chúng-Tăng có vị Thiên-Thần giới thiệu: Đây là vị A-La-Hán, cho đến đây là kẻ hành-sơ-quả. Nếu còn ở trong kiến-đế-Đạo làm sao chỉ được như vậy? Nếu phải biết đấy là kẻ xa tu. Lại trong kinh Phật nói: “Nếu không có tín thảy năm căn là gọi người nầy còn ở trong ngoại phàm-phu”. Nghĩa nầy nói có hai hạng phàm-phu nội ngoại. Nếu chẳng được đạt-phần-thiện-căn gọi là ngoại phàm-phu, mà được gọi là nội. Nội phàm-phu nầy cũng gọi Thánh-nhân, cũng gọi phàm-phu. Bởi ngoại phàm-phu nên gọi Thánh-nhân; nhờ kiến-đế-đạo nên gọi phàm-phu. Như A-Nan bảo Xa-Nặc rằng: “Phàm-phu chẳng năng niệm sắc không, vô-ngã thọ-tưởng-hành-thức không, vô-ngã. Tất cả các hạnh vô-thường; tất cả pháp vô-ngã, dịch diệt Nê-Hoàn”. Bấy giờ Xa Nặc chưa vào pháp-vị, mới nói phàm-phu chẳng năng niệm đấy.

Hỏi: Hoặc gần hoặc xa đều gọi là hành-giả, cả thì đâu có sai khác chi?

Đáp: Nếu thấy diệt-đế gọi chân hành-giả. Nếu còn ở viễn-phần thiện-căn thấy ngũ-ấm vô-thường, khổ, không, vô-ngã đáp: Do nhãn duyên sắc sinh nhãn-thức, tức cọng sinh thọ-tưởng-tư thảy, tất cả pháp nầy đều vô-thường bại hoại chẳng khá tin tưởng bảo đảm được” Nếu pháp vô-thường tức là khổ. Pháp khổ nầy sinh cũng khổ, trụ cũng khổ, hằng thường khỏi tướng cũng khổ. Cho đến ý-pháp cũng như vậy. Nếu khổ ấy diệt, các khổ khác chẳng sinh, không còn nối nhau nữa. Hành-giả tâm nghĩ: Chỗ ấy là tịch-diệt nhiệm mầu nghĩa là bỏ tất cả hư-vọng, diệt hết tham ái, ly tịch Nê-Hoàn.

Nếu với trong pháp nầy tâm vào tín giải, chẳng lay chẳng động chẳng lo chẳng sợ. Từ đây trở đi mới gọi là thấy pháp. Nên biết hành-giả nếu dùng vô-thường thảy hạnh quán thấy ngũ-ấm gọi là viễn-hành-giả. Nếu thấy Diệt-đế gọi cận-hành-giả. Như Xa-Nặc đáp với các vị Thượng-Tọa rằng: “Tôi cũng có thể nghĩ sắc thảy vô-thường, mà với tất cả hạnh diệt hết ai, Nê-Hoàn tâm chẳng vào được thông-đạt tín giải”. Nếu như vậy biết chẳng gọi thấy pháp. Lại nói, nếu hành-giả với trong pháp nầy dùng nhuyễn-tuệ tín nhẫn gọi là kẻ tín-hành. Vượt khỏi bực phàm-phu vào chính-pháp-vị, chẳng được sơ-quả quyết chẳng chết-yểu. Nếu dùng lợi-tuệ tín-nhẫn gọi là kẻ pháp-hành. Thấy pháp ấy rồi năng dứt ba gút, gọi là Tu-Đà-Hoàn. Rõ ràng không còn gì hết gọi A-La-Hán. Nên biết thấy Diệt gọi là cận-hành-giả. Hỏi tại sao hành-giả chẳng đều thấy diệt?

Đáp: Trong kinh nói: “Các hành vô-tính, do nhiều nhân-duyên mà sinh. Pháp ấy rất sâu xa; hết tất cả ái, tịch diệt Nê-Hoàn, chỗ ấy khó mà thấy được! Đức Phật quán mười hai nhân-duyên diệt nên chứng được Vô-thượng-Đạo. Lại trong Pháp ấn nói: “Nếu hành-giả quán ngũ-ấm vô-thường bại-hoại hư-vọng chẳng bền chắc, cũng gọi là không, nên gọi tri-kiến chưa tịnh”. Kinh nầy sau nói hành-giả khởi nghĩ như vầy: “Những điều mà ta thấy, nghe, ngửi, nếm, chạm và nghĩ, bởi nhân-duyên nầy mà sinh-thức, nhân-duyên thức ấy là thường hay vô-thường? Tức biết vô-thường”. Nếu từ nhân-duyên vô-thường mà sinh thức thời làm sao thường được? Vậy nên thấy tất cả ngũ-ấm vô-thường do nhiều duyên sinh tận-tướng, ly-tướng và diệt-tướng. Bấy giờ tri-kiến hành-giả mới thanh-tịnh. Nên biết thấy Diệt gọi thấy Thánh-đế. Lại trước pháp trụ-trí, sau Nê-Hoàn-trí. Nên thấy diệt-đế, gọi là được Thánh-Đạo.

PHẨM KIẾN NHẤT-ĐẾ THỨ 190

Hỏi: Ông nói chỉ thấy diệt-đế gọi là kẻ hành-quả. Việc ấy chẳng phải lẽ. Tại vì sao? Trong kinh Phật nói: “Ta và các ngươi chẳng năng như thật thấy tứ-đế, nên ở lâu trong sinh tử. Nay thấy tứ-đế nầy dứt nhân-duyên thân, hết tướng sinh tử, chẳng có thọ thân nữa”. Nên biết thấy tứ-đế mới gọi kẻ hành quả, chẳng phải chỉ thấy Diệt đế. Lại nữa, Phật nói: “Thượng diệt” Chỗ gọi tứ-đế. Vậy nên hành-giả cần phải thấy biết hết.

Lại nói: “Nếu người pháp phục hủy hình chính-tín xuất-gia, đều vì mục đích thấy tứ-đế vậy”. Nếu người muốn được ba Đạo quả trước là đều vì thấy tứ-đế vậy”. Nếu người muốn được ba Đạo quả trước là đều vì thấy tứ-đế vậy. Nếu người được Phật Đạo A-La-Hán, Bích-Chi-Phật, là đều đã thấy tứ-đế vậy. Nên biết chẳng những chỉ thấy diệt-đế. Lại Phật tự nói; “Tứ-đế do thứ lớp mà được, lại trong kinh chuyển-pháp-luân nói: ta quán đây khổ, đây là nhân khổ, đây là diệt khổ, đây là đạo diệt khổ”. Rồi ở trong ấy mới sinh nhãn-trí minh-giác. Ba phen chuyển như thế đều nói tứ-đế. Lại trong kinh nói: “Tấm vải mới trắng sạch đem ngâm vào trong áo tức thì ăn màu. Như vậy người nầy tức một phen ngồi là thấy tứ-chân-đế”. Lại nói: “Tâm hành-giả thanh-tịnh chính-quán khổ-đế cho đến đạo-đế như vậy thấy được. Rồi do từ dục-lậu, hữu-lậu, vô-minh-lậu tâm được giải thoát”. Lại trong các kinh nói Thánh Đế xứ thảy đều nói tứ-đế chẳng những chỉ nói Diệt. Lại Phật nói bốn trí: khổ-trí, tập-trí, diệt-trí, đạo-trí đều vì tứ-đế. Lại pháp hành-giả phải thấy cả bốn-đế, in như thấy thuốc giỏi cần biết bệnh, biết bệnh nhân, chữa bệnh, và thuốc chữa bệnh. Cũng như thế, hành-giả muốn thoát các khổ, cần phải biết khổ, khổ nhân, diệt khổ, và đạo diệt khổ. Nếu chẳng biết khổ thời do đâu mà biết nhân khổ diệt khổ và đạo diệt khổ. Nên biết chẳng những chỉ thấy diệt-đế?

Đáp: Có các thuyết nói tứ-thánh-đế đều nóii trong ấm giới nhập thảy, nghĩa là biết đây sắc thảy, sắc thảy sinh diệt nên mới được hết lậu. Lại Phật tự nói: “Ta với trong sắc ấm thảy chẳng như thật biết vị, quá, xuất, ly trọn chẳng tự gọi được Đạo vô thượng”. Nếu như thật biết thời tự biết được Đạo. Lại trong kinh Thành dụ nói: “Nếu Ta chưa biết lão tử, lão tử sinh, lão tử diệt, và Đạo diệt lão tử; cho đến các hành các hành sinh, các hành diệt, và Đạo diệt các hành, thời chẳng tự nói Ta được Đạo vô thượng”. Nếu như thật biết tự nói ta được thành Phật. Thấy như vậy thảy, nếu là được thấy Đạo ấy thời mười sáu món tâm chẳng gọi được Đạo.

Hỏi: Tôi chẳng nói đấy gọi thấy được Đạo là khi suy nghĩ? 

Đáp: Trong tứ-đế cũng nói như vậy. Cũng có thể nói là lúc suy nghĩ. Nếu chẳng phải như vậy, thời cần phải nói lý do khi thấy tứ-đế gọi được Đạo; khi thấy ngũ-ấm thảy là suy nghĩ?

Hỏi: trí dứt phiền-não gọi là được Đạo; suy nghĩ ngũ-ấm thảy chẳng dứt phiền-não?

Đáp: Trước tôi đã nói ngũ-ấm thảy trí cũng dứt phiền-não, như nói thấy biết sắc thảy nên được hết lậu. Lại nói, thấy thế-gian nhóm thời diệt chấp không; thấy thế-gian diệt thời chấp có. Lại Phật tự quán nhân-duyên đắc Đạo. Có người quán ngũ-ấm mà đắc Đạo; hoặc quán thập nhị nhập, thập bát giới, thập nhị nhân-duyên thảy mà đắc Đạo. Nên biết chẳng những nhờ tứ-đế mà được Đạo. Nếu ý ngươi bảo tuy có thuyết ấy, nhưng chẳng bởi quán nầy năng dứt phiền-não. Thì người ta cũng có thể nói rằng tuy quán tứ-đế mà chẳng dứt phiền-não? Lại cần phải nhờ chân đế mới đắc Đạo. Nên lời giải trong tứ-đế nói: sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, oán tắng hội khổ, ái biệt ly khổ, và cầu bất-đắc-khổ. Tóm tắt mà nói ngũ-ấm là khổ. Lại nói, nhân khổ, chỗ gọi tham ái thường bám theo vui mừng xứ xứ chịu thân. Quán như thế thảy mà chẳng hết lậu thì đấy đều là thế-đế chứ chẳng phải đệ-nhất-nghĩa vậy.

Hỏi: Tuy quán sinh tử thảy mà chẳng hết lậu. Lược nói ngũ-ấm đều khổ. Trong ấy kẻ có trí năng phá phiền-não?

Đáp: Còn ba Đế kia làm sao? Nên biết ngươi tự nhớ tưởng phân biệt. Lại quán ngũ-ấm đều khổ là tâm tán-loạn nên chẳng được Đạo.

Hỏi: Nếu chẳng dùng tứ-đế được Đạo thì phải lấy pháp nào được Đạo?

Đáp: Lấy một Đế chỗ gọi là Diệt là được Đạo. Như trong kinh nói “Vọng là hư dối, thật gọi là điên đảo”. Tất cả pháp hữu-vi đều hư dối quấy lấy, nên biết hành-giả tùy tâm ở trong pháp hữu-vi đều chẳng phải chân-thật. Như trong kinh nói: “Các pháp hữu-vi dối gạt như huyễn hóa, như chiêm bao, như mượn nhờ thảy”. Như trong kinh Pháp-Cú nói: “Hư-vọng buộc thế-gian, giống như có chắc thật, thật không thấy như có, xem kỹ thời đều không”. Như thật không có pháp nam nữ, chỉ ngũ-ấm hòa hợp miễn cưỡng gọi là nam nữ, phàm-phu lầm lộn cho đó là thật có; hành-giả xem ngũ-ấm ấy trống-không, không ngã, nên tức thì chẳng còn thấy. Như trong kinh Pháp-ấn nói: “Hành-giả quán sắc vô-thường, trống hư ly tướng”. Vô-thường: là thể tính sắc vô-thường. Trống-hư: Như trong bình không nước gọi là bình không. Như vậy trong ngũ-ấm không có thần-ngã, nên gọi là không. Kẻ quán như thế cũng gọi là không, cũng gọi thấy biết chưa thanh-tịnh, vì chưa có thể thấy ngũ-ấm diệt vậy. Về sau mới thấy diệt, chỗ gọi khởi nghĩ như vầy: Những bao điều ta đã thấy nghe thảy. Nên biết thấy diệt các phiền-não mới dứt hết.

Hỏi: Tại sao thấy diệt-đế mới hết phiền-não mà chẳng phải các đế?

Đáp: Lúc bấy giờ hành-giả đã quyết định khổ-tưởng. Nếu chưa chứng diệt-tướng, với trong hữu-vi pháp khổ-tâm chưa quyết, như người chưa được mừng vui của sơ-thiền, với trong ngũ-dục chẳng sinh tưởng nhàm chán. Lại như chưa được Định vô-giác-quán, đối với Định-giác-quán chẳng cho là khốn-khổ. Hành-giả cũng vậy, khi chưa chứng tướng Nê-Hoàn tịch-diệt thời chẳng được hành-khổ. Nên thấy biết diệt đế mới đầy đủ khổ-tưởng. Khổ-tưởng đầy đủ mới dứt được ái thay các gút.

Hỏi: Nếu thấy diệt-đế nên đầy đủ khổ-tưởng, lẽ ra thảy diệt-đế sau mới dứt phiền-não. Tại vì sao? Vì thấy diệt-đế rồi khổ-tưởng mới đủ vậy?

Đáp: Chẳng phải dứt khi sau. Tùy ở trong Diệt được tướng tịch-diệt tức thì khổ-tưởng đầy đủ, sau phải hiện trước. Như trong kinh nói: “Hành-giả đối với Tập sinh tướng, pháp trí tận diệt tướng, tức ở trong pháp ấy được pháp-nhãn thanh-tịnh”. Lại người với trong các ấm vô-thường, khổ thảy, nhưng chưa được diệt hẳn. Nếu thấy diệt-đế, nhờ vô tướng nên ngã-tâm diệt hẳn.

Hỏi: Nếu thấy diệt-đế thời hết ngã-tâm. Tại sao Phật quán kẻ đối cơ tâm mềm mại thảy nên vì nói bốn Đế mà chẳng chỉ nói Diệt?

Đáp: Trong ấy có thuận-đạo-hành; kẻ nào dùng vô-thường-tưởng, vô-ngã-tưởng đầy đủ mới được khổ quán nầy là kẻ gần Đạo. Vậy nên hiệp lại mà nói.

Hỏi: Nếu khi đắc Đạo dứt thân-kiến, sao lại còn giới-thủ và nghi nữa ư?

Đáp: Hành-giả đắc-Đạo hiện thảy các pháp đều không, vô-ngã, tức chẳng còn nghi. Chẳng còn đồng phàm-phu nghe, nghĩ, quán thảy. Nếu thấy Đạo-đế thời biết duy đấy là nhất-thật lại không còn con đường nào khác hơn. Vậy nên nói ba.

Hỏi: Nếu khi đắc Đạo thấy Đế các phiền-não bị dứt hết, mà tại sao chỉ nói hết ba gút ư?

Đáp: Tất cả phiền-não đều lấy thân kiến làm gốc. Như Phật hỏi Tỳ-kheo: “Ngươi do việc gì? Thấy việc gì? Nên mới sinh kiến chấp như vầy: duy có thân nầy chết thời mất hẳn! Tất cả những kiến chấp như thế thảy? Tỳ-kheo thưa Phật: Phật là ngôi Pháp-Vương! Lạy xin giải thích? Phật dạy: Ngươi do sắc, bởi sắc thấy sắc là ngã, nên mới khởi kiến chấp ấy. Cho đến thức cũng như thế cả”. Nên biết bởi kiến chấp ngã mà khởi các phiền-não. Tại vì sao? Vì nếu có thân kiến thời bảo cái ta đây: hoặc thường, vô-thường. Nếu định kiến thường thời là thường kiến; định kiến vô-thường thời là đoạn kiến. Nếu ngã là thường thời là không nghiệp, không báo, không giải thoát khổ; mà ngã nếu vô-thường cũng không nghiệp báo và giải thoát khổ, vì chẳng cần tu tu Đạo mới vào được Nê-Hoàn. Nếu cho kiến chấp ấy là hơn, tức là kiến thủ, và bảo là năng được độ tức là giới thủ. Tự yêu chấp mình, ghép chấp kẻ khác, lấy chấp ấy tự cao tức là kiêu mạn. Đều bởi chẳng như thật biết nên mới khởi gút nầy tức là vô-minh.Vậy nên dứt thân kiến mới thấy Đế dứt gút.

Hỏi: Nếu dứt thân kiến các thứ khác cũng dứt theo, thì cần gì nói riêng giới thủ và nghi ư?

Đáp: Vì nó hơn vậy. Hành-giả hiện thấy pháp tướng thời không có nghi. Nghi này là nghi ngã có hay không? Cũng nghi Đạo nầy có được thanh-tịnh chăng? Khiến cho thấy khổ-đế thời dứt ngã-kiến. Cũng biết duy nhất Đạo lại không có con đường nào khác. Vậy nên mới nói dứt thân-kiến là thật thấy khổ. Vì dứt giới-thủ nên gọi tu hành Đạo. Đối với trong pháp năng-tri và sở-tri không nghi; hoặc dùng chính tri biết pháp sở-tri, liền dứt tập, chứng Diệt gọi là đủ bốn Đế. Nên mới nói ba pháp này để rõ tướng không nghi. Nghi này do ngã đạo mà sinh, như trong kinh nói: “Đầu tiên được Đạo tướng”. Nghĩa là thấy pháp, được pháp, biết pháp, đạt pháp, vượt quá các lưới nghi; chẳng theo giáo pháp kẻ khác; ở trong Phật-Pháp được sức vô-úy an-trụ trong quả.

PHẨM NHẤT-THIẾT DUYÊN THỨ 191

Hỏi: Trí nào năng duyên tất cả?

Đáp: Nếu trí duyên đi giới, nhập thảy gọi là duyên tất cả. Tại vì sao? Vì như nói pháp các nhập các giới, sự vật có các duyên các trần thể nhận biết thảy, đều gồm hết các pháp, nếu trí năng duyên gọi là duyên tất cả.

Hỏi: Trí nầy chẳng biết các pháp tương-ưng cọng sinh?

Đáp: Năng biết. Như duyên nhập thảy, đấy gọi tổng-tướng-trí. Vì tổng-tướng-trí nên mới năng duyên tất cả. Tại vì sao? Vì như nói thập-nhị-nhập thời không còn thừa pháp nào nữa. Nên biết trí nầy cũng duyên tự-thể.

Hỏi: Trong kinh nói: “Hai nhân-duyên sinh thức”. Vậy nên chẳng phải có trí tự duyên. Lại các trí không có nhân-duyên ví-dụ để chỉ nghĩa năng duyên tự-thể, như đầu ngón tay chẳng năng tự xúc; mắt chẳng năng tự thấy được?

Đáp: Ngươi nói hai nhân-duyên sinh thức, việc này chẳng nhất định. Cũng có không nhân-duyên trí, chứ chẳng phải tất cả đều do hai nhân-duyên mà sinh. Lại đệ-lục-thức ở trong tự ấm đều không có cảnh duyên vì không có hiện pháp nên thức nầy chẳng năng duyên pháp sắc thảy. Nếu mà năng duyên là những kẻ mù lẽ cũng thấy sắc? Bấy giờ tâm và tâm-số-pháp người nầy còn ở trong khứ-lai, mà khứ-lai không pháp thời lấy gì làm cảnh duyên? Chỉ vì ngăn chấp thần-ngã nên mới nói như vậy thôi. Nếu các thứ sinh đều do hai thứ chẳng phải bốn nhân-duyên; hoặc có thức sinh không hai nhân-duyên, như trong kinh nói: “Sáu nhập làm nhân-duyên xúc”. Mà thật không lấy sáu món nhập, vì ngăn món nhập thứ bảy vậy. Như vậy ngăn bốn nhân-duyên nên Phật mới nói hai. Lại đối vớii trong quá-khứ, vị-lai, hư-không, thời, phương thảy sinh biết mà những pháp ấy thật không có. Đấy tức là không duyên mà biết.

Hỏi: Nếu như vậy thời do nhân-duyên ấy, các pháp quá-khứ vị-lai lẽ phải có, vì nếu không làm sao sinh biết; với những sừng thỏ, lông rùa, chân rắn thảy trọn không sinh biết?

Đáp: Đối với trong tác-động sinh-biết. Như vậy thấy người đi là nhớ khi đi, nghe người nói là nhớ khi nói. Như vậy thảy trong quá-khứ không tác, vậy nên chẳng phải lẽ.

Hỏi: Nay đối với quá-khứ là nhớ thứ gì?

Đáp: Nhớ pháp vô-sở-hữu. Ngươi nói sao chẳng nhớ sừng thỏ thảy. Nếu pháp sinh rồi mà diệt là có thể nhớ được. Mà xưa nay hẳn không có làm sao nhớ được? như pháp trước kia gọi chúng-sinh, nay tuy đã quá nhưng cũng gọi chúng-sinh. Như vậy trước kia, với pháp nầy sinh nhớ, nên nay tức tâm này nhớ lại, chẳng phải tâm khác vậy. Lại người nầy trước lấy tướng pháp ấy, pháp ấy nay tuy đã diệt mà có thể sinh pháp nhớ tưỏng phân-biệt; như pháp sinh ở tâm ấy, pháp nầy diệt mất sau ý-thức mới sinh. Năng biết việc ấy gọi là tướng duyên thức. Lại tướng nầy năng làm nhân-duyên cho tướng duyên thức sau, chứ biết sừng thỏ thảy không tướng làm nhân, vậy nên chẳng sinh. Lại cũng nên có biết duyên sừng thỏ thảy, nếu không làm sao năng nói ra được.

Hỏi: Sừng thỏ thảy tính chẳng khá biết. Tại vì sao? Vì trọn chẳng sinh các ý nghĩ dài ngắn đen trắng thảy, nên pháp quá-khứ cũng như vậy. Tại vì sao? Vì chúng tôi không thể dùng pháp quá-khứ khiến hiện được trước mắt, như Thánh-nhân biết được vị-lai nói việc nầy sẽ như vậy, việc kia sẽ chẳng như vậy?

Đáp: Trí-lực Thánh-nhân là vậy, pháp tuy chưa có mà năng dự biết. Như Thánh-nhân năng hoại vách đá ra vào không ngại. Việc nầy cũng vậy, không mà năng biết. Lại vì sức nhớ nên biết. Như nhãn-thức chẳng năng phân biệt nam nữ. Nếu nhãn-thức bất năng lẽ ra ý-thức cũng bất năng, mà ý thức thật năng. Việc nầy cũng vậy. Lại như chúng ta với trong việc trước đã từng diệt rồi mới sinh biết; Thánh nhân cũng vậy, với trong pháp không có mà năng sinh biết. Lại như nói Đề-Bà-Đạt-Đa không có một thức năng biết bốn chữ, mà cũng năng biết. Việc nầy cũng vậy. Lại như các số lượng sai khác hiệp ly đây kia thảy, trong ấy tuy không hiện pháp cũng năng sinh biết. Lại như thân người chẳng khá dùng một niệm mà biết khắp, cũng chẳng khá dùng phân tách từng phần mà hiểu biết; tuy phân tách từng phần chẳng biết, một niệm chẳng biết mà cũng sinh biết người. Việc nầy cũng vậy. Ngươi nói không có nhân-duyên ví dụ năng biết tự-thể. Trong ấy có nói ý năng tự biết, nói hành-giả tùy tâm quán mà đi đến không tâm. Nên biết dùng tâm hiện tại duyên tâm hiện tại. Nếu chẳng phải vậy trọn không không có người năng biết pháp hiện tại tâm tương-ưng.

Hỏi: Trong kinh nói: “Nếu năng đem huệ quán tất cả pháp vô-ngã tức được nhàm lìa khổ. Đạo này là thanh-tịnh”. Trí-huệ này trừ tự-thể và cọng sinh pháp thừa tất cả duyên pháp?

Đáp: Trí này chỉ duyên hữu-lậu chẳng phải vô-lậu. Tại vì sao? Vì trong kệ vậy nói: “tức nhàm lìa khổ”. Nên mới biết chỉ duyên khổ-đế. Lại vì phá ngã-kiến, tu vô-ngã trí. Ngã-kiến duyên năm món thọ-ấm, nên phải biết vô-ngã cũng là duyên thọ ấm. Năm thọ ấm này vô thường nên vô-ngã. Như trong kinh nói: Nếu vô thường tức vô-ngã. Nếu vô-ngã tức là khổ. Lại Phật bảo Tỳ-kheo: “Đoạn chẳng phải pháp sở-hữu của ngươi. Tỳ-kheo nói: Được rồi, Bạch Thế-Tôn! Phật hỏi: Ngươi được thứ gì? Bạch Thế-Tôn! Sắc là phi ngã-sở, thọ-tưởng-hành-thức cũng đều phi ngã-sở. Phật khen: Hay thay! Hay thay!” Cho nên mới biết chỉ trong thọ-ấm sinh vô-ngã tâm. Lại trong kinh nói: “Các sở-hữu-sắc hoặc quá-khứ vị-lai, nội ngoại thô tế, gần xa lớn nhỏ, đều nên biết phi ngã phi ngã-sở”. Như vậy như thật lấy chính huệ mà quán. Lại nói: Quán sắc vô-ngã, thọ-tưởng-hành-thức vô-ngã; quán sắc vô-thường luống dối như trò huyễn gạt kẻ không có mắt trí; là kẻ oán, là kẻ giặc, không ngã, không ngã sở. Lại Phật nói: Ở trong tọa nầy có người ngu si, còn ở trong vỏ vô-minh bị vô-minh làm mù, nên bỏ rời Phật-Pháp mà sinh tà kiến này: “Nếu sắc vô-ngã, thọ-tưởng-hành-thức đều vô-ngã. Vô-ngã thời làm sao khởi nghiệp mà ngã chịu?”. Nên mới biết vô-ngã chỉ duyên thọ ấm. Lại trong kinh không chỗ nào nói vô-ngã trí duyên tất cả pháp, mà chỗ chỗ đều nói duyên năm món thọ ấm.

Hỏi: Phật tự nói: “Tất cả pháp vô-ngã”. Nên biết hữu-vi vô-vi này đều duyên, chẳng những duyên năm thọ ấm. Lại nói: mười món không duyên tất cả pháp. Không tức vô-ngã. Lại nói: Các hành vô-thường, khổ, tất cả pháp vô-ngã. Nếu vô-ngã trí chỉ duyên khổ-đế, tại sao chẳng nói các hành vô-ngã? Vì nói tất cả pháp vô-ngã nên mới biết: nếu nói “hành” là nói hữu-vi; nếu nói “pháp” tức chung thông tất cả. Lại nói: Kẻ nào đối với một tướng pháp và biệt dị tướng pháp, trí huệ hiện tại tiền như mắt sáng thấy sắc. Duy chư Phật Thế-Tôn chính trí được giải thoát mới có thể đối một tướng pháp và biệt dị tướng pháp, trí-huệ hiện tại tiền như kẻ sáng mắt thấy sắc. Vì vô-ngã tướng nên các pháp một tướng. Nên biết vô-ngã duyên tất cả pháp chẳng những duyên khổ?

Đáp: Có hai thứ tất cả: một nhiếp tất cả, hai nhiếp một phần. Nhiếp tất cả: Như Đức Phật nói: Ta là người Trí tất cả. Tất cả gọi là mười hai món nhập. Nhiếp một phần: Như nói “tất cả vậy”. Mà vô-lậu vô-vi “chẳng khá được vậy”. Lại trong phẩm Như-Lai nói Như-Lai là kẻ bỏ tất cả, là kẻ hơn tất cả. Nhưng chẳng khá bỏ pháp trì-giới thảy, mà chỉ vì bỏ ác pháp nên mới nói bỏ tất cả; cũng chẳng khá hơn các Đức Phật khác, mà chỉ vì hơn các chúng-sinh mới nói hơn tất cả. Lại nói: “Gọi Nhất-Thiết-Trí là thế nào Tỳ-kheo?

Đáp: Nghĩa là như-thật biết sau món xúc-nhập sinh diệt gọi là biết tướng chung tất cả pháp, chẳng phải trí tướng riêng”. Với Phật chung riêng đều biết hết, nên gọi là bực Nhất-Thiết- Trí. Tỳ-kheo ấy đã biết hết các pháp vô-thường thảy nên gọi Nhất-Thiết-Trí. Kỳ danh tuy đồng, mà kỳ thật có khác, đấy gọi là nhiếp một phần. Lại Phật nói: Nếu pháp đã vào kinh-tạng, tùy thuận theo luật-tạng, chẳng trái với pháp tướng, pháp ấy nên lãnh-thọ. Lại nói: Nếu người nói đây là lời Phật nói; người nầy lời chính mà nghĩa phi. Kẻ trí với trong ấy nên nói chính-nghĩa, và bảo Tỳ-kheo nầy rằng lời ấy nên cùng nghĩa nào tương-xứng? Lại có kẻ nói nghĩa-chính mà lời phi. Trong chính-nghĩa nầy nên để riêng chính-ngữ. Như vậy thảy kinh Phật đều cho phép. Lại có kinh liễu-nghĩa và bất-liễu-nghĩa nghĩa là rốt-ráo và chẳng rốt ráo. Kinh nầy thuộc nghĩa chẳng rốt ráo. Tại sao với trong một việc mà nói tên tất cả? Cần nên biết ý ấy. Lại người đời với trong một việc cũng nói tất cả, như nói vì cúng tất cả, cho ăn tất cả; cũng nói người nầy tất cả đều ăn. Nên biết tuy nói tất cả vô-ngã nhưng phải biết chỉ vì năm món thọ-ấm mà nói, chứ chẳng phải vì tất cả pháp. Người nói mười món không. Trong ấy chẳng được có vô-vi Không. Tại vì sao? Vì không ai với vô-vi mà sinh ngã-tưởng. Nên dù có còn “không đi nữa cũng không hại gì, vì người cũng dùng khổ-trí cùng tương-ưng với không. Vậy nên “không” chẳng phải duyên tất cả pháp.

Hỏi: Thế-gian “không” duyên cả pháp chẳng phải vô-lậu – không sao?

Đáp: Không có thế-gian không. Tất cả không đều là vô-lậu.

Hỏi: Trong kinh Pháp-ấn nói: không là thế-gian-không?

Đáp: Đấy là xuất-thế-gian-không chứ chẳng phải thế-gian-không.

Hỏi: Trong ấy nói: Tri-kiến chưa-tịnh. Nên biết là thế-gian không?

Đáp: Tôi trước đã nói vô-lậu-tâm năng phá giả-danh. Vậy nên từ khi phá giả-danh trở đi gọi là vô-lậu-tâm; về sau thấy diệt-đế, lìa tăng-thượng-mạn, mới gọi là tri-kiến-tịnh. Vậy nên không có thế-gian-không. Ngươi nói tất cả hành vô-thường, tất cả pháp vô-ngã. Như vậy cần có hành-giả đầy đủ vô-ngã tưởng; khi mà pháp-tưởng đầy đủ nên đối với vô-ngã nói pháp danh-tự. Như trong kiến-đế phẩm nói: “Nếu người chẳng thấy khổ, đấy tức là thấy ngã; khổ như-thật thấy khổ; tức chẳng còn thấy ngã”. Như-thật: Nghĩa là thấy vô-ngã. Vậy nên nói tất cả pháp vô-ngã, chỉ duyên khổ-đế nói vô-ngã-hành. Ngươi nói Phật hiện tiền thấy nhất-tướng dị-tướng. Đấy cũng cần có, vì lấy giới nhập thảy làm nhất, nên nói nhất-tướng đâu có lỗi gì ư?

PHẨM THÁNH-HÀNH THỨ 192

Có hai hành: không-hành và vô-ngã-hành. Đối với trong ngũ-ấm chẳng thấy chúng-sinh gọi là không hành; thấy ngũ-ấm cũng không có là vô-ngã-hành. Tại sao biết được? Trong kinh nói: “Thấy sắc không có thể tính, thấy thọ-tưởng-hành-thức không thể tính”. Lại trong kinh nói: “Bởi vô-tính nên được giải thoát”. Nên biết sắc-tính chẳng phải chân-thật có. Thọ-tưởng-hành-thức tính cũng chẳng phải chân thật có. Lại trong kinh nói: “Ngũ-ấm đều trống không như huyễn, chẳng thể nói huyễn là chân thật”. Huyễn, nếu chân-thật có chẳng gọi là huyễn; nhưng cũng chẳng thể nói không, mà chỉ vì không thật năng làm dối gạt. Lại hành-giả nầy quán tất cả trống-không. Nên biết ngũ-ấm chẳng phải chân thật có, như phá một tướng nên chẳng thấy vách thảy một pháp. Ngũ-ấm cũng vậy, không có một thật pháp.

Hỏi: Nếu sắc thảy pháp cũng chẳng chân-thật, nay nên chỉ có một thế đế?

Đáp: Diệt là đệ-nhất-nghĩa-đế nên cần có. Như trong kinh nói: “Vọng là luống dối, Đế là như thật”. Diệt tức là như-thật quyết định, nên gọi đệ-nhất-nghĩa có. Lại hành-giả sinh chân-thật-trí, tất cả hữu vi thảy đều luống-không. Nên biết Diệt là đệ-nhất-nghĩa có.

Hỏi: Ông nói thấy trong ngũ-ấm không có chúng-sinh. Bởi đâu mà ngũ-ấm gọi chúng-sinh, là hữu lậu hay vô-lậu?

Đáp: Cũng hữu-lậu mà cũng vô-lậu.

Hỏi: Trong kinh nói: “Nếu thấy chúng-sinh đều là thấy năm thọ ấm”?

Đáp: Vô-lậu pháp cũng ở trong chúng-sinh số, chứ chẳng phải ở trong phi chúng-sinh số là gỗ đá thảy. Nên biết cũng nhân các ấm vô-lậu gọi là chúng-sinh. Lại nếu Thánh nhân ở tâm vô-lậu, bấy giờ cũng gọi hữu tâm chúng-sinh. Nên vô-lậu tâm cũng gọi chúng-sinh. Tất cả các ấm đều gọi thọ ấm vì đều từ thọ mà sinh vậy.

Hỏi: Tại đâu mà biết từ thọ sinh?

Đáp: Vô-lậu pháp đều từ bố thí, trì giới tu Đinh thảy trong nghiệp tâm mà sinh, nếu không thời chẳng sinh. Như kinh nói: “Vì bị vô-minh che khuất và gút ái buộc chặt, nên đứa ngu được thân nầy mà kẻ Trí cũng như vậy.” Tâm tức thọ ấm.

Hỏi: Nếu tất cả ấm đều gọi thọ ấm, thì hữu-lậu và vô-lậu tâm đâu có sai khác?

Đáp:Tất cả ấm từ thọ mà sinh nên gọi thọ ấm. Nhưng chẳng thọ thân đời sau nên gọi là vô-lậu, sai khác ở đó. Ấm và thọ mà sinh nên gọi thọ ấm. Vậy nên kinh nầy chẳng trái nghịch nhau. Hai hành nầy đều duyên vô sở-hữu. Nếu sắc thảy pháp không và thể tính diệt, đều là vô sở-hữu.

Hỏi: Hai hành nầy đều duyên ngũ-ấm. Trong kinh nói: Thấy sắc trống không vô-ngã thấy thọ-tưởng-hành-thức không vô-ngã”. Thì sao?

Đáp: Nhân các ấm mới thấy trống không không vô-ngã. Tại vì sao? Vì với nhân-duyên sinh mới có thấy chúng-sinh không, cũng thấy sắc thảy pháp diệt.

Hỏi: Đấy là đều duyên cả. Nếu hành-giả nghĩ các ấm và không tức là duyên ấm và vô sở hữu?

Đáp: Hành-giả với trong nhân-duyên chúng-sinh chẳng thấy chúng-sinh, nên liền sinh không tâm, nhiên hậu mới thấy trống không. Lại với trong ngũ-ấm diệt chẳng thấy sắc thể tính, thọ-tưởng-hành-thức thể tính. Cho nên mới biết hai hành nầy đều duyên vô sở hữu.

Đáp: Nhẫn tức là trí Tại vì sao? Vì dục-lạc-nhẫn đều là một nghĩa: Hành-giả trước biết khổ rồi nhiên hậu nhẫn vui; nếu trước chẳng biết làm sao nhẫn vui được! Lại trong lời nói thiếu chỉ nói quán nhẫn mà chẳng nói trí. Vậy thời kẻ thọ hành quả là vô-trí? Nếu ý ngươi bảo hành-giả có trí mà gọi là nhẫn, thì đây lẽ ra thọ nhẫn cũng là trí. Lại trong kinh nói: “Hành-giả khi biết thấy liền được hết lậu”. Lại nói: biết-thấy-được là một nghĩa. Lại Phật nói Khổ-trí, Tập, Diệt, Đạo trí mà chẳng nói có nhẫn. Nên biết trí tức là nhẫn. Lại trong Phật giải nghĩa trí nói vì như-thật-biết nên gọi là trí. Nhẫn cũng như-thật-biết nên chẳng có khác. Nếu ngươi cho vị-tri-căn nên gọi là nhẫn ấy. Việc nầy chẳng phải lẽ. Vì chúng tôi chẳng nói trước nhẫn sau trí; với trong một tâm tức gọi nhẫn-trí. Kinh ấy nghĩa chẳng thành, làm sao ngươi đem chẳng-thành mà thành-lập được? Ngươi nói nhẫn gọi chưa xong. Tôi trước đã đáp nghĩa là trước biết sau nhẫn. Nên phải biết nhẫn tức là xong. Nếu chẳng biết xong làm sao năng nhẫn. Ngươi nói khi nhẫn chưa quyết liễu. Trong pháp ngươi dùng nhẫn dứt gút; nếu nó chẳng quyết liễu sao năng dứt được? Ngươi nói khi nhẫn nghi ngờ còn bám theo. Nếu vậy thì Đế-Đạo đều có nghi bám theo? Trong ấy trí sinh lẽ đều chẳng phải trí? Lại không có phân biệt là nhẫn là trí. Như người đời quán tùy thuận tứ-đế cũng gọi là nhẫn cũng gọi là trí. Vô-lậu nhẫn-trí cũng cần như vậy.

Hỏi: Tâm-trí vô-sinh-trí chỉ là trí, chứ phi kiến?

Đáp: Vì lý do nào?

Hỏi: Trong kinh riêng nói chính-kiến chẳng gọi chính-trí, Nên trí phi kiến.

Đáp: Nếu vậy thời chính-kiến chẳng gọi chính-trí. Nếu ngươi bảo chính-kiến là chính-trí, thì chính-trí cũng phải là chính-kiến. Lại ngũ-phận-pháp-thân do trong huệ-phẩm riêng nói giải thoát tri-kiến lẽ chẳng phải huệ? Vậy thời tận-trí vô-sinh-trí cũng chẳng là huệ. Nay tức chính-kiến, vì tướng khác nên nói là chính-trí nghĩa là hết tất cả phiền-não, với trong tâm A-La-Hán mà sinh nên mới nói là chính-trí.

Hỏi: Nếu chính-trí tức là chính-kiến thời A-La-Hán chẳng gọi thập-phần thành-tựu?

Đáp: Thể là một mà tên là khác, như pháp-trí khổ-trí. Lại nói A-La-Hán gọi thành tựu tám công-đức phước-điền. Vậy nên chính-trí tức là chính-kiến. Lại trong sáu pháp hòa-kính, hòa kính thứ sáu nói là đồng-kiến. Nếu như người nói thời tận-vô-sinh-trí chẳng gọi hòa-kính. Lại chính-quán nên gọi chính-kiến; tận-vô-sinh-trí vì chính-quán nên cũng gọi chính-kiến.

Hỏi: Năm thức tương-ưng huệ chỉ trí phi-kiến?

Đáp: Vì sao phi-kiến?

Hỏi: Năm thức đều không có phân biệt, vì ban đầu tại cảnh duyên nên thấy gọi là suy nghĩ quan-sát. Lại năm thức chỉ duyên hiện tại. Vậy nên phi-kiến?

Đáp: Trong ấy không giác quán nên chẳng năng phân biệt. Nếu nói ban đầu tại cảnh duyên nên phi kiến, việc nầy chẳng phải lẽ. Tại vì sao? Vì pháp ngươi nhãn thức có duyên tương-tục như ý-thức vậy. Chẳng nên nói ban đầu tại duyên. Nếu vậy ý-thức chẳng nên có thấy. Ngươi lại nói duyên hiện tại nên phi kiến. Cũng chẳng phải lẽ. Vì tha-tâm-trí cũng duyên hiện tại, đấy lẽ cũng phi kiến? Trong năm thức không chân-thật-trí, vì không hành vậy; cũng thường theo giả danh, nên kiến-trí-huệ thảy tất cả đều không có, huống là không kiến.

Hỏi: Có người nói nhãn-căn gọi kiến. Việc ấy thế nào?

Đáp: Nhãn-căn chẳng thấy, nhãn-thức năng duyên ngôn thuyết thế-tục nên gọi mắt thấy.

Hỏi: Có người nói tám món kiến là: năm tà-kiến, thế-gian chính-kiến, học-kiến và vô học-kiến. Trừ tám kiến ấy bao nhiêu huệ chẳng gọi là kiến. Việc nầy thế nào?

Đáp: Như kiến, trí đắc, giải, liễu, thông và chứng đều là một nghĩa. Nếu nói đây khiến đây phi-kiến đều là tự nhớ tưởng phân-biệt mà nói.

Hỏi: Nếu trí mới phá giả-danh gọi là tri; vào pháp vị rồi thời gọi là kiến. Mới quán gọi là trí, đạt liễu gọi kiến, có những pháp sâu cạn sai khác như vậy.

Thành Thật luận hết quyển 19.