PHẦN HAI
NHỮNG NGHI VẤN CHUNG QUANH VẤN ĐỀ NIỆM PHẬT A DI ĐÀ CẦU VÃNG SINH TỊNH ĐỘ
Kính thưa quý vị,
Gần đây, một đạo hữu tu tịnh nghiệp, năm nay đã 85 tuổi, có nêu lên một điểm nghi vấn đáng lưu ý. Đạo hữu ấy nói: “Trong Kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca dạy rằng: ở Tây phương có một thế giới tên là Cực Lạc, do Phật A Di Đà làm giáo chủ. Cõi ấy là một nơi lý tưởng, phong cảnh tuyệt vời, đất đai bằng phẳng, không có gai góc, gò đống, mịn như nhung tơ, đường sá bằng ngọc thạch, thất bảo, nhà cửa đều là lầu gác nguy nga, cây cối tốt tươi, tấu lên nhạc khúc bổng trầm mỗi khi gió thổi, nước trong vắt có đủ tám công đức nhiệm mầu, lại có những loài chim báu như Bạch hạc, Khổng tước, Anh vũ … màu lông sặc sỡ, hót lên lời kinh tiếng kệ du dương … Ai có diễm phúc được sống tại đây, thì toàn thân thơm ngát, sắc vàng chói lọi, từ lòng hoa sen mà hoá sinh thân thể nhẹ nhàng, được kết bạn cùng những vị thượng thiện nhân, tuổi thọ bằng Phật A Di Đà, lại được hưởng nhiều điều lạc thú, không phải bận tâm lo nghĩ điều gì, dù là vấn đề ăn, mặc, và nhà ở, vì hễ mơ ước điều gì liền được toại nguyện, không phải vất vả lầm than như ở chốn trần ai này, suốt ngày đêm chỉ chăm lo niệm Phật để tiến tu Đạo quả Bồ đề vô thượng. Thật là một cảnh giới an vui sung sướng tuyệt đỉnh. Đức Phật có ý ở đây trưng bày trước mắt mọi người một bức tranh tuyệt mỹ, tả đời sống cực kỳ hạnh phúc ở nơi xa xôi kia để ai nấy so sánh với cảnh Ta bà cực khổ này, rồi cầu mong được về nơi đó.
Nhưng Lục Tổ Huệ Năng của Thiền tông Trung Hoa lại nghĩ khác. Ngài chẳng đả động gì đến vấn đề Có hay Không có Đức Phật A Di Đà và cõi Tây phương Cực lạc mà chỉ dạy rằng: “Phật ở tại Tâm con người, trong Tâm đã sẵn có Đức Phật, Tâm là Phật, Phật là Tâm. Tâm cũng là cõi Tịnh độ”. Lục Tổ còn nhấn mạnh: Những đức tính của cõi Tây phương Cực lạc là những đức tính của Tâm, chẳng cần cầu vãng sinh Tịnh độ, chỉ cần thấy được bản tính thanh tịnh, sáng suốt của Tâm là đủ, vì hể ai thấy được chân tính của mình, tức khắc thành Phật. Với phương pháp xoay ngược luồng nhãn quang về phía nội Tâm, nhìn thẳng vào cỗi rễ lòng mình, không hướng ngoại tìm cầu, ta sẽ thấy Phật tại Tâm ta, và nhận thấy ngay Tâm mình là cõi Phật, và chính mình là Phật, chẳng cần tìm Phật ở đâu xa. Ý Lục Tổ muốn nói: Tìm Phật phải Kiến Tính, bởi vì bản tính của mình là Phật tính. Nếu không nhìn thẳng vào tự tính, mà cứ ngó tận đâu đâu để kiếm Phật và cõi Cực lạc thì thật uổng công. Những việc làm như tưởng nhớ tới Phật, tụng Kinh, giữ Giới, nhịn đói, cầu phúc, đều chẳng đủ làm cho ta thấy được Phật, nếu không ngó thẳng vào tự Tâm. Khi ta nghĩ đến Phật thì nhân lành ấy tạo được quả tốt. Khi đọc tụng Kinh điển thì trí tuệ của ta rộng mở. Giữ Giới nghiêm túc thì được sinh lên cõi Trời. Làm điều thiện thì được an vui, hạnh phúc. Nhưng muốn tìm Phật mà vọng ngoại, không nhìn thẳng vào Tâm mình thì chẳng bao giờ thấy được Phật. Những hình tượng Phật ở ngoài bằng giấy, bằng gỗ, đá, thạch cao, xi măng v.v… chỉ để tượng trưng cho Đức Phật thật ở trong Tâm ta mà thôi. Vì vậy mà người tu lại không “kiến tính” thì không thấy được Phật và thoát khỏi những ràng buộc của tam giới. Phật là Giác Ngộ, là Giải thoát tâm linh. Bản tính là Phật, là Đạo. Đạo lý Phật không ở chỗ tụng kinh, gõ mõ, nghiên cứu tam tạng Kinh điển, Chân lý cao siêu không phải là đối tượng của luận bàn, và ngay cả Kinh điển Phật cũng chỉ được coi là phương tiện, như ngón tay để chỉ mặt trăng, không nên nhầm ngón tay là mặt trăng. Không thể đem chân lý tối thượng của Đạo đến tầm tay với được của người học Đạo. Cứ chịu khó ngó thẳng vào bản tính mà tìm tòi, dù dốt nát không biết chữ, vẫn có thể đạt tới Chân Tâm, Phật tính của mình. Như vậy thì lời Phật lời Tổ dạy có trái nhau không?
*
Hai quan điểm đó tưởng chừng như mâu thuẫn, đã gây biết bao thắc mắc trong lòng nhiều Phật tử không hiểu ý Phật muốn dạy bảo qua lời Kinh, do đó mà trong pháp môn Tịnh độ đã phân ra hai hạng người, một hạng tu theo Sự tướng, tin chắc có Phật A Di Đà và cõi Tây phương Cực lạc, còn một hạng người tu theo Lý tính, chỉ chăm lo thanh tịnh Tâm mình mà thôi. Một bên đứng về phía Có, một bên đứng về phía Không, do đó mà ta thấy chung quanh vấn đề Niệm Phật A Di Đà cầu vãng sinh Tịnh độ có nhiều mối nghi vấn, và nhiều điều cần được làm cho sáng tỏ như:
1.- Phật A Di Đà là một vị Phật lịch sử có thật hay tượng trưng, và Cõi Cực lạc Tây phương là một thế giới hư hay có thật? Phải chăng Kinh A Di Đà chỉ là một bài học ngụ ngôn, lấy Quyền chỉ Thực, lấy Hiện tượng để chỉ Bản thể?
2.- Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có ngụ ý gì khi Ngài thuyết Kinh A Di Đà?
3.- Lời Phật và lời Tổ dạy có mâu thuẫn nhau không?
4.- Mục đích của Kinh A Di Đà và Kinh Địa Tạng là thế nào và ý nghĩa việc hộ niệm ra sao?
5.- Cái hại của việc không hiểu nghĩa Kinh và không thực hành đúng lời Phật dạy ra sao?
6.- Vấn đề “đới Nghiệp vãng sinh”?
7.- Vấn đề Tha lực và Tự lực?
8.- Quan niệm sai lầm thông thường của người thời đại?
9.- Sự liên hệ giữa Thiền, Tịnh và Duy Thức?
10.- Phương pháp tu để đạt tới Chân Tâm hay cảnh Cực lạc?
11.- Vấn đề không gian và thời gian?
12.- Vấn đề Sống, Chết, Khổ đau, Sinh tử, Luân hồi.
13.- Vấn đề xa gần, thuận cảnh và nghịch cảnh, dễ tu và khó tu.
14.- So sánh các quan niệm về Tịnh độ và tìm hiểu xem quan niệm nào lý tưởng và phản ảnh trung thực nhân sinh quan của Đại thừa Phật giáo.
Bây giờ chúng ta hãy lần lượt lắng nghe tiếng nói của hai phái chủ trương Có hay Không có Đức Phật A Di Đà và cõi Tây phương Cực lạc trình bày ra sao, kế đó chúng ta sẽ lần lượt luận bàn đến những vấn đề khác đã nêu ở trên.
A.- Phái Niệm Phật theo sự Tướng
Phái chủ trương có Đức Phật A Di Đà và cõi Cực lạc Tây phương lập luận rằng: điểm thiết yếu để được vãng sinh về cõi hoàn toàn hạnh phúc của Phật A Di Đà là phải hội đủ ba điều kiện: Tín, Nguyện và Hành. Phải có niềm Tin vững mạnh rằng lời dạy của đấng Từ phụ Thích Ca Mâu Ni là đúng, vì xưa nay Ngài chỉ nói toàn sự thật, không hề bao giờ bịa đặt, sai ngoa (“Như Lai thị chân ngữ giả, bất cuống ngữ giả, bất dị ngữ giả” – Kinh Kim Cương). Lại phải tin lời Phật A Di Đà nguyện độ chúng sinh nào, nhất Tâm niệm danh hiệu Ngài, tin rằng Tha lực của Ngài thừa khả năng tiếp độ chúng sinh, dù nặng nghiệp, vượt qua muôn ngàn ức Phật độ để tới miền Cực lạc. Sau nữa lại phải tin rằng: cõi trần này là nơi uế độ, cực khổ vô cùng, và thế giới Tịnh độ Tây phương là nơi an vui tuyệt đối, phải nên từ bỏ chốn khổ đau này và nguyện về cõi an lành kia để được hưởng hạnh phúc đời đời, sống cuộc đời thuận tiện cho việc tu hành để đạt tới Phật quả. Nếu so sánh Phật lực với nhân lực thì rõ ràng sức người có hạn, bì sao nổi với sức vô biên của chư Phật? Bởi vậy người nào muốn được cứu độ và sinh về Cực lạc quốc, chỉ cần đặt trọn niềm Tin vào Tha lực một cách vô điều kiện, như mèo con tin ở mèo mẹ, chỉ việc nhắm mắt để mèo mẹ ngoạm vào cổ tha hồ muốn lôi kéo đi đâu cũng được không cần phải làm một động tác nhỏ nào cả (Miêu thuyết), chẳng giống như vượn con phải cố bám chặt vào vượn mẹ, trong khi vượn mẹ, hai tay còn phải bận chuyền cành, không giúp gì được nhiều cho nó (Viên thuyết). Tín ngưỡng về Tha lực ấy không cho phép người Phật tử đắn đo suy tính lợi hại gì cả. Đức Tin tuyệt đối như vậy, theo họ, là một Đức Tin chính đáng, sáng suốt, được lý trí soi đường, không phải là mê tín, dị đoan. Đã Tin sâu lại phải Nguyện thiết, thiết tha cầu nguyện đêm ngày để được Phật A Di Đà tiếp dẫn về cõi Tịnh độ Tây phương khi mãn phần ở thế gian này. Lời nguyện ấy phải phát xuất từ đáy lòng mong cầu thiết tha của mình, coi đó là những điều mong cầu tối thượng, duy nhất, không còn điều mong cầu nào quý hơn, có như thế mới được Phật cảm ứng. Nếu chỉ đọc lời nguyện lấy lệ, theo thói quen, như một chiếc máy phát thanh vô hồn, phát nguyện và niệm Phật thiếu thành khẩn, thiết tha, thì tín ngưỡng ấy chưa đủ thâm sâu, ít hy vọng đạt được sự cảm ứng như bóng theo hình. Phái này cho rằng: bởi lẽ các giác quan của loài người rất thô thiển, không cho phép nhân loại khám phá được mọi điều bí mật tràn ngập trong vũ trụ, thì sao lại có thể quả quyết rằng không hề có cõi Cực lạc Tây phương, một khi Phật Thích Ca, đấng Toàn Giác, Chính biến tri đã dùng Phật nhãn quan sát tỏ tường và rủ lòng Từ Bi, chỉ bảo cho chúng ta biết?
Để cho lời biện thuyết của họ có đầy đủ uy tín, phái này đã dựa vào khoa Thiên văn học ngày nay mà nói rằng:
Tác hữu trần sa hữu,
Vi không nhất thiết không.
Hữu, Không như thuỷ nguyệt,
Vật trước hữu không không?
(Đạo Hạnh Thiền Sư)
(Có thì có tự mảy may
Không thì cả thế gian này cũng không.
Kìa trông bóng nguyệt lòng sông,
Ai hay có, có, không, không là gì?)
Nếu bảo rằng thế giới Ta bà này có thật thì không thể phủ nhận được cõi Cực lạc Tây phương, cho là không có bởi lẽ mọi sự vật trên trần gian đều chỉ có trong mối tương quan với nhau mà thôi: Cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không …
Theo Lý thì các thế giới đều có Nghiệp lực và Tâm tạo ra cả. Đã có cõi tam đồ khổ của loài ngạ quỷ, súc sinh ác nghiệp, có cõi Ta bà nửa ác nửa thiện của loài người, lại có cõi Thiên của chư Tiên, nghiệp lành nhiều thì tất phải có cõi Cực lạc do nguyện lực của chư Phật Bồ tát cùng hàng thượng thiện nhân tạo ra. Nhân nào thì quả ấy, hay Chính báo làm sao thì Y báo làm vậy. Phật A Di Đà Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức là cái lý tuyệt đối của Bi, Trí, Dũng hay Chân, Thiện, Mỹ thì cõi Cực lạc do Ngài tạo ra cũng phải là một tác phẩm tuyệt tác tuyệt mỹ. Ở đó có chân hạnh phúc tuyệt đỉnh khác xa cõi Ta bà ô trọc, thiếu thốn và khổ đau này.
Theo tài liệu xác thực và khoa Thiên văn học ngày nay thì Thiên hà, trong đó có trái đất của chúng ta có hình dáng một cái đĩa khổng lồ, đường kính rộng khoảng 100.000 năm ánh sáng, tức 90 vạn tỷ cây số. Nhà Bác học Carl Sagan, Giáo sư Đại học Harvard về môn thiên văn học đã lên tiếng trong một buổi thuyết trình tại Hội Hoả Tiễn nước Mỹ, cách đây trên 30 năm rằng: Ông tin chắc có những giống người thông minh dị kỳ, sống rải rác trên nhiều hành tinh xa xôi, và có nhiều nhân vật trong những tổ chức do thám của các hành tinh đó đã tới viếng thăm chúng ta. Ông cho biết thêm: hiện nay phải có ít nhất trên một triệu hành tinh trong các Ngân hà đã xuất hiện dấu tích những nền văn minh rực rỡ, vượt xa hẳn nền văn minh của loài người ngày nay.
Gần đây nhà Thiên văn học Xô viết (cũ) Boris Phéc-xen-cơ, Tiến sĩ Vật lý kiêm Toán học cũng lên tiếng xác minh: có rất nhiều khoa học gia trên thế giới khảo cứu về những nền văn minh ngoài trái đất đã thấy có những tín hiệu vô tuyến cực mạnh, vượt xa khả năng của nhân loại hiện nay, phát xuất từ những nơi rất xa, báo hiệu sự có mặt của họ trong vũ trụ. Chính ông cũng nhận được những tín hiệu ấy và đã kịp thời thông báo cho hãng Thông tấn Novoxti hay.
Nhà Bác học Melvin Berger còn cho ta biết: những khám phá mới nhất của khoa Thiên văn học cho hay: với những máy viễn vọng kính tối tân, loài người đã trông thấy trong Thiên hà của chúng ta có chừng 150 tỷ ngôi sao, trong đó có tới một tỷ hành tinh có dấu hiệu có nguồn sống của sinh vật. Ngoài ra còn có hàng triệu triệu Thiên hà tương tự như Thiên hà mà chúng ta đang có mặt, mà Thiên hà gần chúng ta nhất, mệnh danh là Trôn Ốc, có những hành tinh nhỏ li ti, mắt trần khó thấy, cách xa chúng ta khoảng 2 triệu năm ánh sáng. Nếu lấy tốc độ ánh sáng là 300.000 cây số/giây đồng hồ làm đơn vị để đo không gian, thì ánh sáng mặt trời phải dùng 8 phút gần 22 giây đồng hồ mới vượt qua được quãng không gian 149 triệu 400 ngàn cây số, là khoảng cách từ mặt trời đến trái đất. Đối với những khoảng cách quá xa, khoa học đã phải dùng tới đơn vị Quang niên là khoảng cách chừng 900 tỷ cây số, tức là quãng đường dài mà ánh sáng phải vượt qua với tốc độ 300.000 cây số/giây đồng hồ trong một năm. Như vậy một ngôi sao trong chòm Androméda ở Thiên hà Trôn Ốc, gần chúng ta nhất, cũng phải cách xa chúng ta chừng 2 triệu lần 900 tỷ cây số ! Nhiều khi có những vì sao mà ngày nay chúng ta còn trông thấy ánh sáng, rất có thể chúng đã bị tiêu tan thành khói mây, tro bụi từ lâu rồi, bởi vì ánh sáng mà chúng ta mới thấy ngày nay, chỉ là ánh sáng của hành tinh đó đã phát ra từ triệu năm về trước, đến nay mới tới được trái đất này mà thôi.
Toàn thể vụ trụ đều được cấu tạo bằng nguyên tử, mà cấu trúc của một nguyên tử lại giống hệt vũ trụ cho nên sự hiện diện của một nguyên tử liên hệ mật thiết tới sự tồn tại của muôn loài trong hoàn vũ theo lý “trùng trùng duyên khởi” và tính chất vật lý của điện tử như khối lượng, năng lượng v.v… ảnh hưởng tới sự bành trướng và đời sống, cùng sự hoại diệt của toàn thế giới. Nếu những ngôi sao trong Thái dương hệ bỗng dưng thay đổi vị trí hay tan biến đi, thì tức khắc sự chuyển động và vận tốc của các hành tinh trong Thiên hà của chúng ta, cùng đời sống của muôn loài, tức là không gian và thời gian đều biến đổi. Nhà Thiên văn học Melvin Berger ước tính rằng: Vũ trụ có tới hàng tỷ Tinh vân, hàng triệu Thiên hà cùng Thiên thể đủ loại. Nếu có người nào diễm phúc ngồi trên một phi thuyền không gian, bay với tốc độ ánh sáng, thì có thể dạo chơi vòng quanh vũ trụ, rồi lại trở về điểm xuất phát sau một thời gian chừng 200 tỷ tỷ năm !
Khoa Thiên văn học còn cho thấy: các thiên thể đều có đời sống riêng, trải qua các thời kỳ sinh, trụ, biến đổi, hoặc co rút lại thành những khối Điện tử (masse neutronique) đen sì, mỗi phân khối nặng tới hàng chục triệu tấn, hoặc trở thành những Quasar hay Pusar, quay tít theo một vũ điệu điên cuồng say mê với tốc độ một giây đồng hồ có thể xoay quanh mình nó, hoặc nổ tung thành những đại hồng cầu (Géant rouge) hay biến thành những hố sâu đen ngòm (Black hole) có sức hút kinh khủng, làm cho bất cứ vật gì chẳng may lạc vào quỹ đạo của nó, đều lập tức bị hấp lực của chúng nuốt chửng và tiêu luôn, kể cả ánh sáng. Đó thức ra mới chỉ là những khám phá sơ khởi, bởi vì chắc chắn, với đà tiến mau lẹ của khoa học, và những dụng cụ tinh xảo hơn nhiều, khoa học không gian, trong tương lai còn tiến xa hơn nữa và sẽ khám phá thêm nhiều điều kỳ lạ mà trí óc con người khó tưởng tượng nổi. Nhờ những bước tiến triển của ngành Điện tử và những kiến thức tân tiến về tia hồng ngoại, gamma, laser v.v… áp dụng trong ngành khoa học Không gian mà loài người ngày nay đã thấy rõ mối liên hệ gắn bó giữa các ngành Thiên văn học với công kỹ nghệ nông nghiệp, thực phẩm, y tế, văn hoá, giáo dục…
Với những phương tiện và đường lối nghiên cứu khác nhau, cùng những kết quả thu lượm được trong mọi lãnh vực mà trước đây tưởng chừng như rời rạc, rối ren, nay đã thấy rõ lý “Một là Tất cả, Tất cả là Một”, và mọi sự vật trong cõi không gian vô tận đều quyện vào nhau một cách kỳ diệu trong mối liên quan tương tức, tương nhập, sự lý viên dung và trùng trùng duyên khởi. Thế mới biết Vũ trụ quanh ta huyền bí dường nào, và sự hiểu biết của loài người còn rất nông cạn, sao dám phủ nhận điều mà Phật Thích Ca, đấng Giác ngộ hoàn toàn đã trông thấy rõ !
Đức Phật đã nhận thấy rằng: Ngài đã làm một việc rất khó là giới thiệu cảnh Cực lạc thế giới xa lạ cho loài người phần đông mắc chứng đa nghi, nhưng vì nặng Tâm Từ, thương chúng sinh phải trôi lăn mãi trong bể khổ, nên dù biết là việc rất khó (“nan tín chi pháp, thị vi thậm nan”) nhưng Ngài vẫn cứ phải làm.
Ngài hiểu rằng: trong đời ngũ trược ác thế, vào thời mạt pháp, các Kinh điển dần dần biến hết, không mấy người đọc tụng, loài người thiếu đức Tin, hoài nghi lời Phật dạy nên Phật mới phải nhấn mạnh rằng: đây là một pháp khó tin, để mọi người “hoan hỷ tín thọ phụng hành”. Bởi nặng lòng thương chúng sinh phải luân hồi sinh tử, nên Phật mới phải nói những điều thực khó nói. Trong trường hợp này, Phật ngại rằng nói như vậy chưa đủ gây niềm tin đối với những tâm hồn đa nghi cố tật, nên Ngài phải đoan chắc rằng: Ngài đã nói toàn lời chân thật, lại còn đưa ra những lời tán thán của chư Phật mười phương ấn chứng cho lời Ngài nói quả thật là đúng để làm tin. Trong các Kinh điển, luôn luôn Phật nói những lời chân thật, không hề hý luận bao giờ. Kinh Dược Sư có câu: “Trăng sao còn có thể rơi, núi cao còn có thể lở, biển sâu còn có thể cạn, nhưng lời Phật nói trăm ngàn ức kiếp cũng không sai”. Kinh Đại Tập có ghi: “Mãnh phong khả thuyết tác hệ phược. Tu Di khả thuyết khẩu xuy động. Bất khả thuyết Phật hữu nhị ngữ – Thực ngữ, Như ngữ cập Tịnh ngữ (Có thể bảo: buộc được luồng gió mạnh, thổi lung lay được quả núi Tu Di, nhưng không thể bảo Phật nói trước sau khác nhau, bởi vì Phật bao giờ cũng nói toàn sự thật, chân chính và trong sạch).
Đức Phật Thích Ca đã cho chúng ta biết: “Nếu dùng Tâm thanh tịnh mà Tin sâu, Nguyện thiết, thì lời nguyện ấy quyết chẳng phải là lời nói suông, bởi vì trong nguyện ấy hàm chứa cả Tín lẫn Hành rồi, cho nên Phật mới ân cần ba lần khuyên nhủ chúng sinh nên phát nguyện thanh tịnh cầu vãng sinh Tịnh độ để: gây sự chán ghét cõi Ta bà tới cực độ và cầu mong tha thiết được về Cực lạc thế giới, sống hạnh phúc bền lâu.
Để ca tụng pháp môn Tịnh độ, Triệt Ngộ Đại sư có bài kệ sau:
Nhất cú Di Đà
Chứng tam bất thoái
Chỉ thử nhất sinh
Tiên bổ Phật vị.
(Một câu Di Đà
Chứng ba bất thoái.
Chỉ trong một kiếp
Lên ngôi vị Phật).
Tam bất thoái là 3 ngôi: Vị, Hạnh và Niệm bất thoái. Theo Thiên Thai giáo thì khi tới Đệ Nhất Trụ mới đến ngôi Vị bất thoái. Khi chứng Thập Hồi Hướng mới lên ngôi Hạnh bất thoái, và khi chứng ngôi Sơ Địa Bồ Tát mới đạt được Niệm bất thoái. Theo quan niệm thông thường của Phật giáo Đại thừa thì khi trừ được Tư hoặc và Kiến hoặc mới lên ngôi Vị bất thoái, phá được Trần sa hoặc mới lên ngôi Hạnh bất thoái, và trừ được Vô minh hoặc mới lên ngôi Niệm bất thoái. Nghĩa là phải tu a tăng kỳ kiếp mới chứng được Tam bất thoái, nhưng đối với pháp môn Tịnh độ, chỉ cần được vãng sinh Cực lạc quốc là vĩnh viễn không bị thoái chuyển nữa, và chắc chắn đạt tới quả vị Phật.
Trong 49 năm chuyển Pháp luân, Đức Thế Tôn chỉ thuyết Kinh Hoa Nghiêm có một lần, và khi nói Kinh này, Ngài lại có ý muốn nêu rõ lý “Nhất sinh bổ xứ”, và “Nhất sinh viên mãn”, mà cái nhân để tạo quả nhất sinh viên mãn, lại chính là “Mười điều đại nguyện vương” trong phẩm “Phổ Hiền Hạnh Nguyện”, dạy người tu nên hướng Tâm về cõi Tịnh độ Tây phương, cầu được sinh về đó.
Nó cách khác thì Phật đã chỉ rõ phương tiện gieo nhân lành bằng cách niệm danh hiệu Phật A Di Đà để được hái quả tốt lành là được sinh về cõi Cực lạc Tây phương, đời đời hưởng an vui hạnh phúc.
Bồ Tát Phổ Hiền đã đem pháp môn Niệm Phật A Di Đà cầu vãng sinh Tịnh độ tích cực khuyên Tăng chúng trong hội Hoa Nghiêm nên nhất tâm niệm Phật A Di Đà, như vậy thì pháp môn Tịnh độ đã được Phật dạy cho hàng Bồ Tát ngay sau khi Ngài đắc quả vô thượng Bồ đề, mà cũng chính là pháp môn chung cho mọi hạng người xuất gia cũng như tại gia, ở mọi căn cơ, ai ai cũng tu được cả.
Trong Phẩm thứ 40 Kinh Hoa Nghiêm có câu: “Các vị Đại Bồ tát, sau khi học đủ các pháp môn, cuối cùng lại trở về pháp môn Niệm Phật A Di Đà cầu vãng sinh Tịnh độ”.
Trong Kinh Đại Tập, Phật dạy: “Mạt pháp ức ức nhân tu hành, hãn nhất đắc đạo, chỉ y niệm Phát pháp môn đắc liễu sinh tử”.
Lại có câu: “Sinh tử hải trung, niệm Phật đệ nhất”, và câu: “Chỉ hữu kính lộ tu hành, đãn niệm A Di Đà Phật” (Trong đường tu chỉ có một lối đi tắt là niệm danh hiệu Phật A Di Đà).
Ngoài các Kinh điển viện dẫn ở trên, lại còn có không biết bao nhiêu Kinh Đại thừa liễu nghĩa khác như Lăng Nghiêm, Bát Nhã, Đại Niết Bàn… đều nói tới pháp môn Tịnh độ và tán thán công đức thù thắng của việc trì danh hiệu Phât A Di Đà, đủ tỏ Phật A Di Đà chẳng phải là một vị Phật thần thoại, mà Kinh A Di Đà cũng chẳng phải là một Pháp quyền, lấy hiển để chỉ ẩn.
Lại nữa, các vị Đại Bồ tát như Di Lặc, Văn Thù Sư Lợi, Bất Hưu Tức, Thường Tinh Tiến, Mục Kiền Liên, Ma Ha Ca Diếp… ở những ngôi vị tu chứng cao, và những Thiên Vương ở những cõi Trời đều quyết tâm xin được về cõi Tây phương Cực lạc để được gặp Phật A Di Đà, cùng tu với các bậc Hiền, Thánh, đủ tỏ Phật A Di Đà được sùng bái tới bậc nào và địa vị của pháp môn Tịnh độ trong việc tu chứng đến quả Phật cao thâm huyền diệu tới đâu. Những bậc Thánh xưa và nay đều cầu nguyện được cùng mọi người sinh về thế giới Cực lạc, bởi vì phàm muốn độ đời thì trước hết phải tu theo pháp môn Tịnh độ, mình có được giải thoát rồi mới mong giải thoát cho thiên hạ, cho nên Ấn Quang Đại sư mới lên tiếng cảnh cáo người đời rằng: “Pháp môn Niệm Phật cầu vãng sinh cao thâm huyền diệu mà vẫn có nhiều kẻ còn dám khinh chê, cho là chỉ có những hạng người già nua, tuổi tác yếu đuối, dốt nát mới theo pháp môn Tịnh độ thì quả là họ đã dám coi thường, khinh chê cả các vị Đại Bồ Tát như Di Lặc, Văn Thù, Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, Mã Minh, Long Thọ rồi vậy”. Chư Tổ đã khuyên chúng ta nên theo pháp môn Tịnh độ vì dễ tu, dễ chứng, như đi thuyền buồm xuôi dòng, gặp gió thuận, lướt nhẹ trên mặt nước, tiến mau như mũi tên, còn tu theo các pháp môn khác sẽ gặp nhiều điều khó khăn, bất lợi. Các Ngài dạy rằng: “Nhiêu nễ tu đáo Phi phi tưởng xứ, bất như Tây phương quy khứ lai”. Dù tu theo đường lối khác mà đạt tới cảnh Trời Phi phi tưởng (tức Phi hữu tưởng, Phi vô tưởng) là cảnh Trời cao đẹp nhất trong các cảnh Trời của Tam giới, nhưng đến khi hết phúc lại phải đoạ luân hồi, ra vào lục đạo, chẳng bằng tu theo pháp môn Tịnh độ để được về miền Cực lạc, rồi tuần tự tiến tu tới quả vị Phật, không sợ gặp chướng ngại trên đường tu.
Ngài Thiên Như Thiền sư, sau khi ngộ đạo, đã ân cần dặn bảo hàng đệ tử: “Trong thời mạt pháp các Kinh điển mất dần, duy còn lưu lại bốn chữ “A Di Đà Phật”, nếu ai không tin và không chịu tu theo pháp môn Tịnh độ, niệm Phật cầu vãng sinh, sẽ bị đoạ lạc vào chốn Tam đồ”.
Ngài Tri Húc Đại sư, lừng danh trong chốn Thiền môn thuở xưa, đã lên tiếng trước hàng đệ tử: “Khi mới xuất gia, tôi tập ngồi Thiền, tự phụ đã tu theo Đốn pháp dễ ngộ và tỏ ý chê bai pháp môn Tịnh độ, cho là Tiệm pháp, lâu chứng. Khi ấy còn ít tuổi, tôi dám cả gan nói những điều thiếu suy xét rằng: “Pháp môn Tịnh độ chỉ dành cho hạng người hạ căn ít học mà thôi”. Chẳng dè, nhân bị một cơn ốm nặng, tưởng khó qua khỏi, tôi mới chịu phát tâm niệm Phật A Di Đà. Sau đó, khỏi bệnh, tôi được đọc các sách Diệu Tông, Viên Trung, Vân Thê Sớ Sao và An Lạc Tập, tôi mới hiểu lý cao thâm của Pháp trì danh hiệu Phật, và kể từ đó tôi mới nhất tâm niệm Phật A Di Đà cầu vãng sinh Tây phương Cực lạc ngày đêm không ngừng với một sức tinh tiến phi thường ít người sánh kịp”.
Ấn Quang Đại sư khuyên người đời rằng: “Phần đông chúng ta ngày nay đều phúc mỏng, nghiệp dầy nên mới sinh vào thời vắng bóng Phật tại thế. Ngoài môn Niệm Phật A Di Đà cầu vãng sinh Tịnh độ mà tu các pháp môn khác có thể tăng trưởng được phúc trí, nhưng vẫn khó tránh khỏi được luân hồi sinh tử. Chỉ duy có pháp môn Tịnh độ, tuy thời nay ít người chứng được Nhất Niệm tam muội như xưa, nhưng vẫn có thể nương vào nguyện lực của mình và bản nguyện của Phật A Di Đà mà đới nghiệp vãng sinh, và khi đã tới được cõi Cực lạc Tây phương thì không còn sợ bị đoạ lạc nữa, vì đã nhờ được hoàn cảnh thuận lợi thường được gặp Phật, nghe Pháp nhiệm mầu để tiến tu đến quả vị vô sinh”.
*
Những nghi vấn chung quanh vấn đề vãng sinh Tây phương Tịnh độ bằng phương pháp trì danh hiệu Phật A Di Đà có rất nhiều nhưng ở đây tôi chỉ xin đơn cử một vài thắc mắc căn bản do đa số Phật tử tu theo Lý trì nêu ra, được người tu theo sự trì giải đáp như sau:
a) Thắc mắc thứ nhất: Bản thể của các pháp là “Không”. Các pháp xưa nay vốn bình đẳng, bất cấu, bất tịnh, bất sinh, bất diệt, bất cao, bất hạ… Với tâm bình đẳng, dù ở nơi uế độ, tâm vẫn thanh tịnh. Với tâm phân biệt, dù sinh về cõi Tịnh độ, tâm vẫn còn phiền não nhiễm ô. Vả chăng, có sinh ắt có diệt, dù sinh về cõi Tây phương Cực lạc, cũng vẫn chẳng thoát khỏi tử vong. Vậy thì hà tất phải rời bỏ cõi Ta bà, cho là nơi uế độ rồi cầu về cõi Tây phương Cực lạc, cho đó là nơi thanh tịnh an vui, như thế liệu có trái với lý bất nhị, bình đẳng chăng?
Ngài Trí Giả Đại sư, trong bộ Thập Nghi Luận đã giải toả mối nghi này như sau: Nếu bảo rằng cầu được sinh về cõi Tịnh độ và mong rời bỏ cõi Ta bà là “chấp kia, bỏ đây”, như vậy là không hợp lý bình đẳng, bất nhị, thì trụ ở cõi Ta bà này mà chẳng cầu được về cõi Tịnh độ, cũng rơi vào “chấp đây, bỏ kia”, cả hai đều còn mang nặng tâm phân biệt, nào có khác gì nhau? Không trụ, không chấp, không mong cầu gì cả mới là tâm bình đẳng, vô phân biệt, bất biến tuỳ duyên, tuỳ duyên bất biến. Các pháp đều vô tự tính. Khi nói các pháp vô sinh hay bất sinh phải nên hiểu là các pháp đều do nhân duyên giả sinh, giả hợp, tuy có mà không thực chứ chẳng phải là không có. Bởi vì các pháp đều giả, không thật sinh diệt, nên mới nói là bất sinh, bất diệt, chứ chẳng phải là các pháp thường tồn mãi mãi, chẳng hề biến dịch, bởi lẽ mọi sự vật đều vô ngã, vô thường thay đổi từng sát na. Khi đề cập đến tính cách bất sinh, bất diệt của các pháp là muốn ám chỉ đến Bản thể Chân Như thường hằng. Nhưng Lý lại không ngại Sự, mà Tính luôn luôn đi cùng với Tướng, nên cái lý Vô Sinh hay Bất Sinh không ngoài các pháp Sinh, Diệt mà có. Vì thế mà chẳng phải sinh về Tịnh độ mới gọi là Vô Sinh, hoặc không được về cõi Tây phương Cực lạc mới gọi là Tử, Diệt. Dùng tâm thanh tịnh ở cõi Ta bà mà hành Bồ tát đạo, hay dùng tâm thanh tịnh ở cõi Tây phương Cực lạc để tiến tu đến quả vị Phật, nào có khác gì nhau? Người trí giả siêng năng niệm Phật A Di Đà cầu vãng sinh Tịnh độ mà không chấp tướng sinh diệt của các pháp, cũng chẳng trụ vào tướng năng, sở niệm, cùng các tướng ngã và pháp vì đã hiểu rõ các tướng đó đều giả huyễn. Tuy vẫn biết việc niệm Phật cùng cảnh Cực lạc Tây phương đều chỉ là những pháp phương tiện chẳng thật có, nhưng vẫn phải niệm Phật cho siêng, và vẫn phải cầu về Tịnh độ, như thế mới thật hiểu rõ lý “Chân vô sinh và Chân bất diệt”. Kẻ mê không rõ lý ấy, thoạt nghe nói Vô sinh đã vội cho ngay là chẳng sinh về đâu cả. Họ có biết đâu rằng: Sinh ở đây chính là Vô sinh, mà Diệt tức là Bất diệt, bởi vì Vô sinh chẳng ngại gì sinh, mà Bất diệt cũng chẳng ngại gì diệt. Hễ tâm đã thanh tịnh thì không còn lưu ý đến việc cầu về Cực lạc nữa, ở đâu cũng thế thôi. Nhưng muốn đạt tới cảnh thanh tịnh của tâm hay tới nơi cứu cánh Niết bàn thì phải “dĩ huyễn độ chân”, lấy tướng giả diệt ở cõi Ta bà và tưởng giả sinh về miền Cực lạc Tây phương làm phương tiện để đạt tới cảnh Chân thường Chân lạc ở thế giới Tịnh độ. Muốn thấy cõi Vô sinh phải tìm ở chỗ có huyễn tướng sinh diệt. Muốn đạt tới Phi thường phải tìm ở chỗ thường của cuộc đời. do đó người đã hiểu rõ lý Chân Không Diệu Hữu hay lý Bất Nhị thì không còn ngại cầu về Tây phương Cực lạc thế giới và rời bỏ cõi Ta bà, coi đó chỉ là phương tiện để tiến tu tới chỗ giải thoát cứu cánh mà thôi.
b) Thắc mắc thứ hai: Có người cho rằng: Nếu cõi Cực lạc chỉ là mộng huyễn thì việc cầu sinh về đó chỉ là việc làm uổng công vô ích chăng?
Về điểm này Triệt Ngộ Đại sư giải đáp rằng: Từ Thất Địa Bồ tát trở về trước thì người tu còn ở trong mộng. Đối với vô minh thì bậc Đẳng Giác Bồ tát vẫn còn chưa thoát khỏi, duy có Phật đấng Chính đẳng chính giác mới rũ sạch được vô minh mà thôi. Trong lúc còn ở trọng đại mộng thì vui buồn sướng khổ vẫn còn thọ cảm, sao lại có thể bảo là đã tỉnh thức? Vậy thì cớ sao ta chẳng tránh những cảnh mộng đau buồn ở cõi Ta bà để vui hưởng những cảnh mộng đẹp ở miền Tịnh độ? Huống chi mộng ở cõi Ta bà là mộng đi sâu vào cõi mộng, còn mộng ở cõi Cực lạc, từ chỗ mộng huyễn tối đen lần tới bờ giác sáng sủa, được thức tỉnh hoàn toàn. Tuy cùng ở trong hai nơi mê, ngộ khác hẳn nhau. Vậy thì niệm Phật cầu vãng sinh là việc làm đầy ý nghĩa chân chính hợp lý Bất Nhị và xứng với tính bình đẳng của các pháp.
c) Thắc mắc thứ ba: Có người cho rằng: Nếu thế giới Cực lạc cách cõi Ta bà hàng vạn ức Phật độ thì cõi ấy hẳn là một hành tinh xa lạ, có thể không cùng một Thiên hà với trái đất này. Nếu thế giới đó có thật và nếu được về cõi ấy thì dù có được di chuyển bằng phương tiện tối tân nhanh nhất của loài người hiện nay cũng phải hàng thế kỷ mới tới nơi được, có đâu lại bảo rằng có thể vãng sinh trong nháy mắt?
Đáp: Dù muôn vạn ức Phật độ cũng chỉ do một niệm của tâm linh mà thôi, bởi vì tâm bao trùm cả tam thiên đại thiên thế giới. Tâm ấy lại ẩn tàng trong khắp vạn hữu: “lớn không ngoài mà nhỏ cũng không trong”, và nếu lại còn được nhờ vào khả năng vô biên của Phật tiếp dẫn thì khó gì mà chẳng được vãng sinh ngay tức khắc? Vả chăng sự vãng sinh phần tính danh hay Thức trong ngũ uẩn chứ đâu phải là phần Sắc tướng? Sự vãng sinh về cõi Cực lạc có thể nhanh hơn tốc độ ánh sáng là thứ mà khoa học ngày nay coi là nhanh nhất. Đương khi ta niệm Phật cầu vãng sinh về nơi cách xa ta hàng muôn ức Phật độ thì Phật tính của ta đã và đang ở cõi Cực lạc thế giới rồi, chẳng cần đợi tới khi ta nhắm mắt tắt thở mới được về tới đó.
d) Thắc mắc thứ tư: Bất cứ pháp nào, dù hữu hình hay vô hình, đều không ngoài luật biến dịch, không có vật nào thường còn mãi mãi, dù do nguyện lực của chư Phật, do nhân duyên, hoặc do nguyện lực của chúng sinh tạo ra. Thế giới Tây phương Cực lạc chỉ là một thế giới tâm tưởng của Phật A Di Đà tạo lập ra như bao cõi khác thì đương nhiên nó cũng phải chịu chung quy luật biến dịch, lẽ đâu lại bảo là nhân dân ở cõi Cực lạc Tây phương đều thọ vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, và cõi ấy là một nơi bất diệt, như vậy chẳng hoá ra luật biến dịch vô thường lại chẳng được áp dụng đối với cõi này sao?
Phái tu theo Sự tướng cho rằng: Nếu nhất thiết duy tâm tạo thì Đức Phật A Di Đà là một nhân vật lịch sử, và cõi Cực lạc thế giới phải là một thế giới có thật như cõi Ta bà này. Bởi vậy cớ sao lại lấy tâm phân biệt mà cho rằng thế giới này của giác quan họ thật hơn thế giới kia của tâm linh? Tại sao cả hai thế giới vật chất lẫn tinh thần đều do tâm tạo ra mà lại chỉ riêng phủ nhận thế giới tâm linh cho là ảo tưởng? Ta phải hiểu rằng: tất cả các quốc độ vạn hữu trong vũ trụ đều do nghiệp lực của chúng sinh tạo ra. Mỗi thế giới từ thô trược đến khinh thanh đều là quốc độ của từng loại chúng sinh đồng nghiệp cảm, từ địa ngục đến cõi Trời Vô sắc, những nơi ấy không do quyền năng của một vị thần linh nào sáng tạo cả, mà đều do nghiệp cảm duyên khởi hoà hợp của các đồng nghiệp sinh ra, nhưng đối với cõi Phật thanh tịnh thì sự thành lập không những do nghiệp cảm duyên khởi của các đồng nghiệp sinh ra mà còn do nghiệp lực của chư Phật, Giáo chủ ở các cõi ấy tạo ra nữa. Đối với một vị Phật như Phật A Di Đà thì không thể bảo là Ngài thiếu khả năng không đủ sức tạo nổi được một thế giới lý tưởng theo nguyện vọng của Ngài. Mà đã do nguyện lực của một vị Phật tạo ra, thì cõi đó sao còn bị chi phối giống như các cõi do nghiệp cảm duyên khởi thuần tuý của chúng sinh tạo ra nữa?
Ở đây, xin lưu ý quý vị là kinh muốn nói đến “trường tồn”, chứ không nói “bất diệt”. Sự biến dịch vẫn diễn ra nhưng với tính cách chậm chạp, không dễ thấy như ở các cõi hữu hình thô trược khác. Cõi trần gian này là một thế giới trọng trược mà còn biến dịch trong vòng một Đại Kiếp, khoảng 1.280 triệu năm thì cõi khinh thanh như thế giới Cực lạc Tây phương, dù có biến dịch cũng phải muôn vạn ức kiếp lâu hơn. Dù sao Kinh Bi Hoa cũng cho chúng ta biết rằng: “Sau khi Phật A Di Đà Niết bàn thì Đức Quán Thế Âm Bô tát sẽ thành Phật thay thế, lấy danh hiệu là “Biến Xuất Nhất Thiết Quang Minh Công Đức Sơn Vương Như Lai”, và thế giới Cực lạc Tây phương sẽ đổi tên là “Nhất Thiết Trân Bảo Sở Thành Tựu”. Như vậy đủ biết rằng Cực lạc thế giới Tây phương phải đâu chẳng biến dịch và có gì trái luật vô thường, hằng chuyển đâu?
Các Tổ Sư trong đạo Phật, xưa và nay, không vị nào nhận định rằng Kinh A Di Đà là quyền pháp cả. Chúng ta hiện nay ở thời mạt pháp, há lại hiểu rõ hơn các Ngài sao? Những bậc cao Tăng, thạc đức, như Mã Minh, Long Thọ, Thế Thân bên Ấn Độ, và Tuệ Viễn, Đạo Xước, Thiện Đạo, Từ Mẫn, Trí Khải, Thuyền Khuông, Diên Thọ, Châu Hoằng, Tri Húc, Giác Minh, Ấn Quang… bên Trung Hoa đều hết lòng quy hướng về Phật A Di Đà, cầu vãng sinh về thế giới Cực lạc, và vững tin có Phật A Di Đà thường hiện diện tại đó để tiếp độ chúng sinh, chúng ta ngày nay, về kiến thức chưa chắc gì đã bằng được các vị đó, há dám chê các vị này là sai lầm chăng? Phương chi, trong Kinh Bồ Tát Xứ Thai lại nói rằng: “Từ cõi Diêm Phù Đề (tức trái đất mà loài người chúng ta đang ở), cách xa chừng 12 na do tha quốc độ (tức ngàn vạn thế giới), có một cõi tên là Giải Mạn giới, không thua kém cõi Cực lạc Tây phương về phương diện trang nghiêm và hạnh phúc là bao. Sở dĩ có tên như vậy, bởi vì có những người tu tịnh nghiệp mà tính nết còn giải đãi, kiêu mạn, nên mới phải sinh về hành tinh này, để tiếp tục tu, trừ căn bệnh biếng lười và ngã mạn, mà chưa được tới ngay cõi Cực lạc. Nếu thế giới Cực lạc Tây phương không thật có, thì cớ sao Kinh Bồ Tát Xứ Thai lại định rõ vị trí cõi Giải Mạn ở vào quãng giữa, nửa đường đi về miền Cực lạc? Bởi vậy không thể phủ nhận cõi Tây phương Cực lạc được, và cũng không thể coi Phật A Di Đà là một vị Phật hữu danh vô thực.
* Trong “Vãng Sinh Tịnh Độ Luận”, Thế Thân Bồ tát đã khuyên chúng ta: Vào thời mạt pháp, chúng sinh thường bị nghiệp chướng nặng nề, hàng hạ căn sơ cơ cứ việc trụ vào Sắc tướng, âm thanh, vào hình tướng Phật A Di Đà và cảnh Cực lạc Tây phương, cùng vào sáu chữ hồng danh, mà thành tâm thiết tha cầu nguyện được vãng sinh bởi vì đối với bậc sơ cơ phải có chỗ để trụ thì hạnh nguyện mới vững vàng, tâm không thoái chuyển, do đó kết quả vãng sinh mới dễ thành tựu. Nếu chẳng phải là bậc lợi trí, thượng căn mà lại thích với cao, muốn lìa Tướng nhập Tánh ngay từ đầu thì tâm vọng động không có chỗ trụ bám ắt khó phát sinh được nguyện lực thiết tha. Nguyện đã chẳng tha thiết thì Hành cũng dễ giải đãi, còn mong vãng sinh sao được? Như vậy là muốn mau lại hoá chậm, mong cao lại hoá thấp. Những kẻ chỉ ưa nói hão huyền, làm những chuyện xa vời, viễn vông, chỉ muốn tìm Phật tại tâm, đều do tâm mình tạo ra cả, nào có khác gì? Hình tượng Phật ở ngoài, và cảnh Cực lạc Tây phương xa xôi, hay hình tượng Phật trong tâm và cảnh Ta bà ngay trước mắt, đều không ngoài bản tâm mà có. Nếu cảnh Ta bà và cảnh Cực lạc đều do tâm tạo và không ngoài tự tâm mà có, thì ở cõi Ta bà để phải chịu khổ não ưu phiền, sao bằng ở nơi Cực lạc để hưởng hạnh phúc thanh lương?
Cõi Ta bà hay thế giới Cực lạc đều do tâm tạo thì sao lại chẳng chọn cảnh vui sướng an nhàn, dễ tu, cùng chung sống đồng nghiệp với các bậc thượng thiện nhân để học hỏi chánh pháp Đại thừa cho chóng viên thành đạo quả, để độ đời cho có hiệu năng? Ta phải tin là có Phật A Di Đà và có cõi Cực lạc Tây phương, vì tin như vậy là có Tâm thể giác chiếu, tin có khả năng hoán cải, tin có Tha lực gia trì và tin có Tự lực tinh tiến để trở về với Chân Tâm, Phật tính của mình. Sở dĩ có người không thấy điều đó, chỉ vì Hạnh Nguyện và Đức Tin của người đó chưa thật vững chắc. Nếu ta có hùng tâm, lập nguyện vững vàng, kiên trì niệm Phật, thiết tha cầu vãng sinh thì tất phải công nhận sự hiện hữu của cõi Cực lạc Tây phương cùng Giáo chủ A Di Đà Phật. Chỉ có lòng tin dũng mãnh mới có nỗ lực niệm Phật không ngừng để đạt tới quả Niết bàn vô thượng.
Phái tin theo Sự trì thường chê phái tu theo Lý trì về điểm thiếu Đức Tin và khuyên họ rằng: Trong thời mạt pháp, nhân tâm điên đảo, sự tu hành để đạt tới quả vô sinh khó khăn vô cùng. Với tự lực yếu hèn, kém cỏi loài người khó lòng phá nổi bức màn vọng thức vô minh và diệt trừ được hết nhiễm ô, phiền não trong lòng, do đó cần phải nương vào Tha lực của chư Phật Bồ tát mới mong thoát khỏi vòng tử sinh. Phái này cho rằng: cần phải nuôi dưỡng Đức Tin cho vững mạnh, vì đó là nền tảng của đạo lý. Thiếu Đức Tin e khó thoát khỏi bát nạn tam đồ và phải quay cuồng trong lục đạo.
* Những người tu theo Sự trì còn nhận xét rằng: Kẻ nặng đầu óc duy lý thường hay thắc mắc, và tự hào là mình không vướng phải lưới mê tín, dị đoan. Họ cho rằng: Cần phải đa nghi, vì có nghi mới có ngộ, nhưng ngộ đã chẳng thấy đâu lại chỉ làm tổn thương đến Đức Tin mà thôi. Người chọn con đường tri thức, ưa sưu tầm nghiên cứu kinh điển cũng vậy, họ chỉ mong trau dồi khối óc, mà làm giảm Đức Tin, có hại cho việc mong cầu được về Tây phương Cực lạc và trở ngại bước đường tu Tịnh nghiệp của mình. Bởi vì tam tạng Kinh điển như rừng rậm bao la, một đời người chuyên cần nghiên cứu hồ dễ mấy ai đã thấu triệt được ý nghĩa thâm sâu của thiên kinh vạn quyển. Vả chăng đã dễ gì trừ được vọng tưởng nhờ lối tu này, bởi lẽ càng đi sâu vào đường sưu tầm, nghiên cứu, lại càng gặp lắm điều thắc mắc, hồ nghi, làm hôn ám thần hồn. Bể học mênh mông vô bờ bến, càng học lại càng nghi, càng nghi lại càng làm tổn thương đến Đức Tin, chi bằng cứ Tin Sâu, Nguyện Thiết, Thực Hành Tinh Tiến siêng năng, rồi nương vào Tha lực của chư Phật gia hộ, đừng nên để mất thời giờ quý báu vô ích, đáng lẽ phải dành hết cho việc niệm Phật cầu vãng sinh.
* Liên Trì Đại sư (Vân Thê Châu Hoằng) có nói: “Mỗi câu Di Đà gồm đủ cả đại thiện căn, đại phúc đức, đại phương tiện, và đại trí tuệ, từ bi, giải thoát”. Như vậy, năng niệm Phật sẽ mau diệt được Nghiệp chướng, phá được Vô minh, đạt được phúc trí, cho nên khi lâm chung, người năng niệm Phật với tâm bất loạn, sẽ được Phật A Di Đà và Thánh chúng phóng quang tiếp dẫn về cõi Cực lạc Tây phương là lẽ đương nhiên.
* Chư Phật, Bồ tát rải Tâm Từ để độ tận chúng sinh. Những làn sóng Bi Thương do tâm của các Ngài toả rộng, tựa những làn sóng âm thanh chuyển đi từ một đài phát thanh cực mạnh ở cao xa. Những ai có máy thu thanh tốt, nếu vặn đúng tần số của đài phát thanh phóng đi đều nhận được tin tức. Cũng vậy, chúng sinh nào luyện được Đức Tin vững mạnh đều có khả năng giao cảm với làn sóng Bi Thương của chư Phật, Bồ tát. Muốn được Phật A Di Đà và các Bồ tát Quan Âm, Thế Chí tiếp dẫn về quốc độ của các Ngài thì điều thiết yếu là phải Tin Sâu, Nguyện Thiết và nhất Tâm niệm Phật A Di Đà. Khi đã niệm tới Nhất Tâm bất loạn thì ngay trong lúc đang niệm Phật và ở tại nơi đây, cảnh Cực lạc Tây phương đã hiện bày ngay trước mắt hành giả.
Tóm lại, phái tu theo Sự trì dốc một lòng Tin Sâu, Nguyện Thiết coi Phật A Di Đà và cảnh Cực lạc Tây phương là những điểm tựa vững vàng để thoát lý sinh tử. Họ đặt trọn niềm tin vô điều kiện vào Tha lực và hiệu lực của Tâm thành. Phái này khuyên người đời nên coi việc tu Tịnh nghiệp là việc làm tối quan trọng và cấp thiết, phải tu ngay kẻo muộn, vì thời gian trôi mau lắm, không đợi chờ ai. Nó cuồn cuộn chảy như thác lũ, lôi cuốn chúng ta theo. Giây phút mà chúng ta đang nói chuyện, chưa chi nó đã trôi vào dĩ vãng. Luật Vô thường mau chóng lắm, nếu cứ bán tín bán nghi, nửa tiến nửa thoái, dùng dằng chẳng quyết tu ngay, thì khi tử thần tới gõ cửa, sao thoát khỏi cảnh luân hồi? Vậy ta phải niệm hồng danh Phật A Di Đà ngày đêm để huân sinh, huân tập các pháp cực lành mạnh này vào tạng thức mong trong hiện tại và vị lai được sống với hình ảnh Phật A Di Đà trong tự Tâm. Họ mượn bài Kệ sau đây của người xưa để nhắc nhở những ai còn đắm say trong lục dục thất tình và còn chần chờ chưa vội đăng trình trên đường tu Tịnh nghiệp:
Phù sinh nhược mộng
Ảo chất phi kiên
Bất bằng quy Phật chi Từ
Hạt toại siêu thăng chi lộ.
(Đời người như giấc mộng
Xác thân có bền chi?
Không nương bóng Phật từ bi
Há thoả siêu thăng nguyện vọng?)
Nhất nhật vô thường đáo
Phương tri mộng lý nhân
Vạn ban tương bất khứ,
Duy hữu nghiệp tuỳ thân
Đản niệm Di Đà Phật
Định sinh Cực lạc quốc.
(Một ngày vô thường tới
Mới hay đã mộng sinh,
Muôn vật đều ở lại,
Duy có nghiệp theo mình,
Năng niệm Phật Di Đà,
Nhất định về Lạc quốc).
Và để nhắc nhở một lần chót những ai còn chần chờ suy tính để thời gian trôi qua vô ích, người tu theo Sự trì nói rằng: Xưa kia Liễu Minh Trưởng lão Hoà Thượng muốn cảnh cáo hàng đệ tử của Ngài phải niệm Phật cho chuyên, trước mắt họ đã chỉ vào thân mình mà nói: “Đây là một vật chết, nhưng trong cái chết ấy lại có cái sống. Đừng vì cái chết ấy mà lo toan, phải nên vì cái sống ấy mà chuẩn bị ngay cho kịp bằng cách chuyên cần niệm Phật A Di Đà cầu vãng sinh Tịnh độ. Cũng như người muốn đi du lịch phương xa, phải lo tích trữ lương tiền cho đủ. Những câu niệm Phật là những đồng tiền gom góp vào quỹ để chi dùng cho chuyến đi xa ấy”.
* Chúng ta ai cũng cất tiếng khóc chào đời, giữa tiếng cười hân hoan của những người đón mừng ta khi mới sinh. Nhưng ít ai đã có được nụ cười thanh thản lúc phải từ giã cõi đời này, giữa “thân vô bệnh khổ, tâm bất tham luyến, ý bất tiếng khóc tiếc thương của người thiên hạ. Bởi vì, muốn thực hiện được cảnh đó, phải luyện cho thân tâm thường an lạc, để có được tình trạng: điên đảo”, mà nhẹ gót lên đường về cõi Phật.
*
B.- Phái niệm Phật theo Lý tính
Những người niệm Phật thiên về Lý mà còn sơ cơ thường hay phủ nhận sự hiện hữu của cõi Tây phương Cực lạc, coi Phật A Di Đà không phải là một vị Phật lịch sử, và coi Kinh A Di Đà chỉ là một bài học ngụ ngôn. Theo họ thì trong Kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca có dụng ý muốn tạo ra một khung cảnh Cực lạc thế giới ở Tây phương, và nói là có Đức Phật A Di Đà ở đó. Ý Phật muốn dạy: “Chúng sinh nào muốn hết khổ được vui, sống hạnh phúc đời đời, thì phải trở về với Chân Tâm, Phật tính thanh tịnh hay thiện căn của mình, bởi vì tâm con người là cõi Phật, và tâm mình tức là Phật. Chẳng khác nào ông lão nông phu trong bài ngụ ngôn của La Fontaine nhan đề “Le laboureur ét ses enfants”, muốn khuyên các con phải chăm lo làm việc mới được ấm no, đã nói thác ra rằng: trong những ruộng đất hương hoả của tổ tiên để lại có chôn giấu một kho tàng quý giá, nếu chịu khó cuốc bẫm cày sâu những ruộng đất ấy, rồi gieo mạ trồng cây, bón phân tưới nước, bắt sâu, nhổ cỏ… Tuy không tìm thấy kho vàng cất giấu ở đâu nhưng năm nào cũng thu hoạch được mùa màng, thóc lúa, hoa quả đầy kho, đủ ấm no sung túc.
* Để bênh vực cho lập trường của mình, những người tu theo Lý đã đưa ra những lý luận sau đây:
1.- Lý thứ nhất – Theo định nghĩa: Phật A Di Đà là Vô lượng Quang, Vô lượng Thọ và Vô lượng Công đức. Ngài tượng trưng cho bản thể của vũ trụ và nguồn sống của toàn thể. Ngài còn là nguồn ánh sáng vô biên không bị vật gì ngăn cản, che khuất cả. Tóm lại, Ngài là biểu tượng của không gian vô tận và thời gian vô cùng.
– Vô lượng Quang là luồng Linh Quang vô biên giới, hay Phổ Quang Minh biến chiếu khắp nơi: đó là Pháp Giới toàn thân của Đại Nhật Như Lai hay Tỳ Lô Giá Na Phật. Đó cũng là tự tính thanh tịnh viên mãn của tâm Bồ đề, cái Diệu Giác Tâm Chân Như của Phật và của chúng sinh đã giác ngộ, có khả năng hiểu biết tận cùng mọi sự vật trong vũ trụ.
– Vô lượng Thọ là nguồn sống hằng cửu, vô thuỷ vô chung của vạn hữu, tượng trưng cho Chân Như, Phật tính, cái Lương Năng, Lương Tri hay Tự tánh thanh tịnh của tâm chúng sinh, nơi sinh xuất mọi sự, mọi vật trong trời đất.
– Vô lượng Công đức là công đức viên mãn của Phật A Di Đà do công phu tu hành từ vô lượng kiếp bất khả thuyết tạo thành. Ngài thường thị hiện phóng hào quang xuống cõi trần lao để tiếp độ chúng sinh về miền Cực lạc hầu thực thi Bi nguyện của Ngài.
Đó là lối giải thích của phái theo Lý tính. Đức từ bi chính là đức tính của tâm con người giác ngộ biết lân mẫn tới nỗi khổ đau của tha nhân. Với Từ bi vô lượng và Trí tuệ ba la mật thì tâm của người giác ngộ cũng tạo được vô lượng công đức. Với nghĩa Vô lượng Quang, Vô lượng Thọ Vô lượng Công đức thì Phật A Di Đà tượng trưng cho cái Diệu Tâm Bồ Đề, cái Vô Sư trí, tự tri tự giác, hay cái Phật tính của con người khi đã đạt tới giác ngộ viên mãn, hay tới đích Bi Trí Dũng hoặc Chân Thiện Mỹ hoàn toàn, tuyệt đối. Quả báu vô giá này thì chúng sinh với Phật vốn đồng. Phật có Bồ đề, Niết bàn thì chúng sinh cũng có Tâm diệu giác, linh minh và có cõi Tịnh độ ở nơi mình. Chỉ vì quen sống trong cảnh vô minh, bất giác mà chúng sinh quên mất cái vốn vô cùng quý báu ấy. Chúng sinh quên nó thì có nó cũng như không, chẳng khác nào anh cùng tử trong Kinh Pháp Hoa đi khất thực khắp nơi, chẳng hay rằng mình vốn sẵn có hạt Như ý bảo châu giắt trong người. Nhận biết được mình có Chân Tâm, Phật tính và tìm cách trở về nguồn sống linh diệu của bản tâm giờ phút nào thì thành Phật giờ phút đó. Bởi vì chúng sinh với Phật đều có Tâm bình đẳng như nhau nên mới khiến cho người trì danh hiệu Phật A Di Đà được hưởng phần “chiếu” của tâm mình, cùng với diệu quang của Phật A Di Đà dung hoà thành một thể chất với phần “tịch” của Phật A Di Đà, do đó mà những ai được sinh về cõi Cực lạc Tây phương đều có trí tuệ quang minh và thọ mạng lâu dài ngang với Phật A Di Đà không khác.
* Trong quá khứ, Phật A Di Đà còn có tên là Pháp Tạng Tỳ kheo, vị Tăng có bồ chứa pháp. Bởi vì muôn sự muôn vật trong thế gian này đều có hạt giống trong tâm, và do tâm tạo ra, nên tâm con người cùng mang danh là Pháp Tạng (kho tàng chưa muôn pháp). Vậy thì Pháp Tạng Tỳ kheo (hay Phật A Di Đà) và tâm con người (Pháp Tạng) chỉ là một, không hai.
Với những nghĩa trên thì Phật A Di Đà chỉ là một vị Phật tượng trưng cho tâm của người giác ngộ, bởi vì tâm của người ngộ đạo cũng có những đức tính mà Phật A Di Đà mang danh:
1. Sáng suốt vô cùng (Vô lượng Quang)
2. Bất sinh, bất diệt (Vô lượng Thọ)
Linh diệu và công đức nhiệm mầu, có khả năng chứa đựng và sáng tạo các Pháp (Vô lượng Công đức).
Cũng bởi vì Chân Tâm thanh tịnh, nên Chân Tâm được coi như cõi Tịnh độ hay Quốc độ của Phật.
Như vậy thực đã rõ ràng: Phật tức Tâm, Tâm tức Phật. Tâm tức Tịnh độ, Tịnh độ tức Tâm, và niệm Phật A Di Đà tức là niệm Tâm, cầu được vãng sinh về cõi Tây phương Cực lạc tức là mong rũ sạch trần cấu của vọng thức và trở về với Chân Tâm thanh tịnh, bản tính sáng suốt của mình, hay trở về cõi Cực lạc và với Đức Phật của mình, chẳng cần nhọc công tổn sức vượt rừng xanh núi đỏ, lội suối băng ngàn để mong gặp được Phật.
* Trong lịch sử Phật giáo nước nhà có câu chuyện đi tìm Phật ở ngoài tâm. Vua Trần Thái Tông bỏ ngôi báu lên núi Yên Tử xuất gia. Khi gặp Quốc sư Viên Chứng hỏi vì duyên cớ gì mà Ngài lại phải vượt ải tới đây. Vua đáp: “Trẫm chỉ muốn cầu làm Phật, chứ không muốn cầu điều gì khác cả”. Quốc sư trả lời: “Trong núi vốn không có Phật, Phật ở tại tâm ta. Nếu lắng lòng nhìn sâu vào tâm mình thì sẽ thấy Phật. Đã làm vua thì không thể theo ý riêng của mình được nữa. Phải lấy ý muốn của dân làm ý muốn của mình”.
Vâng lãnh lời dạy của Quốc sư, vua Trần Thái Tông đã trở về vương vị, vừa nhiếp chính vừa học đạo, niệm Phật cầu giải thoát. Ngài hiểu rõ lý Phật tại Tâm, và thực hành nhuần nhuyễn lý Bất Nhị, đạo với đời là một.
2.- Lý thứ hai – Theo lý Bất Nhị thì Tâm tức Phật, Phật tức Tâm, Tâm tức Tịnh độ, Tịnh độ tức Tâm. Trong Kinh Duy Ma Cật, để thức tỉnh những ai chưa am tường lý Bất Nhị, còn mang nặng tâm phân biệt nhị nguyên, Phật đã bảo ông Xá Lợi Phất: “Cõi Ta bà của ta đây xưa nay vốn tốt đẹp, thanh tịnh, chỉ những chúng sinh nào còn mang nặng tâm thị phi, phân biệt, mới cho cõi này là xấu xa, nhơ uế. Nếu tâm con người mà trong sạch, sẽ thấy ngay cõi này thanh tịnh, trang nghiêm tuyệt vời”.
* Kinh Lăng Nghiêm có câu: “Đương bình tâm địa, tức thế giới địa nhất thiết giai bình” (Nếu tâm con người mà giữ được luôn luôn bằng phẳng thì khắp mặt đất trên thế gian này đâu đâu cũng bằng phẳng cả).
* Trong Phẩm Như Lai Thọ Lượng Kinh Pháp Hoa có câu: “Người nào dùng tâm thanh tịnh mà muốn thấy Như Lai, thì bất cứ lúc nào và ở đâu cũng thấy được Như Lai, bởi thế mà quốc độ hiện thời chúng sinh đang sống ở đây vẫn thường là cảnh đẹp, trong đó mọi người đều hạnh phúc an vui. Chỉ vì vô minh làm mờ Chân Tâm nên chúng sinh mới thấy trái đất này là nơi khổ cực và nhơ uế”.
* Thế giới Cực lạc do tâm thanh tịnh của Phật A Di Đà thành lập, mà theo lý Bất Nhị thì Tâm, Phật và Chúng sinh đều cùng chung một bản thể chân như. Khi thấy được Phật tại tâm ta, cũng là lúc ta đang thành Phật. Phật đã ở tại tâm thì tâm ta là quốc độ Phật. Niệm Phật A Di Đà hay hướng về cõi Tây phương Cực là là quán Phật và quán cõi Tịnh độ, nhưng tâm ta đã là Phật và là cõi Tịnh độ thì ta phải tìm Phật và kiếm cõi Tịnh độ ở trong ta, nếu hướng ngoại mà vọng cầu Phật hay cõi Tịnh độ ngoài ta là hành động sai lầm của kẻ mê muội.
* Kinh Đại Bát Niết Bàn nói: “Khi tâm đã đạt được Niết bàn thì chẳng còn thấy có Niết bàn nào khác nữa, vì tâm ấy chính là Niết bàn rồi. Nếu ngoài tâm còn thấy Niết bàn khác là mắc phải lỗi ta kiến, và đó chẳng phải là Niết bàn của ta”.
* “Phật ở trong tâm như hương thơm trong cây trầm. Phiền não hết thì Phật hiển lộ, cũng như khi vỏ cây trầm mục thì hương trầm tỏa ra. Ngoài cây trầm không có hương trầm, cũng như ngoài tâm không có Phật. Nếu ngoài cây trầm mà thấy có hương trầm, thì hương đó, chẳng phải của cây này, cũng như ngoài tâm mà có Phật thì đó quyết chẳng phải là Phật của mình, mà là Phật của người khác vậy”.
* Khi nào không còn thấy tướng Năng, Sở đối đãi, không còn thấy cõi Ta bà khác cõi Cực lạc, không còn thấy người niệm Phật khác Phật được niệm, không còn thấy Tâm và Cảnh là hai đối tượng riêng khác, và không còn thấy có Sở đắc nữa, thì hành giả mới an trụ trong Tự tính Di Đà, duy tâm Tịnh độ, bởi vì khi ấy thì hành giả mới liễu ngộ được lý Bất Nhị, và thoát ly được tâm phân biệt nhị nguyên.
* Phái theo về Lý trí cho rằng: Cõi Ta bà cực khổ và cõi Tịnh độ Cực lạc chẳng phải là hai thế giới khác nhau, vì cả hai đều ở trong tâm ta. Tuy phân làm hai nơi, một uế tạp khổ đau, một thanh tịnh, sung sướng, nhưng đó chỉ là nhận định sai lầm của người còn đang mộng và mang nặng Tâm phân biệt: Đối với ai đã hiểu rõ lý Bất Nhị rồi, thì chỉ có một thế giới của tâm mà thôi. Thế giới trong tâm ta có nhiều cảnh. Có lúc trong sáng yên vui, khi nào ta có những tư tưởng cao đẹp, thanh tịnh. Có lúc nó đen tối, sôi sục như biển đang dâng, khi nào các ác tưởng thi nhau đến cào xé, cấu nát trái tim ta. Như vậy, chẳng cần nhọc công đi xa hàng ngàn dậm đường để tìm nơi Cực lạc và lẩn tránh cõi Ta bà, mà chỉ cần thay đổi tư tưởng của ta là đủ. Sự thay đổi tư tưởng có thể thực hiện được chỉ trong một sát na, nhanh hơn cả tốc độ của ánh sáng. Với tâm thanh tịnh, tuy sống giữa cõi trần ai, mà ta vẫn an vui, tự tại. Với tâm nhiễm ô, dù ở cõi Tịnh độ mà ta vẫn cảm thấy buồn phiền, trói buộc. Người ở phương Đông hay người tại gia mà tâm thanh tịnh, vẫn được an lạc, giải thoát, còn người ở phương Tây hay người xuất gia mà tâm tham lam, ích kỷ, chứa đầy phiền não, sân si, thì lúc nào cũng thấy khổ sở, trói buộc. Ở chợ, ở nhà mà tâm thanh cao, cũng như người ở phương Đông mà tâm hướng thượng. Ở chùa, ở nơi vắng vẻ, cô tịch, mà chẳng chịu dưỡng tính, tu tâm, cứ để ngọn lửa Tham, Sân, Si bùng cháy, thiêu đốt tâm can thì có khác nào người ở phương Tây mà vẫn mang dạ hiểm độc, hung ác? Vậy thì cần giữ cho tâm lúc nào cũng trong sạch, tịch tĩnh là đủ. Ta ở nhà, ở chợ mà vẫn giữ được tính ôn hoà, nhẫn nhục, đó là ta đã thực hiện được cái Tâm vô tướng vô tác, vô nhiễm, vô cấu tạo cho mình những đức tính Từ, Bi, Hỷ, Xả. Nếu ta không phân biệt nhân ngã, ghét yêu, trên dưới một lòng kính yêu, nhún nhường, thì mọi điều lầm lỗi của ta đều tiêu trừ mà xoay ngược luồng nhãn quang về phía nội tâm, ta sẽ thấy chân tính của mình và hái được quả Bồ đề vô thượng.
Bàn về lý Tâm tức Phật, Phật tức tâm, một Thiền sư có để lại bài Kệ như sau:
Thân, khẩu, ý thanh tịnh,
Thị danh Phật xuất thế,
Thân, khẩu, ý bất tịnh
Thị danh Phật diệt độ.
Tức Tâm thị Phật, vô dư pháp
Mê giả do ư tâm ngoại cầu
Nhất niệm khuếch nhiên quy bản tế
Hoàn như tẩy cước thượng thuyền đầu.
(Thân, khẩu, ý thanh tịnh,
Đó là Phật ra đời.
Thân, khẩu, ý bất tịnh
Đó là Phật diệt độ.
Tâm tức là Phật, không gì khác,
Kẻ mê giong ruổi, ngoại cầu tầm.
Một niệm giác tâm về cõi Phật.
Ví như chân rửa ở đầu thuyền).
Hình ảnh một con thuyền rẽ nước, tạo thành hai luồng sóng bọt ngầu. Khi sóng yên, nước lặng trở về một khối. Cũng ví như tâm động nhiễm ô, đã được Định rửa sạch và trở về trạng thái thanh tịnh của Chân Tâm, nói lên cái diệu ý Phật tức Tâm, Tâm tức Phật, không khác.
* Phật với Tâm tuy hai mà một, tuy một mà hai. Bởi vì lìa Tâm không Phật, lìa Phật không Tâm, cũng như lìa nước không sóng, lìa sóng không nước. Lìa tâm không Phật nghĩa là lìa bỏ bản thể Chân Không của Tâm mà chấp vào các hình tướng do tâm tạo ra, thì tâm không thanh tịnh, bởi vì tâm vọng động đuổi theo hoàn cảnh, do đó không thấy được Phật, chỉ khi nào biết bản thể của Tâm vốn Không thì lúc đó mới thấy được Phật. Lìa Phật không Tâm nghĩa là Phật từ tâm sinh ra, có tâm mới có Phật, không Phật thì không tâm. Chỉ khi nào tâm vắng lặng, thanh tịnh, không vọng động thì Phật mới xuất hiện, tuy Phật vốn tiềm ẩn trong tâm.
3. – Lý thứ ba – Niệm Phật là phương pháp mầu nhiệm để thành Phật. Nhân tâm hiếu tĩnh, nhưng trong cái tĩnh ấy lại hàm chứa những mầm hiếu động, nhiễm ô. Phần cao thượng thiêng liêng trong con người chỉ muốn được yên tĩnh, tự do, cố vươn lên đỉnh cao thanh tịnh để siêu thoát, nhưng các ý tưởng sai lầm, ô trược lại muốn lôi kéo con người xuống vũng lầy khổ đau, tội lỗi. Vậy ta phải tìm cách để điều khiển thân tâm ta, không để cho xác thân lệ thuộc vào Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc đưa ta vào vòng tội lỗi, cũng không để cho tâm bị sa ngã vào lưới đam mê. Nếu ta biết cách điều khiển được tâm ta phải tùng phục, bất động thì chân tâm thanh tịnh, hay những đức tính thuần lương của ta lúc bẩm sinh, hoặc Đức Phật A Di Đà ở trong ta sẽ xuất hiện. Vậy muốn được về cõi Tịnh độ hay muốn trở về với Chân Tâm thì điều kiện tất yếu là phải Định Tâm, và cách Định Tâm tốt nhất là niệm Phật. Bởi vì danh hiệu Phật là những chủng tử Từ, Bi, Hỷ, Xả khi được gieo vào mảnh tâm điền, sẽ có tác dụng thay đổi tiến trình sinh nở của những chủng tử xấu, ác, tích luỹ nơi đó từ vô số kiếp. Hạt giống Phật dồn chứa trong Đệ bát Thức được huân tập huân trưởng như đống than hồng chứa trong lò than, đến một thời điểm nào đó, than nóng đến cực độ, ngọn lửa sẽ bùng cháy sáng ngời trong tâm của hành giả và đạo quả giải thoát sẽ thành tựu nơi y.
* Trong Pháp Bảo Đàn Kinh, Tổ Huệ Năng dạy: “Nếu ta biết được chúng sinh tính trong lòng ta thì cũng ngộ được Phật tính ở trong ta”: Muốn thành Phật, phải biết chúng sinh tính. Đó là những ác tưởng, nết hư tật xấu đầy rẫy trong ta. Nếu bất cứ lúc nào biết rõ chúng sắp sinh ra mà chặn được chúng kịp thời, đó là sự thành công bước đầu của ta trên đường trở về nẻo giác. Muốn diệt trừ chúng sinh tính ta phải nhờ đến trí huệ sáng suốt buộc tâm mình vào chính niệm bằng câu niệm Phật, không để cho tâm, ý tự do buông lung trong tà niệm.
* Càng sống lâu ta càng tiếp xúc với nhiều hoàn cảnh buồn, vui, trái tai gai mắt, làm mờ ám mảnh gương lòng trong sáng ban đầu. Tu là tìm cách trở về ngọn nguồn thanh tịnh của tâm ta. Ta phải xét rõ lòng mình để biết đâu là cặn, là nhơ. Biết được tà kiến sai lầm, hiểu được những gì là thấp hèn, vị kỷ, ta phải cố tránh. Sống trong cuộc đời tương đối, nhưng lúc nào cũng phải hướng thượng để tìm cách được giải thoát, đó là lý tưởng mà ta nên noi theo. Ta phải luôn luôn nhớ rằng Tính ta vốn thiện, Tâm ta vốn trong sáng, có như thế ta mới tìm về đường ngay, lẽ phải, tìm về giác ngạn hay về xứ Phật. Mắt nhìn hình sắc mà không nhiễm đẹp xấu, tai nghe âm thanh mà chẳng nhiễm trước thanh thì đó là mắt và tai Phật. Thấy được tính của Sắc, Thanh là giác ngộ, giải thoát. Nếu chỉ thấy tướng của Thanh, Sắc là bị trói buộc, si mê. Ta phải cố đạt tới cái “Tâm vô kỳ tâm, vật vô kỳ vật” để chẳng thấy gì cả mới tới được trạng thái trong sạch của nội tâm. Ta phải đem cái tâm trong sạch ấy để tiếp vật, “ngoại quán kỳ hình” để không còn thấy cái đẹp, xấu bề ngoài và phân biệt cái hay, dở của thiên hạ. Lúc đó ta mới trở về được với ta, thay vì trông nhìn ngoại cảnh mà lại nhận rõ “bộ mặt xưa nay” của mình. Cái tâm khi đã thấy “vật vô kỳ vật, hình vô kỳ hình” mới là cái tâm giác ngộ hoàn toàn, chẳng còn vui buồn, yêu ghét, quên hẳn cái Ta.
Đối trước tâm mà không thấy tướng tâm, trước cảnh mà không thấy tướng của cảnh mới là thấy đạo. Khi mê còn thấy có Phật, có Pháp, lúc đã ngộ, chẳng thấy có Phật, có Pháp nữa. Khi mê còn thấy có thế gian cần phải thoát ly, lúc ngộ chẳng còn thấy nơi nào phải thoát ly ra cả. Khi mê còn bị không gian và thời gian ràng buộc, lúc ngộ thì không gian, thời gian không còn khống chế được mình nữa. Ngộ là cứu cánh Niết bàn, ngoài ra chỉ toàn là phương tiện, kể cả Phật Pháp. Muốn đạt được cái tâm thanh tịnh ấy thì phương tiện tốt nhất là niệm Phật A Di Đà với tâm bất loạn.
Có ba đường lối niệm Phật tương đương với ba Tính trong Duy thức học hay ba Căn của người tu:
a) Nếu dùng niệm Phật làm phương tiện để mưu cầu phúc báo, mong được về cõi nhân, cõi Thiên, thì đó thuộc về Biến kế sở chấp tính hay Phi lượng của hàng hạ căn chưa hiểu lý thâm diệu của pháp môn niệm Phật.
b) Nếu quan niệm việc niệm Phật là phương tiện để nhiếp ý, an Tâm, diệt trừ vọng thức điên đảo và nuôi dưỡng chính niệm, để trở về với Chân Tâm, Phật tính của mình, đó thuộc về Y tha khởi tính hay Tỷ lượng của hàng trung căn, vẫn chưa phải là quan niệm chân chính của pháp môn trì danh hiệu Phật vì người tu còn mang nặng tâm nhị nguyên, năng niệm và sở niệm phân biệt.
c) Nếu thấu hiểu rằng: Niệm Phật cốt để thành Phật, chứ không nhằm đạt mục tiêu được sinh về cõi Tây phương Cực lạc, hưởng hạnh phúc đời đời, hoặc diệt trừ vọng niệm, ác tưởng để thanh tịnh hoá tâm mình mà thôi, thì đó mới chính là mục tiêu tối thượng của việc trì danh hiệu Phật, và cũng là thể hiện được Viên Thành Thực tính.
Bởi vì pháp môn niệm Phật hội đủ cả Phúc lẫn Trí, thấy rõ Chân tướng Vô tướng của mọi pháp thế gian và xuất thế gian hiển bày được Chân Tâm Phật tính của Hiện lượng. Người theo đường tu này thuộc hàng Thượng căn, Thượng trí, khi mới khởi động niệm Phật, tức ý niệm về thời gian và không gian tan và khi luồng nhãn quang đã soi tỏ nội tâm thì tuy có tướng mà lìa tướng, tuy có Niệm mà Vô niệm, Sắc tức Không, Không tức Sắc, và ngay lúc đó hành giả sống trong Chân như, Niết bàn hay trong chân thể bản giác ly niệm, ở vào thể tính giác ngộ của Phật. Thân của hành giả lúc đó là Phật thân, tính của hành giả lúc đó là Phật tính, hành giả niệm Phật với tính Viên Thành Thật hay với tâm vô phân biệt, và tấm gương lòng Đại Viên Cảnh Trí của người ấy hiển bày sáng suốt. Trong đó Y báo và Chính báo ảnh hiện trong cảnh Chân Không Diệu Hữu.
* Sự thành Phật bằng phương pháp niệm hồng danh Phật A Di Đà là do quả báo đạt được bởi sức kiên trì tu tập vượt bậc của ta chứ không ai thay thế được, cũng chẳng ai ban thưởng cho ta.
* Theo cách tu thì dùng âm thanh mà quán niệm là phương pháp hay nhất. Đó là phương tiện mà Bồ tát Quán Thế Âm đã áp dụng, được Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ tát cân nhắc, chọn lựa trong số 25 lối tu khác, khi Ngài trình bày trước đại hội Lăng Nghiêm, cho đó là phương pháp xảo diệu, thích hợp nhất đối với hàng sơ cơ. Dùng cách “Quán Niệm Âm Văn” là dựa vào Nhĩ căn viên thông, kết hợp nhĩ căn với thanh trần, cùng ý thức, tưởng tới hình tượng Phật và cảnh giới Cực lạc trang nghiêm. Cùng một lúc ba căn thân, khẩu, ý trong sạch thì phát sinh diệu dụng thần thông để thực hiện được cái lý “Tức thân thành Phật”, hay “Tự Tính Di Đà” của mình. Trình tự của cách “Quán Niệm Âm Văn” để chuyển vọng thức thành chân tâm như sau:
1/ Bước đầu, hành giả giữ cho tâm trụ vào âm thanh của tư tưởng mình. Tâm định mãi cho đến khi không còn thấy cái tiếng nghe nữa. Ở giai đoạn này cái tính năng nghe không khởi vọng niệm phân biệt nên cái Thanh trần (Sở nghe) tự vắng lặng. Tuy đã diệt trừ được cái Sở nghe, nhưng cái “Năng nghe” còn tồn tại. Tâm phân biệt không còn, nhưng còn nghe.
2/ Giai đoạn 2 – Tuy đã hết nghe, nhưng vẫn biết là hết.
3/ Giai đoạn 3 – Tuy “hết biết hết” nhưng vẫn còn cái không.
4/ Giai đoạn 4 – Hết “Không” thì Chân Như hiển bày, tức trong Chân Không có Diệu Hữu. Khi đó thì hành giả vượt tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian.
Tóm lại, có tiếng nói của tư tưởng thì mới động tâm. Khi tâm không chạy theo tiếng nói của tư tưởng nữa, thì tâm được tịnh. Ở trạng thái này thì không còn nghe thấy tiếng nói của nội tâm nữa, như vậy thì tâm không vọng động nữa, vì không thấy tiếng nói của tư tưởng (hay của nội tâm) nữa, không còn phân biệt là động hay tịnh nữa, do đó hai tướng động, tĩnh chẳng sinh ra. Có động mới có vọng. Có vọng mới phải định, nếu không còn vọng động thì Định cũng không cần thiết nữa.
Lại tu tập thêm để đạt tới tâm trạng trong đó hành giả không còn phân biệt “chẳng phải là động, chẳng phải là tịnh nữa”. Được như vậy là thành tựu cái “tính năng nghe”, và cái tướng “sở nghe” đều diệt. Nhưng hành giả cũng không trụ mãi ở đây, vì vẫn còn tâm phân biệt, lại phải tiến thêm bước nữa để diệt luôn cái tính “năng nghe”, và cái tướng “sở nghe”. Nghe là để Giác, nhưng ở chỗ giác lại còn phân ra nào là tính năng giác và tướng sở giác nên tâm còn phân biệt. Phải vượt lên trên chỗ phân biệt này, mới tới chỗ gọi là “không giác”. Nhưng vì “không giác” còn là ý niệm đối lập với “có giác” vì vậy mà lại phải vượt lên trên chỗ “không” nữa để đạt tới “trung đạo”, không phải Có cũng chẳng phải Không, đó mới thật là không còn tâm phân biệt, vọng động, năng sở và bỉ thử nữa. Đó mới thật là Chân Như hay Chân Tâm, tâm trạng “sự sự vô ngại” ở chỗ mà mọi sự vật không còn ngăn ngại được tánh quán nghe của người đắc đạo, do đó mới thành tựu được những việc khó làm, để cứu khổ chúng sinh, mà người thường không làm nổi xuyên qua Pháp Quán Nghe. Hành giả khi đó chứng được bản tâm vô ngại diệu giác của mình, mà trong kinh gọi là “Sinh diệt, diệt dĩ, tịch diệt vi lạc” được sống trong hạnh phúc tự tại thanh tịnh của bản tâm.
* Phần đông chúng ta thường quan niệm rằng: việc thành Phật quá khó khăn, chúng sinh nhiễm đầy tội lỗi, nghiệp chướng sâu dầy, thành Phật sao được? Sự thật, không hẳn thế, bởi vì Phật với chúng sinh đều cùng thành tựu công phu tu tập nhờ Quán và Niệm. Người niệm Phật, mắt lúc nào cũng không rời hình tượng Phật, thân lễ lạy Phật, và tâm tưởng tới Phật, ngày đêm chăm lo đạt tới mục tiêu thành Phật, thì ngay ở nơi đây và trong lúc này hành giả đang và đã thành Phật rồi, chẳng phải đợi đến kiếp lai sinh.
* Nguồn gốc của các pháp là tâm, vốn bình đẳng, vô phân biệt và vô sai biệt. Vì vô minh nên chúng sinh mới có những tư tưởng phân biệt nhị nguyên, coi tâm, vật, chủ, khách, Ta bà, Tịnh độ … khác biệt nhau, không biết rằng tất cả đều chỉ là bóng dáng của tự tâm. Tình trạng mê mờ đó xảy ra khi chúng ta chưa thấu triệt được lý Bất Nhị và không chịu sống theo chân lý ấy. Tướng của khổ đau nguồn gốc ở “Không”, nơi bản tâm thanh tịnh. Muốn diệt trừ khổ đau không thể tìm nguồn gốc khổ đau ở ngoại cảnh mà phải hướng về nguồn tâm để thanh lọc các mầm bất tịnh trong lòng ta như tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến …và gieo vào tâm điền những hạt giống Bồ đề, an lạc như danh hiệu Phật và Bồ tát, cùng những hình ảnh đẹp đẽ trang nghiêm, có như thế ta mới làm cho tâm ta trở về trạng thái Niết bàn thanh cao.
* Cùng một lúc không thể có hai loại tư tưởng phát sinh trong tâm ta, cho nên niệm Phật và quán tượng Phật A Di Đà trong khi đi, đứng, ngồi, nằm là phương pháp an tâm tốt nhất, vì tâm được trụ vào hình tướng trang nghiêm của Phật. Lấy sáu chữ hồng danh làm chủ để xua đuổi mọi tạp tưởng đến quấy phá thì loại bỏ được những vọng niệm để Tâm luôn luôn được an lạc. Bởi vì còn gì tốt đẹp, thanh cao bằng hình tượng Phật? Hễ gieo nhân nào thì được hái quả ấy, nên người chuyên niệm Phật dần dần đi sâu vào bản thể thanh tịnh của tự tâm và nhận thấy các đức tính từ bi, bình đẳng của Phật tính mình.
* Khi nào ta lâm vào hoàn cảnh khổ đau, tuyệt vọng, ta lê gót phong trần, chán nản tới một ngôi chùa tịch mịch, rồi ngồi lặng lẽ, đối diện những pho tượng từ bi và những đỉnh trầm khói hương nghi ngút, ta để tâm tư vào những câu niệm Phật, cầu nguyện, nghe tiếng mõ trầm trầm nhỏ giọt thấm dần vào đáy lòng héo khô, lúc đó ta mới cảm thấy mùi vị cam lộ của đạo mầu và tinh thần căng thẳng của ta lúc đó chùng xuống, vơi bớt ưu phiền. Những lúc đó, chính các tư tưởng đen tối tới bủa vây làm cho ta sầu muộn, và cũng chính là lúc mà các tư tưởng chính đại, quang minh đến giải vây, làm cho ta giải thoát khỏi mọi xiếng xích, chứ chẳng có ma quỷ nào đến ám hại, cũng chẳng có Thánh Thần nào đến cứu vớt ta cả. Thân lễ lạy, miệng niệm Phật, tâm luôn luôn tưởng tới Phật, ba thứ đó kết hợp lại tạo thành một sức mạnh khả dĩ phá tan mọi ác tưởng và đem lại cho ta niềm an lạc, giải thoát. Thân, khẩu, ý trong sạch gây được nhân lành có khả năng giải trừ được tư hoặc và kiến hoặc, làm cho ta thoát vòng tử sinh. Bởi vì tâm ta là nguồn sinh ra chư Phật Bồ tát, và cũng là tác giả của ác quỷ, ma vương. Những tư tưởng tốt lành, được ý chí tự do hướng dẫn đưa ta tới Niết bàn, Tịnh độ. Những tư tưởng ác độc đen tối, do ý chí mù quáng điều khiển, lại tạo sức mạnh lôi kéo con người xuống hố sâu tội lỗi, buộc phải ra vào sáu ngã luân hồi. Tất cả, suy ra đều do tâm tạo cả. Kết quả tốt xấu đều tuân theo luật nhân quả tự nhiên.
* Niệm tự tính Di Đà, sinh duy tâm Tịnh độ
Ta phải nhớ đến tính Phật của ta và phải hướng về cõi Tịnh độ trong lòng ta. Chúng ta đều có đầy đủ trong lòng cái linh quang của Phật A Di Đà. Chỉ vì mải mê đuổi bắt những bóng hình ảo ảnh, phù du, mà ta cứ quẩn quanh mãi không sao thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử. Bởi nhiễm phải các ác tưởng nên ta mới bị nghiệp báo, luân hồi trói buộc và che mất luồng ánh sáng vô tận, và ngăn che nguồn sinh lực vô biên của ta. Tuy sẵn có trong ta viên bảo châu Như ý là Phật tính, Chân Tâm, nhưng ta lại không thấy cái lý Duy Tâm Tịnh độ, như vậy ta chẳng khác nào anh chàng cùng tử trong Kinh Pháp Hoa, có ngọc báu dắt trong mình mà vẫn tha phương cầu thực. Tự tính A Di Đà tức là Chân Tâm, Phật tính của ta. Tâm và Tính là hai danh từ đồng nghĩa cùng chỉ cái tính bất diệt, hay bản thể của vạn vật. Tâm và Tính đã chẳng khác nhau, thì khi nhận ra tính mình là tính Phật, ta cũng phải hiểu rằng mình có khả năng thành Phật, mình là Phật đang thành và Di Đà là Phật đã thành. Nếu ta chịu khó rèn luyện tâm tính và ấp ủ những đại nguyện của Phật A Di Đà, cố gắng thực thi những nguyện thanh tịnh của ta, thì một ngày kia ta sẽ thành Phật A Di Đà không sai. Với phương pháp hồi quang phản bản, người tu trực giác tâm linh, đạt tới mục tiêu tự tri tự ngộ, và chứng được Chân Tâm, Phật tính của mình, thấy rõ then máy huyền vi của Sự sự vô ngại Pháp giới nhận được lẽ Tâm Phật nhất như hay Cảnh Tâm bất nhị. Dùng chữ Tịnh độ chỉ cho Bản thể thanh tịnh và dùng danh hiệu Phật để chỉ đức từ bi và sáng suốt của tâm là đứng trên lập trường bản thể tuyệt đối làm cho ta nhớ rằng Tính của ta là Tính Phật, đất Tâm của ta trong sạch như cõi Phật, và ta phải chịu khó trau dồi làm sáng tỏ cái đức sáng của tâm ta. Những gì ghi trong Kinh A Di Đà đều do thực tướng Bồ đề của tâm Phật và tâm chúng sinh đồng tạo ra. Trên nguyên tắc thì chỉ có một cái tâm duy nhất cái Thiên Địa chi Tâm ; tâm Phật và tâm chúng sinh là một, chỉ khác nhau ở chỗ mê và ngộ mà thôi. Khi mê thì tâm còn bám giữ những tư tưởng đen tối, phân biệt nhân ngã, bỉ thử. Ngộ rồi thì thanh lọc được bùn nhơ trong lòng mình và tâm trở nên trong sáng, đó là tâm Phật. Tâm Phật với tâm chúng sinh ví như nước trong chai lọ với nước ngoài biển khơi. Đem tâm chúng sinh hoà với tâm Phật, chẳng khác nào đổ nước trong chai lọ vào biển. Lúc trước là hai thứ nước riêng biệt, nay trở thành một thứ, nên mới bảo là thành Phật quả. Nhưng muốn đạt đượt kết quả như vậy thì hai thứ nước phải trong sạch như nhau. Nước tâm của chúng sinh trước kia vẩn đục, nay muốn hoà với nước tâm của Phật thì phải gạn lọc, lóng trong, làm cho hết cặn nhơ, tức phải để cho nó yên tĩnh, hay phải Định tâm bằng phương pháp tham thiền, quán tưởng hoặc niệm Phật, tránh cho tâm khỏi bị luồng gió thổi xuôi, thổi ngược là: Lợi, dự, xưng, lạc, ai, huỷ, cơ, khổ, làm cho tâm lung lay xao xuyến.
* Phật với chúng sinh như nước với sóng, Thể với Dụng, dung thông nhau. Nếu lấy Mê và Ngộ mà chia rẽ hai đường Thánh, Phàm thì không hiểu được câu: “Sinh, Phật đồng nguyên”, hay “Vạn vật đồng nhất thể”.
* Theo Kinh Lăng Già thì Tâm, Phật và chúng sinh cùng làm ảnh, chất lẫn cho nhau. Thức A lại da của người tạo ra các pháp, giống như một tấm gương vĩ đại chiếu soi vạn vật. Vạn pháp trong tam giới ví như những hình bóng hiện ra trên mặt gương Đại Viên Cảnh Trí khổng lồ ấy. Chất gương của Thức A lại da chỗ nào cũng có vì tấm gương ấy vô giới hạn, bởi thế mà Phật ở trong tâm của chúng sinh, và chúng sinh cũng ở trong tâm của Phật. Tuy ở trong tâm của nhau song lại không hề dính nhau, cũng như hình bóng trên mặt gương không dính vào chất gương bên trong.
* Phật là hiện thân của lý Giác ngộ tuyệt đối, cho nên hễ năng niệm Phật với tâm bất loạn, không còn tướng Năng, Sở niệm, ngoài cái tâm tròn đầy chính niệm, thì lúc đó cái tâm giác ngộ vô lượng vô biên của hành giả, cùng cái Thể Chân Như của Pháp giới, khi đã hợp nhất với nhau và hiển bày cái Pháp giới tính tuyệt đối bất nhị thì tâm Bồ đề của hành giả tự nhiên khai. Bởi vì lúc niệm thì tâm của hành giả đã lìa mọi sai biệt và phân biệt, ly khai mọi vọng tưởng xa cách, và cùng với sự giác ngộ về bản thể chân như hợp thành một khối. Tâm Phật và tâm chúng sinh không khác nhau trên mặt bản thể, nhưng mặt sự tướng thì tạm thời có sai biệt về trói buộc và giải thoát, mê và ngộ khác nhau. Tuy sẵn có Phật tính hay thể tính Di Đà trong lòng, nhưng vì vô minh làm mờ ám nên đối với thể tính Di Đà hình như có vẻ bất đồng, nhưng sự thật thì chẳng có gì khác nhau cả. Có khác chăng thì bởi chúng sinh sống trong vòng tương đối phân biệt, cái gì cũng so sánh tốt, xấu hơn kém nên mới thấy chênh lệch khác nhau. Nói “Đồng” vì bản thể chỉ có một, nói “Khác” vì chúng sinh còn phải dày công tu tập để đoạn “hoặc” chứng “chân”. Nếu biết ta đồng một thể tính với Phật A Di Đà thì phàm cái gì Phật có, ta cũng có, và muốn được bằng Phật A Di Đà thì ta phải siêng năng tu tập để hiển bày cái thể tính Di Đà mà ta sẵn có.
“Chúng sinh độ Phật, Phật độ chúng sinh”.
“Chúng sinh độ Phật” tức là phiền não phát sinh Bồ đề.
“Phật độ chúng sinh” tức là Bồ đề diệt trừ phiền não.
Khi mê thì Phật độ chúng sinh, lúc ngộ thì chúng sinh độ Phật, vì Phật không tự nhiên thành mà phải do chúng sinh mới thành được Phật. Phật lấy vô minh làm Cha, lấy tham, ái làm Mẹ. Vô minh và tham ái đều là chúng sinh tính, phải có chúng sinh tính mới có Phật tính. Phật không thể có nếu không có chúng sinh. Tâm nhiễm đầy ba độc tham, sân, si thì còn ở cõi trần ô trọc. Tâm thoát khỏi ba độc thì ở Tịnh độ đạo tràng. Tâm ích kỷ, gian tham, bất chính thì ở địa ngục, Ta bà. Tâm chứa đầy thú tính ác độc là súc sinh đang rình mồi, chực nuốt sống ăn tươi kẻ khác hay đang chịu cực hình. Tâm dự tính làm điều thiện là Thánh, Hiền, Bồ tát, Phật đang ở trong cảnh an lạc, thanh cao.
Phát sinh ra tuệ giác thì hoá sinh ở Thiên giới. Lòng đầy tham vọng thì đoạ vào Địa giới, phàm tục. Tuy chỉ có một tâm mà khi thì tạo Thiên đường, lúc lại tạo địa ngục. Người thường hay nghĩ rằng: luân hồi, sinh tử là đổi thay thể xác, hết làm loài nọ lại làm loài kia, ít ai hay rằng: luân hồi, sinh tử còn là sự đổi thay tâm tư, nguyện vọng, lối sống, cách nhìn, và như vậy thì chúng ta đã luân hồi, sinh tử từng phút, từng giây, đâu có cần phải đợi tới kiếp sau !
Cùng một xác thân mà mỗi lần thay đổi tư tưởng lại là một lần sinh tử, luân hồi. Xác thân chỉ là cái vỏ bề ngoài mà tư tưởng tạm mượn làm chỗ gá nương để phát huy năng lực. Tư tưởng đổi thay từng sát na và mỗi sát na là một kiếp. Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh là những quả do các ác tưởng tạo ra. Mỗi luồng tư tưởng là một đời sống, một cảnh giới, một bộ mặt, một nhân cách, một quả báo, một năng lực, một tác dụng… khác nhau. Đối với người coi các tư tưởng luân phiên thay đổi, tạo ra những cảnh tử sinh trong hiện kiếp, thì giải thoát tức là gieo những mầm lành, và diệt các mầm ác trong tâm tư, và bị xiềng xích trói buộc tức là buông thả lòng mình để những thú tính tha hồ lộng hành chi phối. Lúc ta đang suy tính để làm một việc gì là thời điểm đấu tranh giữa hai luồng tư tưởng thiện ác trong lòng để gây ra quả tốt lành hay cay đắng. Nếu bình nhật ta có thói quen chiến thắng được những trận giặc lòng và điều phục được những ác tưởng, thì khi lâm chung ta sẵn có thói quen thắng được chúng dễ dàng và có được một Cận tử nghiệp tốt, tạo điều kiện cho kiếp sau được nhiều hạnh phúc. Vì chưa thấu triệt được lý Vô ngã, Vô thường, Tứ đế và Duyên sinh, nên ta bị phiền não trói buộc. Tính chất của phiền não là vô minh làm cho con người chỉ nghĩ tới mình, vun đắp cho cái Ta, dựng lên những hàng rào giữa Ta và Người, cùng ngoại cảnh và tâm, do đó nên mới phân biệt, ích kỷ, tranh chấp và khổ đau. Tính chất đáng ghét của Vô minh và Ngã chấp là ngăn cản ta và người không cho thông tỏ lẫn nhau, để không nhập được vào bản thể đồng nhất của vũ trụ. Cách phá chấp hiệu nghiệm nhất là vun trồng những tư tưởng trong sáng, vị tha, cao thượng, xa lìa các ác tưởng, vị kỷ bằng phương pháp quán tưởng Phật và niệm Phật, hướng tâm về nơi thanh tịnh, Niết bàn, tức là tìm về nguồn sống an lành trong sáng của tự tâm.
Nhất thiết duy tâm tạo.
Tâm ví như mảnh gỗ hay phiến đá, ta có thể khắc vào đó một cảnh tượng tuỳ theo ý muốn. Nếu ta tạo hình một con beo hay con cọp nhe nanh, giơ vuốt, mắt trợn tròn xoe thì khi nhìn thấy con thú quá dữ tợn, ta đâm hoảng sợ con vật do chính ta tạo ra. Có khác nào kẻ mê muội hoảng sợ địa ngục do anh ta tưởng tượng. Tâm trí ta tạo ra âm thanh, hình sắc, mùi vị, hương thơm… do đó ta mới đắm say, thèm khát, bám giữ hoặc ghét bỏ. Thế là đã gieo nhân để tạo quả cho mình hưởng thụ. Nếu ta biết rằng bản thể của tâm rỗng lặng thì ta chẳng còn lưu ý đến vũ trụ nữa, chẳng còn tham sống sợ chết, sợ cảnh nghịch khó tu, ưa cảnh thuận dễ chứng, vì ta đã phá được ngã chấp và pháp chấp, nhận thấy rõ những hình ảnh do tâm tạo ra chỉ là ảo giác. Khi đã nhận chân bản thể của tâm là “Không” thì biết ngay rằng những hình ảnh như hùm beo, rắn rết, ma quỷ, quái vật, địa ngục, thiên đường, những cảnh Tịnh độ, Ta bà, những cảm giác sướng, khổ, buồn, vui cho đến những pháp phương tiện để tu và những quả đã chứng, tất cả chỉ là ảo huyễn, do đó ta hết lo sợ, buồn vui yêu ghét, mong cầu, và hết tất cả những tư tưởng giải thoát, trói buộc. Ngôn ngữ và danh từ xuất phát từ cải tâm đa đoan ấy cũng hết ý nghĩa và không cần thiết nữa. Trong thế giới hữu hình cũng như vô hình, người ngộ đạo xử lý mọi việc một cách hồn nhiên, tự tại, bởi vì tâm của họ không còn bị lệ thuộc vào hình tướng nữa, họ đã trở về với chân tâm và sống theo cái lý “vật ngã đồng nguyên”. Con người khi ấy tuy vẫn sống, vẫn hiểu biết đủ điều, nhưng không còn sống với xác thịt và tình cảm nữa, mà sống với tâm siêu thoát, lâng lâng, không còn sống cho riêng mình mà sống vì thiên hạ. Tuy vẫn chung đụng với đời nhưng lại thoát ly mọi hệ luỵ triền phược của danh lợi, sắc tài của thế gian. Khi ấy thì tha hồ hành giả khuếch trương cái Ngã cho thật to lớn, từ cái Ngã cá nhân bành trướng thành cái Ngã gia đình, đoàn thể, xã hội để trở thành cái Ngã to lớn của nhân loại, vũ trụ đại đồng. Lúc đó thì tâm của hành giả là tâm Phật, mắt của hành giả là Phật nhãn, không còn thấy có ta, có người, vật nọ vật kia nữa, mà chỉ còn thấy cái “Nhất Chân Pháp Giới”.
Tâm của hành giả là “Thiên Địa chi Tâm”, không còn ranh giới giữa tâm và cảnh nữa, chỉ còn thấy “Một là Tất cả, Tất cả là Một”, thấy cái bản thể duy nhất của vũ trụ bao la, và nhận rõ được Phật tính ở trong muôn vật, bình đẳng vô phân biệt và vô sai biệt, thấy rõ cái chân lý Bất Nhị và “Sự sự nhất thiết vô ngại”.
* Phương pháp để phá Ngã nhỏ bé của mình mà hoà nhập vào cái Ngã của thiên địa đại đồng là quán niệm Phật A Di Đà và cảnh giới Tịnh độ Tây phương, ở đó mọi người đều chung sống bình đẳng, hạnh phúc. Bởi vì với phương pháp Quán Niệm Phật thì hành giả đập tan được cái vỏ ngũ uẩn để cho nước tâm của ta bị nhốt trong các lọ chai bịt kín được giao hoà với nước tâm của vạn hữu mông mênh của biển cả. Lúc đó thì không còn phân biệt đâu là nước trong chai lọ, và đâu là nước của trùng dương bát ngát nữa. Niệm Phật với tâm bất loạn là chẳng còn nghĩ gì đến sự việc ở đời nữa. Đã quên thân mình chẳng tưởng tới thì nói chi đến muôn sự muôn vật ở đời? Tuy nói là quên hết nhưng vẫn còn một cái nhớ, vì đó là biết mình đang niệm Phật và đang ở trong chánh niệm.
* Cảnh đời là giả tạo. Để đối phó với cảnh giả tạo ở đời ta phải mang những mặt nạ giả, dùng cái tâm giả rồi trở thành con người hoàn toàn giả, để diễn xuất những vai tuồng trên sân khấu của cuộc đời giả dối. Nếu ta biết rằng những tình cảm vui buồn, ghét yêu, ham muốn, sợ hãi, giận hờn, làm cho ta đắm say sắc tài, danh vọng, giấc ngủ, miếng ngon là những thứ do lục căn, lục trần làm cho ta quên mất cái tâm thật (chân tâm), bộ mặt thật (bản lai diện mục) và con người thật của ta (chân ngã) thì mình phải tìm cách tháo gỡ ngay những thứ giả dối đó để trở về với cái chân thật của ta. Hiểu được chân tâm, vọng tâm, tâm tịnh, tâm động, bản thể và hiện tượng, ta sẽ hiểu được đâu là Tịnh độ, Niết bàn, đâu là Ta bà, địa ngục. Bến Giác là nơi tĩnh lặng của bản thể Chân Tâm, mà tục luỵ phong trần không lọt vào được, còn bến mê là chỗ ảo ảnh phù du, nơi đổi thay của hình, danh, sắc, tướng, là công dụng bề ngoài của những tình cảm và dao động, biển đổi từng sát na. Con người chỉ có thể trở về với Chân Tâm, Phật tính hay Tự tính Di Đà của mình, khi nào từ bỏ được những gì là thiển cận, ngắn ngủi, ảo ảnh phù phiếm của tự kỷ, để sống một cuộc đời rộng rãi, như giọt nước tù hãm trong chai lọ bịt kín đã giao hoà với khối nước ngoài biển khơi.
* Hãy tự cứu lấy mình mới mong được Phật và Thánh chúng đến tiếp sức độ cho. Hãy dũng cảm đem tâm lực của mình để niệm Phật A Di Đà ngày đêm mới mong giao cảm được với luồng điện lực của Tâm Từ do Phật A Di Đà phóng đi từ thế giới Cực lạc của Ngài.
* Đôi khi trong những giờ phút phản tỉnh, đối bóng với mình, ta chợt nhận thấy bộ mặt thật của ta thường đeo vào người để đối phó với hoàn cảnh quanh mình, mà hễ nghĩ tới nó ta lại giật mình, hổ thẹn về những suy tư, lời nói và hành động sai quấy mà ta đã trót dùng để giao thiệp với đời. Mỗi chúng ta, ai ai cũng có hai bộ mặt. Một bộ mặt đổi thay cùng hoàn cảnh, theo lục dục, thất tình. Đó là bộ mặt hoá trang lúc cười, lúc khóc, phải đeo vào để diễn xuất các vai trò trên sân khấu cuộc đời. Những chiếc mặt nạ ấy có lúc được giồi phấn tô son, có lúc lại trát bùn, bôi nhọ. Chúng chẳng phải là bộ mặt thật xưa nay của ta. Chúng được ví như những tấm áo khoác ngoài, mỗi lần tái sinh hay thay đổi tư tưởng lại một lần đổi áo. Áo thì có nhiều, cái rộng, cái hẹp, cái rách, cái lành, cái dài, cái ngắn, mầu sắc vải lụa khác nhau, qua vô số kiếp tái sinh, kiếp làm người, kiếp làm thú, kiếp làm Thánh, Thần, kiếp làm tôi mọi, kém hèn, sang trọng, thay bậc đổi ngôi, bởi vì mỗi lần tái sinh hay thay đổi tư tưởng, lại một lần tạo nghiệp quả chẳng đều. Con người phát triển theo hai chiều lúc lên, lúc xuống, tuỳ theo tâm tạo. Còn một bộ mặt nữa của con người duy nhất (chân ngã) trước sau vẫn thế. Bộ mặt không hề đổi thay qua không gian và thời gian mà Thiền tông gọi là “Bản lai diện mục”, là bản tính bất biến, hay Chân Tâm thanh tịnh của ta. Nó còn mang danh là Phật tính, Chân tính, Thật tính, Chân tướng hay Bản thể Chân Như. Đó là các Lý tính bất biến của trời đất khi bản thể chưa sinh ra hiện tượng.
* Tóm lại, bằng những lý lẽ thật chính xác, phái niệm Phật theo về Lý đã chứng tỏ lập trường của mình là: Niệm Phật là phương pháp thực hành hữu hiệu để diệt trừ vọng thức phá tan vô minh, mong chứng được Chân Tâm hay đạt tới Phật quả.
* Để cảnh giác những ai quá thiên về sự tướng mà quên mất tự tính của mình, phái theo về Lý khuyên người đời nên hướng về nội tâm thay vì ngó ra ngoại cảnh để tìm Phật và cảnh Cực lạc. Họ nhắc nhở người tu theo sự tướng phải nên nhớ tới những câu kinh thường tụng mỗi khi kết thúc khoá lễ hàng ngày:
– Tự Quy y Phật: Phật là tự tính giác ngộ sáng suốt, là đức tính linh diệu thấy rõ chân lý một cách viên mãn. Tự Quy y Phật là hướng về tự tính thanh tịnh hay Chân Tâm của mình, hướng về khả năng tự tu, tự giác sáng ngời mà ta sẵn có. Cái khả năng đó có một giá trị thiêng liêng, siêu việt mọi suy luận và nhận thức thông thường và trắc diện của loài người. Đó là một thứ hiểu biết sâu rộng và trực tiếp làm cho ta thể nhập bằng trực giác vào Thực tại, đưa con người tới nơi giải thoát rốt ráo khỏi mọi phiền não, khổ đau, khác hẳn sự hiểu biết tạm bợ, cục bộ và tương đối của thế nhân, đưa tới những hành động chứa đầy mâu thuẫn, tranh chấp.
– Tự Quy y Pháp: Pháp là tự tính chân chính của ta, là đạo lý ngay thẳng, là chân lý tuyệt đối, là toàn bộ thực tại nhiệm mầu, hiện thực và biến hiện, tiềm tàng và siêu xuất, là toàn thể sự vật trong vũ trụ, có mối liên hệ với nhau tương tức tương nhập trùng trùng duyên khởi.
Sống trong cái thế liên hoàn ấy, con người nhận thây ngay bổn phận và trách nhiệm của mình trong cộng đồng, và ảnh hưởng của ta đối với toàn thể xã hội loài người gây nên bởi ba nghiệp thân, khẩu, ý. Tự Quy y Pháp là tự mình hướng về Chân Như diệu lý, cái lý Bất Nhị nhiệm mầu, hay cái chân tướng vô tướng của sự vật.
Tự Quy y Pháp là nương vào Thực tại, không xa rời Thực tại bởi vì Thực tại chính là ta, hay chính là Y báo, Chính báo, do kết quả của ba nghiệp thân, khẩu, ý do ta tạo ra. Tự Quy y Pháp còn là dựa vào chỗ sai biệt của các pháp để đi tới tự tính vô sai biệt và vô phân biệt chung, do đó đi sâu vào tâm thể giác chiếu của chính mình. Bởi vì sống trong thế gian là sống trong sai biệt về Tướng và Dụng của các pháp, nhưng nếu hiểu rằng sự sai biệt ấy bắt nguồn từ tâm thể của con người vốn bình đẳng, vô sai biệt thì ta dung hợp được với Thực tại như sữa hoà tan trong nước, và như thế ta sống thuận với đạo thiên nhiên. Sinh hoạt trong Thực tại gồm đủ cả Tính lẫn Tướng, Thể và Dụng. Nếu ta thấy được cái Lý Tương tức, Tương nhập và Duyên khởi trùng trùng của mọi pháp, cùng sự hoà điệu nhịp nhàng giữa ta và người, con người và vũ trụ trong cái lý: “Nhất thiết vô ngại Pháp giới” thì ta sẽ sống trong ý nghĩa chân chính của Tự Quy y Pháp, bởi vì ta đã sống trong động với tâm tĩnh, lấy bất biến ứng vạn biến.
– Tự Quy y Tăng: Nếu quan niệm Phật là thể tính giác ngộ, Pháp là diệu dụng để xa lìa bến mê, thì Tăng là hình tướng biểu hiện cho sự giải thoát viên mãn. Bậc chân Tăng là khuôn vàng, thước ngọc cho đời noi theo, là đức tính thanh tịnh trì giới trang nghiêm của đấng trượng phu nắm giữ giềng mối của đạo mầu.
Phật không rời Pháp, Tăng. Tăng cũng không thể rời Phật, Pháp. Cũng như thể không thể rời Tướng, Dụng, mà Tướng, Dụng cũng không thể rời Thể được. Tất cả Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng) là một thực tại duy nhất, toàn diện và tuyệt đối.
* Tự Quy y Tăng là tự mình hướng về cái đức tính dung hoà, diệu lạc, thanh tịnh cao siêu của tâm hồn mình, không theo tà quấy về các sắc tướng bề ngoài, quay về nguồn tâm trong sáng của ta, được tượng trưng bằng các vị chân tu giữ giới trang nghiêm.
* Tự Quy y Tăng là hướng về cái xã hội tính của toàn thể vạn hữu, là nhận định rõ ràng và sống với cái lý “Một là Tất cả, Tất cả là Một”. Bởi vì cá nhân là một phần tử trong cộng đồng, mà sự sống của toàn thể với sự sống của cá nhân gắn bó với nhau như hình với bóng, nên ta phải sống theo quy luật của xã hội, để dung hoà với thực tại trong ý nghĩa của hoà hợp tính, cái yếu tính của Tăng già mà cũng là yếu tính của thực tại, bởi vì có như thế thì mới có bình đẳng, tự do, hoà bình, hạnh phúc tuyệt đối, và có như thế ta mới sống được an vui hạnh phúc, trong sự đoàn kết, hoà hợp với môi trường chung.
Tóm lại, đó là ba Pháp Tự Quy y Vô tướng:
– Quy y Giác, lưỡng túc tôn, tức là Quy y cái Diệu Giác của tính minh gồm đủ cả hai phần Trí và Đức viên mãn, tâm ít ham muốn, trí tuệ sáng suốt như hai vầng nhật, nguyệt.
– Quy y Tịnh, chúng trung tôn, tức là Quy y cái Thể thanh tịnh của tính mình, là pháp cao quý, tôn trọng bậc nhất trong các hạnh tu, không còn trần lao, vọng tưởng.
– Quy y Chánh, ly dục tôn, tức Quy y các chánh pháp của tính mình là pháp tôn quý bậc nhất, không gì bằng để lìa bỏ các điều tà dục, tham ái, chấp trước.
Quy y như thế tức là nương vào bản tính Chân Tâm của chính mình vậy.
Lại phải nhớ tới câu:
Năng lễ, sở lễ, tính không tịch,
Cảm ứng, đạo giao nan tư nghị.
Nghĩa là khi ta lễ Phật, thì chủ thể và đối tượng người lễ và Phật được lạy chẳng phải là hai. Trong khi ta niệm Phật là lúc ta tưởng tới và lễ các Đức Phật quá khứ, hiện tại và vị lai, đồng thời cũng là lúc ta nhớ tới và tôn trọng khả năng giác ngộ siêu việt và những đức tính cao quý mà ta sẵn có.
Ta phải nhớ tới lời Phật dạy trong Kinh Trường A Hàm “Đương tự xí nhiên. Xí nhiên ư Pháp, vật tha xí nhiên. Đương tự Quy y. Quy y ư Pháp, vật tha quy y”. (Hãy tự đốt đuốc lên mà soi đường, hãy thắp sáng lên ngọn đuốc diệu pháp của mình, đừng thắp ngọn đuốc nào khác cả. Hãy tự mình quy y mình, đừng quy y ai khác ngoài ta). Quy y như thế thì ta luôn luôn nhớ tới những điều chân chính, cao thượng, và lìa bỏ những tư tưởng vị kỷ, thấp hèn, thanh lọc được tự tâm, để Tự Tính Di Đà huy hoàng hiển lộ, và thấy rõ được Phật là Tâm, Tâm là Phật, Tâm là Tịnh độ, Tịnh độ là Tâm, và ta luôn luôn sống trong lý “Bất Nhị”.
Hiểu rõ Tam tự Quy y thì ta thường được thấy Tam Bảo nhãn tiền trong đời sống hàng ngày và hiểu rằng: Phật, Pháp, Tăng thường trụ không phải chỉ là Tam Bảo có mặt khắp nơi ở ngoại cảnh, mà chính là Tam Bảo thường trụ trong lòng ta. Có hiểu đúng như thế, có sống đúng theo ý nghĩa đó thì việc tu hành của ta mới có lợi ích, ngược lại, chỉ như người mò trăng đáy nước, hay kẻ ngồi mài mảnh ngói suốt đêm ngày mong tạo được một chiếc gương soi. Có hiểu đúng như thế mới nhập được vào Thực tại nhiệm mầu và mới được sinh về cõi Tây phương Tịnh độ, hay trở về với Chân Tâm, Giác Tính của mình, thấy được Bản lai diện mục của mình vốn tịnh thanh từ muôn thủa.