Kinh Mi Tiên Vấn Đáp

Kinh Mi Tiên Vấn Đáp

Trương Văn Chiến 65

II. NỘI DUNG MI-TIÊN VẤN ĐÁP
(Gồm 244 Câu Hỏi)

208-244

208. Về con mối

– Tâu đại vương! con mối thường lấy đất làm tổ, bên trong trống bộng để ở. Khi đi kiếm vật thực, mối cũng làm một con đường bằng đất rỗng để bò phía bên trong. Vị tỳ khưu cũng phải nên như thế, bất cứ trú xứ nào, bất kỳ ở đâu cũng lấy giới mà bao che mình, mà ẩn bên trong; khi đi vào xóm làng để khất thực cũng ẩn trong sa môn pháp, thu thúc giới để giữ mình. Đúng như đại đức Upasena nói: “Một hành giả tu tập sa môn hạnh, phải có đồ bao che, tức thu thúc giới để phòng tâm, để bảo vệ tâm thoát khỏi phiền não và thoát khỏi sợ hãi.”

209. Về con mèo

– Tâu đại vương! Con mèo có hai điểm cần phải học hỏi như sau:

Thứ nhất, mèo ở nhà hay mèo rừng, dù bất cứ đâu, trong hang, hóc núi, bộng cây hoặc ở chung với người cũng thường dễ dàng tìm bắt chuột. Bắt chuột là sở trường của mèo. Một vị tỳ khưu ở trong am miếu, tịnh thất, khu rừng, dưới cội cây, ở chỗ trống hoặc trong nhà vắng vẻ; hằng tinh tấn trì bình nuôi mạng, phải biết quán tưởng, niệm thân. Vì quán tưởng, niệm thân là nhiệm vụ của tỳ khưu vậy.

Thứ hai, mèo thường không đi đâu xa, chỉ kiếm ăn ở gần thôi; vị tỳ khưu cũng vậy, không cần thiết phải tưởng nghĩ những chuyện xa xôi hoặc khởi niệm đi tầm cầu chỗ này chỗ nọ, mà phải tu tập ngay chính ở đây, ở nơi thân tâm mình. Đấy là quán tưởng sự sanh diệt của ngũ uẩn, thấy rõ sự chấp thủ về sắc, thọ, tưởng, hành, thức; nó sanh do nhân như vậy, diệt do nhân như vậy. Đúng như Đức Chánh Đẳng Giác thuyết: “Đừng tìm kiếm đâu xa, ví như tầm cầu cảnh giới phạm thiên chẳng hạn. Chỉ nên tu tập ở ngay nơi ngũ uẩn này, hãy tinh tấn quán tưởng ngũ uẩn này cho đến lúc nhàm chán và xuất ly nó.”

210. Về con chuột

– Tâu đại vương, về con chuột, thì khi nào nó rời khỏi hang để đi chỗ này chỗ kia, chỉ có một mục đích duy nhất là tìm kiếm vật thực. Vị tỳ khưu cũng nên như thế. Dù đi đâu, dù đến trú xứ nào, hoặc bộ hành chỗ này sang chỗ khác, vị tỳ khưu cũng chỉ với mục đích duy nhất là hướng trí tuệ đi đúng đường, là khởi tâm đúng với sự thật – là như lý tác ý (yonisomanasikàra) mà thôi! Ngài Upasena có nói: “Khi tiến tu quán minh, vị tỳ khưu có tâm tịch tịnh, có chánh niệm, luôn luôn biết rằng mình đang cầu pháp.”

211. Về con bò cạp

– Tâu đại vương! Con bò cọp có cái đuôi làm khí giới, lúc đi đâu nó giở đuôi lên. Vị tỳ khưu có tuệ là khí giới, đi đâu cũng hằng lấy tuệ ấy lên để nhìn ngắm xem xét. Ngài Upasena có nói rằng: “Hành giả tu tập quán minh, hằng có cây gươm là trí tuệ, đi đâu cũng mang cây gươm ấy đi theo, sẽ thoát khỏi tất cả nỗi sợ hãi, chẳng có sợ hãi nào dám bén mảng đến.”

212. Về con chồn

– Tâu đại vương! Con chồn khi vào hang, đánh được mùi rắn, cơ thể nó tự động toát ra một loại mồ hôi khiến rắn không thể xâm phạm được. Vị tỳ khưu khi đi vào giữa thế gian, dẫy đầy những người phức tạp như: ưa tranh cãi, gây sự, hiềm hại, áp bức nhau – nên xoa lên người một lớp tâm từ thì sẽ được bình yên vô sự. Đúng như đức Pháp chủ có thuyết: “Vị tỳ khưu phải có tâm vô lượng, quảng đại, dù kẻ nghịch với ta đông đến số trăm, số ngàn cũng phải rải tâm từ đồng đều cả thảy. Đấy là lời giáo huấn của chư Phật.”

213. Về chó rừng

– Về chó rừng thì có mấy điểm, thưa đại đức?

– Tâu, có hai điểm.

Thứ nhất, chó rừng hễ gặp được vật thực, cứ làm một bụng no, chẳng chê bai bao giờ. Vị tỳ khưu khi xin được vật thực, không nên khởi tâm chê bai, chỉ dùng để nuôi dưỡng thân thể, duy trì sanh mạng để tu tập. Đúng như lời đức Đại Ca-diếp kể lại câu chuyện của mình: “Hôm ấy tôi rời khỏi chỗ ở, đi vào xóm để khất thực. Có một người đàn ông mắc bệnh cùi đang thọ dụng vật thực, thấy tôi, ông ta cung kính lấy phần ăn của mình đặt vào bát cho tôi. Một ngón tay cùi của ông rơi vào bát. Tôi ngồi xuống tại chỗ, quán tưởng, lấy ngón tay ra rồi thọ dụng vật thực một cách chánh niệm, chẳng nhờm gớm chút nào.”

Thứ hai, chó rừng khi được vật thực rồi, chẳng phân biệt ngon hay dở đều ăn một cách tự nhiên. Hành giả tu tập cũng vậy, khi có vật thực chẳng lựa ngon hay dở, ít hay nhiều, tâm thường hoan hỷ để thọ dụng. Đúng như đại đức Upasena thuyết: “Vị tỳ khưu phải tiết chế tâm mình, hằng tri túc và hoan hỷ khi thọ dụng vật thực dù là vật thực tầm thường. Người thích nhiều vật thực và vị ngon, người ấy sẽ khó an hỷ trong thiền, khó tiến bộ trong đời sống sa môn hạnh.”

214. Về con nai

– Con nai cũng có ba chi điều cần học tập, tâu đại vương.

– Xin đại đức cứ giảng.

– Tâu, vâng.

Điều thứ nhất của nai là, ban ngày thường ở trong rừng, đến tối thì tìm đến nơi những khoảng trống. Vị tỳ khưu cũng thường như thế, ban ngày ở trong rừng, đến tối tìm đến nơi khoảng trống để hành thiền. Đúng như lời của Đức Phật thuyết cho Đức Xá-lợi-phất nghe: “Này Xá-lợi-phất! Thời nửa đêm, nhằm trong khoảng mùa lạnh, là khi tuyết rơi; vì mùa ấy tuyết rơi đêm nên Như lai phải tìm đến nơi khoảng trống, ban ngày thì ở trong rừng. Đến tháng chót của mùa nóng, ban ngày Như lai ở trong nơi trống, ban đêm lại ở trong rừng.”

Điều thứ hai, nếu nai bị thợ săn bắn một mũi tên, dẫu né tránh được, nai vẫn không bao giờ còn quay trở lại chỗ bị bắn ấy. Hành giả tu tập sa môn hạnh cũng như thế, đã tránh né được một loại phiền não nào rồi thì không dại gì trở lại chỗ phiền não ấy nữa.

Điều thứ ba, nai khi gặp người, thường tìm cách dấu mình ở chỗ nào đó để người khỏi trông thấy. Cũng vậy, vị tỳ khưu tu tập sa môn hạnh khi thấy chỗ nào có sự gây gỗ, cãi cọ, tranh chấp; nơi nào có người phá giới, lười biếng; hoặc chỗ chùa có sự hỗn tạp, não loạn – thì vị ấy cũng tránh đi với ý nghĩ rằng, sẽ không cho họ tìm thấy, y như con nai kia vậy.

Đúng như ngài Xá-lợi-phất có thuyết: “Người nhiều tham dục, lắm lười biếng; kẻ buông thả, dễ duôi, không có tinh tấn; người không chịu nghe pháp, xa lìa hạnh kiểm, bỏ giới, không tàm quí; kẻ chỉ thích nơi huyên náo, không thích chỗ vắng lặng… với những người như thế xin họ đừng đến chỗ tôi, và cũng cho tôi đừng nhìn thấy họ dù chỉ một chốc, một thoáng, một lát.”

215. Về con bò

– Về con bò thì có 3 chi điều, đại vương hãy nghe, bần tăng sẽ nói.

– Thưa vâng!

Thứ nhất, con bò đã ở cái chuồng nào là nó không bao giờ bỏ cái chuồng ấy, dù dột nát hoặc hư hỏng. Bậc hành giả cũng tương tự thế. Khi đã thọ trì phạm hạnh và đã thực hành phạm hạnh thì cương quyết đi hết đoạn đường, dù vui dù khổ thế nào cũng không từ bỏ phạm hạnh của mình.

Thứ hai, con bò mang cái ách trên cổ và kéo cày, không để ý đến chuyện vui hay khổ. Bậc hành giả thọ trì phạm hạnh và thực hành phạm hạnh hằng cố gắng thực hành phạm hạnh suốt cuộc đời cho trong sạch, cho viên mãn, không hề nghĩ đến sự vui hay khổ, y như bò vậy.

Thứ ba, bò thường ăn cỏ no rồi uống nước; ai cho bò ăn cỏ, uống nước, bò đều ăn no, uống nước không phân biệt. Bậc hành giả phạm hạnh cũng y như thế. Họ sẵn sàng thọ nhận sự giáo huấn, nhắc nhở, nghe pháp từ bất cứ ai; đấy là vị thượng tọa, tỳ khưu trung niên hoặc tỳ khưu mới tu, tại gia nam nữ cư sĩ hoặc chỉ là người thiện nhân ở ngoài đời… Họ đều cung kỉnh lắng nghe, học hỏi những lời hay ý đẹp với tâm trân trọng. Đúng như lời kể chuyện sau đây của Đức Pháp chủ: “Ví dụ có vị sa di bảy tuổi mới tu nhưng có giới hạnh trong sạch, có tâm vắng lặng, có trí tuệ rạng ngời… đến bảo ban, nhắc nhở tôi, giáo huấn tôi, tôi sẵn sàng thọ nhận và ghi tâm khắc cốt lời vàng ngọc. Khi gặp người ấy, không những tôi khởi tâm thương mến mà còn đem lòng kính trọng. Tôi sẵn sàng đảnh lễ vị ấy và xem vị ấy như thầy a-xà-lê, như thầy hòa thượng của tôi vậy.”

216. Về con heo

– Con heo thì có hai điều.

Thứ nhất, khi trời nắng nóng, heo thường trầm mình trong nước. Vị hành giả tu tập cũng vậy, khi có các trạng thái tâm nóng nảy, bứt rứt, tức giận, cuồng nộ v.v… thiêu đốt; vị ấy bèn chìm mình xuống trong tâm từ mát mẻ để giải trừ cái nóng ấy.

Thứ hai, con heo gặp khoảng nước không có bùn lầy thì dùng cái mũi húc ủi đất cho thành vũng rồi nằm xuống. Cũng vậy, vị hành giả khi gặp các dục tham bên ngoài lôi kéo, xáo động; vị ấy bèn trở về với cái thân của mình, húc cái thân của mình, quán xét cái thân của mình – tức là niệm thân – để chôn chặt tâm niệm của mình ở đấy, nằm ở đấy để ngăn các loại phiền não bên ngoài. Đại đức Pinadola bhàra Dvàja cũng có thuyết tương tự: “Bậc hành giả là người tiến tu minh sát tuệ, đã thành thục về niệm thân, thì cứ làm cho thân được tiến bộ. Thời gian ấy nên ở một mình với đề mục niệm thân ấy, chẳng nên để cho người thứ hai, pháp thứ hai nào xen nằm ở trong cảnh giới ấy.”

217. Về con voi

Đức vua Mi-lan-đà nói:

– Tất cả những ví dụ của đại đức rất hay mặc dầu có sự trùng lặp chỗ này chỗ kia; tuy nhiên, đại đức cũng chẳng ngại gì sự trùng lặp ấy. Trùng lặp thì dễ nhớ, dễ thuộc, không sao cả.

– Tâu, vâng. Cảm ơn đại vương đã khuyến khích. Thật ra, bần tăng cũng đã bỏ chút ít những chỗ trùng lặp rồi.

– Vâng, trẫm cũng biết thế.

– Ý đại vương là trong những câu hỏi còn lại, bần tăng chẳng nên bỏ bớt hay sao?

Đức vua Mi-lan-đà gật đầu:

– Đúng vậy.

– Thế thì bây giờ chúng ta sang chuyện con voi!

– Vâng, con voi, có năm chi điều, mong đại đức cứ tuần tự thứ lớp cho nghe.

– Tâu, vâng!

Thứ nhất, con voi đi trên đường thường dùng chân của mình để đạp hoặc đá những đất cục. Tương tự thế, vị hành giả tiến tu chỉ tịnh và quán minh cũng hằng nênđạp và đá vỡ những phiền não lác đác nằm ở trên lộ trình, y như voi vậy.

Thứ hai, voi đi – thì chỉ một mực nhìn thẳng, tùy thân mình mà đi chứ không nhìn ngang nhìn ngửa, trông hướng này hướng kia. Bậc hành giả cũng nên như thế, nên chăm chăm quán tưởng niệm thân mà đi; mắt luôn luôn thẳng ở phía trước, chỉ hơi cúi xuống chừng một đòn gánh, đừng láo liêng ngó đông ngó tây – như voi vậy.

Thứ ba, voi thường không ở một trú xứ nào nhất định, không ở hoài một nơi; tùy thuộc nơi nào có vật thực, ăn no ở đấy rồi nghỉ luôn ở đấy. Cũng vậy, bậc hành giả nên không có chỗ ở, không lưu luyến chỗ ở; cũng không nên lưu luyến chỗ trì bình khất thực, hễ cứ gặp đâu thì kiếm vật thực ở đấy; gặp đâu nghỉ đấy, dù là cái chòi hoang, cội cây, hốc núi, nghĩa địa hoặc nơi đồng không mông quạnh; chẳng nên lựa tìm chỗ thích ý, vừa lòng!

Thứ tư, voi thường tìm chỗ uống nước ở những nơi có hồ lớn, nước trong mát, có hoa sen hoa súng nở đầy, hương thơm ngát. Tại chỗ ấy, voi uống nước, voi tắm, voi đùa giỡn và ăn luôn cả hoa sen, hoa súng, củ sen, củ súng. Cũng tương tự thế, bậc hành giả cũng thường tìm đến cái hồ “đại niệm xứ” của mình, có nước pháp trong sạch, mát mẻ không nhơ đục; có các loại hoa sen, hoa súng thơm ngát là các hỷ lạc và các loại giải thoát. Vị ấy uống các pháp ấy, nhởn nhơ bơi lội trong nước ấy, ăn luôn cả hỷ và các loại giải thoát ấy.

Thứ năm, khi đi, voi dở chân lên thì biết mình đang dở chân lên, khi đạp xuống thì biết mình đang đạp chân xuống; nghĩa là luôn luôn chánh niệm, tỉnh giác trong mỗi oai nghi của mình. Bậc hành giả cũng phải như thế. Lúc nào cũng chánh niệm, tỉnh giác khi chân dở, chân đạp, đi lui, đi tới, co tay vào, duỗi tay ra v.v… không bỏ sót bất kỳ một động tác nào mà không được ghi nhận. Nói cách khác, mỗi sát na của thân hành, ý hành, khẩu hành cần phải được chánh niệm tỉnh giác. Tương tự như Đức Phật đã thuyết: “Thu thúc thân khẩu ý là việc tốt. Thu thúc tất cả lại là điều tốt hơn. Ai là người biết hổ thẹn trong khi thấy mình chưa được thu thúc tất cả; bậc trí tuệ hằng khen ngợi kẻ ấy là người biết phòng hộ, biết bảo vệ và biết thương mình.”

Đức vua Mi-lan-đà nghe xong, nói:

– Con voi này thiệt là quá hay!

– Vâng, còn nhiều cái hay nữa, tâu đại vương!

218. Về sư tử

– Về sư tử thì có sáu chi điều, đại vương hãy nghe.

– Thưa vâng.

Thứ nhất, sắc lông sư tử thường có màu vàng nhưng rất mịn màng, sạch sẽ; nó không thích sự dơ dáy, thường tránh xa chỗ dơ dáy. Bậc hành giả phạm hạnh cũng hằng phải giữ tâm mịn màng và sạch sẽnhư sư tử vậy; không thích cấu uế, trần lụy và hằng tránh xa chỗ cấu uế, trần lụy.

Điều thứ hai, sư tử có bốn chân uy mãnh, nó có sức khỏe, có thần lực, có thể chạy khắp rừng một cách mau lẹ. Bậc hành giả tu tập tứ thần túc cũng sẽ có uy lực, thần lực đi đây đi đó mau lẹ còn hơn thế nữa.

Điều thứ ba, sư tử kiếm được món ăn nơi nào thì dùng ngay tại chỗ ấy, dùng xong không cất để dành, không dùng lại thức ăn thừa. Bậc hành giả trì bình khất thực cũng y như thế, gặp món gì dùng món ấy, xin được nhiều ít, thọ dụng chỗ nhiều ít ấy, không lựa chọn, không cất đặt món ăn, không để dành món ăn. Luôn luôn sống đời tri túc, dễ nuôi, hằng quán tưởng rằng vật thực chỉ dùng để duy trì sanh mạng, sức khỏe để tu tập.

Thứ tư, sư tử có thân hình uy nghi, phương phi, đẹp đẽ; có vầng lông cổ rực rỡ, sáng sủa. Bậc hành giả cũng có thân hành xinh đẹp, tươi nhuận; cũng có giới hành rực rỡ, quang minh, đẹp đẽ – như sư tử vậy.

Thứ năm, sư tử dù có bị uy hiếp vì sự chết, vì sanh mạng, cũng không chịu hàng phục bất kỳ một mãnh thú nào. Bậc hành giả phạm hạnh cũng không hề chìu chuộng bất cứ ai để kiếm y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc men! Dù có mất mạng sống, bậc phạm hạnh vẫn giữ tư cách, giới học của mình, không chịu khuất phục trước bất kỳ một thế lực nào.

Thứ sáu, sư tử đi kiếm ăn bất kỳ ở đâu cũng không hề sợ hãi, không say mê món ăn. Bậc hành giả cũng không khởi tâm khiếp nhược khi đi trì bình khất thực, quán tưởng vật thực mới ăn, nhưng không say mê miếng ăn, không chịu nô lệ bởi cái ăn – tương tự như sư tử vậy. Đúng như đại đức Mahà Kassapa đã nói: “Tôi là tỳ khưu, là người thọ trì giới, nâng đỡ giới trong sạch nên tôi hằng tri túc trong y phục và vật thực, dù có dù không; và tôi cũng hằng khen ngợi sự tri túc trong vật thực và y phục, dù có dù không. Là tỳ khưu, đừng nên thực hành hạnh thấp thỏi, hạ liệt, thật không xứng đáng phẩm hạnh của mình. Có, không cũng được, đừng sợ hãi, đừng khiếp nhược. Có, không cũng an hỷ và vắng lặng, phải thấy rõ tội trong khi thọ dụng tứ sự. Chính Đức Thế Tôn đã từng thuyết như thế, các thầy nên thọ trì.”

219. Về vịt nước

– Về vịt nước thì có ba chi, tâu đại vương.

Thứ nhất là nó có tính thủy chung, không bao giờ bỏ vợ con mà đi, nó sống thành cặp thành đôi với vợ cho đến trọn đời. Bậc hành giả cũng trọn đời thủy chung với trí tuệ, bao giờ cũng chú tâm đúng, hướng tâm đúng. Không bao giờ rời xa trí tuệ, mà sống với trí tuệ cho đến khi lìa bỏ ngũ uẩn.

Thứ hai, vịt nước thường sinh sống bằng cách ăn ốc, rong rêu và lá cây, và suốt đời thỏa thích, sung sướng với loại thực phẩm ấy nhưng sức khỏe không giảm sút, sắc lông không nhạt phai. Cũng tương tự thế, bậc hành giả tri túc về tứ vật dụng, đầy đủ cũng vậy, có ít cũng vậy, không có cũng vậy… nhưng không bao giờ giảm sút giới định tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến cùng tất cả mọi thiện pháp khác.

Thứ ba, vịt nước không bao giờ sát sanh; bậc hành giả suốt đời cũng bỏ đao, bỏ gậy, không bao giờ sát hại sanh mạng của tất cả chúng sanh; ngoài ra, lại còn khởi tâm từ đồng đẳng đến mọi loài nữa. Đúng như Đức Chánh Đẳng Giác đã thuyết: “Người nào không bức hiếp chúng sanh, không có hại tâm với chúng sanh, không làm khổ chúng sanh; lại không bảo kẻ khác bức hiếp, giết hại, làm khổ chúng sanh – thì kẻ ấy thật đã có lòng từ, không còn kết oan trái với chúng sanh nào nữa cả.”

Vịt nước có ba điểm như vậy đó, tâu đại vương!

– Thưa, vâng. Trẫm thọ trì.

220. Về chim Venàhikà mái

– Về chim Venàhika mái, có hai điều cần phải được ghi nhận.

Thứ nhất: Chim Venàhika mái hằng ganh ghét chim trống – là chồng của nó – thường bắt chim trống ở trong tổ để giữ con, bít miệng tổ lại bằng vật dơ. Hằng ngày, chim Venàhika mái bằng sức lực của mình, đi kiếm thức ăn về nuôi cả chồng cả con. Cũng tương tự thế, bậc hành giả cũng bắt phiền não nhốt vào cái tổ là thu thúc giới, lấy niệm thân và ý môn để canh giữ.

Thứ hai:

Chim Venàhikà mái đi kiếm ăn về muộn, gặp trời chiều, không đi một mình mà thường kiếm bầy đàn để nhập đoàn. Lý do là để tránh sự nguy hiểm. Bậc hành giả cũng nên như thế, khi ở nơi thanh vắng để tu tập, nhờ trú trong pháp, nhờ pháp bảo vệ nên được an hỷ. Tuy nhiên, nếu một lúc nào đó cảm thấy không được an vui – thì nên nhập Tăng chúng, sống với Tăng chúng, nhờ đức của Tăng để bảo vệ, che chở cho mình thoát khỏi sự bất an và sợ hãi. Đúng như đại phạm thiên Sahampati tâu với Bổn sư: “Bậc hành giả mong thoát khỏi triền phược thì nên tìm đến nơi thanh vắng để thực hành chỉ, quán, dù mình không thỏa thích; sau đó, thỉnh thoảng trở lại với Tăng đoàn để tìm nơi nương tự tựa.”

221. Về chim sẻ

– Tâu đại vương! về chim sẻ thì chỉ có một điểm mà thôi. Là khi nó làm tổ, nương nhà người, nó rất cẩn thận, chỉ chọn một hóc kín đáo nào đó thôi, không làm tác hại đến bất kỳ một vật dụng nào của người. Bậc hành giả cũng cần nên như thế. Khi có công việc đi đến nhà thí chủ, luôn luôn tâm niệm mình là một sa môn, thọ trì chánh mạng thanh tịnh giới; nên đừng bao giờ khởi tâm hoặc đụng đến chỗ ngồi, chỗ nằm, vật trang điểm, vải vóc, đồ dùng… ở nơi nhà của người. Đúng như Đức Thiện Thệ đã thuyết: “Là tỳ khưu đi đến nhà thí chủ do có sự thỉnh mời, chỉ nên thọ dụng và tri túc những vật thực dâng cúng, chẳng nên đam luyến bất cứ cái gì khác.”

222. Về chim cu

– Chim cu có hai chi điều sau đây, tâu đại vương!

Thứ nhất, kẻ thù của chim cu là con quạ; nhất là vào lúc nửa đêm, gặp quạ thì chim cu đánh, cắn, xé rất dữ. Bậc hành giả ở nơi thanh vắng tu tập, cũng có một kẻ thù là vô minh; phải chiến đấu, phải đánh, phải cắn xé vô minh, hủy trừ vô minh cho đến tuyệt diệt, phải đoạn lìa vô minh từ ngọn đến tận gốc rễ.

Thứ hai, chim cu thường ẩn mình rất kín đáo, trong rừng hoặc trong lùm cây rậm. Bậc hành giả cũng phải tìm ẩn kín đáo trong rừng hoặc nơi thanh vắng không ai tìm thấy, giống như chim cu vậy.

Hãy nghe lời Đức Phật thuyết trong bộ Samyuta Nikàya (Tương ưng bộ): “Này các thầy! các thầy nên lựa tìm nơi thanh vắng mà tham thiền, thỏa thích tham thiền, an vui tham thiền. Nhờ vậy, đến một lúc nào đó, các thầy có thể thấy rõ đây là khổ, đây là nguyên nhân khổ, đây là khổ diệt, đây là khổ diệt đạo.”

223. Về con rít

– Tâu đại vương! Con rít chỉ có một điều. Là nó rất ít kêu, nhưng khi nó kêu ở trong nhà ai – thì nó sẽ báo cho chủ nhân biết một trong hai điều sẽ xảy ra: đó là sự an vui tốt đẹp hay là điều rủi ro, tai hại. Bậc hành giả cũng nên làm như rít vậy, phải báo tin lành, tin dữ đến cho chúng sanh biết. Phải thường hay nói pháp, đây là quả báo của ác nghiệp, dẫn dắt chúng sanh vào bốn đường đau khổ; đây là quả báo của thiện nghiệp, hằng đưa chúng sanh đến cảnh giới hạnh phúc, an lạc trời, người v.v… Đúng như đại dức Pindola Bhàra đã thuyết: “Bậc hành giả nên thuyết về phước và tội, lành và dữ đến cho chúng sanh nghe. Và sau rốt là nên thuyết con đường đến Niết bàn, đem đến nguồn hạnh phúc cao thượng cho chúng sanh. Đấy là hai điều lợi ích cần làm của hành giả.”

224. Về con dơi

– Về con dơi có hai điều. Thứ nhất, là dơi đến nhà ai, vào ra đều thong dong tự tại; không lưu luyến gì, không trụ ở đâu cả, không dính vật gì cả. Điều thứ hai, dơi đến nhà ai, không xâm phạm ai, không đem điều tai hại đến cho ai.

Hai điều ấy tương quan đến đời sống phạm hạnh của bậc hành giả như sau:

Vị tỳ kheo khi trì bình khất thực đến nhà thí chủ, vào ra đều an nhiên, vắng lặng, không lưu luyến gì, không dính gì ở trong tâm cả.

Vị tỳ kheo khi trì bình khất thực hoặc có công việc đến nhà thí chủ, đừng đem sự nóng nảy, bực bội hoặc chán nản đến cho người. Ví dụ, vị ấy không nên có vẻ nhiều ham muốn quá, cử động tay chân nhiều quá, nói nhiều quá, ngồi lâu quá v.v…

Nói tóm là vị tỳ kheo đừng nên làm phiền người khác vì bất cứ một điều gì; một mực gìn giữ giới hạnh và tác phong của mình. Đúng như lời Đức Phật đã thuyết: “Vị tỳ khưu hành phạm hạnh, nếu có giao tiếp với đại chúng, thì làm sao đừng để cho đại chúng mất đức tin; mà phải làm cho tăng trưởng đức tin, trì giới, đa văn, bố thí, trí tuệ cùng các thiện pháp và tịnh giả pháp. Ngoài ra, nếu họ ước mơ có lắm vàng nhiều bạc, ruộng vườn, vợ con, thú bốn chân, thân quyến, bạn bè, dòng họ, sống lâu, sắc đẹp, yên vui trong cả đời này và đời sau… vì tỳ khưu cũng nên tuỳ thuận mà cầu nguyện cho họ.”

225. Về con đỉa

– Về con đỉa thì có một chi điều, như sau:

Khi nó đã đeo dính vào người hoặc thú – thì nó bám chặt để hút máu, không cho rời ra. Bậc hành giả khi tham thiền cũng phải bắt dính đề mục, nắm chắc cảnh giới ấy không buông lơi… Con đĩa hút máu như thế nào, hành giả cũng phải gần gũi với hương vị giải thoát y như thế.

Ngài A-nậu-đà-la (Anuruddha) có thuyết: “Bậc hành giả quyết phải nắm chắc cảnh giới do tâm trong sạch không có cấu uế sinh ra. Chính nhờ cảnh giới ấy, vị ấy sẽ được thân cận với hương vị giải thoát, nơi làm cho lạc mãn, làm cho hỷ mãn!”

226. Về con rắn

– Về con rắn thì có ba điều, tâu đại vương!

Thứ nhất: Rắn bò bằng cái bụng, bao giờ cái bụng nó cũng tiếp giáp với đất, tiếp giáp vào chỗ tựa để trườn lên, để bò đi. Bậc hành giả cũng phải dùng trí tuệ để bò đi, để trườn đi, để lên đường. Nhưng bao giờ trí tuệ ấy cũng phải bám, phải tựa trên đất thực, đừng xa lìa cái thực, ấy là tam tướng tuệ: vô thường, khổ não và vô ngã.

Thứ hai:

Rắn bò đi, nếu gặp phải cây thuốc (trị độc rắn) là nó bèn tránh đi, trốn sang nơi khác. Bậc hành giả cũng vậy, phàm lúc tiến tu mà gặp bạn ác, bạn xấu hoặc gặp những pháp trược hạnh, nơi phát sanh cấu uế thì cũng phải tránh gấp để tự bảo vệ cho mình.

Thứ ba:

Rắn khi cắn người hoặc thú rồi, nó liền trốn tránh đi chỗ khác. Bậc hành giả cũng vậy, khi đã dứt trừ được những tư tưởng xấu quấy rồi thì tránh đừng nên gặp những cái xấu ác ấy nữa.

227. Về con trăn

– Về con trăn thì có một điểm. Là vì nó có thân hình lớn, cái bụng quá to, nên ít khi có vật thực đầy đủ, thường thì nó chỉ có được chừng mực nào đó thôi! Bậc phạm hạnh cũng tương tự như thế, khi trì bình khất thực, không phải lúc nào cũng đầy bát. Vậy phải biết tri túc, nhiều ít gì không quan trọng, thọ dụng chỉ để duy trì mạng sống. Đúng như lời của đại đức Pháp chủ:

Vị tỳ khưu khi thọ dụng vật thực dù cứng hay mềm, ướt hoặc khô, ngon hay dở… nên thọ dụng chừng mực, đừng nên quá no. Phải biết quán tưởng, phải có chánh niệm, tỉnh giác; nên ngưng đừng ăn nữa khi còn chừng bốn, năm miếng là đầy bụng, rồi uống nước. Thọ dụng như thế thân sẽ nhẹ nhàng, tâm sẽ an vui, xứng với phẩm hạnh sa môn của mình.”

228. Về nhện giăng lưới

– Về nhện giăng lưới thì có một điểm có thể đem ra ví dụ. Là nó hằng kéo tơ giăng lưới rồi bắt ruồi, lằn, ong, muỗi dính nơi lưới ấy để ăn. Bậc hành giả tu tập cũng nên tập như nhện vậy, là đóng chặt cả sáu căn rồi giăng lưới tứ niệm xứ ra, có phiền não nào dính ở lưới ấy, bắt rồi ăn hết. Đúng như ngài Anuruddha thuyết:

Là hành giả tu tập về minh sát, cần phải giăng cái lưới tứ niệm xứ ra, đóng cả sáu cửa lại, thấy phiền não nào dính ở đấy thì bắt giết hết.”

229. Về hài nhi

– Về hài nhi bú vú mẹ là khi đói, nó khóc lóc đòi bú. Và sữa là loại vật thực duy nhất có lợi ích cho cơ thể, cho sự sinh trưởng và sanh mạng của nó. Cũng tương tự thế, bậc hành giả có nhu cầu một loại sữa như thế để đem đến lợi ích cho mình, về giới hạnh, về định lực, về tuệ mạng v.v… Nguồn sữa ấy chính là pháp, là sự tinh cần tu tập nơi thanh vắng, là thân cận bạn lành, tri túc vật thực và chỗ ở bên cạnh thầy tế độ, thầy a-xà-lê, là học về chú giải và pàli v.v… Đúng như Phật ngôn:

Này Ànanda! Như Lai nhắc nhở ông hằng tìm lợi ích cho mình, cố gắng thực hiện lợi ích cho mình, đừng dễ duôi, phóng dật trong sự lợi ích ấy. Phải tinh cần thiền định.”

230. Về rùa vàng

– Về rùa vàng chỉ có một điều, là nó sợ nước, đi đâu cũng tránh nước. Nó có tuổi thọ dài lâu là do nhờ không uống nước. Cũng vậy, bậc hành giả chớ nên đắm mình trong sự dễ duôi, hằng sợ hãi trong sự dễ duôi – thì sẽ được tăng trưởng tuệ mạng, sẽ thành tựu Niết bàn vô sanh bất tử.

231. Về rừng

Đức vua Mi-lan-đà nói:

– Về rừng thì có năm điều; xin đại đức giảng cho trẫm nghe.

– Vâng,

Ðiều thứ nhất là rừng già thường che dấu tội phạm; cũng vậy, tâm của bậc hành giả không nên quá khích trước những người hư xấu, cần cho họ nương tựa.

Điều thứ hai, rừng già là nơi không có người qua lại; cũng vậy, bậc hành giả đừng để cho tham luyến, sân hận, si mê qua lại tâm mình.

Thứ ba, rừng già là nơi vắng lặng; cũng vậy, bậc hành giả phải vắng lặng điều ác, vắng lặng những tâm địa thấp thỏi của phàm nhơn.

Thứ tư, rừng già là nơi thanh tịnh chưa bị thế gian làm cho dơ bẩn; cũng vậy, bậc hành giả phải giữ tâm thanh tịnh, đừng để cho ngã chấp và bội ơn làm cho cấu uế.

Thứ năm, rừng già là nơi cất chứa những hương liệu quí báu; cũng vậy, bậc hành giả ẩn chứa những hương liệu quý báu, của giới, của tuệ.

Năm chi của rừng chính là năm chi của bậc Thánh nhân, những người hằng an lạc, thỏa thích trong rừng già, tâu đại vuơng!

232. Về cây đại thọ

– Tâu đại vương! cây đại thọ có ba điều như sau:

Thứ nhất, nó hằng ra hoa và kết trái. Bậc hành giả cũng hằng đơm hoa kết trái giải thoát hương và sa môn quả.

Thứ hai, người và thú đi ngang hoặc ghé đến đều nương nhờ bóng mát của cây; cũng vậy, ai đến gần gũi, thân cận, bậc hành giả phải có tâm mát mẻ, nói lời từ hòa, dịu ngọt.

Thứ ba, cây đại thọ tỏa bóng mát không có tâm phân biệt đối xử, là người, thú hay chim; cũng vậy, bậc hành giả phải rải tâm từ đều khắp chúng sanh không phân biệt bạn hay thù, thương hay ghét…!

Đúng như bài kinh từ bi: “Cầu nguyện cho tất cả chúng sanh đừng có oan trái lẫn nhau, vô khổ, vô bệnh, trường thọ, an vui.” Tương tự thế, đức Pháp chủ Xá-lợi-phất có thuyết rằng: “Đức Vô thượng sư có tâm đại bi đồng đẳng đối với vạn loài, ngài đối với Devadatta, Anguli-màla, cũng giống như đối với Ràhula vậy thôi.”

233. Về mưa

– Tâu đại vương, mưa có tính năng trôi chảy tất cả, không kể là sạch dơ về với biển cả, bậc hành giả cũng phải dùng tuệ cuốn đi tất cả phiền não thô hay tế.

Thứ hai, mưa làm mát quả địa cầu và cây cối, bậc hành giả cũng phải làm sao cho chư thiên và loài người dứt trừ những tâm địa nóng nảy, được an trú dịu mát trong năng lực của tâm từ.

Thứ ba, mưa làm cho hạt mầm lên tược, lên chồi, lên lộc, bậc hành giả cũng phải tinh tấn tu luyện, phát khởi lòng tịnh tín, giao hạt giống tịnh tín để thành đạt ba điều: thành đạt làm người, thành đạt làm chư thiên an nhàn, và tối hậu, thành đạt quả hạnh phúc Niết bàn.

Thứ tư, mưa giúp duy trì cội rể của mọi loại thảo mộc, dây leo, dược thảo, cây rừng. Bậc hành giả cũng phải biết y cứ vào phương pháp phát sanh trí tuệ – tức là hướng tâm đúng, tác ý đúng (như lý tác ý), duy trì các pháp của sa môn đức hạnh – để từ đó mọi thiện pháp được phát triển từ các căn bản vững mạnh.

Thứ năm, mưa làm cho khe suối, mương rãnh, sông hồ được đầy tràn; cũng vậy, bậc hành giả phải làm sao cho Kinh, cho Pháp xuất thế gian tràn đầy trong tâm trí chư thiên và nhân loại. Đức Xá-lợi-phất, với ý tương tự vậy, có thuyết rằng: “Đức Thế Tôn trú trong từ bi định, ngài quán xét những người hữu duyên nên tế độ. Sau khi thấy người hữu duyên, xuất khỏi từ bi định, dù có xa xôi cách mấy, ngài cũng tìm đến nơi để tế độ cho người ấy.”

Đấy là năm chi về mưa, có đầy đủ trong tâm một vị Thánh nhân, tâu đại vương!

234. Về ngọc mani

– Về ngọc mani thì có ba tính chất, tâu đại vương.

Thứ nhất, ngọc mani trong sạch, thuần khiết; cũng vậy, bậc hành giả có giới hạnh, nuôi mạng trong sạch và thuần khiết như ngọc mani vậy.

Thứ hai, ngọc mani bản chất không dính các vật dơ uế; cũng vậy, tâm của bậc hành giả không để cho các xấu ác làm hoen ố mình; không thân cận bạn bè hoặc người có tâm xấu ác.

Thứ ba, ngọc mani thuộc dòng dõi ngọc cao quý vô song, giữ gìn phẩm chất cao quý vô song của mình; cũng vậy, bậc hành giả noi gương ngọc mani để gìn giữ phẩm chất dòng dõi cao thượng của mình. Ấy là dòng dõi Thánh nhân Tu-đà-huờn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán; nghĩa là bậc hữu học, bậc vô học, bậc đắc tam minh, bậc đắc lục thông. Đức Thế Tôn có thuyết rằng:

Các thầy là người có giới trong sạch và có chánh niệm, thường thích thân cận với người có giới và người có chánh niệm; nhờ vậy, giới và trí của các thầy sẽ già dặn thêm lên. Đây là nguyên nhân giúp cho các thầy chấm dứt tất cả khổ đau, phiền não.”

235. Về người săn bắn

– Về người săn bắn thì có bốn chi phần, nếu so sánh với bậc hành giả, sẽ có những điểm tương đồng như sau:

Thứ nhất, người săn thú khi đi săn, núp rình để săn thú, luôn luôn thức tỉnh và cảnh giác; bậc hành giả cũng vậy, luôn luôn thức tỉnh và cảnh giác như vậy.

Thứ hai, tâm người săn thú chỉ buộc chặt vào một cảnh giới duy nhất là dòm chừng con thú để giết nó. Bậc hành giả cũng y như vậy, tâm phải dính chặt vào đề mục của pháp hành để nhằm đắc được những pháp cao siêu, không hề buông lơi.

Thứ ba, người săn thú hằng biết rõ công việc của mình, thời này nên săn hướng này, chỗ này; thời khác nên săn hướng kia, chỗ khác. Cũng vậy, bậc hành giả thường biết công việc của mình, thời này nên nhập thiền, thời kia nên xuất thiền v.v…

Thứ tư, người săn bắn khi được con thú, hằng thỏa thích vui sướng như thế nào, bậc hành giả khi đắc pháp cũng lạc mãn, hỷ mãn như thế. Đúng như Đức Monggallàna (Mục kiền liên) đã thuyết: “Bậc hành giả khởi sự tinh cần tiến hành thiền định, khi an trú vào cảnh giới của thiền rồi, vị ấy hoan hỷ nghĩ đến những pháp cao siêu mình cần phải chứng đạt.”

236. Về người câu cá

– Về người câu cá thì có hai điểm sau đây, tâu đại vương.

Trước hết, người câu cá thường câu bằng cần câu. Bậc hành giả cũng dùng trí tuệ là cần câu để câu lấy các sa môn quả.

Thứ nữa, người câu cá chỉ dùng một chút ít mồi có thể câu được cá to. Bậc hành giả cũng vứt bỏ chút ít vật chất thế gian mà câu được sa môn quả là những con cá rất vĩ đại, rất quý báu, rất cao thượng.

Đại đức Ràhula có thuyết: “Bậc hành giả vứt bỏ sự lưu luyến thế gian sẽ đắc vô tướng giải thoát, không giải thoát, bốn đạo quả và sáu thần thông.”

237. Về thợ bào gỗ

– Về thợ bào gỗ thì có hai điều sau đây:

Một là, người thợ bào sau khi cưa gỗ theo đường mực, phải bào gỗ theo đường mực đã nẩy ấy. Bậc hành giả cũng phải làm như người thợ cưa, thợ bào gỗ ấy. Thực hành theo lời giáo huấn của Đức Thế Tôn là làm theo đường mực, chân đứng trên mặt đất là giới, dùng tay nắm chắc cái bào là đức tin, bào theo đường chỉ là trí tuệ.

Hai là, trước khi bào, người thợ dùng rìu đẽo bỏ phần dác, phần gỗ xấu, chỉ lựa phần tốt, phần lõi của gỗ. Cũng vậy, bậc hành giả phải lấy trí tuệ đẽo bỏ tà kiến, cố chấp – những phần dác bên ngoài – chỉ lấy phần cốt lõi, tinh túy của pháp. Tinh túy của giáo pháp chính là tam ấn: vô thường, khổ não, vô ngã.

Tương tự như vậy, Đức Thế Tôn có thuyết:

Sau khi đã hủy trừ si mê và tà kiến, các ngươi còn cần phải quét dọn tất cả rác rến của phiền não để sống đời thuần tịnh, thanh khiết của bậc sa môn. Phải luôn luôn tâm niệm mình là sa môn, không thể có hành động hay cử chỉ thấp hèn; đừng nên thân cận với người xấu ác chẳng phải là sa môn. Phải có chánh niệm để sống đời phạm hạnh xứng đáng.”

238. Về người thợ gốm

– Người thợ gốm khi nhồi nặn đất sét thường ngậm nước đầy miệng rồi từ từ phun ra. Khi đang ngậm nước, người thợ gốm không thể mở lời, không thể nói chuyện được. Bậc hành giả khi đã ngậm đầy ba-la-mật, ngậm đầy pháp xuất thế gian rồi thì không bao giờ khoe khoang nói ra những pháp mình đã thành tựu. Tại sao vậy? Vì lợi lộc thế gian, danh vọng thế gian và ngã chấp vị ấy đã tiêu trừ, không còn lý do gì để vị ấy phô trương chứng tỏ thế này thế kia với đời.

Đức Chánh Đẳng Giác có thuyết: “Người không ngậm nước sẽ nói chuyện với giọng to, nhỏ đều được; nhưng người đã ngậm nước đầy miệng thì không thể nói năng. Người nói nhiều, khoe khoang, nói ồn ào chính là người ngu. Người im lặng, ít nói hoặc không nói – chính là người trí – vì đã đầy giáo pháp trong miệng mình.”

239. Về con quạ

– Hai chi của con quạ là như sau:

Thứ nhất, con quạ mỗi lần uống nước, nó lấy cái mỏ như cái ống hút, hút nước lên; bậc hành giả tu tập phạm hạnh cũng y như thế, phải dùng “hướng tâm đúng”, “chú ý đúng” như cái ống hút để hút những phẩm tính cao thượng, những thiện pháp.

Thứ hai, con quạ hút nước là hút một lần thật nhiều, không hút thêm lần hai, nhưng không bị hộc nước, bị sặc nước bao giờ. Bậc hành giả cũng vậy, hút thật nhiều ân đức của Phật, ân đức của Pháp, ân đức của Tăng; rồi nhờ ân đức ấy bảo trợ để phát triển minh sát, thấy rõ ngũ uẩn là vô thường để chứng đắc tuệ giác.

240. Về cái dù

– Về cái dù thì có ba chi, tâu đại vương.

Thứ nhất: cái dù thường dùng để che trên đầu, bậc hành giả cũng phải tu tập các pháp cao thượng để che tâm vậy.

Thứ hai: cái dù thường bảo vệ cho cái đầu được mát mẻ. Cũng vậy, bậc hành giả dùng phương pháp của trí tuệ (chú tâm đúng, tác ý đúng, hướng tâm đúng) để bảo vệ cái tâm và thiện pháp của mình.

Thứ ba: cái dù dùng để che nắng, che mưa. Cũng vậy, bậc hành giả phải ngăn che phiền não, ba thứ lửa; ngăn che các loại tà kiến và mọi tư tưởng độc hại. Đúng như Đức Pháp Chủ có thuyết: “Cái dù muốn che chắn tốt, có bóng mát, phải là dù không hư lủng, gọng chắc chắn; tương tự vậy, người Phật tử có dù tốt tức là giới trong sạchđể che mưa tức phiền não, che nắng tức là ba thứ lửa vậy.”

241. Về đám ruộng

– Về đám ruộng, có ba chi như sau:

Đầu tiên, ruộng phải có mương để tát nước vào. Bậc hành giả tu tập cũng như đám ruộng vậy, phải cần có mương nước tức là pháp để thực hành, để dẫn nước vào trong đám ruộng của mình.

Tiếp đến, ruộng cần có bờ bảo vệ ruộng, lưu trữ nước để nuôi cây lúa. Bậc hành giả cần phải có giới làm bờ để giữ gìn, bảo vệ sa môn pháp, để nuôi bốn sa môn quả.

Sau cùng, nếu đám ruộng được chuẩn bị tốt thì khi gieo giống xuống sẽ gặt hái được nhiều, càng gieo nhiều thì càng thu hoạch được nhiều hơn nữa. Đấy là điều hạnh phúc cho người chủ ruộng. Bậc hành giả cũng phải là đám ruộng được chuẩn bị tốt – do có mương nước, bờ nước, phân bón v.v… cho thí chủ gieo hạt giống lành sẽ được phước báu lớn lao. Đúng như đại đức Upàlì có thuyết: “Bậc hành giả phải như đám ruộng tốt để các thí chủ gieo những hạt giống lành sẽ thu được kết quả viên mãn.”

242. Thuốc trị độc rắn

– Thuốc trị độc rắn có hai tính dụng:

Một là, thuốc trị độc rắn không bao giờ để cho giòi bọ phát sanh lên được. Bậc hành giả tu tập phải như thuốc trị độc rắn vậy, đừng cho giòi bọ phiền não phát sanh.

Hai là, người bị rắn độc cắn, khi thoa thuốc trị độc rắn rồi, nọc độc sẽ biến mất. Cũng vậy, hành giả tu tập minh sát khi đã có tuệ giác soi chiếu rồi, các độc tham, độc sân, độc si sẽ biến mất. Đúng như Phật ngôn:

Muốn thấy sự thật của các hành (Sankhàra), các trạng thái sinh diệt của pháp, cần phải dứt trừ độc của rắn, ấy là phiền não.”

243. Về vật thực

– Về vật thực, có ba điều cần phải nghiên cứu, tâu đại vương.

Thứ nhất, vật thực hằng nuôi mạng chúng sanh, cũng vậy, bậc hành giả cần trợ giúp cho tất cả chúng sanh.

Thứ hai, vật thực giúp cho chúng sanh có sức mạnh, bậc hành giả cũng phải đem sức mạnh – tức là phước báu – đến cho chúng sanh.

Thứ ba, vật thực là nơi mong cầu, là sự tìm kiếm của tất cả chúng sanh; bởi vậy, bậc sa môn phải có giới, pháp như thế nào để chúng sanh được nương nhờ. Đúng như đức Mogharàjà đã thuyết: “Vị tỳ khưu phải hoan hỷ ở trong phẩm mạo sa môn của mình, hằng có giới đức và pháp hành đầy đủ để làm nơi nương tựa cho chúng sanh ở trên cõi đời này.”

244. Về người bắn cung

Đức vua Mi-lan-đà nói:

– Thưa đại đức, ví dụ thật là quá nhiều. Dường như trên thế gian có vật gì, có sự kiện nào, đại đức đều có thể lấy làm ví dụ, khả dĩ so sánh, đối chiếu với sa môn hạnh được cả. Bây giờ, thời gian cũng đã phải lẽ, đại đức cho nghe thêm một ví dụ thật đầy đủ nữa thôi, như thế cũng đã thỏa nguyện bình sinh lắm rồi.

– Tâu, vâng. Vậy thì đại vương nghe thêm ví dụ về người bắn cung.

– Thưa, vâng.

– Bắn cung thì có bốn chi điều như sau:

Thứ nhất, trước khi bắn, người bắn cung phải đứng vững chắc hai chân trên đất, giữ đầu gối đừng rung động, giữ thân đừng chao đảo, hai tay nắm chắc cây cung đưa lên ngang tai, kẹp mũi tên giữa hai ngón tay, nhắm một mắt, nhắm kỹ mục tiêu, với ý nghĩ rằng mình sắp sửa bắn. Cũng vậy, bậc hành giả có hai chân vững chắc là tinh tấn, đứng trên đất là giới, đầu gối và thân đừng rung động, nghĩa là tâm phải nhẫn nại, kiên định, trú trong pháp, có sự thu thúc; hướng đến mục tiêu là hướng tâm với trí tuệ, có chánh niệm. Khi ấy, hành giả sẽ bắn trúng mục tiêu là phiền não.

Thứ hai, mũi tên sở dĩ bắn trúng được mục tiêu, một phần nhờ vào mũi tên thẳng, bởi vậy người thợ làm mũi tên phải làm một đoạn gỗ ngàm để uốn mũi tên cho thẳng. Bậc hành giả cũng cần phải có khúc gỗ ngàm ấy – tức là tứ niệm xứ  để uốn cái tâm cong cho ngay thẳng.

Thứ ba, người thợ bắn cung phải để tâm vào chỗ ngắm. Chú ý vào chỗ ngắm tốt, mục tiêu mới dễ đạt. Cũng vậy, bậc hành giả phải quan sát, chú ý, để tâm thấy rõ vô thường chính là khổ, là có bệnh, là cục bướu, là mụt nhọt, là kiết sử cột chặt ta ở trong luân hồi, là điều tai hại, đáng sợ hãi, chẳng có gì trường tồn bất hoại. Vô ngã cũng thế, nó không có tự tính, chẳng có thể làm nơi nương nhờ, là rỗng không, là không thật hữu, là sinh diệt. Vô thường và vô ngã ấy là tính chất của pháp hữu vi, nó hằng chuyển biến không cố định, không kiên cố; nó chỉ là duyên tạo thành, tràn đầy ma chướng, chỉ có sanh, bệnh tật, đau ốm, già nua rồi chết chóc… Tất cả chúng chỉ đưa đến buồn rầu, khóc than kể lể, uất ức, hờn giận v.v… Bậc hành giả phải quán thị như thế, lấy đó làm cơ sở hướng đến mục tiêu lìa khỏi tam giới, dứt trừ ái luyến để đi đến nơi giải thóat.

Thứ tư, nếu người bắn cung muốn trở thành một xạ thủ thiện xảo thì phải không ngớt tập luyện ngày đêm, tháng này sang tháng nọ, năm này qua năm khác. Bậc hành giả muốn đắc đạo quả tối thượng thì cũng phải quán xét tâm mình, rèn luyện tâm mình, mỗi thời mỗi khắc không thể lơ là… Đúng như Đức Pháp chủ Xá-lợi-phất thuyết rằng: “Người bắn cung hằng tập luyện đêm ngày, công phu lao nhọc nhiều năm mới trở thành người bắn cung tài giỏi. Thành quả mà y đạt được, được đức vua hâm mộ, trọng thưởng xứng đáng… nào tài sản, ngựa xe v.v… thật không phải tự dưng mà có. Phải trải qua thời gian tập luyện vậy. Các hàng Phật tử là hành giả đang tu tập, nếu mong thoát khổ, muốn được phần thưởng quả vị A-la-hán với những phẩm tính cao siêu, thì cũng phải đêm ngày quán xét thân tâm, rèn luyện thân tâm mình như người bắn cung vậy.

Đấy là bốn điều về người bắn cung, tâu đại vương!