PHẨM NHẤT THIẾT PHẬT NGỮ TÂM
Phần I. QUYỂN THỨ NHẤT
Ðệ Nhất Nghĩa
Nhất Thiết Phật Ngữ Tâm
Lý Luận Về sừng Thỏ
Nhất Xiển Ðề
Ba Thứ Tự Tánh
Hai Vô Ngã
Pháp Tánh Không
Ta nghe như vầy, một hôm Phật ở trên đảnh núi Lăng Già tại bờ biển Nam, có đủ các thứ hoa báu trang nghiêm, khi ấy các Đại Tỳ Kheo Tăng và chúng Đại Bồ Tát từ các cõi Phật đến, những Đại Bồ Tát ấy đều đủ sức tự tại, vô lượng chánh định, du hý thần thông.
Bồ Tát Đại Huệ là bậc thượng thủ (đại diện đương cơ của Kinh này), được tất cả chư Phật đích thân làm phép quán đảnh, cảnh giới tự tâm hiện lượng của Ngài đối với mọi chúng sanh, mọi tâm và sắc, vô lượng pháp môn, cho đến năm pháp của tự tánh và hai thứ Vô ngã đều được từng loại phổ hiện, khéo giải nghĩa lý, thông đạt cứu cánh.
Khi ấy, Bồ Tát Đại Huệ cùng Bồ Tát Ma Đế dạo khắp tất cả cõi Phật, và thừa oai thần của Phật từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai áo tay phải, chắp tay quỳ gối, cung kính dùng kệ tán thán rằng:
Thế gian lìa sanh diệt
Như hoa đốm trên không.
Trí chẳng trụ hữu, vô,
Mà khởi tâm đại bi.
Tất cả pháp như huyễn,
Xa lìa nơi tâm thức.
Trí chẳng trụ hữu, vô,
Mà khởi tâm đại bi.
Xa lìa chấp đoạn thường,
Pháp thế gian như mộng.
Trí chẳng trụ hữu, vô,
Mà khởi tâm đại bi.
Biết nhơn pháp Vô ngã
Phiền não và nhĩ diệm (1)
Thường trong sạch vô tướng,
Mà khởi tâm đại bi.
(1) NHĨ DIỆM: Theo Thật Dụng Phật Học Tự điển giải thích thì gồm có bốn nghĩa: Sở tri, cảnh giới, trí mẫu, trí cảnh. Bốn từ ngữ này cũng có tương tự cũng có hơi khác, như nghĩa SỞ TRI và CẢNH GIỚI thì thông cả trí và ngu, còn TRÍ CẢNH và TRÍ M”U thì riêng cho bậc trí, lại gồm cả năng sở: Mẹ của trí là năng sanh, cảnh của trí là sở sanh, vì bao gồm nhiều nghĩa như thế, nên người dịch chỉ dịch nguyên âm, chúng tôi cũng chỉ dịch nguyên âm mà tùy theo trường hợp ghi chú.
Niết bàn chẳng thể lập,
Chẳng có Niết Bàn Phật,
Chẳng có Phật Niết Bàn,
Lìa năng giác, sở giác.
Hoặc có hoặc không có,
Cả hai thảy đều lìa.
Pháp thiền quán tịch tịnh,
Vốn lìa sự sanh khởi.
Chẳng đời này đời sau,
Gọi là chẳng thủ xả.
Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát nói kệ tán thán xong, tự xưng tên họ rằng:
Con tên là Đại Huệ,
Thông đạt pháp Đại Thừạ
Một trăm lẻ tám câu,
Dùng kệ hỏi Thế Tôn.
Đức Phật nghe kệ rồi,
Quán sát tất cả chúng.
Bảo các Phật tử rằng,
Nay cho mặc tình hỏi.
Tôi sẽ vì các ngươi,
Thuyết cảnh giới tự giác.
Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát kính vâng lời Phật, đảnh lễ chân Phật, chắp tay cung kính, dùng kệ hỏi rằng:
Thế nào niệm trong sạch?
Thế nào niệm tăng trưởng?
Tại sao thấy mê hoặc?
Mê hoặc sao tăng trưởng?
Cách giáo hóa cõi Phật,
Chúng sanh và ngoại đạo?
Thế nào thọ, vô thọ?
Tại sao gọi vô thọ?
Phật tử là nghĩa gì?
Giải thoát đến mức nào?
Ai trói ai giải thoát?
Cảnh giới thiền ra sao?
Tại sao có Tam thừa?
Mong Phật giải thích cho.
Duyên khởi từ đâu sanh?
Sao nói tác, sở tác?
Sao có pháp đồng dị,
Giảm bớt và tăng trưởng?
Sao gọi Vô Sắc Định,
Và gọi Chánh Định diệt?
Thế nào là tưởng diệt?
Vì sao có xuất định?
Tại sao sanh sở tác,
Tinh tấn và trì thân
Thế nào hiện phân biệt?
Chư Địa từ đâu sanh?
Phá tam giới là ai?
Thân này là thân gì?
Vãng sanh đến nơi nào?
Bồ Tát Tối Thắng Tử,
Nhân gì đắc thần thông,
Và tự tại Tam Muội?
Sao gọi Tam Muội Tâm?
Cúi xin vì con nói.
Chữ “Tạng” là nghĩa gì?
Sao gọi ý và thức?
Sanh diệt là thế nào?
Sở kiến trả về được,
Năng kiến trả về đâu?
Thế nào là tâm lượng,
Chủng tánh phi chủng tánh?
Làm sao kiến lập tướng,
Nghĩa ngã và phi ngã?
Sao nói chẳng chúng sanh?
Sao gọi thuyết thế tục?
Cách nào chẳng sanh khởi,
Đoạn kiến và thường kiến?
Chư Phật và ngoại đạo,
Tại sao chẳng trái nhau?
Phật tánh vốn bất nhị,
Tại sao đời vị lai,
Nhiều bộ phái khác nhau?
Nhân gì lập nghĩa không?
Sao nói sát na hoại?
ỀThai tạng sanhỂ là gì?
Thế pháp sao chẳng động?
Nhân gì như mộng huyễn,
Như thành Càn Thát Bà,
Như bóng trăng trong nước?
Thế gian như dương diệm,
Sao lại nói Giác Chi,
Và Thất Bồ Đề phần?
Quốc độ sao hỗn loạn?
Tại sao chấp hữu kiến?
Thế nào chẳng sanh diệt,
Thế pháp như hoa đốm?
Cách nào giác thế gian,
Thuyết pháp lìa văn tự?
Lìa vọng tưởng là ai?
Sao dụ như hư không?
Mấy thứ pháp như thật?
Mấy tâm Ba La Mật?
Nhân gì độ chư Địa,
Đến nơi Vô Sở Thọ,
Và hai thứ Vô Ngã?
Làm sao cảnh trí sạch?
Trí huệ có mấy thứ?
Giới tánh có bao nhiêu?
Hạt chơn châu Ma Ni,
Thật tánh từ đâu sanh?
Ai lập ra ngữ ngôn,
Và chủng tánh chúng sanh?
Sáng sủa và kỹ thuật,
Do đâu mà hiển bày?
Kệ tụng có mấy thứ,
Tụng dài và tụng ngắn,
Tất cả có mấy thứ?
Thế nào gọi là Luận?
Sao có sự ăn uống,
Và sanh những ái dục?
Tại sao gọi là vua,
Chuyển Luân và Tiểu Vương?
Cõi trời có mấy thứ?
Hộ vệ quốc độ nào?
Thế nào gọi là Địa,
Tinh tú và nhựt nguyệt?
Người tu hành giải thoát,
Mỗi môn có mấy thứ?
Đệ tử có mấy loại?
Sao gọi A Xà Lê?
Phật có bao nhiêu thứ?
Sự sanh có mấy loại?
Ma và các ngoại đạo,
Mỗi mỗi có mấy thứ?
Tự tánh và bản tâm,
Có mấy thứ riêng biệt?
Những số lượng thi thiết?
Niệm thông minh là gì?
Cúi xin Phật khai thị.
Hư không và gió mây,
Cây cỏ và rừng rậm,
Tất cả là thế nào?
Tại sao lại bắt lấy,
Những loài voi, ngựa, nai?
Thế nào là thấp hèn?
Nhân gì mà thấp hèn?
Làm sao dứt lục căn?
Sao gọi Nhất Xiển Đề?
Nam nữ, phi nam nữ?
Từ đâu mà sanh khởi?
Thế nào phát tâm tu?
Sao lại tu lui sụt?
Thiền sư dùng pháp gì?
Dạy cho những người nào?
Chúng sanh vào các cõi,
Tướng nào thuộc loại nào?
Thế nào là giàu sang?
Nhân gì được giàu sang?
Thế nào là Thích Chủng?
Nhân gì được Thích Chủng?
Thế nào dòng Cam Giá (1)?
Xin Thế Tôn giải thuyết.
Những Tiên nhơn khổ hạnh,
Truyền thọ như thế nào?
Sao thân Phật hiển hiện,
Khắp thời gian không gian,
Có đủ loại chúng sanh,
Và Bồ Tát nhiễu quanh?
Tại sao chẳng ăn thịt?
Tại sao cấm ăn thịt?
Những loại nào ăn thịt?
Nhân gì phải ăn thịt?
Sao hình thành nhựt nguyệt,
Tu Di và Liên Hoa.
Cõi nước rất thù thắng,
Trùm khắp cả thế giới?
Như lưới báu Đế Thích,
(1) DÒNG CAM GIÁ: Dòng họ Thích Ca, là con của vua Cam Giá, nên gọi là dòng Cam Giá.
Tất cả những trân bửu.
Cây đàn dáng trống cơm,
Và đủ loại hương hoa,
Sáng chói lìa nhựt nguyệt,
Mỗi mỗi đều vô lượng?
Thế nào là Hóa Phật?
Thế nào Báo Thân Phật?
Thế nào Như Như Phật?
Thế nào Trí Huệ Phật?
Tại sao nơi Dục giới,
Chẳng thành Đẳng Chánh Giác?
Sao cõi Sắc Cứu Cánh,
Lìa dục đắc Bồ Đề?
Chư Phật nhập Niết Bàn,
Ai duy trì chánh pháp?
Như Lai và chánh pháp,
Được trụ thế bao lâu?
Thành tựu và kiến chấp,
Mỗi loại bao nhiêu thứ?
Từ giới luật Tỳ Kheo,
Thanh Văn và Duyên Giác,
Cho đến bậc Bồ Tát,
Nhân duyên gì kiến lập?
Nhân gì nhiều biến đổi?
Tại sao Vô Sở Thọ?
Thế Tục Thông là gì?
Tại sao xuất thế gian?
Thế nào là Thất Địa?
Cúi xin Phật diễn thuyết.
Tăng Già có mấy loại?
Thế nào phá hoại Tăng?
Y Phương Luận là gì?
Bởi do nhân duyên gì,
Sao lại Phật Thế Tôn,
Thuyết những lời như thế:
“Ca Diếp (Phật), Câu Lưu Tôn (Phật),
Câu Na Hàm (Phật) là Ta? “.
Cớ sao nói đoạn thường?
Có ngã và Vô Ngã?
Sao không tất cả thời,
Đều diễn chơn thật nghĩa?
Mà lại vì chúng sanh,
Phân biệt thuyết Tâm lượng?
Tại sao cõi Ta Bà,
Núi Kim Cang, Thiết Vi,
Tất cả đều sung mãn,
Như trái Yêm Ma La?
*
Phật nghe bài kệ hỏi,
Về độ môn Đại Thừa.
Và diệu tâm Chư Phật;
Lành thay những câu hỏi.
Đại Huệ hãy lắng nghe,
Nay Ta vì các ngươi,
Theo thứ lớp giải đáp:
Pháp sanh và bất sanh,
Các loại đến Niết Bàn,
Sát na chẳng tự tánh.
Từ Phật tử, ngoại đạo,
Thanh Văn và Duyên Giác,
Bồ Tát Ba La Mật,
Và hạnh cõi Vô Sắc.
Mỗi mỗi việc như thế,
Núi Tu Di, biển cả,
Các bộ châu, quốc độ,
Tinh tú và nhựt nguyệt,
Cõi trời A Tu La,
Sức thiền Tam Ma Đề,
Giải thoát được tự tại.
Giác Chi, Như Ý Túc,
Và các phẩm trợ đạo;
Từ những thân ngũ ấm,
Cho đến Diệt Tận Định,
Gồm vô lượng thiền định.
Phật từ Tam muội khởi,
Thuyết pháp độ chúng sanh.
Tâm (thức thứ tám), Ý (thức thứ bảy), và Ý thức (thức thứ sáu),
Năm pháp và Vô ngã,
Năng tưởng và sở tưởng,
Tự tánh hiện nhị kiến.
Các thừa và chủng tánh,
Vàng bạc, châu Ma Ni,
Cho đến Nhất Xiển Đề,
Nhiều loại với nhất Phật,
Trí Nhĩ Diệm chứng đắc.
Chúng sanh hữu hay vô,
Những cầm thú voi, ngựa,
Tại sao bị bắt lấy,
Do nhân duyên thành tựụ
Năng tác và sở tác,
Tòng lâm cùng mê hoặc,
Tâm lượng chẳng hiện hữu,
Chư Địa chẳng đến nhau.
Biến hiện thọ, Vô thọ,
Y phương và công xảo,
Nội ngoại trong Ngũ Minh,
Đại địa, núi Tu Di,
Biển cả, nhựt, nguyệt, tinh,
Chúng sanh thượng, trung, hạ,
Quốc độ và sắc thân,
Mỗi mỗi bao vi trần.
Thước tấc và số dặm,
Số ngắn đến số dài.
Nói chung những câu hỏi,
Danh từ các số lượng,
Diễn tả sự hiện hữu,
Không gian và thời gian,
Nên hỏi những việc này,
Đâu cần hỏi việc khác.
Thanh Văn và Duyên Giác,
Bồ Tát cho đến Phật,
Mỗi thân bao nhiêu trần,
Số lượng của tứ đại,
Thân ngũ uẩn con người,
Vua chúa trên thế gian,
Cho đến Chuyển Luân Vương,
Đều ham giữ của cải,
Làm sao được giải thoát?
Nghĩa hẹp và nghĩa rộng,
Như chỗ hỏi của ngươi,
Việc Phật tử nên hỏi.
Muốn mỗi mỗi tương ưng,
Phải xa lìa kiến chấp.
Thành tựu lìa ngôn thuyết.
Nay ta sẽ khai thị,
Kỹ càng từng lớp một,
Phật tử hãy lắng nghe.
Trăm lẻ tám câu này,
Như chư Phật sở thuyết.
Cú sanh cú bất sanh, cú thường cú vô thường, cú trụ dị phi trụ dị, cú sát na cú phi sát na, cú tự tánh cú phi tự tánh, cú không cú bất không, cú đoạn cú bất đoạn, cú biên cú phi biên, cú trung cú phi trung, cú duyên cú phi duyên, cú nhân cú phi nhân, cú phiền não cú phi phiền não, cú ái cú phi ái, cú phương tiện cú phi phương tiện, cú xảo cú phi xảo, cú tịnh cú phi tịnh, cú thành cú phi thành, cú ví dụ cú phi ví dụ, cú đệ tử cú phi đệ tử, cú sư cú phi sư, cú chủng tánh cú phi chủng tánh, cú tam thừa, cú phi tam thừa, cú sở hữu cú phi sở hữu, cú nguyện cú phi nguyện, cú tam luân cú phi tam luân, cú hữu phẩm cú phi hữu phẩm, cú câu cú phi câu, cú duyên tự Thánh trí hiện pháp lạc cú phi hiện pháp lạc, cú sát độ cú phi sát độ, cú thủy cú phi thủy, cú cung cú phi cung, cú thật cú phi thật, cú số cú phi số, cú minh cú phi minh, cú hư không cú phi hư không, cú vân cú phi vân, cú công xảo kỹ thuật minh xứ, cú phi công xảo kỹ thuật minh xứ, cú phong cú phi phong, cú địa cú phi địa, cú tâm cú phi tâm, cú thi thiết cú phi thi thiết, cú ấm cú phi ấm, cú chúng sanh cú phi chúng sanh, cú huệ cú phi huệ, cú Niết Bàn cú phi Niết Bàn, cú nhĩ diệm cú phi nhĩ diệm, cú ngoại đạo cú phi ngoại đạo, cú hoang loạn cú phi hoang loạn, cú huyễn cú phi huyễn, cú mộng cú phi mộng, cú diệm cú phi diệm, cú tượng cú phi tượng, cú luân cú phi luân, cú Càn Thát Bà cú phi Càn Thát Bà, cú thiên cú phi thiên, cú ẩm thực cú phi ẩm thực, cú dâm dục cú phi dâm dục, cú kiến cú phi kiến, cú Ba La Mật cú phi Ba La Mật, cú giới cú phi giới, cú nhựt nguyệt tinh tú cú phi nhựt nguyệt tinh tú, cú đế cú phi đế, cú quả cú phi quả, cú khởi diệt cú phi khởi diệt, cú trị cú phi trị, cú chi cú phi chi, cú thiền cú phi thiền, cú mê cú phi mê, cú hiện cú phi hiện, cú hộ cú phi hộ, cú tục cú phi tục, cú tiên cú phi tiên, cú vương cú phi vương, cú nhiếp thọ cú phi nhiếp thọ, cú bảo cú phi bảo, cú ký cú phi ký, cú Nhất Xiển Đề cú phi Nhất Xiển Đề, cú nữ nam bất nam cú phi nữ nam bất nam, cú vị cú phi vị, cú sự cú phi sự, cú thân cú phi thân, cú giác cú phi giác, cú động cú phi động, cú căn cú phi căn, cú hữu vi cú phi hữu vi, cú vô vi cú phi vô vi, cú nhân quả cú phi nhân quả, cú sắc cứu cánh cú phi sắc cứu cánh, cú thiết cú phi thiết, cú tòng thọ cát đằng cú phi tòng thọ cát đằng, cú tạp cú phi tạp, cú thuyết cú phi thuyết, cú Tỳ Ni cú phi Tỳ Ni, cú Tỳ Kheo cú phi Tỳ Kheo, cú xứ cú phi xứ, cú tự cú phi tự.
Lược giải:
Từ CÚ SANH CÚ BẤT SANH cho đến CÚ TỰ CÚ PHI TỰ, chúng tôi lược giải chung như sau: Tất cả pháp thế gian, cho đến xuất thế gian, lời nói diễn tả được đều nằm trong tương đối; như sanh, trụ, dị, diệt, sáng, tối và sắc, không v.v… mỗi mỗi gồm có tứ cú, thật ra chẳng thể kể xiết. Như tứ cú của chữ SANH: Cú thứ nhất là SANH, cú thứ nhì BẤT SANH, cú thứ ba CHẲNG SANH, CHẲNG BẤT SANH, cú thứ tư CŨNG SANH, CŨNG BẤT SANH. Chữ THỪƠNG cũng vậy: Cú thứ nhất THỪƠNG, cú thứ nhì VÔ THỪƠNG, cú thứ ba CHẲNG THỪƠNG, CHẲNG VÔ THỪƠNG, cú thứ tư CŨNG THỪƠNG, CŨNG VÔ THỪƠNG… Những chữ khác cũng đều như thế cả.
Lược giải hết
CHÁNH VĂN
Phật bảo Đại Huệ rằng:
– Đó là 108 câu Phật xưa đã nói, người và các Đại Bồ Tát cần nên tu học.
Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng:
– Thế Tôn! Các thức có mấy thứ sanh, trụ, diệt?
Phật bảo Đại Huệ:
– Các thức có hai thứ sanh, trụ, diệt, chẳng phải suy nghĩ biết được. Hai thứ sanh gọi là lưu chú sanh và tướng sanh; hai thứ trụ gọi là lưu chú trụ và tướng trụ; hai thứ diệt gọi là lưu chú diệt và tướng diệt.
– Đại Huệ! Các thức có ba thứ tướng, gọi là chuyển tướng, nghiệp tướng và chơn tướng. Nói tóm tắt có ba thứ thức, nói rộng có tám thứ tướng. Ba thứ thức ấy là: Chơn thức, hiện thức và phân biệt sự thức. Đại Huệ! Ví như gương sáng hiện những sắc tướng, chỗ hiện của hiện thức cũng như thế.
– Đại Huệ! Hiện thức và phân biệt sự thức, hai thức này tướng hoại và chẳng hoại làm nhân với nhau. Đại Huệ! Sự huân tập bất tư nghì và sự chuyển biến bất tư nghì là cái nhân của hiện thức. Nhận lấy các cảnh trần và huân tập vọng tưởng từ vô thỉ là cái nhân của phân biệt sự thức.
– Đại Huệ! Nếu mỗi mỗi sự hư vọng chẳng thật che khuất chơn thức đều tiêu diệt thì tất cả căn thức đều diệt, ấy gọi là tướng diệt.
– Đại Huệ! Sao nói TƯƠNG TỤC DIỆT? Bởi cái nhân của tương tục đã diệt thì tương tục phải diệt; sở nhân diệt thì sở duyên cũng diệt. Sở nhân và sở duyên đều diệt thì tương tục phải diệt. Tại sao? Vì có sở nương tựa. Nói “Nương tựa”, là vọng tưởng huân tập từ vô thỉ; nói “Duyên”, là tự tâm hiện những cảnh vọng tưởng của thức.
– Đại Huệ! Ví như cục đất với vi trần có khác, cũng không có khác, dùng vàng ròng làm ra những đồ trang sức cũng vậy. Đaị Huệ! Nếu cục đất với vi trần có khác thì cục đất chẳng do vi trần họp thành, mà thật thì do vi trần họp thành, nên nói chẳng khác. Nếu chấp thật chẳng khác thì cục đất với vi trần chẳng có phân biệt.
– Như thế, Đại Huệ! Chơn tướng của chuyển thức với Tạng thức nếu là khác thì Tạng thức chẳng phải cái nhân của chuyển thức; nếu là chẳng khác thì chuyển thức diệt, Tạng thức cũng phải diệt, mà chơn tướng của nó thật chẳng diệt. Cho nên Đại Huệ! Chẳng phải tự thức của chơn tướng diệt, chỉ là nghiệp tướng diệt. Nếu tự thức của chơn tướng diệt thì tạng thức cũng phải diệt. Đại Huệ! Nếu Tạng thức diệt thì chẳng khác gì đoạn kiến của ngoại đạo.
– Đại Huệ! Các phái ngoại đạo lập luận như thế này: “Cảnh giới nhiếp thọ diệt thì sự lưu chú của thức cũng diệt”. Nếu sự lưu chú của thức diệt thì sự lưu chú từ vô thỉ phải đoạn dứt. Đại Huệ! Ngoại đạo nói cái nhân sanh khởi của lưu chú, chẳng do nhãn thức, sắc không và sáng tối hoà hợp mà sanh, ngoài ra còn có các nhân khác. Đại Huệ! Cái nhân của họ nói như thắng diệu, như sĩ phu (1), như tự tại, như thời gian, như vi trần v.v…
(1) SĨ PHU: nghĩa Hán là bậc trí thức, ở đây ám chỉ Năng tác hoặc Sở tác.
– Lại nữa Đại Huệ! Có bảy thứ chủng tánh của tự tánh, gọi là: Hoà hợp tự tánh, tánh tự tánh, tướng tự tánh, đại chủng tự tánh, nhân tự tánh, duyên tự tánh và thành tựu tự tánh.
– Lại nữa Đại Huệ! Có bảy thứ Đệ Nhất Nghĩa, gọi là: Cảnh giới Tâm, cảnh giới Huệ, cảnh giới Trí, cảnh giới Kiến, cảnh giới Siêu nhị kiến, cảnh giới Siêu tử địa (siêu việt phiền não), và cảnh giới Như Lai tự tại. Đại Huệ! Đây là Đệ Nhất Nghĩa tâm của tự tánh, cũng là quá khứ, hiện tại, vị lai chư Phật Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác thành tựu pháp thế gian và xuất thế gian, cho đến xuất thế gian thượng thượng pháp, do huệ nhãn của bậc Thánh soi vào tự cộng tướng mà kiến lập, kiến lập này chẳng đồng với lập luận ác kiến của ngoại đạo.
– Đại Huệ! Thế nào là lập luận ác kiến của ngoại đạo? Ấy là cảnh giới vọng tưởng của tự kiến chấp, chẳng biết do chấp tự tâm sở hiện, vì chẳng thông đạt ngằn mé (tự tánh cùng khắp không gian thời gian, vốn chẳng có ngằn mé, vì khởi tâm chấp thật thành có ngằn mé). Đại Huệ! Vì tánh ngu si của phàm phu, ở nơi bất nhị của tự tánh vô tánh (Đệ Nhất Nghĩa) lập ra nhị kiến luận (pháp tương đối).
– Lại nữa, Đại Huệ! Cái nhân vọng tưởng khổ của tam giới diệt thì các duyên của vô minh, ái nghiệp liền diệt. Nay ta sẽ thuyết những cảnh huyễn hóa tùy theo kiến chấp của tự tâm sở hiện.
– Đại Huệ! Nếu có Sa Môn, Bà La Môn muốn khiến nhân quả của sự hữu chủng, vô chủng, và sự vật thời gian có sở trụ… và những cái do chấp ấm, giới, nhập (1) nơi sanh và trụ biến hiện (hoặc nói sanh rồi thì diệt), như sự vật hoặc sanh hoặc hữu, hoặc Niết Bàn, hoặc đạo, hoặc nghiệp, hoặc quả, hoặc chân lý, hoặc thường trụ, đều là đoạn diệt luận. Tại sao? Vì những sự việc kể trên vốn là vô thỉ (chẳng có sự bắt đầu), nên hiện tiền đều bất khả đắc.
– Đại Huệ! Ví như cái bình bể chẳng dùng được, như hạt giống cháy chẳng thể nảy mầm. Như thế, Đại Huệ! Nếu tánh ấm, giới, nhập đã diệt, nay diệt, sẽ diệt điều do kiến chấp vọng tưởng của tự tâm vô nhân mà có, thì sự sanh khởi chẳng có thứ lớp.
– Đại Huệ! Nếu lại nói cái thức Vô Chủng, Hữu chủng do ba duyên kiến, tướng, thức hòa hợp sanh khởi, thì con rùa nên mọc lông, ép cát phải ra dầu, tông họ ắt phải tự hoại, vì trái với nghĩa quyết định. Cái thuyết hữu chủng, vô chủng có lỗi như thế, nếu theo đó
kiến lập sự nghiệp đều hư dối vô nghĩa.
(1) ẤM, NHẬP, GIỚI: Ấm là ngũ ấm, tức sắc, thọ tưởng, hành, thức. Nhập là lục nhập, tức lục căn nhiếp thọ lục trần, có sự cảm thọ, gọi là lục nhập. Giới là thập bát giới, tức lục căn tiếp xúc lục trần sinh ra lục thức, gọi là thập bát giới.
– Đại Huệ! Cái thuyết ba duyên hợp sanh của ngoại đạo, lập ra phương tiện nhân quả tự tướng nơi quá khứ, hiện tại, vị lai, tưởng hữu chủng, vô chủng từ xưa đến nay đã thành sự thật, giác tưởng xoay chuyển, thừa kế với nhau, là do lỗi tập khí tự sanh kiến chấp mà thuyết như thế.
– Đại Huệ! Phàm phu ngu si, say mê tà tưởng, trí huệ bị ác kiến nuốt mất, đem cái thuyết vô trí lại vọng xưng là Nhất Thiết Trí.
– Đại Huệ! Nếu các Sa Môn, Bà La Môn lìa kiến chấp tự tánh, biết trong ngoài tâm hiện như mây nổi, như vòng lửa, như thành Càn Thát Bà, như dương diệm, như bóng trăng trong nước, như mộng huyễn, những vọng tưởng hư dối từ vô thỉ chẳng lìa tự tâm. Nếu nhân duyên vọng tưởng diệt hết, lìa năng thuyết sở thuyết, năng quán sở quán của vọng tưởng, kiến lập thân của Tạng thức, nơi cảnh giới thức có thọ dụng, nhiếp thọ và kẻ nhiếp thọ v.v… Đối với những việc kể trên đều chẳng tương ưng, chẳng có tất cả cảnh giới ấy, lìa sanh trụ diệt, lìa tự tâm khởi, lìa tùy chỗ nhập mà phân biệt, Bồ Tát này được như thế thì chẳng bao lâu sẽ chứng đắc sanh tử và Niết Bàn bình đẳng, được đại bi phương tiện khéo léo mà chẳng thấy có sự mở mang phương tiện.
– Đại Huệ! Nơi tất cả chúng sanh thảy đều như huyễn, chẳng do nhân duyên, xa lìa cảnh giới trong ngoài, ngoài tâm chẳng thấy pháp khác, lần lượt nhập chỗ vô tưởng, từ cảnh giới Tam muội của Địa này đến Địa kia, phân biệt quán xét, thấu rõ tam giới như huyễn, sẽ chứng đắc như huyễn Tam muội, siêu việt tự tâm hiện, trụ nơi Bát Nhã Ba La Mật, lìa bỏ phương tiện, lìa Kim Cang Dụ và Tam Ma Đề, liền vào thân Như Lai, liền vào thần thông biến hóa tự tại, từ bi phương tiện, đầy đủ trang nghiêm; vào tất cả cõi Phật và chỗ ngoại đạo, bình đẳng như như, lìa tâm, ý, ý thức, ấy là sự lần lượt chuyển thân của Bồ Tát, cho đến chứng đắc Pháp thân Như Lai, cuối cùng qui về Vô Sở Đắc.
– Đại Huệ! Cho nên muốn đắc vào Pháp thân Như Lai, phải xa lìa ấm, giới, nhập và nhân duyên làm phương tiện của tâm, duy tâm thẳng quán xét lỗi vọng tưởng tập khí hư dối từ vô thỉ, sanh, trụ, diệt là vọng tưởng hư dối, Phật Địa vô sanh, tư duy tam giới chẳng thật có, đến Tự giác Thánh trí, tự tâm tự tại, đến chỗ hành vô sở hành, như hạt châu Ma Ni tùy sắc (hạt châu tự chẳng có màu sắc, mà tùy màu sắc của người xem hiện ra màu sắc), nghĩa là tùy tâm lượng vi tế của chúng sanh mà biến hóa thân hình, nên chư Địa lần lượt được tương tục kiến lập. Cho nên, này Đại Huệ! Việc tự thành tựu pháp thiện phải siêng tu học.
Khi ấy Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng:
– Thế Tôn nói tâm, ý, ý thức, tướng năm pháp tự tánh là tất cả chư Phật, Bồ Tát sở hành, cảnh giới sở duyên chẳng phải hòa hợp, hiển bày tất cả pháp do tự tâm hiện, thành tướng chơn thật. NHẤT THIẾT PHẬT NGỮ TÂM là Phật thuyết cảnh giới Tạng thức của pháp thân, ở nơi trụ xứ của chư Đại Bồ Tát tại núi Ma La Da trong biển thuộc nước Lăng Già.
Khi ấy, Thế Tôn bảo Đại Huệ Bồ Tát rằng:
– Do bốn nhân duyên mà nhãn thức chuyển. Thế nào là bốn? 1.- Tự tâm bất giác hiện ra nhiếp thọ. 2.- Lỗi tập khí hư ngụy từ vô thỉ. 3.- Chấp trước tự tánh của tánh thức. 4.- Muốn thấy đủ thứ sắc tướng. Ấy gọi là bốn thứ nhân duyên từ dòng suối chảy của Tạng thức, sanh ra làn sóng của chuyển thức.
– Như nhãn thức chuyển thì tất cả vi trần, lỗ chân lông của tất cả các căn đều sanh, các cảnh giới khác theo đó sanh khởi cũng như thế. Ví như gương sáng hiện các sắc tướng, ví như gió lớn thổi nước biển thì gió cảnh giới bên ngoài thổi biển của tâm, nổi làn sóng thức cũng vậy. Bởi vì tướng sở tác khác hay chẳng khác, do nghiệp duyên hòa hợp sanh tướng, lại chấp trước sâu vào, chẳng thể liễu tri tự tánh của các sắc, nên cái thân năm thức theo đó mà chuyển.
– Đại Huệ! Cái thân năm thứ thức kia đều do cái biết của tướng phần đoạn sai biệt mà có, nên biết đó là cái thân của ý thức. Cái thân chuyển kia chẳng tự cho là tướng của Ta chuyển, vì tự tâm hiện vọng tưởng chấp trước mà chuyển, nên mỗi mỗi tướng hư vọng cùng chuyển; do phần đoạn sai biệt, phân biệt cảnh giới gọi là chuyển. Như người tu hành vào thiền chánh định, chuyển tập khí vi tế mà chẳng tự biết, lại cho là thức diệt rồi mới nhập thiền định, thật thì thức chẳng diệt mà nhập chánh định.Vì chủng tử tập khí chẳng diệt nên cảnh giới chuyển mà thức chẳng diệt, chẳng vì không nhiếp thọ mà diệt vậy.
– Đại Huệ! Bờ bến cứu cánh của Tạng thức vi tế như thế, ngoài chư Phật và Trụ Địa Bồ Tát ra, các Thanh Văn, Duyên Giác, ngoại đạo tu hành sở đắc, dù có sức trí huệ của Tam muội, tất cả chẳng thể đo lường liễu tri được.
– Ngoài tướng trí huệ khéo léo phân biệt, phán đoán nghĩa cú, thắng tiến vô biên, thiện căn thuần thục, lìa vọng tưởng hư dối của tự tâm hiện, tĩnh tọa trong núi rừng, tu hành trải qua các bậc hạ, trung, thượng, được thấy vọng tưởng lưu chú của tự tâm, được vô lượng quốc độ chư Phật quán đảnh, được sức tự tại thần thông Tam muội, được biết các Thiện tri thức, quyến thuộc Phật tử, những tâm, ý, ý thức kia, chúng sanh nghiệp ái vô tri vào biển sanh tử, cảnh giới tư tưởng hư vọng ấy v.v… đều do tự tâm sở hiện. Đến đây, các thứ nhân duyên kể trên thảy đều đã siêu thoát. Cho nên Đại Huệ! Những người tu hành nên gần gũi bậc Tri thức tối thắng.
Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng:
Ví như sóng biển cả,
Là do gió thổi mạnh.
Sóng to vỗ biển rộng,
Chẳng có lúc ngừng nghỉ.
Biển Tạng thức thường trụ,
Gió cảnh giới lay động.
Mỗi mỗi sóng của Thức,
Aò ạt mà nổi dậî
Các thứ màu sắc đẹp,
Các thứ đồ ăn ngon,
Các thứ hoa quả tốt,
Ánh sáng của nhựt nguyệt,
Hoặc khác hoặc chẳng khác,
Như biển nổi làn sóng.
Bảy thức cũng như thế,
Tâm cảnh hòa hợp sanh.
Như nước biển biến chuyển,
Nổi đủ thứ làn sóng.
Bảy thức cũng như thế,
Tâm cảnh hòa hợp sanh.
Nói chỗ Tạng thức kia,
Mỗi mỗi các thức chuyển.
Là do ý thức kia,
Suy nghĩ nghĩa các tướng.
Có tám tướng chẳng hoại,
Vô tướng vốn vô tướng.
Ví như làn sóng biển,
Nước biển chẳng sai biệt.
Thức tâm cũng như thế,
Chẳng thể có khác biệt.
Tâm gọi Tích tập nghiệp,
Ý gọi rộng Tích tập.
Thức do thức nhận biết,
Hiện cảnh nói có năm (1).
(1) HIỆN CẢNH NÓI CÓ NĂM: Tiền ngũ thức nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, hiện cảnh tiền trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc.
Đại Huệ Bồ Tát dùng kệ hỏi Phật:
Những sắc tướng xanh đỏ,
Do các thức sanh khởi.
Nổi pháp như làn sóng,
Nghĩa ấy xin Phật thuyết.
Thế Tôn dùng kệ đáp rằng:
Những sắc tướng xanh đỏ,
Làn sóng vốn chẳng có.
Đều do tâm tích tập,
Phàm phu nếu khai ngộ,
Nghiệp kia vốn chẳng có,
Do tự tâm nghiếp thọ.
Lìa năng nhiếp, sở nhiếp,
Đồng như làn sóng kia,
Kiến lập thân thọ dụng,
Là hiện thức chúng sanh.
Nơi các nghiệp hiện kia,
Đều như làn sóng nước.
*
Đại Huệ Bồ Tát lại dùng kệ nói rằng:
Tánh làn sóng biển cả,
Aò ạt vẫn biết được.
Tạng cùng nghiệp cũng vậy,
Tại sao chẳng hiểu biết?
Thế Tôn dùng kệ đáp:
Phàm phu chẳng trí huệ,
Tạng thức như biển cả.
Nghiệp tướng như làn sóng,
Theo đó dụ cho hiểu.
*
Đại Huệ Bồ Tát lại dùng kệ hỏi:
Mặt trời sáng soi khắp,
Chúng sanh thượng, trung, hạ.
Như lai soi thế gian,
Khai thị lời chơn thật.
Tại sao chia nhiều thừa,
Thuyết pháp nói chẳng thật?
Khi ấy, Thế Tôn dùng kệ đáp rằng:
Nếu nói lời chơn thật,
Tâm họ chẳng chơn thật.
Ví như làn sóng biển,
Như bóng gương, mộng huyễn.
Tất cả cùng lúc hiện,
Cảnh giới tâm cũng thế.
( Bản thể của tâm cùng khắp không gian,
thời gian, nên cùng lúc hiện, chẳng có trước sau)
Nay cảnh giới chẳng đủ,
Là do nghiệp chuyển sanh,
Thức do thức nhận biết,
Ý do ý cho vậy.
Năm thức tùy cảnh hiện,
Chẳng thứ lớp nhất định.
Ví như thợ vẽ khéo,
Và học trò thợ vẽ.
Bút màu vẽ hình tướng,
Thuyết ta cũng như thế.
Màu sắc vốn vô nghĩa,
Chẳng phải bút hay lụa.
Vì thỏa lòng chúng sanh,
Vẽ đủ thứ hình tướng.
Dùng lơì nói khai thị,
Thật nghĩa lìa văn tự.
Phân biệt tiếp sơ cơ,
Tu hành đến chơn thật.
Chỗ chơn thật tự ngộ,
Lìa năng giác, sở giác.
Đây vì Phật tử nói,
Kẻ ngu vọng phân biệt.
Thế gian đều như huyễn,
Dù hiện chẳng chơn thật.
Thuyết pháp cũng như thế,
Tùy sự lập phương tiện.
Lương y trị bệnh nhân,
Tùy bệnh mà cho thuốc.
Thuyết pháp chẳng ứng cơ,
Nơi họ thành phi thuyết.
Tùy tâm lượng chúng sanh,
Như Lai ứng cơ thuyết.
Phi cảnh giới vọng tưởng,
Thanh văn chẳng có phần.
Vì thương xót kẻ mê,
Thuyết cảnh giới tự giác.
– Lại nữa Đại Huệ! Nếu Đại Bồ Tát muốn biết hiện lượng của tự tâm, nhiếp thọ và kẻ nhiếp thọ đối với cảnh giới vọng tưởng, phải lìa phong tục tập quán thế gian. Ngày đêm sáu thời thường tự cảnh tỉnh, phương tiện tu hành, phải lìa ngôn luận của người ác kiến và các tướng thừa Thanh Văn, Duyên Giác, thông đạt tướng vọng tưởng của tự tâm hiện.
– Lại nữa Đại Huệ! Đại Bồ Tát kiến lập trí huệ, nơi ba tướng của Thánh trí nên siêng tu học.
– Thế nào là ba tướng của Thánh trí? Ấy là tướng Vô Sở Hữu, tướng Nhất Thiết chư Phật tự nguyện xứ, tướng cứu cánh Tự Giác Thánh trí. Tu hành được đến đây rồi, phải xả bỏ tướng bệnh của trí huệ tâm, được lên Bồ Tát đệ Bát Địa, ấy là do quá trình tu tập ba tướng kể trên mà sanh khởi.
– Đại Huệ! Nói TƯỚNG VÔ SỞ HỮU, là theo cách tu tập những tướng Thanh Văn, Duyên Giác và ngoại đạo mà sanh khởi. Nói TƯỚNG TỰ NGUYỆN XỨ, là nói chỗ chư Phật xưa tự nguyện tu mà sanh khởi. Nói TƯỚNG CỨU CÁNH TỰ GIÁC THÁNH TRÍ, là đối với tất cả pháp tướng chẳng chấp trước, được tiến hành đến đắc Tam muội thân như huyễn của chư Phật mà sanh khởi. Đây gọi là ba tướng Thánh trí. Nếu người thành tựu ba tướng Thánh trí này, thì được đến cảnh giới cứu cánh của Tự Giác Thánh trí. Cho nên Đại Huệ! Ba tướng Thánh trí nên siêng tu học.
Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát biết tâm niệm của chúng Đại Bồ Tát đang nghĩ tên Kinh Thánh Trí Phân Biệt Tự Tánh, nên thừa sức oai thần của tất cả Phật, bạch rằng:
– Thế Tôn! Cúi xin Phật thuyết kinh Thánh Trí Phân Biệt Tự Tánh, y theo Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác, phân biệt nghĩa một trăm lẻ tám câu, theo đó thuyết Đại Bồ Tát vào tự tướng và cộng tướng của vọng tưởng tự tánh. Vì phân biệt thuyết tự tánh vọng tưởng thì được khéo quan sát nhơn pháp Vô ngã, tẩy sạch vọng tưởng, soi sáng chư Địa, siêu việt tất cả Thanh Văn, Duyên Giác và thiền định của ngoại đạo, biết khắp cảnh giới sở hành bất khả tư nghì của Như Lai, lìa bỏ năm pháp tự tánh. Dùng pháp thân trí huệ của chư Phật Như Lai khéo tự trang nghiêm, khởi cảnh giới huyễn, lên Đâu Suất Thiên Cung, Sắc Cứu Cánh Thiên Cung trong tất cả cõi Phật, cho đến được Pháp thân thường trụ của Như Lai (như Phật Thích Ca từ Đâu Suất Thiên Cung giáng sinh thành Phật).
– Có một thứ ngoại đạo, khởi vọng tưởng chấp trước đoạn diệt, xóa hết cái nhân giác tri, cho tất cả hư vô như thỏ không sừng, cho tất cả pháp cũng như thế. Ngoài ra còn có ngoại đạo căn cứ theo chỗ vi tế của Đà La Phiếu (chơn lý), vọng chấp các pháp mỗi mỗi sai biệt, sanh kiến chấp ấy, cho là không có sừng thỏ, thì lại nghĩ tưởng phải có sừng trâu. Đại Huệ! Họ rơi vào nhị kiến HỮU và VÔ, chẳng rõ cảnh giới tâm lượng của tự tâm, vọng tự thêm bớt, kiến lập thân thọ dụng, vọng tưởng có căn cứ số lượng. Đại Huệ! Tất cả pháp tánh cũng như thế, lìa hữu lìa vô, chẳng nên suy tưởng cho là thật có hay thật không.
– Đại Huệ! Nếu lìa hữu, vô mà cho thỏ không sừng là tưởng thật không, cho trâu có sừng là tưởng thật có, đều gọi là tà tưởng. Đại Huệ! Theo cảnh giới Thánh trí, nên lìa nhị kiến đối đãi.
Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng:
– Thế Tôn! Người chẳng vọng tưởng thấy tướng vô sanh rồi, theo đó suy nghĩ quán xét, chẳng sanh vọng tưởng, nói là VÔ ư?
Phật bảo Đại Huệ:
– Chẳng phải quán xét chẳng sanh vọng tưởng mà nói VÔ. Tại sao? Vì vọng tưởng do chấp thật mà sanh; như theo chấp thật có và không sừng mà sanh ra vọng tưởng. Nếu chẳng chấp thật thì lìa hai tướng tương đối. Do quán HỮU nên nói thỏ không sừng, do quán VÔ nên nói trâu có sừng. Đại Huệ! Vì pháp tương đối chẳng phải chánh nhân, nên nói hữu nói vô, cả hai đều chẳng thành. Nói THÀNH là do chấp pháp tương đối mà thành.
– Đại Huệ! Lại còn có ngoại đạo chấp trước việc sắc không sanh khởi kiến chấp, chẳng biết thực tế của hư không, nói lìa sắc lìa hư không, sanh khởi kiến chấp ngằn mé của vọng tưởng.
– Đại Huệ! Hư không là sắc, thuộc về sắc chủng. Sắc là hư không, do năng trì, sở trì mà kiến lập, phân biệt tánh sắc tánh không. Đại Huệ! Phải biết tứ đại chủng sanh khởi, tự tướng riêng biệt, chẳng trụ hư không, nhưng không phải chẳng có hư không.
– Như thế Đại Huệ! Vì chấp pháp tương đối, quán trâu có sừng nên nói thỏ không sừng. Nếu đem sừng trâu phân tích thành vi trần, lại phân tích vi trần cho đến cực vi thì sát na chẳng có sở trụ. Họ quán theo như thế nào mà nói là VÔ ư! Nếu quán vật khác thì pháp cũng như vậy.
Khi ấy, Thế Tôn bảo Đại Huệ Bồ Tát rằng:
– Nên lìa sừng thỏ, sừng trâu, sắc tướng hư không, kiến chấp vọng tưởng. Các Đại Bồ Tát nên suy xét vọng tưởng do tự tâm hiện, Bồ Tát vào tất cả quốc độ, dùng phương tiện của tự tâm dạy bảo chúng sanh.
Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng:
Tất cả sắc và tâm,
Sanh khởi từ nơi không.
Thân thọ dụng kiến lập,
Tạng thức hiện chúng sanh.
Tâm, ý và ý thức,
Pháp tự tánh có năm (1).
Vô ngã có hai thứ (2),
Do Như Lai rộng thuyết.
Dài, ngắn, và có, không,
Lần lượt sanh lẫn nhau.
Vì KHÔNG lập nghĩa CÓ;
Vì CÓ lập nghĩa KHÔNG.
Nếu phân biệt vi trần,
Vọng sắc chẳng thể sanh.
Chỗ an lập tâm lượng,
Không nên có ác kiến
Phi cảnh giới giác tưởng,
Tưởng Thanh Văn cũng thế,
Cảnh giới của tự giác,
Cứu thế phương tiện thuyết.
-
(1) NĂM PHÁP CỦA TỰ TÁNH: Tướng, danh, phân biệt, chánh trí và như như.
(2) HAI THỨ VÔ NGÃ: 1.- Nhân (người) vô ngã 2.- Pháp vô ngã.
Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát vì trừ sạch dòng suối ý thức do tự tâm hiện, lại hỏi Như Lai rằng:
– Bạch Thế Tôn! Làm sao trừ sạch dòng suối ý thức do tự tâm hiện của tất cả chúng sanh? Ấy là pháp đốn hay tiệm ư?
Phật bảo Đại Huệ:
– Phi tiệm phi đốn, cũng tiệm cũng đốn. Nói TI Ệ M, ví như trái Yêm Ma La tiệm chín mùi; như đại địa tiệm sanh vạn vật, Như Lại trừ sạch dòng suối ý thức do tự tâm hiện của tất cả chúng sanh cũng như thế, nói ĐỐN, ví như gương sáng đốn hiện tất cả sắc tướng vô tướng; như ánh sáng mặt trời đốn soi tất cả sắc tướng, Như Lai trừ sạch dòng suối ý thức do tự tâm hiện của tất cả chúng sanh cũng như thế.
– Đại Huệ! Pháp Y Phật thuyết tất cả pháp vào tự tướng và cộng tướng là tập khí do tự tâm hiện, vọng tưởng tương tục do tự tâm so sánh chấp trước, mỗi mỗi không thật như huyễn. Thật ra, mỗi mỗi so sánh chấp trước đều bất khả đắc.
– Lại nữa, Đại Huệ! Vì so sánh chấp trước duyên khởi tự tánh, sanh ra tướng vọng tưởng của tự tánh. Đại Huệ! Như nhà ảo thuật, nương cỏ cây, ngói đá làm ra đủ thứ cảnh vật huyễn hóa, do đó sanh khởi bao nhiêu hình sắc, sanh khởi đủ thứ vọng tưởng, những vọng tưởng kia vốn chẳng chơn thật.
– Như thế, Đại Huệ! Y theo tánh duyên khởi sanh khởi vọng tưởng, y mỗi mỗi vọng tưởng hình thành mỗi mỗi sự vật hiện hành, ấy gọi là Y PHẬT thuyết pháp.
– Đại Huệ! Nói HÓA PHẬT là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí huệ, lìa ấm, giới, nhập, giải thoát, thức tướng phân biệt, là do quán xét kiến lập, siêu việt kiến chấp ngoại đạo và kiến chấp cõi Vô Sắc.
– Đại Huệ! Nói PHÁP PHậT, là lìa phan duyên, lìa tất cả sở tác, tướng căn và số lượng đều diệt, chẳng phải tướng ngã chấp và cảnh giới sở chấp của phàm phu, Thanh Văn, Duyên Giác và ngoại đạo. Ấy là do tướng cứu cánh sai biệt của Tự Giác Thánh Trí kiến lập. Cho nên, Đại Huệ! Tướng cứu cánh sai biệt của Tự Giác Thánh trí nên siêng tu học, và kiến chấp do tự tâm hiện cần phải diệt trừ.
– Lại nữa, Đại Huệ! Có hai thứ tướng phân biệt thông với thừa Thanh Văn, ấy là: Chấp tướng Đắc Tự Giác Thánh Sai Biệt và tướng so sánh chấp trước tánh vọng tưởng của tự tánh.
– Thế nào là tánh “Đắc Tự Giác Thánh Sai Biệt” của Thanh Văn? Ấy là cảnh giới Chơn Đế, vô thường, khổ, không, vô ngã, lìa dục tịch diệt, dứt ấm, giới, nhập, tự cộng tướng, ngoài bất hoại tướng, như thật biết tâm được tịch lặng. Tâm tịch lặng xong, được Thiền định giải thoát Tam muội đạo quả. Nhưng chánh thọ giải thoát ấy chẳng lìa tập khí biến dịch sanh tử bất tư nghì, đắc tự giác Thánh, ham trụ thừa Thanh Văn, ấy gọi là tướng Đắc Tự Giác Thánh Sai Biệt của Thanh Văn.
– Đại Huệ! Ham trụ Đắc Tự Giác Thánh Sai Biệt của Đại Bồ Tát, chẳng phải ham pháp môn diệt và ham chánh định, chỉ vì thương xót chúng sanh, và theo đúng bản nguyện mà không thủ chứng. Đại Huệ! Đại Bồ Tát đối với các tướng Đắc Tự Giác Thánh Sai Biệt của thừa Thanh Văn ham thích, chẳng nên tu học.
– Đại Huệ! Thế nào là so sánh chấp trước tánh vọng tưởng tự tánh của thừa Thanh Văn? Ấy là đại chủng xanh, vàng, đỏ, trắng, địa, thủy, hỏa, phong, chẳng do tạo tác mà sanh tự tướng, cộng tướng, chỉ là cái phương tiện của Phật thuyết. Người Thanh Văn do đó khởi tự tánh vọng tưởng, Đại Bồ Tát đối với pháp ấy nên biết nên xả, liền nhập pháp Vô Ngã tướng và diệt nhơn Vô Ngã tướng, lần lượt tiến đến chư Địa, ấy gọi là tướng so sánh chấp trước tánh vọng tưởng tự tánh của thừa Thanh Văn.
Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng:
– Thế Tôn! Thế Tôn sở thuyết cảnh giới thường bất tư nghì của Đệ Nhất Thánh Trí và cảnh giới Đệ Nhất Nghĩa, chẳng phải những ngoại đạo sở thuyết nhân duyên thường bất tư nghì ư?
Phật bảo Đại Huệ:
– Chẳng phải nhân duyên đắc thường bất tư nghì của ngoại đạo. Tại sao? Thường bất tư nghì của những ngoại đạo, chẳng do tự tướng thành. Nếu thường bất tư nghì chẳng do tự tướng thành thì cớ sao được hiển hiện thường bất tư nghì? Lại nữa, Đại Huệ! Bất tư nghì nếu do tự tướng thành thì ắt phải là pháp thường, nếu do người làm ra thì chẳng thể thành thường bất tư nghì, vì do làm mới có, chẳng phải thường có vậy.
– Đại Huệ! Ta nói Đệ Nhất Nghĩa thường bất tư nghì, tướng nhân thành Đệ Nhất Nghĩa là lìa tánh phi tánh, nên đắc tướng tự giác mà vô tướng. Cái nhân của Đệ Nhất Nghĩa Trí, vì có cái nhân lìa tánh phi tánh, ví như hư không vô tác, Niết Bàn tận diệt, nên chính pháp ấy tự thường, chẳng do tạo tác thành thường. Như thế, chẳng đồng với định luận thường bất tư nghì của ngoại đạo.
– Đại Huệ! Thường bất tư nghì này do chư Như Lai Tự Giác Thánh Trí chứng đắc, nên thường bất tư nghì của Tự Giác Thánh Trí, cần phải tu học.
– Lại nữa, Đại Huệ! Pháp thường bất tư nghì của ngoại đạo chẳng có tánh thường, vì có cái nhân của tướng khác, chẳng phải cái nhân của sức tướng tự thành. Lại nữa, Đại Huệ! Pháp thường bất tư nghì của ngoại đạo có sở tác, tánh phi tánh vô thường, theo kiến chấp suy tư tự cho là thường.
– Đại Huệ! Pháp ta cũng dùng nhân duyên như thế, vì tánh phi tánh, chẳng lập sở tác, chẳng có thường kiến, nơi cảnh giới Tự Giác Thánh Trí, nói cái thường ấy tự vô nhân ( chẳng có sự bắt đầu ). Đại Huệ! Nếu các ngoại đạo lập cái nhân tướng thành thường bất tư nghì, lập cái nhân của tự tướng, nói tánh phi tánh, thì đồng như sừng thỏ, vì pháp thường bất tư nghì của họ chỉ có ngôn thuyết vọng tưởng. Bọn ngoại đạo có cái lỗi như thế. Tại sao? Vì chỉ có ngôn thuyết vọng tưởng, đồng như sừng thỏ, chẳng phải do tự tướng vốn saün đầy đủ.
– Đại Huệ! Pháp thường bất tư nghì của Ta do tướng tự giác chứng đắc, lìa sở tác, tánh phi tánh, nên tự vốn là thường, chẳng phải ngoài tánh phi tánh, suy nghĩ pháp vô thường cho là thường. Đại Huệ! Nếu ngoài tánh phi tánh, pháp vô thường suy nghĩ cho là thường, là cái thuyết thường bất tư nghì của ngoại đạo. Vì họ chẳng biết cái tướng của tự nhân thường bất tư nghì vốn saün đầy đủ, nên xa cách với tướng cảnh giới đắc Tự Giác Thánh Trí, họ chẳng nên thuyết.
– Lại nữa, Đại Huệ! Các Thanh Văn sợ cái khổ của vọng tưởng sanh tử mà cầu Niết Bàn, chẳng biết tất cả tánh sai biệt của sanh tử Niết Bàn là vọng tưởng phi tánh, do cảnh giới các căn thôi nghĩ, cho là Niết Bàn, chẳng phải chuyển Tạng thức thành Tự Giác Thánh Trí vậy.
– Thế nên, Phật đối với phàm phu nói có Tam thừa, nói những tâm lượng vốn chẳng thật có, họ chẳng biết cảnh giới tự tâm hiện của chư Như Lai nơi quá khứ, hiện tại, vị lai, mà so sánh chấp trước cảnh giới ngoài tâm hiện, nên thường lưu chuyển trong vòng sanh tử.
– Lại nữa, Đại Huệ! Tất cả pháp vốn vô sanh, ấy là quá khứ, hiện tại, vị lai chư Phật sở thuyết. Tại sao? Nói Tự TÂM HIỆN, là tánh phi tánh, lìa hữu phi hữu mà sanh. Đại Huệ! Tất cả tánh vô sanh thì tất cả pháp như sừng thỏ, mà phàm phu ngu si, vì tự tánh vọng tưởng chấp cho là thật.
– Đại Huệ! Tất cả pháp Vô Sanh, là cảnh giới của Tự Giác Thánh Trí, tất cả tướng tự tánh của tất cả tánh vốn vô sanh, chẳng phải hai thứ cảnh giới vọng tưởng nhị kiến của phàm phu, kiến lập tướng tự tánh của sắc thân và tài ( sở hữu của thân ). Đại Huệ! Chuyển cái tướng năng nhiếp, sở nhiếp của Tạng thức mà phàm phu đọa vào nhị kiến của sanh, trụ, diệt, hy vọng tất cả tánh có sanh, sanh những vọng tưởng hữu và phi hữu, chẳng phải Thánh Hiền vậy.
– Lại nữa, Đại Huệ! Có năm thứ chủng tánh Vô gián. Thế nào là năm? Ấy là: Thanh Văn thừa Vô gián chủng tánh, Duyên Giác thừa Vô gián chủng tánh, Như Lai thừa Vô gián chủng tánh, Bất định chủng tánh và Các biệt chủng tánh ( ngoại đạo chủng tánh ).
– Thế nào là THANH VĂN THỪA VÔ GIÁN CHỦNG TÁNH? Nếu có người nghe nói đến ấm, giới, nhập, tự cộng tướng, lúc ấy lỗ chân lông toàn thân cảm thấy nhẹ nhàng yên vui và ham tu trí tướng, chẳng tu tướng duyên khởi phát ngộ, khởi tâm đoạn dứt tập khí phiền não, nhưng chẳng đoạn, chẳng độ bất tư nghì biến dịch sanh tử, chỉ độ phần đoạn sanh tử, cho là sanh tử của ta đã hết, phạm hạnh đã lập, sau này chẳng thọ sanh nữa, như thật biết tu tập nhân vô ngã, cho đến chứng đắc Niết Bàn của Thanh Văn, ấy gọi là Thanh Văn Thừa Vô Gián Chủng Tánh.
– Đại Huệ! Thế nào là DUYÊN GIÁC THỪA VÔ GIÁN CHỦNG TÁNH? Nếu có người nghe nói những khác biệt của nhân duyên Vô Gián, toàn thân lông dựng lên, rơi lệ dầm dề, đối với những tướng chẳng phải mười hai nhân duyên thì cảm thấy không thích, mỗi mỗi tự thân mỗi mỗi thần thông, hoặc lìa hoặc hợp, đủ thứ biến hóa, lúc nghe thuyết này, tâm liền ngộ nhập. Nếu biết họ thuộc về Duyên Giác Thừa Vô Gián chủng tánh rồi, tùy thuận căn tánh của họ mà vì họ thuyết pháp Duyên Giác Thừa, ấy gọi là tướng Duyên Giác Thừa Vô Gián Chủng Tánh.
– Đại Huệ! NHƯ LAI THỪA VÔ GIÁN CHỦNG TÁNH có bốn thứ: 1.- Tự tánh pháp Vô Gián chủng tánh. 2.- Lìa tự tánh pháp Vô Gián chủng tánh. 3.- Đắc tự giác Thánh Vô Gián chủng tánh. 4.- Ngoài sát thù thắng ( ngoài quốc độ thù thắng, có nghĩa là Vô sở trụ ) Vô Gián chủng tánh. Đại Huệ! Nếu người nghe thuyết bốn việc này, và lúc nghe thuyết cảnh giới bất tư nghì thân tài ( ngã và ngã sở ) kiến lập do tự tâm hiện, tâm chẳng kinh sợ, ấy gọi là tướng Như Lai Thừa Vô Gián Chủng Tánh.
– Đại Huệ! BẤT ĐỊNH CHỦNG TÁNH là: Khi người nghe thuyết ba thứ chủng tánh kể trên, tùy theo lúc nghe chủng tánh nào thì ngộ nhập chủng tánh ấy, theo đó tu tập mà thành tựu. Như nghe thuyết thừa Thanh Văn thì thành chủng tánh Thanh Văn, nghe thuyết thừa Duyên Giác thì thành chủng tánh Duyên Giác, nghe thuyết thừa Như Lai thì thành chủng tánh Như La, ấy gọi là Bất Định Chủng Tánh.
– Đại Huệ! CÁC BIỆT VÔ GIÁN là: Những chúng sanh còn chấp thật kiến giác như ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mạng, tăng trưởng thiện căn, sĩ phu v.v… mà cầu chứng Niết Bàn. Lại nghe lời thuyết pháp của ngoại đạo, cho tất cả tánh đều có kẻ tác, nói đó là Niết Bàn, cho như thế là giác ngộ, đối với pháp Vô Ngã chẳng có phần, nên họ không thể giải thoát. Ấy là những người tu Thanh Văn thừa mà thuộc về ngoại đạo Vô Gián chủng tánh, chẳng xuất luân hồi mà cho là xuất, ấy gọi là Các Biệt Vô Gián Chủng Tánh.
– Đại Huệ! Người sơ Trị Địa (1) nói kiến lập chủng tánh là vì muốn siêu nhập Vô Sở Hữu Địa, nên có sự kiến lập này. Người tự tu tự giác, phải dứt sạch tập khí phiền não, thấy pháp Vô Ngã, từ đắc Tam muội của Thanh Văn, cho đến năm thứ chủng tánh kia, cuối cùng đều sẽ chứng đắc Pháp Thân Tối Thắng của Như Lai.
Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng:
Tu Đà Hoàn Nhập Lưu,
Tư Đà Hàm Vãng Lai.
A Na Hàm Bất Hoàn,
Đến quả A La Hán.
Gọi là thừa Thanh Văn.
Tam thừa và Nhất Thừa,
Phi thừa đúng ta thuyết.
Phàm phu kém trí huệ.
Chư Thánh xa lìa tịch.
Pháp môn Đệ Nhất Nghĩa,
Xa lìa giáo Nhị thừa,
Trụ nơi Vô sở hữu.
Sao lại lập Tam thừa.
Chư thiền pháp vô lượng,
Vô Sắc Tam Ma Đề,
Thọ tưởng thảy tịch diệt.
Cũng chẳng có tâm lượng.
(1) TRI ĐIA: Trị tâm địa như khai thác đất hoang.
Lược Giải:
Bốn câu trước là tứ quả của Thanh Văn, PHI THỪA tức là Tối Thượng Thừa, chẳng thuộc tam thừa và Nhất thừa, nên nói Phi Thừa. TịCH đối với động, còn nằm trong tương đói, chư Thánh chẳng trụ nơi tịch, nên nói XA LÌA TịCH. Trụ Nơi Vô Sở Hữu là trụ nơi vô sở trụ, chứ chẳng phải chấp không. LẬP TAM THỪA là tạm thiết lập phương tiện để độ chúng sanh. Pháp Thiền Vô Lượng, chẳng thể kể xiết, như phàm phu thiền, ngoại đạo thiền, Tiểu thừa thiền, Đại thừa thiền, mỗi mỗi đều có nhiều thứ. Nay nói VÔ SẮC, là gồm có bốn thứ thiền quán của Vô Sắc Giới. TAM MA ĐỀ là thay cho ba thứ thiền quán của giáo môn. Nói chung tất cả thiền đều muốn đối trị các bệnh chấp ngũ uẩn. Hai thứ Thọ Tưởng là thay cho ngũ uẩn ( Sắc, thọ, tưởng, hành, thức), nên nói Thọ Tưởng Thảy Đều Diệt. Tâm Lượng là chỉ số lượng của tâm, vì bản thể của tâm cùng khắp không gian và thời gian, chẳng có số lượng, nên nói Chẳng Có Tâm Lượng.
Lược Giải hết
CHÁNH VĂN:
– Đại Huệ! Nói NHẤT XIỂN ĐỀ thật chẳng phải Nhất Xiển Đề. Nếu Nhất Xiển Đề là thật, thì ai chuyển được ai? Vậy thế gian làm sao giải thoát? Đại Huệ! Có hai thứ Nhất Xiển Đề:
1.- Xả bỏ tất cả thiện căn và xả bỏ phát nguyện chúng sanh từ vô thỉ. Sao nói xả bỏ tất cả thiện căn? Ấy là vì phỉ báng Bồ Tát Tạng và nói lời ác rằng: “Chẳng phải tùy thuận kinh luật mà được giải thoát”. Vì xả bỏ tất cả thiện căn nên chẳng thể chứng nhập Niết Bàn.
2.- Bồ Tát vì độ tất cả chúng sanh được chứng Niết Bàn mà có bản nguyện phương tiện tự chẳng thủ chứng Niết Bàn. Đại Huệ! Pháp Niết Bàn kia, gọi là Pháp Tướng chẳng Niết Bàn. Đây cũng thuộc về loại Nhất Xiển Đề.
Đại Huệ bạch Phật rằng:
– Thế Tôn! Tại sao nhất định chẳng thủ chứng Niết Bàn?
Phật bảo Đại Huệ:
– Bồ Tát Nhất Xiển Đề, biết tất cả pháp vốn đã là Niết Bàn, chẳng cầu thủ chứng Niết Bàn nữa, mà chẳng phải xả bỏ tất cả thiện căn, thành Nhất Xiển Đề kia vậy.
– Đại Huệ! Người Nhất Xiển Đề xả bỏ tất cả thiện căn, lại nhờ thần lực Như Lai, cũng có thể tái phát thiện căn. Tại sao? Vì Như Lai chẳng xả bỏ tất cả chúng sanh. Do đó, nên nói Bồ Tát Nhất Xiển Đề chẳng thủ chứng Niết Bàn.
– Lại nữa, Đại Huệ! Đại Bồ Tát phải thấu hiểu ba thứ tự tánh. Thế nào là ba thứ tự tánh (1)? Ấy là: Vọng tưởng tự tánh ( Biến kế sở chấp ), nhân duyên tự tánh ( Y tha khởi ) và thành tựu tự tánh ( Viên thành thật ). Vọng tưởng tự tánh do chấp trước tướng sanh.
(1) BA THỨ TỰ TÁNH: Có hai thứ: A. Là ba tánh: Thiện, ác, vô ký (thuộc về danh số). B. Là ba tánh: Biến kế sở chấp, Y tha khởi và Viên thành thật (thuộc về thuật ngữ).
GHI CHÚ:
A. Tánh THIệN, ÁC, VÔ KÝ:
1.- Tánh THIệN: Là làm những việc có lợi ích cho bản thân và người khác nơi đời hiện tại và vị lai, tin tưởng tâm thiện là do chủng tử thiện căn sở tạo tất cả việc thiện, cũng gọi là thiện nghiệp.
2.- Tánh ÁC: Do ác tâm tham dục sanh khởi, tạo tất cả nghiệp, vì phạm tổn hại đến mình hoặc người khác nơi đời hiện tại và vị lai, thuộc về tánh ác, cũng gọi là ác nghiệp.
3.- Tánh VÔ KÝ: Là pháp phi thiện phi ác, chẳng có chút niệm nào dính mắc sự lợi ích hay tổn hại, chẳng thể ghi ra để phân biệt. Trong Duy Thức có hai thứ Vô Ký: Vô Ký có che lấp và Vô ký chẳng che lấp. Nói “Vô Ký có che lấp” là có tác dụng rất yếu của mê vọng, dù chẳng có sức để lợi ích hay tổn hại mình và người, nhưng có cái thể mê vọng che lấp Thánh đạo, những sự vật đồng như chướng này đều thuộc Vô Ký có che lấp, như thức thứ bảy. Nói “Vô Ký chẳng che lấp” là bản thể chẳng phải mê vọng, tự tánh rất yếu, chẳng có chút sức để lợi ích hay tổn hại cho mình và người, gọi là Vô Ký chẳng che lấp, như thức thứ tám và nội căn ngoại khí v.v… Đồng như tánh này đều thuộc Vô Ký chẳng che lấp. Gọi chung là tánh Vô Ký.
B. Tánh BIẾN, Y, VIÊN:
1.- Tánh BIẾN KẾ SỞ CHẤP: Do tập khí vọng tưởng của phàm phu có tánh chấp thật, so sánh chấp trước tất cả pháp gọi là BIẾN KẾ. Vì vọng tưởng biến kế mê chấp, chấp tất cả tánh thật có hay thật không, như thấy sợi dây lầm tưởng cho là con rắn, nhưng thật thì chẳng có bản thể của rắn, chỉ là vọng tình mê chấp cho là rắn thôi, ấy gọi là Biến Kế Sở Chấp.
2.- Tánh Y THA KHỞI: Là y theo nhân duyên mà sanh khởi tất cả vạn pháp. Chữ THA thay cho nhân duyên, do chủng tử của thức thứ tám làm đệ nhất nhân, đồng thời nhờ mỗi mỗi trợ duyên khác mà sanh khởi các tướng, lìa vọng tưởng mà tự tồn tại, cũng như sợi dây do bố gai, công cụ, nhân công làm nhân duyên mà sanh khởi, gọi là tánh Y Tha Khởi.
3.- Tánh VIÊN THàNH THậT: Nghĩa là viên mãn thành tựu tánh chơn thật, cũng gọi là pháp tánh, cũng gọi là như như, tức là thể tánh của tất cả pháp Vô Vi. Pháp tánh ở đây có hai nghĩa: Nói “Pháp Tánh tùy duyên” là tánh Y Tha Khởi, thuộc nghĩa thật của Đại thữa; hoặc nói “Pháp tánh là Sở Y” do tánh Y tha mà kiến lập, thuộc nghĩa quyền của Đại thừa ( phương tiện sở lập ).
Nhưng trong ba thứ tánh nầy, tánh Biến Kế Sở Chấp là vọng hữu, tánh Y Tha Khởi là giả hữu, tánh Viên Thành Thật là thật hữu. Còn nói ngược lại, tánh Biến Kế Sở Chấp là thật vô, tánh Y Tha Khởi là tương tự hữu, tánh Viên Thành Thật là chơn hữu, ba tánh này đầy đủ trong mọi sự vật. Như pháp quá khứ, vị lai, lông rùa sừng thỏ, cho là thật thì thuộc tánh Biến Kế Sở Chấp v.v… Nói tóm lại, pháp Vô Vi thuộc tánh Viên Thành Thật, ví như bông hoa, do vọng tưởng mê chấp cho là có tướng hoa thật, là tánh Biến Kế Sở Chấp, biết là từ nhân duyên sanh khởi, giả hiện tướng hoa, là tánh Y Tha Khởi, ngộ được thật tế của hoa, ngoài tánh và phi tánh, là tánh Viên Thành Thật vậy.
Ghi chú hết
Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng:
– Sao nói vọng tưởng tự tánh từ tướng sanh?
Phật bảo Đại Huệ:
– Sự tướng của duyên khởi tự tánh, do tướng hành hiển bày tướng sự, đối với tướng so đo chấp trước, thành có hai tướng vọng tưởng tự tánh, do Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác phương tiện kiến lập, gọi là danh tướng chấp trước tướng và sự tướng chấp trước tướng. Nói DANH TƯỚNG CHẤP TRƯỚC TƯỚNG là chấp trước các pháp trong ngoài; Sự TƯỚNG CHẤP TRƯỚC TƯỚNG là theo việc trong ngoài của tự tướng cộng tướng sanh khởi chấp trước như thế. Ấy gọi là tướng của hai thứ vọng tưởng tự tánh, vì nương theo nhân duyên mà sanh nên gọi là duyên khởi tự tánh.
– Thế nào là THÀNH TỰU TỰ TÁNH? Ấy là lìa vọng tưởng của hai thứ danh tướng và sự tướng, tức là cảnh giới sở hành của Tự Giác Thánh Trí do Thánh Trí sở chứng đắc, ấy gọi là Thành Tựu Tự Tánh, cũng gọi là Tâm Như Lai Tạng.
Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng:
Danh tướng và phân biệt,
Với hai thứ tự tánh.
Chánh trí và Như như,
Thành tựu năm pháp tướng.
– Đại Huệ! Ấy gọi là Quán Sát Ngũ Pháp Tự Tánh Tướng Kinh. Cảnh giới sở hành của Kinh này là ý thú Tự Giác Thánh Trí, chúng Đại Bồ Tát cần phải tu học.
– Lại nữa, Đại Huệ! Đại Bồ Tát khéo quán hai thứ tướng Vô ngã. Thế nào là hai thứ tướng Vô ngã? Ấy là Nhơn Vô ngã và Pháp Vô Ngã.
– Thế nào NHƠN VÔ NGÃ TRÍ? Là lìa ngã và ngã sở, lìa tụ duyên của Ấm, Giới, Nhập, lìa sự sanh khởi vô minh nghiệp ái, lục căn nhiếp thọ lục trần sanh ra lục thức, những chấp trước ấy đều phải lìa. Vì tất cả căn, thân ( Chánh báo ), khí giới ( Y báo ) đều do tự tâm hiện, là tướng của tự vọng tưởng, như dòng nước, như chủng tử, như đèn, như gió, như mây, sát na lần lượt hoại. Thô động như khỉ vượn, ưa chỗ bất tịnh như con ruồi, không biết đủ như gió thổi lửa, nhân tập khí hư ngụy từ vô thỉ như bánh xe đạp nước, đủ thứ thân sắc, sanh tử luân hồi trong lục đạo như huyễn thuật và thần chú mà tùy cơ phát khởi trí huệ, khéo biết tất cả tướng kia đều chẳng thật thì phá được nhơn ngã chấp, ấy gọi là Nhơn Vô Ngã Trí.
– Thế nào là PHÁP VÔ NGÃ TRÍ? Biết ấm, giới, nhập là vọng tưởng, tướng tự tánh, lìa ngã, ngã sở, những ấm, giới, nhập tích tụ, do dây trói của nghiệp ái lần lượt duyên nhau sanh khởi, thật tướng vốn chẳng lay động, các pháp cũng thế. Lìa tướng vọng tưởng tự cộng tướng chẳng thật, do sức vọng tưởng của phàm phu sanh ra, chẳng phải Thánh Hiền, vì tự tánh lìa tâm, ý, ý thức và năm pháp. Đại Huệ! Đại Bồ Tát khéo quán tất cả pháp Vô Ngã, khéo tu pháp Vô Ngã, thì Đại Bồ Tát chẳng bao lâu sẽ chứng đắc Sơ Địa, quán tướng Địa Vô Sở Hữu, quán sát mở mang giác huệ, đến Hoan Hỷ Địa, lần lượt tiến lên, siêu việt tướng cửu địa, chứng Pháp Vân Địa, ngay đó biến lập vô lượng bửu trang nghiêm, ngồi Đại Bửu Liên Hoa trong Đại Bửu cung điện, đồng một loại như tướng vua, có những quyến thuộc Bồ Tát từ tất cả cõi Phật đến vây quanh, được tay Phật quán đảnh, giống như sự quán đảnh của Thái Tử Chuyển Luân Thánh Vương. Từ phàm phu tu tập, sanh khởi cảnh giới huyễn của tự tánh, tới điạ vị siêu Phật tử, cho đến pháp Tự Giác Thánh Trí, sẽ được Pháp thân tự tận của Như Lai, hiện pháp Vô Ngã, ấy gọi là Pháp Vô Ngã tướng. Chúng Đại Bồ Tát cần nên tu học.
Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng:
– Thế Tôn! Cúi xin Phật thuyết pháp kiến lập và phủ định, khiến con và chư Đại Bồ Tát lìa kiến lập và phủ định của ác kiến nhị biên, chóng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Thế Tôn hứa khả sự thỉnh cầu của Đại Huệ Bồ Tát mà thuyết kệ rằng:
Kiến lập và phủ định,
Vốn chẳng có tâm lượng.
Thân thọ dụng kiến lập,
Tâm phàm chẳng thể biết.
Ngu si chẳng trí huệ,
Chấp kiến lập phủ định.
Khi ấy, Thế Tôn muốn hiển bày đại nghĩa này mà bảo Đại Huệ rằng:
– Có bốn thứ phi hữu mà lại có kiến lập. Thế nào là bốn?
1. Phi hữu tướng kiến lập.
2. Phi hữu kiến kiến lập.
3. Phi hữu nhân kiến lập.
4. Phi hữu tánh kiến lập.
Ấy gọi là bốn thứ kiến lập. Còn nói PHỦ ĐỊNH nghĩa là: Ở nơi sở lập kia vốn vô sở đắc, vì quán sát sai lầm mà khởi tâm phủ định, ấy gọi là Tướng Kiến Lập Phủ Định.
– Lại nữa, Đại Huệ! Thế nào là PHI HỮU TƯỚNG KIẾN LẬP TƯỚNG? Ấy là: Tự cộng tướng của ấm giới nhập vốn phi hữu mà khởi tâm chấp trước, cho là thế này thế kia, gọi là Phi Hữu Tướng Kiến Lập Tướng. Phi hữu tướng kiến lập tướng này, là lỗi vọng tưởng hư ngụy từ vô thỉ, do đủ thứ tập khí kiến chấp mà sanh khởi.
– Đại Huệ! PHI HỮU KIẾN KIẾN LẬP TƯỚNG là kiến chấp ấm, giới, nhập, ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mạng, nuôi dưỡng thiện căn ( kẻ làm ), sĩ phu ( kẻ thọ nhận ), v.v… như thế gọi là Phi Hữu Kiến Kiến Lập Tướng.
– PHI HỮU NHÂN KIẾN LẬP TƯỚNG là khi ý thức sơ khởi chẳng từ nhân sanh, lúc trước vốn chẳng sanh, lúc sau mới như huyễn mà sanh, vốn chẳng có vật làm nhân. Như nhãn thức do vọng tưởng sắc, không, sáng tối mà sanh thức, thức sanh rồi liền diệt, ấy gọi là Phi Hữu Nhân Kiến Lập Tướng.
– Đại Huệ! PHI HỮU TÁNH KIẾN LẬP TƯỚNG là tự tánh của ba pháp vô vi: Hư không, Niết Bàn và trạch diệt ( do sức trí huệ mà chứng đắc pháp diệt ) vốn chẳng có tự tánh, như lông rùa sừng thỏ, lìa có và không mà hiện, ấy gọi là Phi Hữu Tánh Kiến Lập Tướng.
– Kiến lập và phủ định là do vọng tưởng của phàm phu chẳng khéo quán sát tự tâm hiện lượng, chẳng phải chỗ thấy của Thánh Hiền. Bậc Đại Bồ Tát nên siêng tu học, lìa hai thứ ác kiến kiến lập và phủ định.
– Lại nữa, Đại Huệ! Đại Bồ Tát phải khéo biết tâm, ý, ý thức, năm pháp của tự tánh và hai thứ tướng Vô Ngã; vì sự yên ổn của chúng sanh, nên tiến đến cứu cánh. Như hạt châu như ý hiện ra đủ thứ sắc tướng, là do nhân duyên vọng tưởng phân biệt mà sanh khởi, đại chúng nơi tất cả pháp hội của Như Lai, nghe Phật thuyết pháp như mộng huyễn, như ánh sáng, như bóng trăng trong nước, pháp ấy lìa sanh diệt đoạn thường và lìa Thanh Văn, Duyên Giác, được trăm ngàn Tam muội, cho đến trăm ngàn ức na do tha Tam muội. Đắc Tam muội xong, dạo khắp các cõi Phật, cúng dường chư Phật, lên các Thiên cung hoằng dương Tam Bảo, thị hiện thân Phật, có chúng Thanh Văn, Bồ Tát vây quanh. Dùng tự tâm hiện lượng để độ thoát chúng sanh, phân biệt diễn thuyết ngoài tánh vô tánh, khiến thảy đều xa lìa kiến chấp có và không v. v…
Khi ấy, Thế Tôn muốn lập lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng:
Phật tử khéo quán sát,
Thế pháp do tâm tạo.
Thị hiện đủ thứ thân,
Sức thần thông tự tại.
Tất cả đều thành tựu,
Sở tác vô chướng ngại.
Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng: Cúi xin Thế Tôn vì chúng con thuyết tất cả pháp tánh không, lìa tướng tự tánh vốn Vô Sanh bất nhị, khiến chúng con và chư Bồ Tát giác ngộ, lìa hai thứ vọng tưởng Có và Không, Vô Sanh, bất nhị và lìa tướng tự tánh.
– Đại Huệ! Nói sơ lược có bảy thứ không là: Tướng không, tự tánh không, hành không, vô hành không, tất cả pháp lìa ngôn thuyết không, Đệ Nhất Nghĩa Thánh Trí Đại không và Bỉ bỉ không.
– Thế nào là TƯỚNG KHÔNG? ấy là tự tướng cộng tướng của tất cả pháp không, vì tướng tự tha và cộng đều chẳng thể sanh, do vọng tưởng phân biệt đối đãi với nhau tích tụ mới có. Nếu quán sát phân tích thì cứu cánh là vô tánh. Vì vô tánh nên tánh chẳng trụ, nên nói tất cả tánh tướng không, gọi là Tướng Không.
– Thế nào là TÁNH TỰ TÁNH KHÔNG? Ấy là tự tánh của chính mình vốn Vô Sanh, tức là tự tánh của tất cả pháp không, nên nói Tánh của Tự Tánh Không.
– Thế nào là HÀNH KHÔNG? Ấy là hành ấm lìa ngã, Ngã sở, do tác nghiệp sở thành, nghĩa là từ nhân duyên hòa hợp mà sanh, ấy gọi là Hành Không.
– Thế nào là VÔ HÀNH KHÔNG? Duyên nhau sanh khởi theo Hành Không như thế này, tự tánh vốn vô tánh, ấy gọi là Vô Hành Không.
– Thế nào là TẤT CẢ PHÁP LÌA NGÔN THUYẾT KHÔNG? Vì vọng tưởng tự tánh chẳng có ngôn thuyết, nên tất cả pháp lìa ngôn thuyết, ấy gọi là Tất Cả Pháp Lìa Ngôn Thuyết Không.
– Thế nào là TẤT CẢ PHÁP ĐỆ NHẤT NGHĨA THÁNH TRÍ ĐẠI KHÔNG? Vì người đắc Tự Giác Thánh Trí thì tất cả kiến chấp tập khí đều không, ấy gọi là Tất Cả Pháp Đệ Nhất Nghĩa Thánh Trí Đại Không.
– Thế nào BỈ BỈ KHÔNG? Nghĩa là ở nơi kia chẳng có cái không kia, gọi là Bỉ Bỉ Không. Đại Huệ! Ví như người mẹ của Lộc Tử là nữ cư sĩ Tỳ Xá, vì xây dựng Tịnh xá cho Tỳ Kheo ở, chẳng nuôi voi, ngựa, trâu, dê v.v… Nay nói Bỉ Không, chẳng phải nơi kia không có chúng Tỳ Kheo, cũng chẳng phải Tịnh xá trống rỗng không, cũng chẳng phải Tỳ Kheo tánh không, cũng chẳng phải chỗ khác không có voi, ngựa, nghĩa là tự tướng của tất cả pháp, cái kia, ở nơi kia chẳng có cái kia, ấy gọi là Bỉ Bỉ Không. nói chung trong bảy thứ Không, Bỉ Bỉ Không là cái không rất thô, ngươi nên xa lìa.
– Đại Huệ! Nói CHẲNG TỰ SANH chẳng phải Vô Sanh, ngoài trụ chánh định ra, gọi là Vô sanh, nghĩa là lìa tự tánh tức là Vô Sanh. Sự lưu chú tương tục từng sát na vốn lìa tự tánh và tánh dị thục ( lúc sau chín mùi ) hiện ra tất cả tánh đều lìa tự tánh, cho nên nói tất cả tánh lìa lự tánh.
– Sao nói BẤT NHỊ? Vì tất cả pháp như âm, dương, dài, ngắn, trắng, đen v.v… đều là nhị, vì các tướng làm nhân với nhau mới có, chẳng phải ngoài Niết Bàn có sanh tử, chẳng phải ngoài sanh tử có Niết Bàn, sanh tử Niết Bàn chẳng có tướng trái nhau: tất cả pháp cũng như thế, nên gọi là Bất Nhị. Cho nên pháp Không, pháp Vô Sanh, pháp Bất Nhị, pháp lìa tướng tự tánh cần nên tu học.
Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng:
Ta thường nói pháp Không,
Xa lìa nơi đoạn thường.
Sanh tử như mộng huyễn,
Mà nghiệp tánh chẳng hoại.
Hư không và Niết Bàn,
Tịch diệt cũng như thế.
Phàm phu chấp vọng tưởng,
Bậc Thánh lìa hữu vô.
Khi ấy, Thế Tôn lại bảo Đại Huệ rằng:
– Đại Huệ! pháp Không, pháp Vô Sanh, pháp Bất Nhị, pháp lìa tự tánh v.v… đều có ghi vào kinh giáo của Phật, tất cả kinh điển đều thuyết nghĩa này. Vì tùy thuận tâm hy vọng của chúng sanh mà phương tiện phân biệt thuyết để hiển bày nghĩa lý chẳng phải ở nơi ngôn thuyết có sự chơn thật. Như bầy nai khát nước, mê hoặc đuổi theo dương diệm (ánh nắng mặt trời phản chiếu) cho là nước, nhưng dương diệm chẳng phải nước thật. Các pháp sở thuyết của Phật ghi trong kinh điển cũng như thế. Vì muốn khiến phàm phu phát tâm hoan hỷ, tinh tấn tu hành, chẳng phải có Thánh Trí thật ở nơi ngôn thuyết. Cho nên phải nương theo nghĩa, chớ chấp ngôn thuyết.