Thường đề Bồ Tát

Thường đề Bồ Tát

Đỗ Quang Huy 44

Vua A-Dục

  1. A-dục ra đời
   Một trăm năm sau Phật diệt độ (trước Công nguyên chừng 270 năm), tại thành Hoa Thị nước Ma-kiệt-đà, Trung bộ Ấn Độ, ngày nọ, có một tin được truyền đi khiến mọi người hân hoan là: Đệ nhất phu nhân của quốc vương Tần-đầu-sa-la vừa hạ sinh một vương tử. Văn võ bá quan lần lượt vào triều kiến chúc mừng quốc vương. Bên ngoài, thần dân ai nấy đều vui mừng, lớp lớp kéo nhau đến vương cung, vừa ca vừa múa rầm rộ, biểu thị lòng vui sướng, chúc mừng quốc vương và cầu cho quốc gia ngày một tiến bộ hưng thịnh.
Quốc vương hết sức phấn khởi, tiếp thọ sự chúc mừng nồng nhiệt của thần dân. Trước đây, Ngài rất yêu quý đệ nhất phu nhân, nay bà lại sinh thêm cho Ngài một vị vương tử khiến Ngài lại càng yêu quý hơn nữa. Ngài vào hậu cung thăm hỏi đệ nhất phu nhân. Phu nhân vừa sinh con trai lại được quốc vương yêu quý nên cảm thấy hạnh phúc vô hạn. Những ưu sầu phiền não thường ngày hay khởi lên nay đều tan biến hết không còn một chút dấu vết. Để kỷ niệm ngày sinh con ra trong niềm vô ưu, phu nhân yêu cầu quốc vương đặt tên con là A-dục, vì A-dục có nghĩa là vô ưu. Quốc vương cũng cảm thấy vô ưu rất hợp với tâm tình và nguyện vọng của mình lúc bấy giờ, cho nên Ngài đồng ý đặt tên cho vị vương tử mới ra đời là A-dục.
   2. Thuở thiếu niên không được như ý
   Vương tử A-dục sinh trưởng nơi vương cung, được phụ vương và mẫu hậu thương yêu vỗ về, tưởng chừng như được niềm hạnh phúc vô tận. Thế nhưng, nguồn hạnh phúc chỉ có được ngắn ngủi tạm thời trong thời kỳ thơ ấu mà thôi. Còn từ tuổi niên thiếu cho đến lúc thành nhân, vương tử A-dục cảm nhận khoảng cách giữa mình và cha mẹ, anh em có nhiều điều sầu khổ không được như ý, ngày càng quấy nhiễu thân tâm không biết lúc nào mới có thể giải trừ được.
Nguyên do tướng mạo của vương tử A-dục có đôi chút kỳ quặc và khác lạ với mọi người. So với vương huynh, vương đệ, A-dục thiếu đi cái dáng vẻ của người vương tử cao quý mà chỉ hiện lên cái khí khái của bậc anh hùng hảo hán. Trong vương cung, vương tử A-dục bị tổn thương lớn về tình cảm, vì đối với anh em không được sự kính nể, phụ vương không còn yêu mến, cho nên A-dục ở trong cảnh ngộ thất sủng, một nỗi khổ tâm khó nói ra ngay từ khi còn niên thiếu. Thế nhưng, A-dục vẫn còn được tình yêu thương nồng thắm của người mẹ, bà đã ban cho A-dục sự che chở từ ái, nhờ đó đã làm vơi đi những ưu tư uất ức trong lòng. Được sự che chở và khích lệ của mẫu hậu, A-dục đã phát khởi ý chí tiến thủ, tinh thần rất kiên cường bất khuất, không có một chút bạc nhược nản lòng thoái chí. Vương tử A-dục không vì những điều thống khổ bên ngoài đưa đến làm cản trở ý chí, mà trái lại, lúc nào cũng tự mình phấn đấu học tập, vì tiền đồ tương lai mà quyết tâm đi tới.
   3. Xem tướng nơi vườn Vàng
   Mặc dù vương tử A-dục có nhiều điều thất ý nhưng nhờ mẫu hậu thương yêu, an ủi vỗ về đã bù đắp phần nào nỗi bất hạnh, tạo được niềm vui trong lòng, do vậy mà A-dục vẫn an nhiên sinh hoạt và học tập.
Một ngày nọ, quốc vương ra lệnh cho các vương tử tập trung trong vườn Vàng, một thắng địa bên ngoài thành. Nghe nói có vị danh tướng sư tên Tần-lăng-già-bà-tha vâng lệnh vua sẽ xem tướng các vị vương tử để tuyển chọn người kế thừa vương quốc Ma-kiệt-đà. Bởi vì vua Tần-đầu-sa-la tuổi ngày một cao mà lại có quá nhiều vương tử, nên vua băn khoăn khó quyết định, không biết lập ai làm Thái tử để kế vị thống lãnh việc nước sau này. Đây là việc đại sự không thể nào kéo dài lâu được, vua chấp nhận biện pháp mời tướng sư vì vua mà xem tướng để tuyển chọn Thái tử, nhằm biểu thị tấm lòng chí công vô tư của vua đối với các vương tử. Điều này không biết là có đúng như vậy hay không? Vương tử A-dục biết phụ vương bình sinh không yêu mến mình cho lắm, nên cũng chẳng hy vọng gì về việc này và không muốn tham dự, nhưng vì bị mẫu hậu ép buộc nên đành phải đến dự.
Trong khu vườn Vàng xuất hiện rầm rộ chưa từng thấy, nào là quốc vương, các vị phu nhân, các vương tử, văn võ bá quan và dân chúng vô số kể rủ nhau đến để xem tướng sư coi tướng tuyển chọn Thái tử. Trong ngoài khu vườn Vàng trở thành một biển người. Có những người không thể chen chân vào được bên trong thì cũng đứng bên ngoài để chờ đợi tin tức về việc tuyển chọn Thái tử.
Bên trong vườn, các vị vương tử đua nhau trang sức rực rỡ, áo quần đẹp đẽ, mong được tướng sư chiếu cố. Riêng vương tử A-dục thì trước sao nay vậy, chẳng cần trang sức gì thêm cả, đã vậy lại còn cỡi một con voi to lớn thô kệch tiến vào vườn. Thật ra, con voi ấy là của La-đề-quật-la, con của vị Thủ tướng đương triều tặng cho A-dục. Bởi vì La-đề-quật-la thấy các vương tử đều ngồi trên những chiếc xe trang hoàng mỹ lệ, còn riêng vương tử A-dục thì đi bộ nên đã đưa tặng A-dục con voi to lớn ấy. Trong các vương tử, A-dục đã biểu lộ phong cách đặc biệt khác hẳn các vương huynh, vương đệ. Đó là điều mà vương tử A-dục có thể thắng một cách bất ngờ chăng?
Lúc ấy, quốc vương hạ chỉ tướng sư Tần-lăng-già-bà-tha bắt đầu xem tướng các vương tử. Biển người trong vườn lao xao chuyển động. Các vương tử xếp hàng trước mặt vị tướng sư. Tướng sư đi đi lại lại, xem thấy các vương tử ai ai cũng đều trang sức sang trọng, có khí khái của người vương tử nhưng không người nào có phước tướng vạn dân kính ngưỡng. Chỉ có vương tử A-dục là có tư cách phong độ khác thường không giống với các vị vương tử kia, cái tướng đại phước đức đáng bậc vương giả ẩn sâu bên trong không lộ ra bên ngoài hình dáng. Các vương tử giống như những ngôi sao sáng trên bầu trời thi nhau lấp lánh, còn vương tử A-dục như vầng trăng rực rỡ giữa các vì sao. Tướng sư trong lòng âm thầm kính phục. Thế nhưng, do vì tướng sư có nghe quốc vương không yêu mến vương tử A-dục, e rằng khi nói rõ chân tướng sợ quốc vương không vui, thậm chí sẽ mang họa vào thân nữa. Mặt khác, ông cũng sợ các vị vương tử khởi tâm oán hận, tìm cách đối phó với vương tử A-dục thì hậu quả không sao lường trước được. Tướng sư suy nghĩ thật kỹ. Quả xứng đáng là người khéo thông nhân tình, cơ trí hơn người. Tướng sư báo với quốc vương rằng: “Dáng vẻ của các vương tử đều đầy đủ phước tướng, khó phân cao thấp, khó định được ai là người đại phước. Chỉ có cách là dựa theo việc ưa làm phước cao quý của các vương tử mà tìm cầu phân biệt. Như trong các vương tử người nào ăn mặc, đi đứng, tư cách thể hiện có phần ưu thắng hơn, người ấy xứng đáng được tuyển chọn”. Quốc vương nghe rồi, trong lòng bối rối khó mà quyết định. Các vương tử tranh nhau bày tỏ với quốc vương rằng mình có phước báu đệ nhất, nhao nhao ầm ĩ cả lên khiến quốc vương không sao ngăn được. Cuối cùng, Ngài phải tuyên bố việc xem tướng kết thúc, công việc tuyển chọn Thái tử sẽ bàn lại sau. Lúc đó, các vương tử mới chịu yên. Quốc vương cùng triều thần đều trở về triều, dân chúng cũng phân tán khắp nơi. Các vương tử cũng còn ôm lòng hy vọng, đua nhau khoe mình phước lớn hơn người. Khi ấy, chỉ có vương tử A-dục là thơ thới vui mừng vì đã hiểu được lời nói của tướng sư. Các vương tử chỉ lo tranh cãi nhau, không biết rằng vương tử A-dục trong cuộc sống bình thường có những đức hạnh mà các vương tử khó thấy khó cầu, đó là cái tướng phước ẩn tàng siêu xuất đệ nhất, hy vọng tương lai sẽ trở thành một vị vua.
Tướng sư trên đường trở về, gặp xa giá đệ nhất phu nhân hồi cung, liền nhẹ nhàng vượt lên chúc mừng: “Xin chúc mừng vương hậu! Vương tử A-dục phước tướng đệ nhất, tương lai ắt sẽ được làm vua”. Sau đó, vội vàng từ biệt.
   4. Chinh chiến với nước lân cận
   Kết quả xem tướng trong vườn Vàng chưa được viên mãn, quốc vương có phần lo lắng buồn rầu không yên. Bỗng nghe cận thần báo cáo nước thuộc bang Đắc-xoa-thi-la tạo phản khiến nhà vua càng thêm lo lắng. Bởi vì điều này quan hệ nghiêm trọng đến quốc gia, nếu như không chinh phạt thuộc bang làm loạn thì quyền thế quốc vương sẽ bị tổn hại, uy tín sẽ bị tiêu mất. Quốc vương lập tức đình chỉ việc tuyển chọn Thái tử để lo việc phái binh chiến đấu với nước làm loạn. Có lẽ trong lòng quốc vương có đôi chút thiên kiến nên đã phái vương tử A-dục, vốn là người chưa có kinh nghiệm tác chiến làm chủ tướng cầm quân đi chinh chiến. Vương tử A-dục thân thể cường tráng, sức lực khỏe mạnh, học được đôi chút văn võ, tuy không có tướng mạo nho nhã, văn chương, nhưng lại có khí khái võ sĩ anh dũng hùng tráng. Tuy chưa một lần chinh chiến, nhưng A-dục vẫn an nhiên nhận lệnh của vua cha không một chút lo sợ. A-dục sẵn sàng phất cờ chỉ huy, không quan tâm đến binh tướng nhà vua cấp cho mạnh hay yếu, khí giới sắc hay cùn, cứ thế dẫn đầu đội ngũ xông pha chiến trận. Trong lúc hành quân, A-dục rất xem trọng kỷ luật quân đội, thưởng phạt phân minh, đối với binh tướng bộ hạ đồng cam cộng khổ với nhau. Điều này, khiến cho bộ hạ cảm phục tài năng lãnh đạo của A-dục, một lòng nghe theo sự chỉ huy. Cho nên, việc kéo quân đi không gặp gì trở ngại, chẳng bao lâu đã đến chỗ nước phiến loạn.
Quốc vương Đắc-xoa-thi-la được tin vương tử A-dục lãnh đạo đại quân kéo đến nước mình một cách thần tốc như vậy, khiến nhà vua kinh ngạc đến lo sợ hoang mang, vội vã xuất quân ra khỏi thành nghênh chiến. Lúc ấy, vương tử A-dục tự thân tiến về phía trước, xông pha chiến trận. Tướng sĩ thấy chủ tướng chiến đấu trong tinh thần không sợ sệt, khiến họ càng thêm phấn chấn hăng say, một người đương đầu với cả mười quân địch. Quân của nước Đắc-xoa-thi-la đại bại, chạy trở vào trong thành cố thủ. Vương tử A-dục thừa thắng xông lên truy kích tới cùng. Vua quan, tướng sĩ nước phản loạn biết không thể chống cự lại, bèn ra khỏi thành nhận tội xin đầu hàng.
Tin tức thắng lợi đầu tiên được truyền về bản quốc, quan dân trong nước vui mừng đến ngạc nhiên, sinh khởi lòng khâm phục kính ngưỡng vô hạn đối với A-dục. Quốc vương cũng không ngờ đến chuyện thành công tốt đẹp này và bắt đầu có cái nhìn khác về vương tử A-dục. Không bao lâu, vương tử A-dục kéo quân chiến thắng trở về, được triều thần và muôn dân đón tiếp vô cùng trọng thể. Việc cử binh chinh phục nước phản loạn của vương tử A-dục đạt được thắng lợi đã làm chấn động các nước thuộc bang xa gần. Bắt đầu từ đấy, vương tử A-dục được nổi danh là anh hùng dũng mãnh thiện chiến. Về sau, quốc vương nhiều lần phái A-dục ra trận, mỗi lần chiến đấu đều mang thắng lợi về. Nhờ vậy mà A-dục có được nhiều kinh nghiệm nơi trận địa và trưởng thành về tài năng quân sự. Đây là một trợ lực rất lớn giúp cho A-dục thống nhất Ấn Độ sau này. Tuy nhiên, sự thành công trong vương nghiệp của A-dục không chỉ ở chỗ tài năng quân sự đặc biệt xuất sắc ấy mà thôi.
   5. Huynh đệ tranh vị
   Lần trước, A-dục vương tử đã chinh phục được nước Đắc-xoa-thi-la, nhưng sau một thời gian chỉnh đốn lại lực lượng quân sự hùng mạnh, vua nước này lại nổi lên làm loạn. Lần này, quốc vương phái vương tử Tô Thâm Ma là vị tướng tài năng có nhiều kinh nghiệm chiến trường, tướng sĩ thuộc hạ rất tinh nhuệ. Đại quân của Tô Thâm Ma đi chiến đấu so với quân của A-dục lần trước thì thế mạnh hơn nhiều. Nhưng quân phản loạn cũng dũng mãnh không kém, chống cự rất kiên cường khiến cho chiến sự phải kéo dài, khó có thể mà chinh phục nổi. Tin tức truyền về bản quốc khiến nhà vua lo lắng vô cùng. Bởi vì trong các vương tử, Tô Thâm Ma được quốc vương rất thương yêu, có ý muốn đưa lên làm Thái tử, cho nên sự an toàn của Tô Thâm Ma rất quan trọng đối với nhà vua. Vì quá lo âu, chẳng bao lâu nhà vua lâm bệnh nặng. Sợ hỏng việc nước, vua liền triệu tập các vị đại thần để bàn bạc hai việc chính yếu. Một là đề nghị lập Tô Thâm Ma làm Thái tử, hai là phái vương tử A-dục thống lãnh đại quân tăng viện cho Tô Thâm Ma. Nhưng cả hai đề nghị lớn này đều bị triều thần phủ quyết, bởi vì các quan trong triều đều quy phục vương tử A-dục. Nhất là vị Thủ tướng vốn đã có sự bất hòa với vương tử Tô Thâm Ma, từ khi bị vương tử này trêu đùa làm nhục ông về cái đầu hói. Cho nên, Thủ tướng đã kiến nghị với quốc vương vấn đề ngược lại là lập vương tử A-dục lên làm vua trông coi việc nước. Ngày sau, khi vương tử Tô Thâm Ma trở về sẽ giao việc trị quốc lại cho ông. Trong tình thế ấy, quốc vương không biết làm thế nào hơn, lòng càng thêm sầu não khiến bệnh tình càng gia tăng và nhà vua đã băng hà. Văn võ bá quan trong triều suy tôn vương tử A-dục lên ngôi vua. Bắt đầu công việc quốc chánh mới, A-dục liền ủy nhiệm La-đề-quật-la, con trai vị Thủ tướng làm đệ nhất phụ thần, ông này là người tài trí và chính là người đã tặng con voi cho vương tử A-dục trước đây. Từ nay, trách nhiệm của vua A-dục hết sức nặng nề.
Tin quốc vương băng hà và vương tử A-dục được triều thần suy cử lên ngôi báu, truyền đến đội quân của vương tử Tô Thâm Ma giống như tiếng sét đánh giữa trời quang làm chấn động mọi người. Nhất là vương tử Tô Thâm Ma quá đau buồn thương tiếc người cha đã qua đời một cách đột ngột, lại thêm vương vị đã về tay A-dục. Tô Thâm Ma không còn đầu óc đâu để mà đánh quân phiến loạn nữa, vội vàng hạ lệnh rút quân về nước để chịu tang, dựa vào cớ này để giữ gìn lực lượng chuẩn bị tư thế tranh giành vương vị.
Tướng lãnh bộ hạ của Tô Thâm Ma đều là những người thân tín, rất ủng hộ và trung thành phục vụ ông như tình cảm bạn bè. Vì họ cũng đều muốn ông lên làm vua để họ dễ dàng thăng quan tiến chức và cầu được nhiều lợi dưỡng. Cho nên, trên dưới một lòng tuân thủ và phục vụ Tô Thâm Ma hết mình, điều này đã làm cho tinh thần sĩ khí càng mạnh thêm lên… Lúc ấy, đại quân vội vã rút lui, trở về thành Hoa Thị. Ngay cả đến quân nước phản loạn đang truy kích cũng không ngờ đến việc rút quân nhanh chóng của vương tử Tô Thâm Ma. Nhân cơ hội này, nước phản loạn liền bổ sung lực lượng, chỉnh đốn quân ngũ.
Vua mới cùng quần thần nơi thành Hoa Thị nghe tin đại quân của vương tử Tô Thâm Ma rút về nước, buông bỏ nhiệm vụ đánh dẹp nước phản loạn. Biết đây không phải là tin lành, cho nên quần thần một mặt sớm kết thúc việc quốc tang, mặt khác lo nghiêm thủ thành trì, chuẩn bị lực lượng kháng cự hành động quân sự của vương tử Tô Thâm Ma. Trong sách lược chỉ đạo phòng thủ và kháng chiến, tân Thủ tướng La-đề-quật-la cống hiến nhiều mưu lược, phần lớn đều được vua A-dục chấp nhận. Trong đó, có một kế hoạch là dùng máy móc chế tạo một con bạch tượng có thể cử động được, bên trên đặt bức tượng vua A-dục, bốn chung quanh rải cỏ đất, phía dưới là hầm sâu, được đặt ở cửa thành phía Đông để dụ quân địch lọt vào đó.
Đại quân của vương tử Tô Thâm Ma về tới phía ngoài thành Hoa Thị, liền phân chia làm bốn cánh tiến quân. Thế là chiến tranh huynh đệ bắt đầu bộc phát. Người đến quyết phải lấy cho bằng được, còn người giữ càng cố gắng chống cự lại. Thật không làm sao tránh khỏi cảnh tượng chiến tranh ác liệt và tàn khốc xảy ra. Vương tử Tô Thâm Ma là danh tướng có kinh nghiệm lâu năm nơi chiến trường. Vua A-dục cũng là dũng sĩ nổi danh trong và ngoài nước. Chiến sự xảy ra, hai bên đều dốc hết toàn bộ lực lượng và ra sức chiến đấu một cách kiên cường, thật khó mà phân thắng bại. Nhưng thật bất hạnh cho vương tử Tô Thâm Ma! Vương tử đã cầm quân tiến về cửa phía Đông và bị trúng kế rơi xuống hầm sâu mất mạng. Chủ tướng đã chết, quân đội của Tô Thâm Ma hoảng loạn tan rã, kết quả vua A-dục toàn thắng. Theo truyền thuyết thì số bộ hạ tướng sĩ của vương tử Tô Thâm Ma, ngoài những người bị tử thương ra, số còn lại đều trốn vào trong núi sâu rồi xuất gia tu hành ở đó có đến hàng vạn người.
Sau khi cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn chấm dứt, vua A-dục mới an tâm dồn mọi nỗ lực kiến thiết quốc gia. Vua A-dục thực hiện chính sách đối nội, đối ngoại một cách xuất sắc, lúc ấy mới hiển xuất tài năng chính trị rất phi thường của ông. Thế nhưng, trong thời kỳ đầu khai triển vương nghiệp mọi việc không phải đều yên xuôi cả.
    6. Khai phát vương nghiệp
    Vào thời đức Phật còn tại thế, Ma-kiệt-đà là một trong tám nước lớn của Ấn Độ. Sau khi Phật diệt độ, thế lực của nước Ma-kiệt-đà khá mạnh, đã từng thôn tính vài quốc gia khác. Cho đến thời vua Tần-đầu-sa-la, trong các quốc gia lớn nhỏ tại Ấn Độ lúc bấy giờ, Ma-kiệt-đà đã trở thành cường quốc bá chủ một phương. Trong khoảng thời gian một trăm năm sau Phật diệt độ, nước Ma-kiệt-đà cũng đã bao lần thay đổi triều đại thống trị. Theo sử Ấn Độ, phụ thân của Tần-đầu-sa-la đã sáng lập ra vương triều Khổng Tước, cho đến vua A-dục là đời thứ ba, chính là lúc đang hưng thịnh. Sau khi vua A-dục kế thừa ngôi vua, trong nội bộ đã tiêu diệt được tập đoàn quân sự rất lớn của vương tử Tô Thâm Ma. Điều này, khiến cho máu anh hùng trào dâng mãnh liệt, không một thế lực nào có thể ngăn chặn được quyền uy cuồng nhiệt của ông. Trong việc đối nội đối ngoại, ông đều thực thi đường lối chính trị cứng rắn nghiêm khắc hầu như là bạo ngược.
Căn cứ truyền thuyết, có khoảng năm sáu trăm quan viên trong triều tỏ thái độ bất mãn và xem thường vua đều bị ông hạ lệnh giết hết. Lại có năm trăm cung nữ theo vua dạo chơi trong vườn, các cung nữ đối với vua chỉ có đôi chút kính trọng vì quyền uy chớ họ thường không thích thân cận, đôi khi có những biểu hiện thô tháo. Thừa lúc vua nghỉ ngơi, họ tản mạn trong vườn đùa giỡn, bẻ hoa mà chơi, vua biết được truyền đem họ ra thiêu chết. Có lẽ, do lúc niên thiếu, A-dục có quá nhiều điều không được như ý, nên khi làm vua nắm quyền trong tay, đã thỏa thích làm theo những ưa muốn tùy hứng của mình, mà không chút thương xót nỗi thống khổ của nhân dân. Trong việc trừng trị tội phạm, ông lập ra một nhà lao ngục lớn cực kỳ hà khắc, lại cử một người cực kỳ hung ác tên Kỳ Lê trông coi ngục này, khiến tội nhân phải chịu những khổ hình ghê gớm. Phàm người nào vào trong ngục thọ tội rồi thì không có hy vọng được trở ra. Quan ngục Kỳ Lê thấy tội nhân chịu hình phạt thảm khốc thì lấy đó làm vui, cho nên lao ngục này được gọi là ngục Ái Lạc. Trong thời kỳ đầu mới trị vì, vua A-dục thi hành chính sách cai trị rất khắc nghiệt, khiến nhân dân ta thán, oán trách đủ điều, cho đến mắng chửi ông ta là vua hung ác bất nhân bất nghĩa và đặt cho ông cái tên là Hắc A-dục.
Về đối nội, vua A-dục ngược đãi nhân dân, dùng võ lực để đàn áp các vương hầu bất phục tùng. Về đối ngoại, ông dùng hành động quân sự để đối trị và xâm lược các nước khác, mở rộng thêm uy quyền thống trị của mình. Cũng do tài năng quân sự kiệt xuất mà vua A-dục đã thành công một cách ưu việt, thống nhất được toàn lãnh thổ Ấn Độ mà từ trước tới giờ chưa một ai làm được. Do vậy, ông đã trở thành một ông vua có công khai phá rất lớn trong lịch sử Ấn Độ, ấy chính là một thành tựu rất huy hoàng của ông.
Thế nhưng, do tác phong cai trị bạo ngược cho nên những thắng lợi của ông chỉ mang tính cách là hoành hành xưng bá mà thôi. Bỗng nhiên, có một sự thay đổi rất lớn lao. Vua A-dục đổi mới lập trường chính trị, từ một kẻ bạo ngược trở thành một vị đại đế vương sùng nhân chuộng nghĩa ở thế gian khó có ai sánh kịp. Lịch sử Ấn Độ ghi chép, đó là một trang sử quang huy, thực sự là một điều hiếm có lạ thường trên thế gian này vậy.
   7. Dùng chánh pháp trị nước
   Việc đại cách tân tư tưởng chính trị của vua A-dục theo truyền thuyết là do hai nguyên nhân lớn sau đây tạo thành:
Nguyên nhân thứ nhất là lúc vua A-dục chinh phục nước Yết-lăng-già (Kalinga) ở phía Đông Nam bộ Ấn Độ. Quân lực hai bên rất kiên cường, chiến sự cũng hết sức khốc liệt. Kết quả, vua A-dục đã chiến thắng trận này, song lực lượng cả hai bên đều bị tổn thất nặng nề, số người tử vong rất lớn lao. Tuy là người đã nhiều năm xông pha chiến trận, đánh Nam dẹp Bắc, nhưng vua A-dục chưa từng gặp một trận nào bị sát thương nhiều như thế, khiến vua A-dục không ngăn được mối thương tâm, trong lòng xót xa vô hạn. Khi đó, ông chợt nhận ra rằng tội ác của chiến tranh rất lớn, đã khiến cho quân dân vô tội phải chết một cách thê thảm, lộ rõ sự ngu si của người thế gian vì tham vọng mà tạo nên cảnh tượng chém giết lẫn nhau thật là tàn khốc như tên đồ tể, cơ hồ như muốn hủy diệt tất cả. Một nỗi xót xa trong lòng, không nỡ nhìn thấy cảnh máu đổ thịt rơi nữa, cho nên vua A-dục quyết định dùng đức thay chính trị hà khắc để giáo hóa thiên hạ. Việc thay đổi quá nhanh chóng này khiến thần dân trong nước chân thành cảm phục và kính ngưỡng, xóa đi quan niệm ác vương ban đầu.
Còn thuyết thứ hai cho rằng nhà vua được cảm hóa bởi tài đức của một vị xuất gia học Phật tên là Hải Tỷ-kheo. Theo truyền thuyết thì cha mẹ Hải Tỷ-kheo là thương nhân thu thập châu báu, do vì sinh Hải Tỷ-kheo trên biển nên đặt tên con là Hải để kỷ niệm. Lúc Hải được 12 tuổi cùng theo cha mẹ ra biển để thu thập châu báu, chẳng may gặp cướp biển, cha mẹ đều bị giết chết. Hải do còn nhỏ tuổi nên được tha. Sau khi sống sót trở về, nhìn thấy nhân sinh đa khổ nên Hải bèn xuất gia học Phật. Một lần nọ, Hải Tỷ-kheo đi khất thực đến thành Hoa Thị. Vì là người phương xa đến nên không biết rõ con đường hiểm, Hải Tỷ-kheo đi lạc vào ngục Ái Lạc, bị quan ngục Kỳ Lê bắt giữ coi như là một tội phạm. Hải Tỷ-kheo thấy tên ác nhân này biết chẳng có thể lý sự được, chỉ tiếc là mình chưa chứng đạo quả mà phải chết uổng như vậy, rất lấy làm đau buồn và yêu cầu quan ngục hoãn lại cho ông bảy ngày sau sẽ chịu tội chết. Quan ngục đồng ý. Trong khoảng thời gian thật ngắn ngủi này, Hải Tỷ-kheo dốc lòng tu trì pháp tứ quán: khổ, không, vô thường, vô ngã. Trong lúc thực hành tu quán, Ngài lại tận mắt chứng kiến cảnh quan ngục hành hình những tội nhân rất tàn khốc, khiến việc thực hành pháp quán của Ngài càng thêm phần sâu sắc nhập thần. Nhờ sự bức thiết trong ngoài này, Ngài mau chóng đoạn được các phiền não hệ lụy, đắc quả A-la-hán giải thoát, giống như từ trong hầm hố hiểm độc tối tăm mà nhảy ra khỏi, đến được chỗ an lạc sáng suốt. Đúng bảy ngày trôi qua, quan ngục không cần nói năng gì cả, liền đem Ngài đặt vào trong vạc nước đang đun sôi, nhưng không thể nào làm thương tổn đến thân xác Ngài, ấy là do Ngài hiển thị thần thông bất khả tư nghị. Quan ngục kinh hãi báo lên cho vua biết. Vua A-dục lập tức cùng thị vệ vào ngục, thấy tận mắt Hải Tỷ-kheo đang ung dung tự tại hiển thị thần thông trong vạc nước sôi sùng sục. Lúc này, nhà vua mới biết sự tu luyện của bậc Thánh Tăng chẳng phải là chỗ kẻ phàm phu có thể đo lường được. Nhà vua liền sinh khởi lòng tôn kính tột cùng chưa từng có! Hải Tỷ-kheo nhân cơ hội này nói lại lời ký của đức Phật rằng: “Sau Phật diệt độ một trăm năm sẽ có một vị vua ứng vận sinh ra làm Chuyển Luân Vương thống nhất thiên hạ, lấy chánh pháp trị thế, hoằng dương hộ trì Phật pháp”. Vua A-dục nghe xong bất giác trong lòng chuyển động, có cảm giác như mình hòa vào trong lời ấy, khiến ông phát khởi niềm tin cao quý. Hải Tỷ-kheo lại khai thị tiếp: “Việc bày ra đại lao ngục hại mạng chúng sinh như vậy là biện pháp không hợp với chánh pháp, nên “lấy vô úy mà thí cho hết thảy chúng sinh”, ấy là thực hành chánh pháp một cách rộng rãi, có như vậy mới là một vị vua vinh quang đáng tôn kính”. Vua A-dục lãnh thọ lời chỉ giáo liền giác ngộ, rất lấy làm hối hận về lỗi lầm của mình và tin nhận lời chỉ dạy của Hải Tỷ-kheo mà phụng trì Phật pháp, triển khai sinh hoạt chính trị mới, vận động đường lối mới là đem chánh pháp trị nước, tôn sùng Phật pháp, bảo vệ chúng sinh. Việc làm đầu tiên là nhà vua hủy bỏ ngay ngục Ái Lạc, thay vào đó là lập viện nuôi dưỡng người già đơn độc, đem lòng từ cứu độ chúng sinh, giáo dục rộng rãi việc ngăn ác hành thiện, lập nhiều tháp Phật để cho nhân dân trong nước có cơ hội tác phước.
Việc thay đổi đột ngột tác phong chính trị đã đem vinh quang lớn lao đến cho vua A-dục. Sự mở rộng thành tích chính trị này khiến cho nhân dân tỏ niềm kính yêu, khâm phục, đã tôn xưng nhà vua bằng một danh hiệu vinh dự cao quý ít có xưa nay là Pháp A-dục.
   8. Hoằng hộ Phật pháp
   Nhờ cảm nhận đức hạnh của Hải Tỷ-kheo, nên vua A-dục biểu hiện lòng tôn sùng kính ngưỡng Phật pháp rất chí thành kính tín và trung thực đôn hậu. Nhà vua đã nhận ra được rằng, trước đây mình đã buông thả và đánh mất đi sự độ lượng cao quý của một vị vua, chưa thực sự chiếu cố đến phước lợi của thần dân, chỉ chú trọng đến việc mở rộng quyền uy, mà ngay đến bản thân mình còn chưa được hưởng sự an ổn còn nói chi đến việc làm phước giúp người. Quốc gia cần phải an định, nhân dân cần được lạc nghiệp, vậy mà vua thường hay vui chơi hoặc gây ra chiến tranh, chẳng những quấy nhiễu dân, làm nhọc dân mà còn làm hao tiền tốn của và sức lực của nhân dân, khiến lòng người lo sợ không lúc nào yên. Huống chi lại cùng nhau tàn sát, coi mạng người như đám cỏ, khiến chúng sinh chết bất đắc kỳ sở, ôm hận ngậm oán, làm vua lại nhẫn tâm nhìn thấy mà không nghĩ lại ư? Nhờ Hải Tỷ-kheo dũ lòng bi mẫn vì chúng sinh mà thí vô úy, khiến tâm linh vua A-dục phát sinh sự cảm mộ Phật pháp. Nhờ đó, nhà vua đã cải tiến sinh hoạt tập quán, buông bỏ mọi truy cầu hưởng thụ dục lạc, một lòng tu sửa bản thân, dứt hẳn những hành vi săn bắn, túng dục ưa thích của mình, thay vào đó là những hành vi bảo vệ sinh mạng, làm phước đối với mọi người và chú trọng đến việc chăm lo đời sống cho nhân dân được sung túc. Vua còn ra sức răn dạy thần dân phụng hành giới thiện, chỉ bày lối sống theo chánh pháp, đem tinh thần giáo dục vô úy mà thí cho hết thảy chúng sinh một cách thực tiễn, hiển xuất thành quả chính trị mới của Pháp A-dục Vương mỗi ngày một thêm phát triển huy hoàng.
Việc hoằng hộ Phật pháp của nhà vua cũng đáng đặc biệt biểu dương. Ông không những hết lòng thành tâm cung kính Tam Bảo mà còn cống hiến mọi thứ để hoằng dương Phật pháp. Nhà vua đem Xá-lợi của Phật ở trong tháp do vua A-xà-thế xây dựng trước kia, phân chia cúng dường, kiến tạo tám vạn bốn ngàn bảo tháp, khiến cho nhân dân các nơi có cơ duyên chiêm lễ tháp Phật, cùng gieo phước tạo nhân lành mà không phải đi xa nhọc mệt. Ngài lại phái nhiều vị Đại đức Tăng già chia nhau đi truyền bá Phật pháp, hy vọng nhân dân xa gần đều có thể thấm nhuần Phật pháp. Đấy là tâm nguyện quảng đại vì lợi ích của chúng sinh ở thế gian mà hướng dẫn hoằng pháp hộ giáo. Hành động vĩ đại đó xưa nay khó kiếm được mấy ai!
Vua A-dục được xem là bậc Chuyển Luân Thánh Vương nơi thế gian. Không những ông đã vì Phật pháp phụng hiến lớn lao mà còn tự đào luyện thành công lòng bi mẫn đức độ rộng lớn, siêu xuất những ông vua bình thường ở thế gian. Lịch sử Tây phương so sánh công nghiệp anh võ cái thế của ông ngang hàng với Đại đế Khải Táp (César), Đại đế A Lịch Sơn (Alexendre), Đại đế Nã Phá Luân (Napoléon)… được nhân loại trên thế giới biết đến và kính ngưỡng. Đối với Đông phương, đức nghiệp sáng chói của Đại đế A-dục khiến nhân loại khâm phục không phải ở chỗ võ công cái thế hay xây dựng nhiều tháp miếu, mà chính là do ông đã đem chánh pháp giáo hóa thế gian. Dù có quyền uy thế lực tột đỉnh nhưng ông không có một chút kiêu ngạo phóng túng, chỉ lấy đức làm mục đích để giáo dục dân chúng. Không những tại Đông phương ít có mà cả Tây phương cũng khó kiếm được người như thế.
   9. Thân cận thiện tri thức
   Những người học Phật, không luận Tăng hay tục đều coi việc thân cận thiện tri thức là điều trọng yếu không thể nào thiếu được. Vua A-dục tuy là vị vua cao quý đối với thiên hạ, nhưng với Phật giáo, ông là một tín đồ tại gia. Để chứng tỏ lòng thành kính và không kiêu mạn, nhà vua thường thân cận cầu học nơi các bậc Đại đức Tăng già. Chùa Kê Đầu Ma là một thắng địa Phật giáo nổi danh tại thành Hoa Thị. Nơi đây, có nhiều vị Hiền Thánh Tăng trụ trì hóa đạo, hoằng truyền Phật pháp. Trong số đó, có một vị Thượng tọa Tỷ-kheo tên Da-xá là bậc thượng thủ Tăng già đạo cao đức trọng, cũng chính là bậc đại thiện tri thức mà vua A-dục thường hay thân cận. Trong những lúc Ngài dạy đạo, vua A-dục hay đem nghĩa lý Phật pháp ra để cầu học hỏi mở rộng kiến thức, nhờ đó mà tín tâm ngày một lớn, pháp hỷ ngày càng phong phú, khiến cho tâm hoằng giáo hộ pháp và nguyện thân thiện tác phước của vua càng thêm tinh tấn không ngừng.
Một lần nọ, Thượng tọa Da-xá cho vua A-dục biết là tại Na-na-bạt-lợi A-lan-nhã, núi Ưu-lâu-mạn-đà nước Ma-đột-la, có một vị Thánh Tăng là Tỷ-kheo Ưu-ba-cúc-đa. Ngài là vị Đại Thiền sư nổi tiếng “giáo thọ thiền pháp, thật là đệ nhất”. Đệ tử do Ngài giáo hóa có đến hàng vạn vị A-la-hán. Vua A-dục lại được nghe Thượng tọa Da-xá nói vị Đại sư này cũng ra đời ứng theo lời huyền ký của đức Phật giống như trường hợp của vua A-dục, nhưng phân chia nhau, người thì gánh vác việc trụ trì Phật pháp, người thì lo hộ trì Phật pháp. Vua lộ vẻ hoan hỷ khôn xiết, muốn đến ngay chỗ Ngài để kính lễ, đủ thấy lòng khát vọng thân cận thiện tri thức của vua A-dục rất là hiếm có.
Vua A-dục liền phái sứ giả đến báo trước cho Đại sư Ưu-ba-cúc-đa biết là vua sẽ đến thăm. Nhưng Đại sư nghe tin nhà vua sẽ đến tham vấn, Ngài e sợ đội quân hộ tống của nhà vua quá đông sẽ làm kinh nhiễu dân chúng nơi đây, liền nhờ sứ giả trở về báo cho vua biết là Đại sư sẽ tự du hóa đến thành Hoa Thị. Vua A-dục rất lấy làm hoan hỷ, truyền chỉ cho thần dân chuẩn bị đường sá sạch sẽ, trang hoàng mọi thứ đẹp đẽ để nghênh đón Đại sư Ưu-ba-cúc-đa. Đại sư cùng với cả vạn vị đệ tử đi trên những chiếc thuyền lớn ven theo sông Hằng Hà mà đến. Đây là một cuộc du hóa rất lớn của Tăng đoàn làm chấn động cả thành Hoa Thị. Quan quân và dân chúng cùng nhau ra ngoài thành hân hoan đón mừng trọng thể không sao kể xiết được. Vua A-dục cũng đích thân đến nghênh đón Đại sư. Trước mắt hàng vạn quan dân, vua không một chút ái ngại gì, liền hạ mình năm vóc sát đất đảnh lễ Đại sư hết sức cung kính để bày tỏ lòng ngưỡng mộ vô hạn. Thần dân chứng kiến cảnh này sinh khởi lòng kính phục nhà vua rất lớn. Bởi vì, con người bình thường có tính ngã mạn sâu nặng, mấy ai dám hạ mình như thế, huống chi vua là bậc đại đế vương ở Ấn Độ, thống lãnh cả Nam Diêm-phù-đề hết sức tôn quý!
Vua A-dục nghênh tiếp Thánh giả và Tăng đoàn đến vương cung cúng dường và vấn pháp, được thêm những pháp hỷ chưa từng có, chẳng thể dùng ngôn ngữ tả xiết được! Sau đó, vua đưa Thánh giả cùng Tăng đoàn đến chùa Kê Đầu Ma an trụ xong mới trở về cung. Việc nhà vua tin Phật, trọng Pháp, kính Tăng như thế đều có tác động ảnh hưởng đến tâm lý của quan dân, khiến họ nảy sinh lòng kính tin hoan hỷ, đó cũng là một tác dụng giáo hóa thầm lặng: người trên thực hành, kẻ dưới noi theo. Phật pháp hưng long, nhân vương hộ pháp, quả thật là một nhân duyên trợ lực rất lớn lao. Lời phó thác của đức Phật cho các quốc vương đại thần ở đời sau vì Phật pháp mà hộ trì, càng thấy rõ lòng bi mẫn của Ngài thật là sâu sắc, thật là chu đáo từng ly từng tý, mọi vấn đề xa xôi lợi ích chúng sinh Ngài cũng đều quan tâm tới, không như người đời chỉ nghĩ đến cái lợi vị kỷ mà thôi.
   10. Hành hương Thánh tích
Đại sư Ưu-ba-cúc-đa được vua A-dục tỏ niềm tôn kính và cúng dường khiến cho việc hoằng hóa của Ngài đạt được nhiều thành công tốt đẹp. Dân chúng tại thành Hoa Thị nhờ Đại sư ban rải pháp nhũ nhiều lần nên cũng hưởng được niềm an vui vô cùng tận. Nước Ma-kiệt-đà sinh hoạt theo chánh pháp trong hoàn cảnh mới, khiến nhân dân trong nước được an lạc hạnh phúc và Phật giáo càng thêm hưng thịnh.
Một lần, vua A-dục thỉnh Đại sư Ưu-ba-cúc-đa vào cung cúng dường. Lúc vua đỡ Đại sư lên tòa, được chạm vào thân thể “mềm mại như tơ lụa” của Đại sư, bất giác nhà vua sinh khởi lòng hâm mộ vô hạn, liền chắp tay ca ngợi phước đức siêu thường của Đại sư mà tự hổ thẹn “cái phước bé nhỏ của ta với thân thể thô kệch”. Thật đáng tủi hổ! Đại sư liền vì vua mà thuyết về pháp môn bố thí, hành bố thí sẽ cảm ứng được phước báu phú quý, nhất là cúng dường Tam Bảo, công đức càng thù thắng hơn, khó có thể thí dụ cho hết được. Sau khi nghe xong, vua A-dục sinh tâm tín kính, lập nguyện chiêm bái các Thánh tích một đời của đức Phật, xây tháp để làm lợi ích cho chúng sinh ở vị lai, gieo hạt giống phước. Đây là đại nguyện không phải là chỗ người thường có thể làm được, cho nên Đại sư hết sức ca ngợi, nguyện sẽ vì vua mà hướng dẫn thực hiện. Vua A-dục liền mở cuộc hành hương đến viếng các Thánh tích của đức Phật.
Đoàn hành hương thật là đông đảo, gồm những vị đại thần cùng đội quân hộ tống nhà vua và cả Tăng đoàn. Đầu tiên, đoàn đến vườn Lâm-tỳ-ni, chiêm ngưỡng lễ bái nơi đức Phật đản sinh. Sau đó, theo thứ tự mà đến thành Ca-tỳ-la, nơi cắt tóc xuất gia, khu rừng khổ hạnh, Bồ-đề đạo tràng, nơi chuyển pháp luân và chốn Song Lâm Niết-bàn cho đến Kỳ Đà lâm. Mỗi lần đến nơi nào, vua A-dục đều ân cần chí thành chiêm ngưỡng lễ bái và chăm chú lắng nghe Đại sư Ưu-ba-cúc-đa tường thuật rành rẽ về sự tích khi xưa của đức Phật. Vua hết lòng cảm phục tán thán, ra lệnh cho các quan cúng dường hàng trăm ngàn lượng vàng và xây tháp cúng dường. Sau đó, đoàn đến Kỳ Đà lâm, nơi đây có rất nhiều tháp thờ các đệ tử của đức Phật, như tháp của Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền-liên, Ca-diếp, Bà-câu-la, A-nan… Sau khi nghe Đại sư giới thiệu và ca ngợi công đức lớn lao của từng vị Tôn giả, vua A-dục đều chiêm lễ hết thảy và cúng dường cả hàng trăm lượng vàng. Duy chỉ có tháp của Tôn giả Bà-câu-la, vua chỉ cúng dường có một đồng mà thôi. Bởi vì vua nghe nói Tôn giả Bà-câu-la lúc sinh tiền tuy có công đức “không bệnh tật suy yếu, ít dục đệ nhất”, nhưng do bởi “chưa từng dạy người ta một câu kệ nào”, chỉ hay tự lợi mà không có thể lợi tha. Vì lẽ ấy, vua A-dục chỉ dâng cúng một đồng mà thôi. Thế nhưng, một đồng tiền vừa để trước tháp bỗng tự quay trở lại chỗ nhà vua, chứng tỏ ngay cả một đồng Tôn giả cũng không cần. Vua A-dục thấy vậy kinh hãi hối hận, mới biết Tôn giả quả thật là thiểu dục đệ nhất. Điều này, chẳng phải chính là bài pháp lớn dạy về tánh không tham chăng? Cho nên, nhà vua càng cung kính ca ngợi sự thậm thâm vi diệu khôn cùng. Cuộc hành hương hoàn tất, tâm nguyện của vua A-dục lại được thành tựu thuận lợi, cũng là niềm tin tha thiết của nhà vua mà được thêm nhiều điều lợi ích, lòng hân hoan sung sướng này chỉ có mình vua biết được mà thôi.
   11. Đại hội Vô-già
   Đây là đại hội trai Tăng bố thí rất lớn mà người bình thường không đủ sức thực hiện nổi, ngay cả người giàu sang mà không biết tu phước cũng không thể làm được, chỉ có hàng đệ tử Phật ưa làm việc đại phước đức và có thật nhiều tiền của mới có thể cử hành được. Vua A-dục nghĩ về quá khứ, các nhân sĩ phụng sự Phật pháp rất ít người thực hiện được đại hội Vô-già. Vì mong muốn gieo nhân duyên phú quý nên nhà vua phát nguyện làm một việc trai Tăng bố thí vĩ đại. Trước khi chuẩn bị cử hành đại hội, vua A-dục đã đặc biệt thọ trì Bát quan trai giới, sau đó mới cầu thỉnh Hiền Thánh Tăng già ở bốn phương đến ứng cúng. Theo truyền thuyết, tứ phương Hiền Thánh Tăng, phàm phu thanh tịnh Tăng đến thọ nhận cúng dường có đến mười vạn người. Còn dân chúng nghèo khổ đến nhận bố thí thì vô số không thể tính đếm được.
Bên trong trai đường, nơi cúng dường chư Tăng, các vị Hiền Thánh Tăng đến ngồi dự đông đủ. Vua A-dục chợt nhận thấy còn có một chỗ rất tôn quý mà chưa có vị Tăng nào ngồi. Vua lấy làm lạ, bèn hỏi Thượng tọa Da-xá mới biết nơi ấy là để dành riêng cho Tôn giả Tân-đầu-lô. Tôn giả Tân-đầu-lô là vị đệ tử lớn của đức Phật hiện còn tại thế, có thắng đức bậc nhất về “tiếng rống của Sư tử”. Lúc ấy, đã cách Phật diệt độ khoảng một trăm năm mà Tôn giả vẫn còn tại thế, thì Ngài cũng phải vào khoảng 200 tuổi. Tân-đầu-lô Tôn giả chính là một trong mười vị Tôn giả lãnh thọ lời Phật, lưu mạng sống tại thế gian để hộ trì Phật pháp chưa có nhập Niết-bàn. Cho nên ở thế gian, hễ nơi nào có đại hội trai Tăng đều dành một chỗ tôn quý thỉnh Tôn giả quang giáng ứng cúng, tôn Ngài làm Thượng tọa (Thượng tọa là tiếng tôn xưng các vị Tỷ-kheo cao đức có giới lạp từ 20 năm trở lên, còn có giới lạp từ 50 năm trở lên được tôn vinh là Kỳ Túc). Tôn giả Tân-đầu-lô là bậc Kỳ Túc chừng 200 tuổi nên đặc biệt được tôn phụng. Vua A-dục nghe Thượng tọa Da-xá giới thiệu, lòng rất hoan hỷ đến nỗi lông tóc dựng đứng. Ngay lúc ấy, có một vị Thánh Tăng đầu bạc, lông mày thanh tú dài gần chấm đất, đi đến chỗ trống ngồi xuống. Vua A-dục biết chắc đấy là Tôn giả Tân-đầu-lô liền cung kính đảnh lễ. Vua lại nghĩ đây là cơ duyên hiếm có, liền cầu thỉnh Tôn giả thuật lại sự tích đức Phật thuyết pháp độ sinh khi còn tại thế mà chính Tôn giả đã được thấy nghe. Tôn giả vì vua mà nói rõ mọi vấn đề. Vua A-dục mải mê tìm cầu hiểu biết, rất hứng thú hỏi han không ngớt mà quên đi đại sự trai Tăng. Tôn giả liền nhắc nhở vua là đã đến giờ thọ trai. Vua liền thỉnh cầu các vị Hiền Thánh Tăng trước tiên hãy vì vua mà cử hành nghi thức rưới nước thơm lên cây Bồ-đề. Cây Bồ-đề là vật kỷ niệm khi đức Phật chứng đạo. Tâm nguyện của vua A-dục tôn trọng cây Bồ-đề, cúng dường cây Bồ-đề để biểu thị lòng tôn kính đạo Phật, mong muốn đạo lớn Bồ-đề của đức Phật phồn vinh mậu thịnh, giác ngộ thế gian, lợi ích nhân sinh, khắp mọi nơi đều được mát mẻ. Cho nên, nhân lúc chư Hiền Thánh Tăng vân tập, nương nhờ uy thần phước đức của đại chúng cử hành nghi lễ tưới cây Bồ-đề, mong nó được ngàn năm tươi tốt. Sau đó, vua cung thỉnh chư vị thọ trai. Tự thân vua A-dục dâng cúng tam y lên chư Tăng. Điều này, khiến cho vương thân quyến thuộc cùng các tể quan trong triều đều hết lòng cung phụng chư Tăng, đồng chia nhau công đức trai Tăng bố thí. Thọ trai xong, chư Hiền Thánh Tăng đồng chú nguyện rằng: “Nguyện cho người bố thí, sẽ được nhiều lợi ích, nếu vui vẻ mà làm, sau ắt được an lạc”. Đại hội Vô-già kết thúc, vua A-dục một lần nữa làm việc phước lợi thành công và gây ảnh hưởng rất lớn cho mọi người.
   12. Vương đệ xuất gia
   Lòng sùng kính Tam Bảo của vua A-dục rất thanh tịnh thuần khiết tợ như tấm vải trắng. Đối với Tăng đoàn, vua hết lòng cung kính cúng dường một cách bình đẳng. Mặc dù trong Tăng đoàn khó tránh khỏi cảnh phàm Thánh lẫn lộn, rồng rắn ở chung, thế nhưng nhà vua với lòng chí thành, không hề khởi tâm phân biệt tốt xấu, khen chê phải trái. Vua chỉ một lòng thực hiện tín nguyện trang nghiêm của mình, làm tròn trách nhiệm hộ giáo của người Phật tử tại gia, không can thiệp vào lập trường, công việc của Tăng già.
Thế nhưng, người em của vua là Túc Đại Đa lại sinh lòng bất mãn, vì ông cho rằng chư Tăng thọ tứ sự cúng dường: y phục, thức ăn, chỗ ở và thuốc men của nhà vua, chỉ làm cho họ tăng thêm lòng tham dục mà thôi, chớ họ có dụng công tu hành gì đâu. Túc Đại Đa đã từng thấy nghe các ngoại đạo đương thời tu hành khổ hạnh, do vậy mà ông hoài nghi: “Sa-môn Thích tử mặc y phục đẹp, ăn thức ăn ngon, làm sao có thể đoạn dục được?”. Cho nên, ông không đồng ý việc cúng dường chư Tăng của vua A-dục.
Vua A-dục biết vậy liền tìm mưu kế và phương tiện để đả thông tư tưởng Túc Đại Đa. Vua mật sai cận thần tìm cách khuyến dụ Túc Đại Đa sinh ý muốn được làm vua mà hành động phạm thượng. Quả nhiên, Túc Đại Đa không sáng suốt, lầm vào mưu kế của vua. Vua A-dục đem ra xét xử, lấy tình huynh đệ cho phép Túc Đại Đa được làm vua, tha hồ tận hưởng lạc thú trong vòng bảy ngày, sau đó sẽ đem xử tử. Sau bảy ngày, vua A-dục tự thân đến thăm Túc Đại Đa, hỏi ông về sinh hoạt trong bảy ngày làm vua vui sướng như thế nào? Vương đệ trả lời một cách đau buồn rằng: “Cái chết ở trong đầu, ăn còn không biết ngon lành, có gì đâu mà vui sướng nữa!”. Nhà vua liền nói: “Vương đệ sợ chết cho nên cái niệm dục lạc tiêu mất. Còn Sa-môn Thích tử hiểu biết chân chánh về nỗi khổ lớn của sinh tử vô thường, mong cầu giải thoát không ngớt, còn đâu có tâm hưởng thụ y phục, ăn uống, huống chi lại có niệm tưởng nam nữ dục lạc?”. Nghe xong, Túc Đại Đa liền tỉnh ngộ, nghĩ đến cái chết có thể khiến cho con người buông bỏ dục lạc. Phật pháp khai thị pháp ngữ cho nhân sinh, nói về sinh, lão, bệnh, tử để đe dọa cảnh giác họ, quả thật là ý nghĩa sâu sắc. Lúc ấy, Túc Đại Đa rất khâm phục phương tiện khéo léo của vua A-dục, khiến cho ông từ trong chỗ mê muội đạt đến chỗ hiểu biết cao siêu của Phật pháp, cái đáng kính của Tăng chúng. Để tỏ lòng thành kính ăn năn sám hối, ông đến chùa Kê Đầu Ma chí tâm cung kính cầu thỉnh Thượng tọa Da-xá hoan hỷ làm lễ quy y Tam Bảo cho ông. Sau đó, Túc Đại Đa được Thượng tọa Da-xá khai thị về việc tu học Phật pháp, tán thán pháp tối thắng của người xuất gia, khiến ông phát tâm đại hoan hỷ mong muốn xuất gia. Thế là, chẳng cần suy nghĩ đắn đo, ông liền thỉnh cầu Thượng tọa Da-xá thế phát xuất gia. Thượng tọa bèn khuyên ông hãy trở về suy nghĩ cho thật chín chắn và nên thương lượng với vua A-dục trước đã.
Túc Đại Đa thấy Thượng tọa Da-xá chưa chấp nhận cho mình xuất gia nên cũng không dám thỉnh cầu nài nỉ thêm. Thế nhưng, tâm chí thành xuất gia của ông kiên định phi thường, nhất quyết phải đạt cho được mục đích mới chịu. Ông liền trở về vương cung mong cầu vua A-dục hỗ trợ. Vua A-dục lấy làm bất ngờ, khuyên em bỏ ý định ấy đi, vì vua nghĩ đến tình cảm ruột thịt, không muốn em sống đời xuất gia thanh bần khổ hạnh. Túc Đại Đa hết sức ngạc nhiên. Ông không ngờ rằng anh mình là người rất sùng kính Tam Bảo mà lại lấy tình cảm thân thiết ngăn cản không cho mình xuất gia, thật là lạ lùng, không biết phải giải bày làm sao đây! Thế nhưng, với ý chí quyết tâm và lòng kiên định, cuối cùng Túc Đại Đa cũng thuyết phục được vua A-dục phải thỏa mãn ý nguyện xuất gia của mình.
Sau khi xuất gia, vì sợ gần vương thành, chợ búa sẽ làm chướng ngại đạo nghiệp nên Túc Đại Đa đã tìm đến một nơi xa vắng để ẩn tu. Có lần ông bị bệnh, vua A-dục biết được liền phái người đem thuốc đến cho ông và ông dần dần bình phục.
Lúc đó, ngoại đạo Ni-kiền-tử thấy vua A-dục sùng tín Phật pháp khiến Phật giáo hưng thịnh, liền sinh tâm đố kỵ, kiếm chuyện lăng nhục Phật giáo. Vua A-dục liền phái người đến trừng phạt đồ chúng Ni-kiền-tử, không một người nào sống sót. Bất hạnh thay, Túc Đại Đa bị giết lầm trong số ngoại đạo Ni-kiền-tử đó. Vua A-dục biết tin rất lấy làm đau buồn. Từ đấy, cấm chỉ việc giết hại các Sa-môn và biến cố tôn giáo mới được yên ổn, không còn hỗn loạn nữa.
   13. Vương tử Câu-na-la mù mắt
   Vua A-dục từ khi lên ngôi trị vì thiên hạ, ban đầu khai phá vương nghiệp rất là cực khổ. Kế đến là thực hiện rộng rãi chánh pháp, thi hành nhân nghĩa, phụng trì tuyên dương Phật pháp. Đối với sinh hoạt trong cung đình, vua giữ gìn rất thanh khiết, không tham đắm thanh sắc, cho nên không có nhiều con nối dõi. Có một vị phu nhân tên Liên Hoa sinh được một người con trai, vua rất yêu quý, đặt tên con là Pháp Tăng. Bởi Pháp Tăng có diện mạo đoan chánh, nhất là cặp mắt rất đẹp tợ như mắt chim Câu-na-la, vì thế mọi người đều yêu mến gọi là vương tử Câu-na-la. Khi vương tử Câu-na-la trưởng thành, kết hôn với một thiếu nữ tên Chơn Kim Man. Cả hai vợ chồng rất mực hiền lành, thông minh và hiếu thảo, khiến vua A-dục rất vui lòng. Nhờ sự hấp thụ sự tôn sùng Tam Bảo của vua A-dục, cho nên vương tử cũng rất kính tin Phật pháp, thường theo vua cha đến chùa Kê Đầu Ma lễ Phật nghe pháp. Thượng tọa Da-xá đối với vị vương tử có cặp mắt đẹp này cũng hết lời ca ngợi. Tuy nhiên, Ngài luôn nhắc nhở vương tử không nên vì thế mà sinh tâm kiêu mạn tham ái. Bởi vì hết thảy mọi vật trên thế gian này đều là vô thường, không ngừng biến hóa, cặp mắt này tuy rất đẹp đẽ, nhưng chẳng có thể tồn tại mãi mãi. Tuy vương tử Câu-na-la chưa thấu hiểu hết về lời cảnh tỉnh sâu xa này, nhưng trong tâm của vương tử cũng đã ghi nhận một ấn tượng sâu sắc.
Đệ nhất phu nhân của vua A-dục là Đế-thất-la-xoa, không phải là người sinh ra vương tử Câu-na-la, bà cũng rất yêu cặp mắt đẹp của vương tử. Một hôm, vì không cầm lòng được, phu nhân Đế-thất-la-xoa ngỏ ý muốn cùng Câu-na-la ân ái, nhưng bị vương tử cự tuyệt. Bà rất xấu hổ và sinh lòng oán hận, tìm mọi cách mưu hại vương tử để rửa hờn.
Ít lâu sau, vương tử Câu-na-la được vua cha phái đi chinh phạt nước Càn-đà-la ở phương Bắc. Sau khi vương tử Câu-na-la bình định được bọn phản loạn rồi, quốc vương nước Càn-đà-la nhận được chiếu chỉ của vua A-dục buộc phải móc cặp mắt của vương tử Câu-na-la. Vua Càn-đà-la rất bất mãn việc này, nhưng vì sợ uy thế của vua A-dục nên đành phải đưa chiếu chỉ cho vương tử. Vương tử Câu-na-la vốn là người con hiếu thảo, rất tôn kính phụ vương nên không hề kháng cự, tự cầm dao khoét hai mắt mình, chịu mù lòa một cách tàn nhẫn vô lý. Lúc ấy, Câu-na-la rất đau đớn nhưng chợt nhớ đến giáo lý vô thường mà Thượng tọa Da-xá đã khai thị trước đây, vương tử liền thể ngộ được pháp lạc và giải trừ đi những ưu não về cặp mắt đẹp đã mất. Sau đó, vương tử lang thang kiếm ăn bằng cây đàn cầm, lần hồi về đến vương cung trong thành Hoa Thị. Vua A-dục nghe được tiếng đàn cầm quen thuộc liền phái người ra hỏi thăm và vua rất kinh ngạc khi nhận ra người mù đó chính là Câu-na-la vương tử, đứa con yêu quý của mình được cử đi chinh phạt bọn phiến loạn. Vua vô cùng xót xa đau buồn và tìm hiểu cho rõ sự tình. Khi đó, mọi việc đều được sáng tỏ: Nguyên vì trong lúc vương tử Câu-na-la cầm quân đi chinh phạt, vua A-dục lâm trọng bệnh, được bà đệ nhất phu nhân Đế-thất-la-xoa ân cần săn sóc hầu hạ. Khi khỏi bệnh, nghĩ đến công lao săn sóc khổ nhọc của phu nhân và để đền ơn, vua cho bà được làm vua bảy ngày. Trong thời gian này, đệ nhất phu nhân Đế-thất-la-xoa đã lợi dụng lòng tốt của vua A-dục để hành động tội lỗi phi nhân. Bà ta dùng ấn tín và ngụy tạo chiếu chỉ của vua A-dục, ra lệnh móc mắt vương tử Câu-na-la nhằm thỏa mãn ý nguyện rửa hận của mình. Khi hiểu rõ sự tình, vua rất đau lòng trước việc làm của đệ nhất phu nhân, liền truyền lệnh trị tội bà. Vua cũng rất vui mừng vì vương tử Câu-na-la còn được sống sót trở về. Đây là một biến cố bất hạnh
   14. Rộng tu ruộng phước
   Người học Phật cần phải song tu phước và huệ mới có thể khế hợp với tâm ý của Phật, mới thật là Phật tử tin hiểu chân chánh. Tu huệ cần phải nghe pháp Phật, thân cận thiện tri thức để được khai ngộ. Tu phước phải sinh khởi tâm từ bi thường cứu giúp người nghèo khó, kính trọng cúng dường Tam Bảo. Vua A-dục tuy là bậc đế vương cao quý nhưng đối với việc học Phật, lúc nào cũng tâm niệm thực hiện hai môn phước, huệ. Trong một đời của nhà vua, thường làm những việc hoằng hộ Phật pháp như phổ biến chánh pháp, xây dựng chùa tháp, hành hương Thánh tích, cử người truyền giáo, mở đại hội Vô-già, cứu tế khổ nạn… Với đại nguyện đại hạnh ấy, vua luôn tích cực hoặc tự mình, hoặc khuyến khích người làm, cùng nhau cầy cấy ruộng phước, xứng đáng làm bậc mô phạm cho người đời sau.
Ở trong vương cung, vua A-dục thường đem Phật pháp giáo hóa hướng dẫn các phu nhân, thái nữ. Có một lần, nước Sư Tử cống hiến năm viên Như ý bảo châu. Nhà vua cúng dường tháp Phật bốn viên, còn một viên sẽ tặng cho cung nhân nào mặc y phục đẹp nhất. Các cung nhân nghe lệnh vua liền đua nhau mặc y phục thật đẹp, trang sức bằng anh lạc, vì ai cũng mong muốn được vua ban thưởng. Riêng có phu nhân Tu-xà-đa nhớ đến kinh Phật thường ca ngợi cái đẹp rằng: “Giới y phục anh lạc là trang nghiêm đệ nhất”, cho nên bà thọ trì Bát quan trai giới, thường mặc y phục màu trắng tinh khiết, ở trong các cung nhân nổi bật lên vẻ đẹp trang nghiêm thanh tịnh, rất hợp với ý nguyện tuyển chọn cái đẹp của vua A-dục. Vì vậy, phu nhân Tu-xà-đa được vinh dự nhận viên bảo châu ấy. Nhờ vậy, các cung nhân, thế nữ trong cung đều học tập thọ trì tám giới nhằm trang nghiêm phẩm hạnh giới đức của mình. Đặc biệt là lúc vua A-dục thỉnh chư Tăng vào cung cúng dường. Trước đây, vua A-dục có mở pháp hội cho các cung nhân được nghe pháp, trong lòng họ có những thắc mắc nghi ngờ nhưng không dám cầu hỏi, bởi vì sợ phạm lỗi. Về sau, trong cung có người đã tu đầy đủ quả phước nhân thiên muốn cầu pháp giải thoát xuất thế, nên đã mạo muội cầu thỉnh Tăng già khai thị pháp Bát chánh đạo và họ đã tu đắc quả Tu-đà-hoàn. Vua A-dục biết được điều này rất lấy làm hoan hỷ, cho phép các cung nhân được tự do nghe pháp, thỉnh pháp, cho nên việc tu học Phật pháp trong cung ngày càng phổ biến thịnh hành.
Lúc vua A-dục thỉnh chư Tăng vào cung để cúng dường, có hai sự kiện rất lạ lùng, lý thú. Việc thứ nhất là có vị Tăng tên Ưu-bát-la, nơi miệng thường tỏa ra mùi hương hoa sen. Vua tưởng lầm là Sư ngậm hương liệu trong miệng hầu làm loạn tín tâm của cung nhân, nên yêu cầu Sư phải súc miệng thật sạch, thế nhưng, càng súc thì miệng lại càng thơm. Lúc ấy, nhà vua mới hiểu là vị cao Tăng này có công đức miệng thơm như hoa sen, là vì nhiều đời thường tán dương Phật pháp nên được như vậy. Do đó, vua rất hoan hỷ và càng thêm lòng kính trọng. Sự hiểu lầm của vua A-dục mới chỉ là tâm lý nghi ngờ, nên không làm tổn hại đến sự tôn nghiêm của Tăng chúng.
Sự kiện thứ hai càng lý thú hơn. Trong Tăng chúng đến ứng cúng, có một Sa-di mới bảy tuổi. Vua A-dục rất lúng túng khó xử, vì vua thấy chú còn quá nhỏ tuổi, nếu mình đảnh lễ chú trước mặt cung nhân e họ sẽ coi nhẹ thể diện của mình, còn không đảnh lễ sẽ trái với nguyện của mình. Thế là vua nghĩ ra một cách, vua mời chú Sa-di ra ngoài đến một chỗ vắng không có người, rồi vua đảnh lễ chú một cách cung kính và dặn dò chú chớ đem việc này nói cho người khác biết. Thế rồi, chú Sa-di liền dùng thần thông đi vào trong chiếc bình đựng nước, rồi từ trong ấy đi ra trước sự ngạc nhiên thán phục của vua A-dục, và chú cũng dặn dò vua không nên nói cho ai biết việc này. Vua rất ngạc nhiên vô cùng vì không thể ngờ được rằng, chú Sa-di tuy nhỏ tuổi lại có thần thông siêu tuyệt như thế. Vua chợt nhớ đến lời dạy trong kinh Phật: “Sa-di tuy nhỏ nhưng không nên xem thường”, nhờ vậy mà lòng tin của vua càng thêm sâu đậm.
Các cung nhân được học Phật pháp, biết kính trọng Tăng già, phần lớn là nhờ công đức của vua A-dục, đây là những việc hoằng hóa Phật pháp tại trong cung. Đối với tôn giáo, vua A-dục chọn Phật pháp làm quốc giáo. Đối với Phật, Pháp, Tăng vua hết lòng tôn kính cúng dường. Điều này, khiến cho Bà-la-môn giáo sinh lòng ghen ghét, oán trách.
Một lần nọ, đồ chúng Bà-la-môn giáo tập hợp khoảng năm trăm người, do một người biết chú thuật cầm đầu, biến thành người của Ma-hê-thủ-la-thiên tìm đến vương cung, yêu cầu vua A-dục cúng dường cho họ một bữa ăn. Vua A-dục rất hoan hỷ, ra lệnh cho nhà bếp phải chuẩn bị chu đáo, cấp cho họ năm trăm phần ăn đầy đủ. Nhưng người Bà-la-môn cầm đầu nói rằng họ không muốn ăn cơm rau của vua mà muốn ăn đầu của người trọc, tức là đầu các vị Hòa thượng. Vua A-dục rất khó xử, đành phải sai người đến chùa Kê Đầu Ma thỉnh cầu Thượng tọa Da-xá quang lâm giải quyết vấn đề thần quái này. Nhưng Thượng tọa không đi, chỉ phái một chú Sa-di nhỏ đến mà thôi. Vua A-dục trông thấy chú Sa-di nhỏ như thế này làm sao giải quyết được vấn đề đây? Lòng vua bối rối thật là như lửa đốt… Riêng chú Sa-di thì rất bình thản vô tư. Chú yêu cầu vua A-dục cho chú ăn no nê đã rồi chú sẽ thỏa mãn ý nguyện của những người Bà-la-môn. Thế rồi, chú Sa-di bắt đầu ăn, mọi người thấy chú ăn mà kinh hồn khiếp vía! Năm trăm phần thức ăn mà vua A-dục ra lệnh chuẩn bị cho những người Bà-la-môn chú đều đã ăn hết. Thế nhưng, cái bụng của chú Sa-di thật lạ kỳ, ăn nhiều như thế mà chú vẫn còn chưa thấy no, vì vậy chú đành phải ăn luôn những người Bà-la-môn. Chú ăn từng người, từng người một, cho đến người thứ bốn trăm chín mươi chín, chỉ có người cầm đầu vội vàng bay lên trên không trốn thoát mà thôi. Vua A-dục thấy vậy lo sợ cái bụng thần của chú Sa-di sẽ không chừa cả mình. Chú Sa-di biết tâm niệm của vua liền trấn an rằng: “Vua là người đàn việt lớn của Phật pháp, Phật pháp không khi nào làm tổn hại người hộ pháp”. Vua A-dục lúc ấy mới yên tâm và tiễn đưa chú Sa-di về chùa. Khi vừa vào đến chùa, mọi người bỗng kinh ngạc khi nhận thấy bốn trăm chín mươi chín người Bà-la-môn bị chú Sa-di ăn lúc nãy đều biến thành những vị Tăng không có râu tóc. Thần thông diệu dụng của chú Sa-di quả thật là không thể nghĩ bàn. Nhờ vậy mà đồ chúng Bà-la-môn giáo xuất gia tu học Phật pháp rất nhiều. Thật tình mà nói, sự hộ trì Phật pháp của vua A-dục không những khiến cho nhân dân xu hướng Phật giáo mà còn làm cho nhiều tín đồ của các tôn giáo khác cũng thay đổi tín ngưỡng, quy hướng Phật giáo.
Vua A-dục luôn chiếu cố đến đời sống của nhân dân, quan tâm đến việc phát triển sự nghiệp hữu ích cho quần sinh và Phật giáo, gây tạo những điều phúc lợi cho người nghèo khổ, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân làm ra nhiều của cải vật chất, khiến cho quốc dân được nhiều điều lợi ích, an vui hạnh phúc. Vua A-dục không tham lam tài vật và còn khuyến khích nhân dân cùng nhau tu thiện, gieo trồng ruộng phước, thực hành Bồ-tát đạo, hiệu quả của việc này đạt được rất lớn.
Có lần, vua trông thấy một người nghèo phát tâm bố thí làm phước, đem chút ít tiền bạc hiếm hoi của mình hoặc đem sức lực để đổi lấy đồng tiền mà làm việc phước đức không chút tiếc công. Vua A-dục thấy nhân dân thuần khiết tích phước như thế, rất lấy làm cảm động và khen thưởng họ. Nhân dân phần nhiều chịu ảnh hưởng sinh hoạt chánh pháp của nhà vua nên họ nỗ lực xem trọng việc thực hành thiện pháp.
   15. Đức sáng thiên thu
   Việc hoằng hộ Phật pháp của vua A-dục và tài trí mưu lược kiệt xuất của ông trong việc trị nước theo chánh pháp đã khiến cho Ấn Độ thống nhất và phồn vinh trong khoảng hai mươi năm. Thế lực của nước Ma-kiệt-đà từ trước tới nay chưa từng có được như vậy. “Ta xưa nơi đại địa này làm chủ được hết thảy, những vị vua kiêu mạn ta đều chế phục được”. Và những thành tích làm cho đời sống nhân dân an định như: kẻ nghèo khổ không thế lực, ta đều hay cứu giúp, cho đến các bậc nhân sĩ xa gần đều hướng về và ngưỡng mộ vua A-dục.
Thế nhưng, trong sự vận hành của đại đạo, “hết thảy đều chuyển biến hoại diệt, thế gian không có gì thường trụ mãi mãi”. Vương nghiệp của vua A-dục cũng như mặt trời mọc chiếu sáng ban ngày rồi sẽ lặn về đêm, đó là quy luật tất yếu mà thế gian thường nói: “Vật cực tất phản” (sự vật phát triển đến cực điểm rồi thì sẽ chuyển hóa theo chiều ngược lại). Tấm thân tứ đại giả hợp của vua cũng đã thay đổi và cuối cùng bệnh tật kéo đến, sinh mạng của vua A-dục cũng có hạn, làm sao tránh khỏi vô thường được!
Trong lúc vua A-dục lâm bệnh, vua nghĩ đến những thành tựu đã đạt được trong một đời của mình mà lòng vui mừng thanh thản, vì vua đã hết lòng làm các việc công đức, ra sức hoằng hộ Phật pháp mà chưa có vị vua nào có thể làm được như vậy. Thế nhưng, vua cũng còn có một chút ân hận là: Trưởng giả Tu Đạt Đa thời Phật tại thế đã từng làm việc bố thí cúng dường rất lớn, trọn đời ông ta bố thí có tới hàng trăm ức tiền vàng. Vua so sánh việc làm bố thí trong đời mình với Tu Đạt Đa thì còn thiếu tới bốn ức. Lúc ấy, có vị đại thần ở bên cạnh đề nghị vua nên hạ chỉ lấy số vàng còn tồn trong kho của vua để thực hiện đầy đủ ước nguyện bố thí một trăm ức. Tuy nhiên, nhà vua tự biết bệnh tình của mình không đủ sức để làm thêm nữa. Vì hiện tại còn có một việc quan trọng hơn nữa là chưa kiến lập Thái tử. Vua liền truyền chỉ lập vương tôn Thắc Ma Đề, con của vương tử Câu-na-la làm Thái tử. Không bao lâu, triều thần tôn Thái tử Thắc Ma Đề lên làm vua. Sức lực của vua A-dục lần lần giảm sút, vua ra lệnh đem tất cả những vật tư hữu còn lại của mình đến chùa Kê Đầu Ma làm công việc cúng dường chư Tăng lần cuối cùng. Thượng tọa Da-xá tiếp nhận phẩm vật cúng dường và phân phát cho chư Tăng. Công việc cúng dường hoàn tất. Lúc lâm chung, nhà vua rất mãn nguyện, chánh niệm vãng sinh. Một đời nhân vương như dầu hết đèn tắt, tuyên bố thọ chung, đại địa chấn động xót thương người quá cố!
Tóm lại, từ khi vua A-dục tin tưởng phụng sự Phật pháp, cho đến giây phút cuối của cuộc đời, tín tâm đầy đủ không lúc nào lui sụt, ra sức thực hành chánh pháp chưa từng có lúc giải đãi. Đối với Phật pháp, có thể xưng là “Nhân Vương hộ quốc”; đối với thế gian cũng xứng đáng là vị Thánh quân. Lịch sử thế giới đều ghi nhận những thành công của vua A-dục là “đức sáng thiên thu”, đâu chỉ riêng là vị quốc vương của Phật giáo.