Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật

Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật

Trương Văn Chiến 33

QUYỂN THỨ MƯỜI SÁU
PHẨM PHẬT MẪU
THỨ BỐN MƯƠI TÁM
Đức Phật bảo Ngài Tu Bồ Đề: “Ví như bà mẹ có con trai, hoặc năm hoặc mười hoặc trăm ngàn người con trai. Bà mẹ phải bịnh, các con đều lo buồn cần cầu cứu chữa, vì nhớ ơn mẹ sanh dục và dạy dỗ mình.

Cũng vậy, nầy Tu Bồ Đề! Phật và chư Phật hiện tại mười phương đều thường dùng Phật nhãn nhìn Bát nhã ba la mật sâu xa nầy.

Tại sao vậy? vì Bát nhã ba la mật sâu xa nầy hay hiển thị tướng thế gian, hay xuất sanh chư Phật, hay cho nhứt thiết chủng trí, cũng hay sanh Thiền ba la mật nhẫn đến Đàn na ba la mật, hay sanh nội không nhẫn đến vô pháp hữu pháp không, hay sanh tứ niệm xứ nhẫn đến nhứt thiết chủng trí, hay sanh Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, Bích Chi Phật, hay sanh chư Phật.

Nầy Tu Bồ Đề! Chư Phật đã được Vô thượng Bồ đề, chư Phật hiện nay được cùng chư Phật sẽ được đều do Bát nhã ba la mật sâu xa nầy mà được.

Nầy Tu Bồ Đề! Thiện nam, thiện nữ cầu Phật đạo nên biên chép nhẫn đến chánh ức niệm Bát nhã ba la mật sâu xa nầy. Chư Phật thường dùng Phật nhãn nhìn người nầy, gia hộ cho họ được chẳng thối chuyển Vô thượng Chánh giác”.

Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Như lời Đức Phật dạy, Bát nhã ba la mật hay sanh chư Phật, hay hiển thị tướng thế gian.

Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là Bát nhã ba la mật hay sanh chư Phật? Hay hiển thị tướng thế gian? Thế nào là chư Phật từ Bát nhã ba la mật sanh? Chư Phật nói tướng thế gian như thế nào?

Đức Phật bảo Ngài Tu Bồ Đề: “Trong Bát nhã ba la mật sâu xa nầy xuất sanh mười trí lực nhẫn đến nhứt thiết chủng trí. Vì được các pháp trên đây mà gọi là Phật, nên Bát nhã ba la mật hay sanh chư Phật.

Nầy Tu Bồ Đề! “Chư Phật nói ngũ ấm là tướng thế gian”.

Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! thế nào là trong Bát nhã ba la mật nói ngũ ấm? thế nào là trong Bát nhã ba la mật hiển thị tướng ngũ ấm?”

Đức Phật bảo Ngài Tu Bồ Đề: “Bát nhã ba la mật chẳng hiển thị ngũ ấm phá, chẳng hiển thị ngũ ấm hoại, chẳng hiển thị sanh, diệt, cấu, tịnh, tăng, giảm, chẳng hiện thị xuất, nhập, chẳng hiện thị quá khứ, vị lai, hiện tại.

Tại sao vậy?

Vì tướng không chẳng phá chẳng hoại. Vì tướng vô tướng chẳng phá chẳng hoại. Vì tướng vô tác chẳng phá chẳng hoại. Vì pháp bất khởi, pháp bất sanh, pháp vô sở hữu, pháp tánh chẳng phá chẳng hoại. Vì tướng hiển thị như vậy nên Phật nói Bát nhã ba la mật sâu xa hay hiển thị tướng thế gian.

Lại nầy Tu Bồ Đề! Do Bát nhã ba la mật mà chư Phật biết rõ tâm niệm của vô lượng vô biên vô số chúng sanh.

Nầy Tu Bồ Đề! Trong Bát nhã ba la mật sâu xa nầy không chúng sanh, không danh từ chúng sanh, không sắc, thọ, tưởng, hành, thức, không danh từ sắc, thọ, tưởng, hành, thức, nhẫn đến không nhứt thiết chủng trí, không danh từ nhứt thiết chủng trí. Thế nên Bát nhã ba la mật sâu xa nầy hay hiển thị tướng thế gian.

Nầy Tu Bồ Đề! Bát nhã ba la mật sâu xa nầy chẳng hiển thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức, nhẫn đến chẳng hiển thị nhứt thiết chủng trí.

Tại sao vậy? Vì trong Bát nhã ba la mật sâu xa nầy còn không Bát nhã ba la mật huống là sắc nhẫn đến nhứt thiết chủng trí.

Lại nầy Tu Bồ Đề! Có bao nhiêu danh số chúng sanh hoặc loài có sắc hay không sắc, có tưởng hay không tưởng, hoặc chẳng phải có tưởng, chẳng phải có tưởng, chẳng phải không tưởng, ở quốc độ nầy nhẫn đến khắp quốc độ mười phương. Những chúng sanh ấy hoặc nhiếp tâm, Đức Phật đều biết thiệt rõ tất cả tâm niệm của họ.

Do đâu mà Đức Phật biết thiệt rõ tướng dạng tâm niệm của chúng sanh?

Vì Đức Phật dùng pháp tướng nên biết rõ.

Dùng pháp tướng gì để biết?

Nầy Tu Bồ Đề! Trong pháp tướng nầy còn không có tướng pháp tướng huống là nhiếp tâm với loạn tâm. Vì dùng pháp tướng nầy mà Đức Phật biết rõ nhiếp tâm, loạn tâm của tất cả chúng sanh.

Lại nầy Tu Bồ Đề! Đức Phật biết thiệt rõ nhiếp tâm, loạn tâm của chúng sanh.

Do đâu mà biết?

Vì do tận tướng nên biết, do vô nhiễm tướng nên biết, do diệt tướng nên biết, do đoạn tướng nên biết, do tịch tướng nên biết, do ly tướng nên biết. Đức Phật do nơi Bát nhã ba la mật mà biết rõ nhiếp tâm, loạn tâm của tất cả chúng sanh.

Lại nầy Tu Bồ Đề! Do Bát nhã ba la mật mà Đức Phật biết thiệt rõ nhiễm tâm của chúng sanh, biết thiệt rõ sân tâm, si tâm của chúng sanh, nếu chúng sanh có nhiễm tâm, sân tâm, si tâm.

Tại sao Đức Phật biết thiệt rõ như vậy? Nầy Tu Bồ Đề! Vì thiệt tướng của nhiễm tâm không có tướng nhiễm, vì thiệt tướng của sân tâm, si tâm không có tướng sân, không có tướng si.

Tại sao vậy? Vì trong thiệt tướng không có tâm vương, tâm sở, huống là có được nhiễm tâm, sân tâm, si tâm, huống là có được tâm chẳng nhiễm, chẳng sân, chẳng si.

Thế nên, nầy Tu Bồ Đề! Do Bát nhã ba la mật mà Đức Phật biết thật rõ tâm nhiễm, tâm sân, tâm si của tất cả chúng sanh.

Lại nầy Tu Bồ Đề! Do Bát nhã ba la mật mà Đức Phật biết thiệt rõ tâm không nhiễm, không sân, không si của tất cả chúng sanh nếu chúng sanh không tâm nhiễm sân, sân, si.

Tại sao vậy? Vì trong tâm không nhiễm, không sân, không si nầy chẳng có tướng nhiễm, sân, si. Vì hai tâm chẳng cùng chung vậy. Thế nên, nầy Tu Bồ Đề! Do Bát nhã ba la mật mà Đức Phật biết rõ tâm không nhiễm, sân, si của chúng sanh nếu có chúng sanh không có tâm nhiễm sân, si.

Lại nầy Tu Bồ Đề! Do Bát nhã ba la mật, nếu chúng sanh cò quảng tâm, Đức Phật biết thiệt rõ quảng tâm của chúng sanh.

Tại sao vậy? Vì Đức Phật biết tâm tướng của chúng sanh chẳng rộng, chẳng hẹp, chẳng tăng, chẳng giảm, chẳng đến, chẳng đi, vì tâm tướng rời rời lìa, vì tâm tánh vốn không nên không có gì làm rộng, làm hẹp, làm tăng, làm giảm, chẳng đến, chẳng đi.

Thế nên, nầy Tu Bồ Đề! Do Bát nhã ba la mật mà Đức Phật biết thiệt rõ đại tâm của chúng sanh. Tại sao vậy? Vì Đức Phật chẳng thấy tâm chúng sanh có tướng lai, tướng khứ, tướng sanh, trụ, dị, diệt. Tại sao vậy? vì tâm tánh vốn không nên không có ai đến, đi, không có sanh, trụ, dị, diệt.

Thế nên, nầy Tu Bồ Đề! Nếu chúng sanh có đại tâm, do Bát nhã ba la mật mà Đức Phật biết thiệt rõ đại tâm của chúng sanh.

Lại nầy Tu Bồ Đề! Nếu chúng sanh có tâm vô lượng, do Bát nhã ba la mật mà Đức Phật biết thiệt rõ tâm vô lượng của chúng sanh. Tại sao vậy? Vì do Bát nhã ba la mật mà Đức Phật biết rõ tâm ấy của chúng sanh; chẳng thấy an trụ, chẳng thấy chẳng an trụ. Vì tướng của tâm vô lượng không chỗ y chỉ, nào có chỗ trụ, chẳng trụ.

Thế nên, nầy Tu Bồ Đề! Chúng sanh có tâm vô lượng, do Bát nhã ba la mật mà Đức Phật biết thiệt rõ tâm vô lượng ấy.

Lại nầy Tu Bồ Đề! Tâm chẳng thể thấy được của chúng sanh, do Bát nhã ba la mật mà Đức Phật biết thiệt rõ tâm chẳng thể thấy được ấy. Tại sao vậy? Vì tâm chúng sanh là vô tướng, vì tự tướng vốn không, Đức Phật biết thiệt rõ vô tướng. Tâm của chúng sanh cả ngũ nhãn đều không thấy được.

Thế nên, nầy Tu Bồ Đề! Tâm chẳng thể thấy được của chúng sanh, do Bát nhã ba la mật mà Đức Phật biết thiệt rõ tâm chẳng thể thấy được ấy.

Lại nầy Tu Bồ Đề! Do Bát nhã ba la mật, những tâm số xuất một co giãn của chúng sanh, Đức Phật biết thực rõ. Tại sao vậy? Vì tất cả tâm số xuất một co giản của chúng sanh đều y cứ nơi sắc, thọ, tưởng, hành, thức mà sanh khởi. Ở trong ấy, Đức Phật biết rõ tâm số xuất một co giãn của chúng sanh. Đó là thần và thế gian thường, đây là sự thiệt, ngoài ra là nói sai. Kiến thức nầy y cứ nơi sắc thần và thế gian vô thường, đây là sự thiệt, ngoài ra là nói sai. Kiến thức nầy y cứ nơi sắc thần và thế gian cũng thường cũng vô thường, đây là sự thiệt, ngoài ra là nói sai. Kiến thức nầy y cứ nơi sắc thần và thế gian chẳng thường chẳng vô thường, đây là sự thiệt, ngoài ra là nói sai. Kiến thức nầy y cứ nơi sắc thần và thế gian thường, đây là sự thiệt, ngoài ra là nói sai.

Như kiến thức nầy y cứ nơi sắc, kiến nầy y cứ nơi thọ, y cứ nơi tưởng, y cứ nơi hành, y cứ nơi thức cũng như vậy.

Kiến thức nầy y cứ nơi sắc và thế gian hữu biên, đây là sự thiệt, ngoài ra là nói sai. Kiến thức nầy y cứ nơi sắc và thế gian vô biên, đây là sự thiệt, ngoài ra là nói sai. Kiến thức nầy cứ nơi sắc và thế gian cũng hữu biên cũng vô biên, đây là sự thiệt, ngoài ra là nói sai. Kiến thức nầy y cứ nơi sắc và thế gian chẳng hữu biến chẳng vô biên, đây là sự thiệt, ngoài ra là nòi sai.

Như y cứ nơi sắc, kiến thức nầy y cứ nơi thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy.

Thần chính là thân.

Kiến thức nầy y cứ nơi sắc thần khác thân khác, y cứ nơi thọ, tưởng, hành và thức cũng như vậy.

Sau khi chết có như đi, đây là sự thiệt, ngoài ra là nói sai. Kiến thức nầy y cứ nơi sắc, sau khi chết có như đi hoặc không có như đi, đây là sự thiệt, ngoài ra là nói sai. Kiến thức nầy y cứ nơi sắc, sau khi chết chẳng phải có như đi, chẳng phải không có như đi, đây là sự thiệt, ngoài ra là nói sai.

Như y cứ nơi sắc, y cứ nơi thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy.

Thế nên, Nầy Tu Bồ Đề! Do Bát nhã ba la mật mà Đức Phật biết thiệt rõ những tâm số xuất một co giãn của chúng sanh.

Lại nầy Tu Bồ Đề! Đức Phật biết rõ sắc tướng. Biết rõ sắc tướng thế nào? Như là như tướng: chẳng hoại, không phân biệt, không tướng, không nhớ ghi, không hí luận, không được, sắc tướng sắc tướng cũng như vậy, cũng chẳng hoại nhẫn đến cũng không được.

Nầy Tu Bồ Đề! Đức Phật biết rõ thọ tướng nhẫn đến biết rõ thức tướng là chẳng hoại nhẫn đến không được như là như tướng.

Thế nên, nầy Tu Bồ Đề! Đức Phật biết rõ chúng sanh như tướng và chúng sanh tâm số xuất một co giãn như tướng, ngũ ấm như tướng, chư hành như tướng, cũng chính là tất cả pháp như tướng, đó là sáu ba la mật như tướng, đó là ba mươi bảy phẩm trợ đạo như tướng, đó là thập bát không như tướng, đó là bát bội xả như tướng, đó là chín thứ đệ định như tướng, đó là mười trí lực như tướng, đó là tứ vô úy, tứ vô ngại trí, đại từ đại bi, mười tám pháp bất cộng như tướng, đó là nhứt thiết chủng trí như tướng, đó là pháp thiện, pháp bất thiện, pháp thế gian, pháp xuất thế gian, pháp hữu lậu, pháp vô lậu, pháp quá khứ, vị lai, hiện tại, pháp hữu vi, pháp vô vi như tướng, đó là quả Tu Đà Hoàn, quả Tư Đà Hàm, quả A Na Hàm, quả A La Hán, quả Bích Chi Phật, quả Vô thượng Bồ đề và chư như tướng. Chư Phật như tướng đều là tướng nhứt như, chẳng hai chẳng khác, chẳng tận. Đây gọi là tất cả pháp như tướng.

Đức Phật do Bát nhã ba la mật mà được như tướng vậy.

Vì thế nên Bát nhã ba la mật hay sanh chư Phật, hay hiển thị tướng thế gian. thế nên, nầy Tu Bồ Đề! Đức Phật biết rõ tất cả pháp như tướng, chẳng biệt dị, chẳng phải chẳng như. Vì được như tướng như vậy nên Đức Phật được gọi là Như Lai”.

Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Các pháp như tướng chẳng biệt dị, chẳng phải chẳng như ấy là rất sâu xa.

Bạch đức Thế Tôn! Chư Phật dùng pháp ấy mà vì người nói Vô thượng Bồ đề. Ai là người tin hiểu được? Chỉ có bức bất thối Bồ Tát, người đầy đủ chánh kiến, bực vô lậu A La Hán. Vì pháp nầy rất sâu xa”,

Đức Phật bảo Ngài Tu Bồ Đề: “Vì pháp nầy tướng vô tận nên rất là sâu xa”.

Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Pháp nào tướng vô tận nên là rất sâu xa?”

Đức Phật bảo Ngài Tu Bồ Đề: “Vì tất cả pháp vô tận nên là rất sâu xa.

Như vậy, nầy Tu Bồ Đề! Đức Phật được tất cả pháp như ấy rồi vì chúng sanh mà thuyết pháp”.