Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật

Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật

Trương Văn Chiến 38

QUYỂN THỨ HAI MƯƠI HAI
PHẨM CHÚC LỤY
THỨ SÁU MƯƠI SÁU
Khi đó Thiên Ðế Thích Ðề Hoàn Nhơn thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi nói như vậy, đáp như vậy, có phải là thuận theo pháp mà chẳng là chánh đáp chăng?”.

Đức Phật phán dạy: “Này Kiều Thi Ca! Lời đáp của ngươi thiệt đều thuận theo pháp cả”.

– Bạch đức Thế Tôn! Thiệt là hi hữu! Chỗ nói của Ngài Tu Bồ Ðề đều là không, là vô tướng, là vô tác, là tứ niệm xứ nhẫn đến là Vô Thượng Bồ Ðề.

– Này Kiều Thi Ca! Tỳ Kheo Tu Bồ Ðề lúc hành không, Ðàn ba la mật còn là bất khả đắc huống là người hành Ðàn ba la mật. Nhẫn đến Bát nhã ba la mật còn bất khả đắc, huống là người hành Bát nhã ba la mật. Tứ niệm xứ còn bất khả đắc, huống là người tu tứ niệm xứ. Nhẫn đến bát thánh đạo.Thiền, giải thoát, tam muội định còn bất khả đắc, huống là người phát sanh tứ vô ngại trí. Ðại từ đại bi còn bất khả đắc, huống là người hành đại từ đại bi. Mười tám pháp bất cộng còn bất khả đắc, huống là người hay sanh mười tám pháp bất cộng. Vô Thượng Bồ Ðề còn khả đắc, huống là người được Vô Thượng Bồ Ðề. Nhứt thiết trí còn bất khả đắc, huống là người được nhứt thiết trí. Như Lai còn bất khả đắc, huống là người sẽ làm Như Lai. Pháp vô sanh còn bất khả đắc, huống là người chứng được pháp vô sanh. Ba mươi hai tướng còn bất khả đắc, huống là người được ba mươi hai tướng. Tám mươi tùy hình hảo còn bất khả đắc, huống là người được tám mươi tùy hình hảo.

Tại sao vậy? Này Kiều Thi Ca! Vì Tỳ Kheo Tu Bồ Ðề ở nơi tất cả pháp: hành ly, hành vô sở đắc, hành không, hành vô tướng, hành vô tác.

Này Kiều Thi Ca! Ðem chỗ sở hành của Tỳ Kheo Tu Bồ Ðề đây muốn so sánh với hạnh Bát nhã ba la mật của đại Bồ Tát thì không bằng một phần trăm, không bằng một phần ngàn, không bằng một phần ngàn muôn ức, nhẫn đến toán số thí dụ cũng không bằng được.

Tại sao vậy? Vì trừ công hạnh của Phật, đối với công hạnh của Thanh Văn và Bích Chi Phật, thì công hạnh Bát nhã ba la mật của đại Bồ Tát là tối tôn, tối thượng, tối diệu. Thế nên đại Bồ Tát muốn được tối thượng ở trong tất cả chúng sanh thì phải hành Bát nhã ba la.

Lúc hành Bát nhã ba la mật, đại Bồ Tát vượt trên bực Thanh Văn và Bích Chi Phật mà vào bực Bồ Tát, hay đầy đủ Phật pháp, được nhứt thiết chủng trí, dứt tất cả tập khí phiền não mà làm Phật”.

Bấy giờ trong đại hội, chư Thiên Ðao Lợi đem hoa mạn đà la cõi trời rãi trên Đức Phật và chư Tăng.

Khi đó, tám trăm vị Tỳ Kheo đứng dậy rải hoa cúng Phật, trịch y quỳ gối chắp tay bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi sẽ thật hành công hạnh vô thượng mà hành Thanh Văn và Bích Chi Phật không thể thật hành này”.

Ðức Phật biết tâm niệm của các vị Tỳ Kheo nên mỉm cười. Như pháp của Chư Phật, những ánh sáng nhiều màu: xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, tía từ miệng Đức Phật phóng ra chiếu khắp cõi Đại Thiên, nhiễu quanh Đức Phật ba vòng rồi rót vào đảnh Đức Phật.

Ngài A Nan liền đứng dậy trịch y quỳ gối chắp tay bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Duyên cớ gì mà Đức Phật mỉm cười? Chư Phật không bao giờ không nhơn duyên mà cười”.

Đức Phật phán dạy: “Này A Nan! Tám trăm vị Tỳ Kheo đây, trong kiếp Tinh Tú sẽ thành Phật đồng hiệu là Tán Hoa, đại chúng, quốc độ và thọ mạng cũng đều đồng. Mỗi vị đều qua tám muôn tuổi đi xuất gia làm Phật. Thời kỳ đó, các quốc độ của chư Phật ấy thường mưa hoa trời năm màu.

Thế nên, này A Nan! Ðại Bồ Tát muốn thật hành công hạnh tối thượng thì phải hành Bát nhã ba la mật.

Này A Nan! Nếu có thiện nam, thiện nữ nào có thể thật hành Bát nhã ba la mật sâu xa này thì phải biết đó là Bồ Tát bỏ thân trong loài người mà sanh đến trong đây, hoặc từ trên cung trời Ðâu Suất chết mà đến sanh nơi đây, đã từ trong loài người hoặc trên cung trời Ðâu Suất rộng nghe Bát nhã ba la mật sâu xa này.

Này A Nan! Ta thấy chư đại Bồ Tát hay thật hành Bát nhã ba la mật sâu xa này.

Này A Nan! Nếu có thiện nam, thiện nữ nào nghe Bát nhã ba la mật sâu xa này rồi thọ trì, đọc tụng, thân cận, chánh ức niệm, lại đem dạy cho người hành đạo Bồ Tát, phải biết thiện nam, thiện nữ đó hiện diện từ chư Phật, nghe Bát nhã ba la mật sâu xa rồi thọ trì, đọc tụng, thân cận, cũng đã trồng căn lành từ chỗ chư Phật.

Thiện nam, thiện nữ đó nên nghĩ rằng: Tôi trồng căn lành chẳng phải từ chỗ Thanh Văn, cũng chẳng phải từ chỗ Thanh Văn nghe Bát nhã ba la mật sâu xa.

Này A Nan! Nếu có thiện nam, thiện nữ nào thọ trì, đọc tụng, thân cận, tùy nghĩa, tùy pháp thật hành Bát nhã ba la mật sâu xa này, phải biết đó là người hiện diện thấy Phật.

Này A Nan! Nếu có thiện nam, thiện nữ nghe Bát nhã ba la mật sâu xa này mà lòng tin thanh tịnh không bị ngăn phá, phải biết đó là người đã từng cúng dường Phật trồng căn lành, cùng thiện tri thức tương đắc.

Này A Nan! Người ở chỗ phước điền chư Phật trồng căn lành dầu rằng chẳng dối hư nhưng cần được Thanh Văn, Bích Chi Phật và Phật mà được giải thoát. Phải rành rẽ thấu đáo thật hành sáu ba la mật nhẫn đến nhứt thiết chủng trí. Không bao giờ có sự người này được Vô Thượng Bồ Ðề mà trụ bực Thanh Văn, Bích Chi Phật.

Này A Nan! Thế nên ta đem Bát nhã ba la mật chúc lụy cho ngươi.

Này A Nan! Nếu người thọ trì tất cả pháp, trừ Bát nhã ba la mật, nếu quên mất thì lỗi còn ít chẳng thành đại tội. Người thọ trì Bát nhã ba la mật sâu xa nếu quên mất thì tội rất nhiều. Thế nên ta đem Bát nhã ba la mật sâu xa này chúc lụy cho ngươi. Ngươi phải khéo thọ trì, đọc tụng thông thuộc.

Này A Nan! Nếu có thiện nam, thiện nữ nào thọ trì Bát nhã ba la mật, đó là thọ trì Vô Thượng Bồ Ðề của tam thế chư Phật: quá khứ, vị lai và hiện tại.

Này A Nan! Nếu có thiện nam, thiện nữ nào hiện tại cúng dường ta với những hoa hương, chuỗi ngọc, y phục, phan lọng và khung kính, tôn trọng, ca ngợi, thì phải thọ trì Bát nhã ba la mật và đọc tụng, giảng thuyết, thân cận, cung kính, tôn trọng, ca ngợi, cúng dường hoa hương, chuỗi ngọc, phan lọng.
Này A Nan! Cúng dường Bát nhã ba la mật là cúng dường ta, cũng là đã cúng dường tam thế chư Phật rồi.

Nếu thiện nam, thiện nữ nào nghe nói Bát nhã ba la mật mà lòng tin thanh tịnh cung kính mến thích, đó là đã có lòng tinh thanh tịnh, cung kính mến thích tam thế chư Phật.

Này A Nan! Người mến thích chẳng lìa Phật thì phải mến thích chẳng lìa Bát nhã ba la mật nhẫn đến một câu chớ để quên mất.

Này A Nan! Ta nói nhơn duyên chúc lụy rất nhiều, nay ta chỉ nói tóm lược:

Như ta là Thế Tôn thì Bát nhã ba la mật cũng là Thế Tôn. Thế nên vì nhiều nhơn duyên, ta đem Bát nhã ba la mật chúc lụy cho ngươi.

Này A Nan! Nay ta ở giữa tất cả thế gian, Trời, Người, A tu la chúc lụy ngươi: những ai muốn bỏ Phật, bỏ Pháp, bỏ Tăng, chẳng bỏ Vô Thượng Bồ Ðề của chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại thì cẩn thận chớ bỏ Bát nhã ba la mật.

Này A Nan! Ðây chánh là pháp mà ta dạy bảo hàng đệ tử.

Này A Nan! Nếu có thiện nam, thiện nữ thọ trì Bát nhã ba la mật sâu xa, đọc tụng, giảng thuyết, chánh ức niệm, rồi lại vì người khác nói rộng những ý nghĩa của Bát nhã ba la mật đó, chỉ dạy tuyên nói rành rẽ làm cho dễ hiểu. Người này ma được Vô Thượng Bồ Ðề, mau gần nhứt thiết chủng trí. Vì trong Bát nhã ba la mật hay sanh Vô Thượng Bồ Ðề của chư Phật.

Này A Nan! Vô Thượng Bồ Ðề của chư Phật quá khứ và vị lai đều xuất sanh từ Bát nhã ba la mật. Vô Thượng Bồ Ðề của mười phương chư Phật hiên nay cũng xuất sanh từ Bát nhã ba la mật.

Thế nên đại Bồ Tát muốn được Vô Thượng Bồ Ðề phải nên học sáu ba la mật. Vì sáu ba la mật là mẹ của Bồ Tát, hay sanh ra chư Bồ Tát.

Này A Nan! Nếu có đại Bồ Tát học sáu ba la mật này thì đều sẽ được Vô Thượng Bồ Ðề. Vì thế ma ta đem sáu ba la mật chúc lụy cho ngươi lần nữa.

Này A Nan! Sáu Bát nhã ba la mật đây là tạng pháp vô tận của chư Phật:

Chư Phật hiện tại thuyết pháp ở mười phương đều ra từ trong tạng pháp sáu ba la mật.

Chư Phật quá khứ cũng từ trong sáu ba la mật mà học được Vô Thượng Bồ Ðề.

Chư Phật vị lai sẽ từ trong sáu ba la mật mà học được Vô Thượng Bồ Ðề.

Hàng đệ tử của tam thế chư Phật đều từ trong sáu ba la mật mà học được diệt độ: hoặc đã diệt độ, hoặc đương diệt độ, hoặc sẽ được diệt độ.

Này A Nan! Người và hàng Thanh Văn mà thuyết pháp, làm cho chúng sanh trong cõi Đại Thiên đều chứng được quả A La Hán, vẫn chưa phải là sự việc của đệ tử Phật. Nếu người đem một câu đúng với Bát nhã ba la mật dạy cho đại Bồ Tát mới phải là sự việc của đệ tử Phật. Ta cũng rất vui mừng hơn là người dạy cho chúng sanh trong cõi Ðại Thiên đều chứng được quả A La Hán.

Lại này A Nan! Chúng sanh trong cõi Ðại Thiên đây, không trước không sau, đồng thời đều chứng được quả A La Hán. Chư A La Hán này thật hành công đức bố trí, trì giới, thiền định. Công đức đó có nhiều chăng?”.

– Bạch đức Thế Tôn! Công đức đó rất nhiều.

– Vẫn chẳng bằng đệ tử của ta đem pháp đúng với Bát nhã ba la mật nói cho đại Bồ Tát nhẫn đến chừng một ngày. Phước đức người này rất nhiều.

Chẳng những một ngày, chỉ chừng nửa ngày, chỉ chừng khoảng bữa ăn, hoặc chỉ nói pháp đó trong giây phút, phước đức cũng rất nhiều. Vì căn lành của đại Bồ Tát hơn tất cả Thanh Văn và Bích Chi Phật.

Ðại Bồ Tát tự mình muốn được Vô Thượng Bồ Ðề cũng dạy bảo người khác cho học được Vô Thượng Bồ Ðề.

Này A Nan! Bồ Tát như vậy hành sáu ba la mật, hành tứ niệm xứ nhẫn đến hành nhứt thiết chủng trí, thêm lớn căn lành mà chẳng được Vô Thượng Bồ Ðề thì không bao giờ có”.

Lúc nói Bát nhã ba la mật như vậy, Đức Phật ở giữa tứ chúng Trời, Người, Quỷ thần, Bát bộ mà hiện thần thông biến hóa. Tất cả đại chúng đều thấy Đức Phật A Súc đương thuyết pháp cho chư Tỳ Kheo Tăng. Chư Tăng này đông nhiều như nước biển cả, đều là bực A La Hán sạch hết phiền não, đều được tự tại giải thoát: tâm giải thoát và huệ giải thoát, tâm đều hòa nhu thuận như đại tượng, chỗ làm đã xong, đã được tự lợi, hết kiết sử, được chánh trí giải thoát, trong tất cả tâm và tâm sở đều được tự tại. Cũng thấy chư đại Bồ Tát thành tựu vô lượng công đức.

Bấy giờ Đức Phật nhiếp thần túc, đại chúng không còn thấy Đức Phật A Súc và đại hội Thanh Văn Bồ Tát cùng nước Diệu Hỷ đối trước mắt nữa.

Ðức Phật bảo Ngài A Nan: “Này A Nan! Tất cả pháp chẳng đối lập với mắt: các pháp chẳng thấy nhau, các pháp chẳng biết nhau.

Như cõi nước Phật A Súc và Thanh Văn Bồ Tát chẳng đối lập trước mắt, các pháp cũng chẳng đối lập trước mắt: các pháp chẳng thấy nhau, các pháp chẳng biết nhau. Vì các pháp không thấy, không biết, không tác, không động, chẳng nắm lấy được, chẳng nghĩ bàn được.

Như huyễn nhơn không lãnh thọ, không cảm giác, không chơn thiệt. Ðại Bồ Tát hành như vậy là hành Bát nhã ba la mật, chẳng nắm lấy các pháp.

Này A Nan! Ðại Bồ Tát học như vậy gọi là học Bát nhã ba la mật.

Người muốn được các ba la mật phải học Bát nhã ba la mật.

Học như vậy gọi là đệ nhứt học, là tối thượng học, là vi diệu học.

Học như vậy là an lạc lợi ích tất cả thế gian: kẻ không được cứu hộ thì làm người cứu hộ họ.

Học như vậy là chỗ học của chư Phật. Chư Phật an trụ trong sự học đó có thể dùng tay hữu cất cõi Ðại Thiên lên rồi đặt lại chỗ cũ mà chúng sanh trong đó vẫn không hay biết.

Tại sao vậy? Này A Nan! Chư Phật học Bát nhã ba la mật này, được tri kiến vô ngại đối với tất cả pháp quá khứ, vị lai và hiện tại.

Này A Nan! Trong các sự học, Bát nhã ba la mật là tối tôn đệ nhứt vi diệu vô thượng.

Này A Nan! Có người nào muốn được ngằn mé của Bát nhã ba la mật, đó là muốn được bờ mé của hư không.

Tại sao vậy? Vì Bát nhã ba la mật là vô lượng. Ta chẳng bao giờ nói lượng của Bát nhã ba la mật. Những danh từ, những câu, những chữ là hữu lượng. Bát nhã ba la mật là vô lượng”.
– Bạch đức Thế Tôn! Tại sao Bát nhã ba la mật là vô lượng?

– Này A Nan! Vì Bát nhã ba la mật vô tận nên vô lượng. Vì Bát nhã ba la mật ly nên vô lượng.

Này A Nan! Chư Phật quá khứ học Bát nhã ba la mật này mà đắc độ nên là vô tận. Chư Phật vị lai học Bát nhã ba la mật này mà đắc độ nên là vô tận. Chư Phật hiên tại mười phương học Bát nhã ba la mật này mà đắc độ nên là vô tận, đã, đương và sẽ vô tận.

Người nào muốn cùng tận Bát nhã ba la mật này, đó là kẻ muốn cùng tận hư không.

Bát nhã ba la mật chẳng cùng tận: đã, sẽ và đương chẳng cùng tận.

Năm ba la mật: Thiền đến Thí ba la mật cũng chẳng cùng tận: đã, sẽ và đương chẳng cùng tận.

Nhẫn đến nhứt thiết chủng trí cũng như vậy.

Tại sao vậy? Vì tất cả pháp đó đều vô sanh. Nếu các pháp đó đã vô sanh thì làm so có tận”.

Khi đó Đức Phật hiện tướng lưỡi che trùm cả mặt mà bảo Ngài A Nan rằng: “Từ ngày nay ở giữa bốn bộ chúng giảng dạy rộng rãi rành rẽ Bát nhã ba la mật, phải cho rõ ràng dễ hiểu.

Tại sao vậy? Vì trong Bát nhã ba la mật sâu xa này nói rộng các pháp tướng. Trong đại chúng đây, người cầu Thanh Văn cầu Bích Chi Phật, cầu Phật đạo đều phải học trong này. Học xong thì đều được thành tựu cả.

Này A Nan! Bát nhã ba la mật này là tất cả tự môn. Hành nơi đây có thể vào môn đà la ni. Bồ Tát học môn đà la ni này thì được tất cả biện tài vô ngại.

Này A Nan! Bát nhã ba la mật là diệu pháp của tất cả tam thế chư Phật.

Vì thế nên ta vì ngươi mà giảng dạy rành rẽ.

Nếu có người nào thọ trì, đọc tụng, thân cận Bát nhã sâu xa thì có thể thọ trì Vô Thượng Bồ Ðề của tam thế chư Phật.

Này A Nan! Ta nói Bát nhã ba la mật là đôn chưn của hành giả. Ngươi thọ trì Bát nhã ba la mật này thì có thể thọ trì tất cả pháp, vì ngươi được đà la ni vậy”.