XXIII. PHÁP HỘI MA HA CA DIẾP THỨ HAI MƯƠI BA
Hán Dịch: Nguyên Nguỵ, Nước Ưu Thiền Ni, Vương Tử Nguyệt Bà Thủ Na
Việt Dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Như vậy tôi nghe một lúc Ðức Phật ở vườn Kỳ Thọ cấp Cô Độc nước Xá Vệ cùng năm ngàn đại Tỳ Kheo Tăng câu hội.
Đại Bồ Tát tám ngàn câu hội, danh hiệu các Ngài là: Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Quán thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đức Tạng Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát v.v…làm thượng thủ.
Ðức Thế Tôn cùng trăm ngàn đại chúng cung kính vây quanh mà vì họ thuyết pháp.
Bấy giờ Tôn giả Ma Ha Ca Diếp ở trong đại chúng rời chỗ đứng dậy trịch y vai hữu gối hữu chấm đất chắp tay cung kính bạch Phật: “Tôi có chút sự muốn hỏi, nếu Ðức Thế Tôn cho phép tôi mới dám trình bầy”.
Đức Phật bảo Tôn giả Ma Ha Ca Diếp: “Cho phép ông hỏi. Đức Như Lai sẽ vì ông mà phân biệt dứt lòng nghi cho ông được vui mừng”.
Tôn giả Ma Ha Ca Diếp bạch rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Nếu có thiện nam thiện nữ ở trong Phật pháp xuất gia muốn cầu Niết Bàn thì phải học phải hành phải tu quán thế nào?”.
Đức Phật nói: “Lành thay lành thay! Nầy Ca Diếp! Nay ông có thể hỏi Như Lai nghĩa như vậy sẽ làm cho tất cả thế gian Trời Người được ích lợi an lạc. Ông nên lắng nghe khéo suy nghĩ hiểu biết, ta sẽ giải thuyết cho”.
Tôn giả Ma Ha Ca Diếp bạch rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Vâng tôi muốn được nghe”.
Đức Phật nói: “Nầy Ca Diếp! Thiện nam thiện nữ muốn cầu Niết Bàn mà xuất gia trong chánh pháp thì phải học tịnh giới, đủ luật nghi giới, đủ chánh pháp giáo, nơi thanh tịnh giới chẳng phạm lỗi nhỏ. Phải học như vầy:
Tùy thuận chánh pháp, rời tâm siểm khúc, xa rời tham dục, đầy đủ tàm quý, thường sợ sanh tử thích cầu xuất ly, nhàm lìa sanh tử thường nhớ Niết Bàn.
Hoặc ở dưới cây trong núi hang đá hay tại tịnh thất bắt đầu tu chánh niệm, niệm Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn, sanh khởi đầy đủ chủng tánh, đầy đủ thiện căn, đầy đủ vô lượng tịnh giới, vô lượng tam muội, vô lượng trí huệ, vô lượng giải thoát, vô lượng giải thoát tri kiến, đầy đủ tất cả vô biên Phật pháp bất tư nghị, đầy đủ vô đẳng vô biên công đức, thiệt ngữ chơn ngữ lời nói không hai chẳng phỉnh chúng sanh, làm đại y vương hay nhổ tên độc, làm bạn bất thỉnh đủ từ bi lớn, làm đại đạo sư nói pháp thậm thâm cho họ nhập thậm thâm, nói pháp tịch diệt cho họ được tịch diệt không vô tướng vô nguyện, không có hí luận rời các hí luận, thậm thâm khó thấy khó hiểu, pháp tánh viễn ly rời hữu rời vô, vô hành vô thuyết vô tướng bình đẳng, lìa cấu thanh tịnh, không thủ không xả, hay diệt các khổ, hay dứt khát ái khiến đến Niết Bàn.
Nầy Ca Diếp! Thầy Tỳ Kheo hoặc một ngày hoặc hơn một ngày ở tại tịnh thất tâm niệm Như Lai mà suy nghĩ như vầy:
Tôi được thân người xuất gia tu hành được pháp Tỳ Kheo gần kề Như Lai, tôi chẳng nên giải đãi. Tại sao, vì tu tịnh giới ấy sẽ được đạo quả. Do nhơn duyên ấy đời sau nếu có Phật xuất thế sẽ được thấy Phật. Chư Phật xuất thế khó gặp như hoa ưu đàm.
Nầy Ca Diếp! Thầy Tỳ Kheo tu hành phải học theo chỗ tu hành của huệ mạng Tu Bồ Đề.
Nầy Ca Diếp! Đức Như Lai Ứng Đẳng Chánh Giác khó được thấy được nghe. Ở trong chánh pháp được xuất gia đủ giới Tỳ Kheo rất là hi hữu.
Thiện nam thiện nữ ở trong chánh pháp xuất gia là vì hai sự việc: một là để đắc đạo quả hiện tại, hai là để được thấy vị lai Phật.
Nầy Ca Diếp! Có người ngu si thọ đắp ca sa mà chống trái Như Lai tự cho rằng ta được đạo quả thánh nhơn. Người ấy hoặc ở tại hang núi hay ở tịnh thất, tâm họ tham nhớ đến tất cả thí chủ bố thí y bát cho mà nghĩ rằng Phật chẳng hay biết chẳng thấy tâm niệm và hành động của họ.
Nầy Ca Diếp! Thầy Tỳ Kheo hoặc ở tịnh thất hay ở hang núi, hoặc đi hoặc ngồi hoặc nằm, hoặc nghĩ nhớ tham dục hay sân hận và các thứ quan niệm ác chẳng lành, tùy họ ở chỗ nào, nơi ấy chư Thần biết tâm hành của Tỳ Kheo nên lòng sanh sầu ưu mà nghĩ rằng: Các Tỳ Kheo này phi pháp phi nghi, họ xuất gia trong chánh pháp mà nghĩ tưởng sự bất thiện như vậy. Vì biết như vậy nên đối với chư Tỳ Kheo ấy, chư Thần đều làm phương tiện khiến chẳng an ổn.
Nầy Ca Diếp! Chư Thần ấy do ít thiện căn ít trí huệ mà còn biết tâm hành của các Tỳ Kheo ấy, huống là Ðức Như Lai trong trăm ngàn ức vô số kiếp tu hành đầy đủ trí huệ.
Nầy Ca Diếp! Như Lai không chỗ nào chẳng biết, không chỗ nào chẳng thấy, không gì chẳng rõ, không gì chẳng chứng nhập.
Nầy Ca Diếp! Như Lai đầy đủ trí huệ vô ngại, với các pháp tam thế đều biết rõ cả.
Vì thế nên thiện nam thiện nữ xuất gia trong chánh pháp phải quan niệm như vầy: Chư Phật Như Lai đều biết tâm tôi, chư Phật hiện tại mười phương trong thế giới cũng đều biết tâm tôi, chớ ở trong Phật pháp mà làm Sa Môn tặc.
Nầy Ca Diếp! Sao gọi là Sa Môn tặc? Có bốn hạng Sa Môn tặc:
Nếu có thầy Tỳ Kheo pháp phục tề chỉnh hình giống Sa Môn mà phá cấm giới làm điều bất thiện đây gọi là giặc Sa Môn thứ nhứt.
Nếu thầy Tỳ Kheo đêm tối trong tâm suy nghĩ việc bất thiện thì gọi là giặc Sa Môn thứ hai.
Nếu thầy Tỳ Kheo chưa đắc thánh quả tự biết là phàm phu mà vì danh lợi nên tự xưng đắc thánh quả như nói tôi được A La Hán v.v… thì gọi là giặc Sa Môn thứ ba.
Nếu thầy Tỳ Kheo khen mình chê người thì gọi là giặc Sa Môn thứ tư.
Nầy Ca Diếp! Ví như có người đủ thế lực lớn dùng binh khí giết hại cướp giựt tất cả vàng bạc châu báu của tất cả chúng sanh Diêm Phù đề, người nầy có đắc tội lớn chăng?
– Bạch Ðức Thế Tôn! Tội người ấy rất lớn.
– Nầy Ca Diếp! Nếu có phàm phu tự biết chưa đắc thánh quả mà vì danh lợi tự xưng tôi được quả Tu Đà Hoàn, người này nếu thọ lãnh một bữa ăn thì tội nhiều hơn trên”.
Tôn giả Ma Ha Ca Diếp bạch rằng: “Hi hữu Thế Tôn! Đức Như Lai nói pháp luật ấy, ai đã được nghe mà còn dám tự xưng đắc đạo trong khi chưa được thánh quả để thọ một chung nước”.
Đức Phật nói: “Đúng như vậy, nầy Ca Diếp! Như lời ông nói. Nếu người muốn rời lìa sanh tử phải siêng tu hành như chữa đầu cháy.
Nầy Ca Diếp! Ví như có người thế lực lớn dùng khí giới cướp đoạt hết của cải của tất cả chúng sanh trong bốn châu thiên hạ, người này đắc tội nhiều chăng?
– Bạch Ðức Thế Tôn! Đắc tội rất nhiều.
– Nầy Ca Diếp! Nếu có phàm phu vì danh lợi mà dối xưng tôi đã được quả Tu Đà Hàm, người này thọ lãnh một phần ăn mắc tội nhiều hơn kia.
Nầy Ca Diếp! Ví như có người thế lực lớn cướp đoạt tất cả của cải của tất cả chúng sanh trong Tiểu thiên thế giới, người nầy mắc tội nhiều chăng?
– Bạch Ðức Thế Tôn! Đắc tội rất nhiều.
– Nầy Ca Diếp! Nếu có phàm phu vì danh lợi mà tự dối xưng đã được quả A Na Hàm mà thọ một phần ăn mắc tội nhiều hơn kia.
Nầy Ca Diếp! Ví như có người thế lực lớn cướp đoạt hết tài vật của tất cả chúng sanh trong Trung thiên thế giới thì người này mắc tội nhiều chăng?
– Bạch Ðức Thế Tôn! Đắc tội rất nhiều.
Nầy Ca Diếp! Nếu có phàm phu tự biết chưa được thánh quả mà vì danh lợi nên dối xưng đã được quả A La Hán, người nầy thọ một phần ăn thì mắc tội nhiều hơn kia.
Nầy Ca Diếp! Thà cướp đoạt tài vật của tất cả chúng sanh trong tam thiên Đại thiên thế giới chớ chẳng nên dối tự xưng đã được thánh quả để thọ đồ tín thí cho đến một phần ăn.
Nầy Ca Diếp! Đức Phật quan sát trong pháp Sa Môn không có tội trọng nào bằng dối xưng mình được thánh quả.
Nầy Ca Diếp! Trong hàng Thanh Văn có bốn ác dục: Một là cầu thấy vị lai Phật, hai là cầu làm Chuyển Luân Thánh Vương, ba là nguyện sanh dòng Sát Lợi, bốn là nguyện sanh dòng Bà La Môn. Nếu người Thanh Văn mà có sở cầu, cho đến cầu Niết Bàn đều gọi là ác dục. Đây gọi là thuyết bí mật của Như Lai.
Nầy Ca Diếp! Người Thanh Văn có bốn chủng tánh thì trong tất cả thời gian tất cả sự việc đều chẳng nên làm: Một là trước ngã, hai là trước nhơn, ba là phạm giới, bốn là cầu vị lai Phật pháp.
Nầy Ca Diếp! Nếu có Sa Môn Bà La Môn trì tịnh giới, Phật sẽ vì họ mà nói Vô Thượng Bồ Ðề, trọn không vì người ác dục kia để nói. Vì khiến người trì giới tâm chẳng siểm khúc cầu Niết Bàn được an ổn nên nói pháp Vô thượng cho họ.
Nầy Ca Diếp! Nay Phật lại nói cho các người tu hành nghe rồi vui mừng.
Nếu có người đem tất cả đồ cần dùng bố thí cho tất cả chúng sanh trong tứ thiên hạ mãn một kiếp hay dưới một kiếp. Lại có người đem một bình nước thí cho người trì giới chánh mạng, công đức của người này hơn người trên vô lượng vô biên.
Nầy Ca Diếp! Kẻ ác dục ấy nếu thọ lãnh đồ bố thí của người thì làm hại người hơn tất cả ác hữu oán địch.
Nầy Ca Diếp! Người xuất gia có phiền não vi tế lại có bốn thứ. Người có đủ phiền não ấy như mang gánh nặng vào địa ngục: Một là thấy người được lợi ích sanh lòng tật đố, hai là nghe kinh nói cấm giới rồi trái lại hủy phạm, ba là trái phản lời Phật che tội chẳng hối cải, bốn là tự biết phạm giới mà thọ của cúng thí.
Nầy Ca Diếp! Có bốn hạng tương tợ Sa Môn: Một là ác giới, hai là ngã kiến, ba là phỉ báng chánh pháp, bốn là đoạn kiến.
Nầy Ca Diếp! Người xuất gia có bốn thứ phóng dật vào địa ngục: Một là đa văn phóng dật, tự thị đa văn mà sanh phóng dật, hai là lợi dưỡng phóng dật, ba là thân hữu phóng dật, cậy nương thân hữu mà sanh phóng dật, bốn là đầu đà phóng dật, tự thị đầu đà tự cao khi người”.
Tôn giả Ma Ha Ca Diếp bạch rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Đời mạt thế tương lai năm trăm năm sau có hạng tương tợ Sa Môn thân mặc ca sa mà hủy diệt Vô Thượng Bồ Ðề của Ðức Như Lai tu hành chứa họp trong vô lượng vô số kiếp”.
Đức Phật nói: “Nầy Ca Diếp! Ông chớ đem sự việc ấy hỏi Phật. Người ngu si ấy thiệt có lỗi ác, Ðức Như Lai chẳng vì họ nói. Bởi do ác dục tâm họ vọng chấp tà hạnh siểm khúc, tất cả ma sự đều tín thọ. Người ngu si ấy thiệt có lỗi ác, Ðức Như Lai chẳng vì họ nói”.
Tôn giả Ma Ha Ca Diếp bạch rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Ngưỡng mong Như Lai ở lâu nơi đời vì tôi mà thuyết pháp”.
Đức Phật nói: “Nầy Ca Diếp! Chẳng bao lâu Ðức Như Lai sẽ nhập Niết Bàn.
– Bạch Ðức Thế Tôn! Ngưỡng mong Như Lai trụ thế một kiếp hoặc dưới một kiếp thủ hộ chánh pháp.
Nầy Ca Diếp! Người ngu si ấy, giả sử ngàn Phật xuất thế dùng các thứ thần thông thuyết pháp giáo hóa, họ cũng chẳng dứt được ác dục.
Nầy Ca Diếp! Tương lai đời mạt thế năm trăm năm sau có các chúng sanh đầy đủ căn lành tâm họ thanh tịnh hay báo ơn Phật thủ hộ chánh pháp”.
Tôn giả Ma Ha Ca Diếp bạch rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Tôi thà chịu đầu đội bốn châu thiên hạ tất cả chúng sanh núi sông thành ấp tụ lạc mãn một kiếp hoặc dưới một kiếp, chớ chẳng thể nghe tiếng bất tín của người ngu si ấy.
Bạch Ðức Thế Tôn! Thà tôi chịu ngồi trên một hột mè mãn một kiếp hoặc dưới một kiếp chớ chẳng thể nghe tiếng bất tín phá giới của kẻ ngu si ấy.
– Bạch Ðức Thế Tôn! Thà tôi ngồi nằm đi đứng trong đại kiếp hỏa mãn một kiếp hoặc dưới một kiếp, chớ chẳng thể nghe tiếng phá giới bất tín của kẻ ngu si ấy.
– Bạch Ðức Thế Tôn! Thà tôi chịu cho tất cả chúng sanh mắng chửi đánh đập giết hại, chớ chẳng thể nghe tiếng phá giới của người ngu si trộm pháp đại tặc ấy.
Bạch Ðức Thế Tôn! Tôi tu chút ít công hạnh trí huệ cạn kém chẳng kham được gánh nặng như vậy. Chỉ có Bồ Tát gánh vác nổi gánh nặng ấy.
Bạch Ðức Thế Tôn! Nay tôi ở nơi đây muốn nói thí dụ. Ví như có người quá già tuổi trăm hai mươi, thân mang bịnh nặng nằm liệt trên giường chẳng ngồi dậy được. Bấy giờ có một người giàu lớn nhiều của đem trân bửu đến gởi cho người già bịnh ấy mà dặn rằng: Tôi có duyên sự phải đi xứ khác hoặc mười năm, hai mươi năm mới về, nay ký thác châu báu này cho ông, chờ tôi trở về sẽ hoàn lại tôi. Người già bịnh ấy không con cháu chỉ có một thân mình. Lúc người kia chưa về ông ấy chết. Bao nhiêu tài vật ký thác đều mất cả. Khi người kia trở về không biết đâu mà đòi tìm.
Bạch Ðức Thế Tôn! Cũng vậy, người Thanh Văn trí huệ cạn ít tu hành rất kém lại không bạn lữ chẳng thể an trụ lâu tại thế gian, nếu giao phó chánh pháp thì sẽ tán diệt chẳng lâu”.
Đức Phật nói: “Lành thay lành thay! Nầy Ca Diếp! Ta đã biết rõ mà cố giao phó cho ông, để cho người ngu si kia được nghe việc nầy sẽ sanh lòng hối hận”.
Tôn giả Ma Ha Ca Diếp bạch rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Nay tôi lại muốn nói dụ thứ hai. Ví như có người thân sức mạnh trẻ không bịnh tật thọ mạng vô lượng trăm ngàn vạn tuổi sanh lòng lớn giàu có giữ tịnh giới tốt có từ bi lớn lòng luôn hoan hỉ hay trừ phiền não cho tất cả chúng sanh, tâm chí dũng mãnh làm lợi ích cho nhiều người khiến được an lạc. Bấy giờ có người mang nhiều châu báu đến giao mà bảo rằng: Tôi có sự duyên phải qua phương khác nay ký thác số châu báu nầy nên giữ gìn kỹ hoặc mười năm hoặc hai mươi năm chờ đến lúc tôi trở về sẽ hoàn lại tôi. Người ấy lãnh châu báu cất giữ kỹ đến lúc người đi xa trở về liền hoàn lại đủ.
– Bạch Ðức Thế Tôn! Cũng vậy, đại Bồ Tát nếu được giao phó pháp bửu thì dầu đến vô lượng ngàn ức na do tha kiếp trọn chẳng hư mất, lợi ích vô lượng vô biên chúng sanh chẳng dứt giống Phật, chẳng dứt Pháp luân, Tăng bửu đầy đủ.
– Bạch Ðức Thế Tôn! Sự ấy tôi chẳng gìn giữ được, chỉ có Bồ Tát mới có thể kham nhận.
Nay có Di Lặc đại Bồ Tát hiện diện tại pháp hội này, Ðức Như Lai giao phó cho Ngài đời vị lai năm trăm năm sau lúc pháp sắp diệt đều có thể thủ hộ và lưu diễn rộng rãi pháp Vô Thượng Bồ Ðề mà Ðức Phật đã chứa họp trong vô lượng a tăng kỳ kiếp. Tại sao? Vì Di Lặc đại Bồ Tát này đời đương lai sẽ chứng Như Lai Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Bạch Ðức Thế Tôn! Ví như đệ nhứt thái tử của Quốc Vương được quán đảnh lên ngôi thi hành vương sự trị nước đúng pháp, các quần thần đều đến chầu.
Cũng vậy, Di Lặc đại Bồ Tát ở ngôi Pháp Vương thủ hộ chánh pháp”.
Đức Phật khen Tôn giả Ma Ha Ca Diếp: “Lành thay lành thay, đúng như lời Ca Diếp nói”.
Đức Phật liền duỗi tay hữu kim sắc chói ánh sáng vi diệu được tập họp bởi những thiện căn từ vô lượng a tăng kỳ kiếp, ngón và bàn tay Phật như hoa sen rồi xoa đảnh đầu Di Lặc đại Bồ Tát mà bảo rằng: “Nầy Di Lặc! Ta phó chúc cho ông, năm trăm năm sau đời vị lai lúc chánh pháp diệt, ông phải thủ hộ Phật Pháp Tăng bửu chớ để đoạn tuyệt”.
Lúc Ðức Thế Tôn xoa đảnh phó chúc cho Di Lặc đại Bồ Tát, cả Tam thiên Đại thiên thế giới chấn động sáu cách, ánh sáng chiếu khắp Đại thiên thế giới. Địa thiên, hư không thiên cho đến trời Sắc Cứu Cánh đều chắp tay bạch Di Lặc Bồ Tát: “Đức Như Lai đem chánh pháp phó chúc cho Thánh giả. Xin Thánh giả vì lợi ích hàng Trời Người mà nhận lãnh chánh pháp ấy”.
Di Lặc Bồ Tát rời chỗ trịch y vai hữu gối hữu chấm đất chắp tay cung kính mà bạch rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Vì lợi ích mỗi một chúng sanh mà tôi còn cam thọ khổ trong vô lượng kiếp, huống là nay Ðức Thế Tôn đem chánh pháp giao phó để lợi ích cho hàng Trời Người tất cả chúng sanh mà tôi lại chẳng nhận lãnh. Bạch Ðức Thế Tôn! Tôi xin thọ trì, trong đời vị lai tôi sẽ diễn thuyết pháp Vô Thượng Bồ Ðề mà Ðức Như Lai đã tập họp từ vô lượng a tăng kỳ kiếp”.
Lúc Di Lặc Bồ Tát bạch lời này, cả cõi Đại thiên chấn động sáu cách.
Di Lặc Bồ Tát lại bạch rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Đối với các chúng sanh khác chẳng nên sanh khởi tranh luận và tăng thượng mạn. Tại sao, vì sự nghiệp chánh của Thế Tôn là thủ hộ chánh pháp. Các hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật chẳng mang vác nổi gánh nặng của Bồ Tát”.
Đức Phật nói: “Lành thay lành thay, nầy Di Lặc! Như nay ông đến trước Phật tự nói thọ trì chánh pháp Như Lai và thủ hộ ở đời vị lai, thuở quá khứ trước hằng hà sa chư Phật, chư đại Bồ Tát cũng như vậy, cũng tự nói thủ hộ chánh pháp”.
Di Lặc Bồ Tát bạch rằng:”Bạch Ðức Thế Tôn! Xin Ðức Như Lai nói đời vị lai hạng người ngu si tự xưng Bồ Tát tự xưng Sa Môn, vì danh lợi mà họ não loạn thí chủ tri thức thân thuộc. Xin Ðức Thế Tôn nói lỗi ác của họ, tôi được nghe rồi sẽ tự nhiếp tâm hành. Hàng ngu si ấy nghe lời Phật nói hoặc họ sẽ tin hiểu rằng Ðức Như Lai biết rõ tôi, Ðức Như Lai cảnh giác tôi”.
Đức Phật nói: “Lành thay lành thay, nầy Di Lặc! Ông nên lắng nghe khéo suy nghĩ sẽ nói cho ông về lỗi của hạng người ngu si kia. Đời vị lai năm trăm năm sau có các chúng sanh tự xưng Bồ Tát, những ác dục của họ nay ta lược nói.
Nầy Di Lặc! Người đủ bốn pháp tự xưng Bồ Tát: một là cầu lợi dưỡng, hai là cầu danh văn, ba là siểm khúc và bốn là tà mạng. Vì đủ bốn pháp nầy mà tự xưng Bồ Tát.
Nầy Di Lặc! Đời vị lai năm trăm năm sau, người tự xưng Bồ Tát mà hành cẩu pháp. Ví như có con chó đến nhà người trước, thấy con chó đến sau liền giận ganh gầm gừ sủa cắn tự nghĩ đây là nhà ta. Người tự xưng Bồ Tát cũng làm cẩu pháp, họ đến nhà thí chủ sanh ý tưởng nhà mình rồi sanh tham trước, thấy có Tỳ Kheo đến sau thì giận ganh đấu tranh chê bai nói xấu lẫn nhau, ngăn chia thí chủ. Những hạng người nầy sanh lòng tật đố làm nhơn ngạ quỉ, gây nhơn bần tiện, vì sự tự sống mà vọng xưng là Bồ Tát, họ vì áo cơm mà tán thán công đức trí huệ Như Lai khiến các chúng sanh khác sanh lòng tín ngưỡng, mà họ thì phạm giới ác dục ác hành.
Nầy Di Lặc! Ông xem đời vị lai có những sự bố úy lớn như vậy. Con thú sư tử thì phải rống tiếng sư tử làm việc sư tử, chẳng phải kêu tiếng dã can làm việc dã can, với người thì tán thán xả thí tất cả tài vật mà mình thì xan lẫn tham lam, với người thì tán thán từ bi thương mến mà mình thì sân hận, tán thán nhẫn nhục mà mình thì thù oán chẳng nhịn, tán thán tứ nhiếp mà mình chẳng thể làm bốn sự bố thí ái ngữ lợi hành và đồng sự, chỉ có nói suông mà mình chẳng thể học tập theo hạnh của Lạc Tinh Tấn Bồ Tát.
Nầy Di Lặc! Thuở quá khứ xưa vô lượng vô biên bất khả xưng kế bất khả tư nghì vô số kiếp, có Ðức Phật hiệu Trí Thượng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Đức Phật ấy ra đời nhằm ngũ trược ác thế. Bấy giờ có một Bồ Tát Tỳ Kheo tên Lạc Tinh Tấn đủ niệm huệ thiểu dục tri túc thuận Như Lai giáo. Tỳ Kheo nầy thường đi các thôn ấp thuyết pháp cho mọi người, được quốc vương đại thần và nhơn dân tri thức tôn trọng cung kính. Lúc muốn vào thành ấp, Tỳ Kheo ấy trước quan sát nếu được tôn trọng ái ngữ tán thán rồi sau mới vào. Về sau Tỳ Kheo ấy lại đi đến xứ tà kiến bất tín, nơi đây chẳng được thiện ngữ cúng dường chỉ bị giận mắng đánh đập, nhưng Tỳ Kheo ấy mặc giáp nhẫn nhục an trụ đại bi chẳng bỏ chúng sanh chẳng hề giận hờn chẳng có hối hận.
Nầy Di Lặc! Các chúng sanh được Lạc Tinh Tấn Bồ Tát giáo hóa đều vì chư Tỳ Kheo mà làm thí chủ dưng thí áo cơm thuốc thang ngọa cụ.
Nầy Di Lặc! Ông xem Lạc Tinh Tấn Bồ Tát có tâm lợi ích chúng sanh thiểu dục tri túc đại bi quan sát những tụ lạc thành ấp chỗ nào chẳng khất thực được thì thôi, chẳng đến giáo hóa người tà kiến làm đàn việt cho chư Tỳ Kheo, chẳng trở lại các nhà tà kiến bất tín để khuyến hóa cho họ chánh tín, dầu bị giận mắng đánh đập cũng không giận hờn.
Nầy Di Lặc! Chư Bồ Tát thuở quá khứ vì giáo hóa chúng sanh mà vào thôn ấp chớ chẳng vì tự nuôi sống.
Lạc Tinh Tấn Bồ Tát thuở xưa ấy chính là thân ta. Vì thế nên các Bồ Tát muốn vào thôn ấp để giáo hóa chúng sanh phải học theo Lạc Tinh Tấn Bồ Tát, lại phải học công hạnh của chư đại Bồ Tát. Chớ học làm cẩu pháp.
Nầy Di Lặc! Đời vị lai năm trăm năm sau có các Tỳ Kheo vọng tự xưng Bồ Tát, họ vào thôn ấp chẳng vì giáo hóa chúng sanh mà chỉ vì áo cơm tài vật, họ phỉ báng nhau, tự được lợi thì mừng, thấy người khác được lợi thì rầu lo hờn giận, tự cầu chẳng được thì sầu lo, thấy người cầu chẳng được thì mừng rỡ. Họ điên đảo như vậy.
Nầy Di Lặc! Theo pháp làm Bồ Tát thì tất cả tài vật sở hữu đều nên xả thí cho tất cả chúng sanh. Tại sao, vì do tâm đại bi phát nguyện quảng đại làm cho các chúng sanh đều được đầy đủ an vui vậy.
Nầy Di Lặc! Ví như ông Trưởng giả chỉ có một con trai dung mạo đoan chánh, kính thuận cha mẹ, Trưởng giả rất thương yêu. Vì chút ít duyên cớ mà con trai ấy bị nhốt tại lao ngục. Trưởng giả hay tin đích thân vào lao ngục.
Nầy Di Lặc! Trưởng giả ấy vào ngục là vì sự chi?
– Bạch Ðức Thế Tôn! Vì để thấy con trai và tìm cách giải thoát cho con mà Trưởng giả ấy vào ngục.
Nầy Di Lặc! Nơi lao ngục tức là sanh tử, Trưởng giả ấy là dụ các đại Bồ Tát, con trai ấy là lệ cho ý tưởng xem tất cả chúng sanh như con một của chư Bồ Tát.
Nầy Di Lặc! Như Trưởng giả ấy vào lao ngục để thấy con và cứu nó, cũng vậy, Bồ Tát vào tụ lạc để giáo hóa chúng sanh cho họ được giải thoát chớ chẳng vì áo cơm.
Nầy Di Lặc! Đời vị lai năm trăm năm sau có các Tỳ Kheo chẳng tu thân chẳng tu tâm chẳng tu giới chẳng tu huệ, họ vào các thôn ấp tụ lạc cầm hương hoa theo cho người làm tin để cầu áo cơm tài vật.
Nầy Di Lặc! Theo pháp Tỳ Kheo chẳng nên làm sự hạ tiện như vậy. Tỳ Kheo vào tụ lạc phải vì cầu pháp cầu thiện tri thức, chớ có siểm khúc chớ có kiêu mạn, phải nói pháp ngữ chớ nói thế sự, chớ nói ruộng nhà vui khổ đắc thất, việc vua quan, việc giặc cướp, việc thành ấp quân đội, việc nam nữ cưới gả. Chỉ nên nói chánh pháp, khen công Ðức Phật, khen nói chánh pháp, khen công Ðức Phật, khen nói chánh pháp, khen nói Thánh Tăng, nói những pháp bố thí trì giới nhẫn nhục tinh tấn thiền định trí huệ.
Nầy Di Lặc! Nếu thiện nam thiện nữ đem trân bửu tài vật đầy cõi Đại Thiên bố thí cho tất cả chúng sanh nói một bài kệ bốn câu chánh pháp cho họ nghe hiểu thì được phước đức nhiều hơn trên vô lượng vô biên vô số lần.
Nầy Di Lặc! Ông xem Tỳ Kheo ấy vào tụ lạc được lợi ích rất lớn.
Nầy Di Lặc! Khi Tỳ Kheo vào thành ấp chớ xa rời tán thán Tam bửu mà luận nói thế sự. Tại sao, vì tất cả châu báu tài vật thế gian không làm cho người khỏi sanh già bịnh chết lo buồn khổ não được. Chỉ có chánh pháp là đem lại lợi ích lớn làm cho người thoát rời sanh già bịnh chết lo buồn khổ não.
Đây gọi là pháp vi mật của Như Lai”.
Đức Phật nói kệ:
“Trong khắp cõi Đại Thiên
Đầy trân bửu tài vật
Đem bố thí tất cả
Được phước đức mỏng ít
Nói một kệ chánh pháp
Phước đức này rất nhiều
Đồ dùng trong tam giới
Đem cho hết một người
Chẳng bằng thí một kệ
Công đức này tối thắng
Công đức này hơn kia
Hay rời khổ sanh tử.
Nầy Di Lặc! Nếu có đại Bồ Tát đem trân bửu đầy vô biên thế giới dâng cúng chư Phật Như Lai, được công đức không bằng Bồ Tát dùng lòng đại bi nói bốn câu kệ chánh pháp cho một chúng sanh”.
Ðức Thế Tôn nói kệ tụng rằng:
“Đem trân bửu đầy khắp
Hằng hà sa thế giới
Để dâng chư Như Lai
Chẳng bằng một pháp thí
Thí bửu phước dầu nhiều
Chẳng bằng một pháp thí
Một kệ phước còn thắng
Nhiều kệ phước nan tư.
Nầy Di Lặc! Trong bàn tay hữu Như Lai có tia sáng tên Nhứt thiết công đức trang nghiêm. Phật dùng tia sáng ấy có thể làm đầy đủ tất cả những đồ vật ưa thích cho tất cả chúng sanh: cần ăn có ăn, cần uống có uống, cần áo có áo, cần xe có xe, cần châu báu có châu báu, tất cả vật cần dùng đều có thể ban cho.
Nầy Di Lặc! Tất cả chúng sanh dầu được thỏa mãn vui thích mà chẳng giải thoát được sanh tử. Vì thế nên Ðức Như Lai chẳng ban đồ vật ưa thích thế gian cho chúng sanh, mà Như Lai ban cho họ pháp bửu xuất thế vô thượng, nghe theo pháp ấy họ cứu cánh rời lìa khổ lụy. Do đó các ông nên học theo vô thượng pháp thí của Như Lai, chớ trọng tài thí thế gian vậy.
Nầy Di Lặc! Đời vị lai năm trăm năm sau lúc chánh pháp diệt, có các Tỳ Kheo tự xưng Bồ Tát mà thân làm bất thiện, khẩu tạo bất thiện, ý gây bất thiện, thân phạm cấm giới, khẩu phạm cấm giới, ý phạm cấm giới, đã tạo nghiệp bất thiện nên không có quả Sa Môn.
Nầy Di Lặc! Phật vì các thiện nam thiện nữ phát tâm Bồ Ðề mà dạy Bồ Tát thiện căn chẳng sa đọa vào tam ác đạo và các chỗ nạn. Các thiện nam thiện nữ phải chuyên cần tinh tấn đầy lòng tàm quí thường sợ sanh tử, luôn có lòng lo sợ những chỗ thác sanh mà nghĩ rằng tôi làm thế nào cho các chúng sanh lục đạo trong ba cõi mau được giải thoát sanh tử. Tại sao, vì đại Bồ Tát phát nguyện hứa cứu độ tất cả chúng sanh lục đạo tam giới làm cho họ đều được giải thoát. Kẻ chẳng an ổn làm cho an ổn, kẻ chưa Niết Bàn làm cho được Niết Bàn.
Nầy Di Lặc! Phật quan sát tất cả thế giới, là Trời, là Người, là Ma, là Phạm, là Sa Môn, là Bà La Môn, trong số ấy chẳng có một ai có thể mang vác gánh nặng như vậy bằng chư Bồ Tát.
Nầy Di Lặc! Ví như có người đầu đội Tam thiên Đại thiên thế giới núi sông đất đá suốt một kiếp hay dưới một kiếp hoặc đến trăm ngàn kiếp, ý ông nghĩ sao, người ấy có đại lực chăng?
– Bạch Ðức Thế Tôn! Người ấy có sức rất lớn.
Nầy Di Lặc! Sức tinh tấn của đại Bồ Tát còn hơn người ấy rất nhiều. Bồ Tát phát nguyện độ tất cả chúng sanh cho được vui Niết Bàn.
Nầy Di Lặc! Ví như bao nhiêu sự nghiệp của tất cả chúng sanh trong Tam thiên Đại thiên thế giới, có người tức thời làm nên xong cả. Sự nghiệp ấy có lớn chăng?
– Bạch Ðức Thế Tôn! Rất lớn.
Nầy Di Lặc! Sự nghiệp của Bồ Tát còn to lớn hơn nhiều. Bồ Tát phát nguyện làm cho tất cả chúng sanh được giải thoát.
Nầy Di Lặc! Ví như Trưởng giả chỉ có một con trai còn thơ bé dung mạo đoan chánh hiếu thuận cha mẹ. Trưởng giả cùng con trai ấy và thê thiếp quyến thuộc tài vật đều bị nhốt vào ngục vua. Đại vương bảo Trưởng giả: cách đây một trăm do tuần có thành tên ấy, ngươi phải đi đến thành ấy nội bảy ngày, rồi nội bảy ngày phải về đến đây. Được như vậy ta sẽ thả ngươi cùng vợ con quyến thuộc tài vật và ban cho quan tước. Nếu quá bảy ngày ngươi từ thành ấy về chẳng đến đây ta sẽ giết ngươi và con trai một của ngươi, còn tài vật quyến thuộc người sẽ nhập vào của quan.
Nầy Di Lặc! Ông nghĩ thế nào, Trưởng giả ấy gắng sức đi mau là vì yêu tự thân vì yêu con trai một hay là vì tiếc thê thiếp quyến thuộc tài vật mà cố cần khổ để về đến chỗ vua cho kịp thời gian?
– Bạch Ðức Thế Tôn! Như tôi hiểu nghĩa của Phật nói thì người ấy chẳng nhớ đến uống ăn ngủ nghỉ chỉ nhớ đi mau. Tại sao? Vì người ấy tự tiếc thân mạng mà đi mau.
Nầy Di Lặc! Nếu tất cả chúng sanh siêng tu tinh tấn đều như người ấy, đem sự tinh tấn chung ấy muốn so với sự tinh tấn của Bồ Tát thì trăm ngàn muôn ức phần chẳng bằng một, cho đến vô số phần cũng chẳng bằng một.
Tại sao? Vì chúng sanh thuận dòng sanh tử còn Bồ Tát nghịch dòng sanh tử khiến chúng sanh an trụ nơi Niết Bàn bất động.
Nầy Di Lặc! Ví như có người dũng mãnh đại lực hơn lực sĩ trước, người nầy lấy hết nước bốn đại hải và các sông đem về để vào ao A nậu đạt, người này làm việc ấy có là hi hữu chăng?
– Bạch Ðức Thế Tôn! Rất hi hữu.
Nầy Di Lặc! Bồ Tát tinh tấn làm việc khó rất hi hữu còn hơn kia nhiều. Bồ Tát dùng tâm đại bi hóa độ tất cả chúng sanh khiến an trụ Vô Thượng Bồ Ðề, việc đây là khó. Người hay tin được Phật Pháp và Tăng, việc đây là khó. Người hay tin nghiệp quả thiện ác, việc đây là khó. Lúc tham sân si phát khởi hay làm cho diệt đứt, việc đây là khó. Hay rời thân thuộc phát tâm thiểu dục cầu xuất gia đi đến bảy bước, việc đây là khó. Thân mặc ca sa trong chánh pháp chánh tín xuất gia rời lìa lửa dục, việc đây là khó. Chẳng phạm cấm giới, việc đây là khó. Hay rời ồn ào tu hạnh viễn ly, việc đây là khó. Tin các pháp không, việc đây là khó. Ở trong thâm pháp được nhu thuận nhẫn, việc đây là khó. Chứng ba môn giải thoát, việc đây là khó. Chứng quả Tu Đà Hoàn đến quả A La Hán, việc đây là khó. Tại sao? Vì gọi là việc khó là ở trong chánh pháp chánh tín xuất gia được quả Sa Môn.
Nầy Di Lặc! Đời vị lai năm trăm năm sau có các chúng sanh phát tâm Bồ Ðề ở trong chánh pháp xuất gia học đạo luống không chỗ được, họ bỏ sự nghiệp Bồ Tát mà làm việc phàm ngu.
Những gì là sự nghiệp Bồ Tát?
Nầy Di Lặc! Sự nghiệp Bồ Tát có hai mươi pháp, nếu Bồ Tát chẳng thành tựu hai mươi pháp ấy thì chẳng ngồi được nơi đạo tràng. Đây là hai mươi pháp: Một là rời lòng xan lẫn, hai là tu bố thí, ba rời nhiệt não, bốn là tu tịnh giới, năm là rời sân hận, sáu là tu nhẫn nhục, bảy là rời giải đãi, tám là đại tinh tấn, chín là rời loạn tâm, mười là niệm huệ tu vô y định, mười một là tu thậm thâm nhẫn, mười hai là đầy đủ Bát Nhã Ba la mật, mười ba là hành không hạnh, mười bốn là hành vô tướng hạnh, mười lăm là hành vô nguyện hạnh, mười sáu là thành cảnh giới vô nguyện, mười bảy là chẳng bỏ tất cả chúng sanh, mười tám là tu hành đại bi, mười chín là chẳng nhớ tưởng Nhị thừa Thanh Văn Duyên Giác, hai mươi là tâm thích thành tựu Như Lai trí huệ. Bồ Tát thành tựu hai mươi công nghiệp này thì có thể ngồi đạo tràng.
Nầy Di Lặc! Đại Bồ Tát lại có bốn thứ tất định thệ: Một là thệ tất định thành Phật chuyển pháp luân, hai là thệ làm cho chúng sanh sanh tử được giải thoát, ba là thệ làm cho vô lượng chúng sanh an trụ Vô Thượng Bồ Ðề, bốn là xả bỏ sự vui tự thân làm cho chúng sanh được vui vô lậu.
Nầy Di Lặc! Ví như hai người giỏi y phương, giỏi chú thuật, biết rành độc dược, biết rành cam lộ. Bấy giờ một người ở trong đại chúng lấy độc dược tự ăn để hiện tướng hi hữu, ăn độc rồi đau khổ chẳng an lại tìm cam lộ chú thuật mong trừ độc khí, nhưng tìm mãi chẳng được cam lộ, bị độc khí quá thạnh nên chết. Người thứ hai nói rằng tôi chẳng thể ăn được độc dược, vì chẳng ăn độc dược nên chẳng cần cam lộ, chẳng muốn ở giữa chúng làm tướng hi hữu để rồi thân phải khổ não.
Nầy Di Lặc! Đời vị lai năm trăm năm sau có các Bồ Tát tại gia xuất gia nói rằng như chỗ tôi thuyết pháp hay trừ được các tội, nói như vậy xong họ trở lại tập họp ác nghiệp rồi nói tôi lại sám hối. Phật bảo người ấy gọi là tử nhơn ở trong chánh pháp. Sao gọi là tử, vì ở nơi chánh pháp họ đọa lạc như mất vậy.
Lại có Bồ Tát tâm thanh tịnh nói rằng tôi chẳng phạm tội chẳng cần sám hối, tôi sẽ sám hối tội nghiệp quá khứ và vị lai, còn hiện tại thì chẳng phạm. Cũng như người chẳng ăn độc dược chẳng cần cam lộ.
Nầy Di Lặc! Nói là độc dược là ở trong chánh pháp mà phạm giới luật. Các ông chớ làm người ăn độc.
Nầy Di Lặc! Lại có bốn pháp khiến Bồ Tát rời lìa Nhứt thiết trí, còn lìa quả Thanh Văn huống là Nhứt thiết trí: Một là chẳng biết ơn, hai là siểm khúc, ba là vọng ngữ, bốn là phạm giới.
Lại có bốn pháp mà Bồ Tát phải gấp xa rời quá trăm do tuần: Một là lợi dưỡng, hai là ác hữu, ba là ác chúng, bốn là đồng tại một chỗ cợt cười hay sân hận đấu tranh.
Bồ Tát chẳng nên có ác tâm với các Bồ Tát khác.
Nầy Di Lặc! Nếu có Bồ Tát đánh mắng chặt chém tất cả chúng sanh trong Tam thiên Đại thiên thế giới, Bồ Tát nầy có mắc tội nhiều chăng?
– Bạch Ðức Thế Tôn! Bồ Tát đánh một chúng sanh còn mắc tội nhiều huống là cả chúng sanh trong Đại thiên thế giới. Bạch Ðức Thế Tôn! Đối với chúng sanh Bồ Tát chẳng nên sanh khởi lòng sân hại.
Nầy Di Lặc! Tội ấy còn ít hơn Bồ Tát sân hận với Bồ Tát khác lại phải thối thất Bồ Ðề nhiều kiếp.
Ví như trụ gỗ, nếu dùng cỏ hay đất thì chẳng chặt đứt được, phải dùng búa bén. Cũng vậy, thiện căn của Bồ Tát những tội khác không làm mất hết được, duy sanh lòng sân hận với Bồ Tát khác thì có thể dứt diệt các thiện căn.
Vì thế nên học cung kính, đối với hàng Bồ Tát sơ phát tâm phải tôn trọng xem họ như Phật”.
Di Lặc Bồ Tát bạch rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Tôi phải tu hành tôn trọng cung kính tất cả chúng sanh huống là đối với Bồ Tát. Tại sao, vì Bồ Tát phải bỏ giận hại mà hành nhẫn nhục, phải rời siểm khúc mà hành tâm thanh tịnh, phải xa rời hữu vi mà hành công hạnh vô thủ vô ngã, phải chẳng quí của báu mà trọng pháp hạnh, nên chẳng cầu y thực mà cầu pháp tài, phải rời tật đố khi thấy người giàu lớn nên hoan hỉ tán trợ, chẳng phải vì cầu danh mà làm Sa Môn phải học công đức của Sa Môn, chẳng phải nói suông mà nên tu thiệt hạnh, bỏ lợi dưỡng thiểu dục tri túc để cầu Phật công đức, chẳng vì lợi lộc mà vào tụ lạc, chẳng vì áo cơm mà vào tụ lạc làm sự siểm khúc, phải làm chánh hạnh tán thán bốn thánh chủng, chẳng học theo tâm phàm phu hạ liệt mà nên học Phật hạnh, chẳng ngó lỗi người chỉ nên tự điều phục, tu xa ma tha và tì bát xá na, rời sự ác nơi ba nghiệp mà thường tu hạnh thanh tịnh nơi ba nghiệp, rời sự phá giới nên học Ba la đề mộc xoa, chẳng y tựa Phật Pháp Tăng để tự nuôi sống, thường tán thán công đức chơn thiệt của Như Lai, chẳng vì cầu bố thí mà vì cầu chánh pháp, thường tán thán chánh pháp tu tập đúng như chánh pháp, tán thán Thánh Tăng y tựa bất thối Tăng chẳng y tựa Tăng hữu vi thế gian, chẳng cầu tất cả vật dụng thế gian mà chỉ cầu chánh pháp, chẳng cầu thế sự mà chỉ cầu pháp xuất thế, rời siểm khúc hành công hạnh chơn thiệt, chẳng thích ở mãi một chỗ mà phải như nai rừng chẳng ở một chỗ nhứt định, rời sự vui sướng thế gian mà cầu công đức của Phật, nên rời ngủ nghỉ đầu hôm cuối đêm đọc tụng kinh điển, xa bỏ ồn náo thường hành viễn ly, với các công đức chẳng có ý tưởng chán nhàm, cầu các công đức lòng chẳng tạm thôi, phải rời cẩu pháp mà làm pháp sư tử hống, làm bạn cứu cánh chẳng làm bạn giả tạm, bỏ thói vô ơn mà thường làm việc báo ơn, chẳng vì tài lợi mà làm thân hữu nên dùng tịnh tâm mà làm thân hữu, bỏ tâm hư dối mà làm hạnh chơn thiệt, bỏ pháp hạ liệt nên cầu thành tựu chơn thân Phật, với chư Như Lai nên phải cung kính chẳng sanh kiêu mạn, bỏ lời lưỡng thiệt lòng miệng trái nhau nên nói lời thành thiệt vô nhị, chẳng làm Bồ Tát mà lại siểm khúc nên dùng tịnh tâm thật hành chỉ quán, bỏ tánh ngã mạn nên phải cung kính, rời bất tịnh thực nên trì tịnh giới, ăn dùng của người dâng thí, phải bỏ tà niệm mà niệm pháp chư Phật, rời kiến chấp ngã nhơn mà tu không hạnh, rời vọng giác quán mà tu vô tướng hạnh, rời thân siểm khúc mà tu hạnh thanh tịnh nơi ba nghiệp, chẳng cầu tài lợi mà diễn thuyết pháp, dùng tâm đại bi mà thuyết chánh pháp, chẳng vì tài vật mà làm thân hữu mà vì pháp làm thân hữu, chẳng vì tự lợi mà vì lợi tha khiến chẳng tổn hại, hành hạnh tịch tĩnh rời siểm khúc, chẳng làm siểm khúc mà mặc y phấn tảo, tại sao, vì người đủ mười hai hạnh đầu đà là người chẳng cầu tất cả lợi dưỡng thế gian vậy”.
Ðức Thế Tôn khen Di Lặc Bồ Tát: “Lành thay, lành thay, nầy Di Lặc! Ông cầu Phật công đức lòng không chán đủ mà làm sư tử hống. Ông đã trồng các thiện căn nơi chư Phật quá khứ nên nói được pháp ấy, nói được công đức ấy”.
Lúc Di Lặc đại Bồ Tát nói pháp như vậy, trong chúng có năm trăm Tỳ Kheo đứng dậy bỏ đi. Tôn giả Ma Ha Ca Diếp hỏi chư Tỳ Kheo ấy đương nghe thuyết pháp chư Tỳ Kheo muốn đi đâu?
Chư Tỳ Kheo ấy đáp rằng: “Bạch Đại Đức Ca Diếp như Di Lặc Bồ Tát nói pháp ấy rất sâu khó được. Chúng tôi tự nghĩ chẳng tu được pháp ấy mà muốn về hoàn tục. Tại sao, vì của tín thí khó tiêu vậy”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát khen chư Tỳ Kheo ấy: “Lành thay, lành thay! Nầy các thiện nam tử đó là chỗ các ông nên làm. Nếu tự xét chẳng tiêu được của tín thí thì nên một ngày hoàn tục trăm lần, mà chẳng nên phá giới rồi thọ người dâng thí”.
Văn Thù Sư Lợi bạch Ðức Phật: “Bạch Ðức Thế Tôn! Những người nào nên thọ tín thí?”.
Đức Phật phán: “Nầy Văn Thù! Nếu là người tu thiền giải thoát, Phật cho phép người này thọ tín thí”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói với năm trăm Tỳ Kheo ấy: “Nay các ông phải mau tu hành, Phật ra đời khó gặp phải an trụ trong Phật pháp”.
Năm trăm Tỳ Kheo ấy bạch rằng: “Bạch Văn Thù Sư Lợi! Chúng tôi phải tu hành thế nào?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Nầy chư thiện nam tử! Các ông nên quán sát như vầy: không một pháp hiệp, không một pháp tan, không một pháp sanh, không một pháp diệt, chẳng thọ một pháp, chẳng xả một pháp, chẳng tăng một pháp, chẳng giảm một pháp. Tu hành như vậy thì ở nơi các pháp vô sở đắc, vì vô sở đắc nên không có khứ, vì không khứ nên không có lai, vì không lai nên không có trụ. Đấy gọi là vô lai vô khứ vô trụ vô bất trụ vậy”.
Lúc Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói pháp ấy, năm trăm Tỳ Kheo ở trong các lậu, tâm được giải thoát.
Tôn giả Ma Ha Ca Diếp bạch Ðức Phật: “Bạch Ðức Thế Tôn! Đời vị lai năm trăm năm sau những Bồ Tát nào hành siểm khúc?”.
Đức Phật nói: “Nầy Ca Diếp! Có rất đông người hành siểm khúc gần ác hữu ít đọc tụng kinh điển chỉ cầu y thực.
– Lành thay Ðức Thế Tôn! Xin vì lợi ích cho nhiều người mà nói lỗi của Bồ Tát siểm khúc chẳng siêng tu hành ấy, khiến Bồ Tát ấy nghe Phật nói lỗi ấy rồi tự nhiếp tâm hành cho được thanh tịnh.
Nầy Ca Diếp! Đời vị lai năm trăm năm sau có các Bồ Tát gần ác hữu ít đọc tụng kinh điển chỉ làm công việc cúng dường Xá lợi, dùng hương hoa anh lạc phan lọng đèn sáng cúng dường tháp miếu thờ Xá lợi của Như Lai.
Nầy Ca Diếp! Phật vì người tại gia vô trí khiến họ trồng căn lành mà nói cúng dường Xá lợi. Các người ngu ấy chẳng hiểu ý Phật mà chỉ làm công việc đó.
Nầy Ca Diếp! Phật ở trong chúng Trời Người thường nói pháp tu xa ma tha và tì bát xá na để tự điều phục, trong đời sẽ có hàng Bà La Môn cư sĩ chánh tín ưa thích cúng dường Xá lợi.
Nầy Ca Diếp! Các người ngu ấy bỏ việc đọc tụng kinh điển tu thiền trí huệ mà chỉ cúng dường Xá lợi để nuôi sống.
Nầy Ca Diếp! Nếu có Bồ Tát đem hương hoa đèn sáng đầy cõi Đại Thiên chất cao đến Phạm Thiên tim đèn như núi Tu Di để cúng dường Như Lai. Lại có Bồ Tát tịnh tâm trì giới nơi tôn sư học tập thọ trì đọc tụng bốn câu kệ tịnh tâm tu hành cho đến bảy bước được công đức hơn trên vô lượng vô biên.
Nầy Ca Diếp! Nếu có Bồ Tát đem hoa hương đèn sáng đầy cõi Đại Thiên ngày đêm sáu thời cúng dường Như Lai suốt trăm ngàn năm. Lại có Bồ Tát bỏ nơi ồn náo rất sợ ba cõi vì lợi ích chúng sanh mà phát tâm xu hướng nơi tịch tĩnh cất chưn Bảy bước được công đức hơn trên vô lượng vô biên.
Nầy Ca Diếp! Theo ý ông nghĩ thế nào, vì hóa độ chúng sanh mà Như Lai nói như thế chăng? Ông chớ quan niệm như vậy. Nên biết Ðức Như Lai nói đúng thiệt, vì Như Lai hiện thấy biết rõ.
Nầy Ca Diếp! Thuở quá khứ vô lượng vô biên bất tư nghị vô số kiếp, bấy giờ có Phật Diệu Hoa Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Kiếp ấy cũng tên Diệu Hoa.
Nầy Ca Diếp! Diệu Hoa Như Lai có chín mươi sáu ức trăm ngàn Thanh Văn đại chúng. Đương thời có Chuyển Luân Thánh Vương tên Ni Di trị nước đúng pháp chủ bốn thiên hạ, đủ ngàn con trai dũng kiện oai mãnh. Sau đó lại có hai con trai bỗng nhiên hóa sanh ngồi kiết già tên Đạt Ma và Thiện Pháp. Vua Ni Di thỉnh Phật Diệu Hoa và Tỳ Kheo Tăng mãn tám vạn bốn ngàn năm thọ tứ sự cúng dường. Vua bỏ việc nhà chỉ lo sắm đồ cúng dường, cứ sau Bảy ngày đều dâng y mới cho tất cả Tỳ Kheo, các thứ uống ăn tùy theo ý thích. Vua xây tinh xá nhiều rộng tùy ý thích mà ở. Mỗi Tỳ Kheo vua cấp bảy người hầu dâng trăm thứ thực phẩm.
Vua Ni Di tạo tinh xá vuông tám mươi do tuần tô vẽ vi diệu hơn cả thế gian. Đức Diệu Hoa Như Lai và chư Tỳ Kheo Tăng an trụ trong tinh xá ấy. Từ dười đất mọc các hoa thơm đẹp khiến toàn tinh xá ấy hoa ngập đến gối.
Vua Ni Di ở nơi tinh xá công đức bất tư nghị ấy cung kính cúng dường đức Diệu Hoa Như Lai mãn tám vạn bốn ngàn năm. Ngày tối hậu, sau khi đức Diệu Hoa Như Lai thọ trai xong, hai vương tử Đạt Ma và Thiện Pháp cùng quyến thuộc và tứ chúng đến lễ chưn Phật mà bạch rằng:
Bạch Ðức Thế Tôn! Còn có thiện căn công đức nào hơn thiện căn công đức cúng dường của Đại Vương Ni Di nầy chăng ?
Lúc hai vương tử lễ chưn Phật, cả Đại Thiên thế giới đều chấn động. Đệ tử thị giả của Phật tên Thông Đạt Pháp đảnh lễ bạch Phật rằng:
Bạch Ðức Thế Tôn! Duyên cớ gì đại địa chấn động, do nhơn duyên gì hai Vương tử đây lễ Phật rồi quỳ yên.
Đức Diệu Hoa Như Lai nói với thị giả Thông Đạt Pháp:
Nầy thiện nam tử! Chẳng nên hỏi điều ấy. Nếu Như Lai nói hai Vương tử ấy tâm thanh tịnh, tâm thâm nhẫn đại bi lễ chưn Như Lai, thì tất cả Trời Người sẽ đều mê mất.
Đức Diệu Hoa Như Lai bảo đệ tử Thanh Văn thần thông đệ nhất tên Na La Diên rằng:
Nầy thiện nam tử! Ông hiển thị thần lực đỡ hai Vương tử ấy dậy.
Na La Diên Tỳ Kheo tuân lịnh Phật đứng dậy đến dùng tay hữu nắm một đồng tử, lại dùng tay tả nắm một đồng tử muốn đỡ đứng dậy mà mãi không động, cho đến dùng tận đại thần lực cũng chẳng lay động được một phần sợi lông. Bấy giờ do thần lực của Na La Diên cả Tam thiên Đại thiên thế giới đại địa đều chấn động, núi sông đều lay chuyển mà chẳng làm động được hai Vương tử ấy. Na La Diên lại nhờ thần lực của Phật Diệu Hoa khiến hằng hà sa thế giới ở Hạ phươngđều chấn động mà chẳng làm động được một phần sợi lông của hai Vương tử ấy.
Tỳ Kheo Na La Diên lễ Phật bạch rằng:
Bạch Ðức Thế Tôn! Phải chăng tôi đã mất sức thần thông. Vì hai Vương tử này còn là đồng tử chưa được bao nhiêu tuổi nay mọp lạy trước Phật mà tôi dùng hết sức thần thông chẳng đỡ dậy nổi.
Đức Diệu Hoa Như Lai nói:
Nầy Na La Diên! Ông chẳng mất thần thông. Cảnh giới của Bồ Tát bất tư nghị. Tất cả Thanh Văn và Duyên Giác chẳng làm lay động được, chẳng suy lường được.
Nầy Na La Diên! Giả sử tất cả chúng sanh trong Tam thiên Đại thiên thế giới đều có đủ sức thần thông như ông mãi đến ức kiếp cũng chẳng đỡ nổi hai đồng tử này khiến họ đứng dậy.
Lúc Phật Diệu Hoa nói lời trên đây, trong đại chúng có bốn trăm hai mươi vạn chúng sanh phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề. Các chúng sanh ấy nghĩ rằng: Thần lực của Bồ Tát rất hi hữu, chưa được nhứt thiết trí mà có thần lực như vậy, thần lực của đại Thanh Văn không làm lay động được, huống là lúc thành Phật đạo. Vì thế chúng ta phải hành đạo Bồ Tát thệ chứng Như Lai vô thượng trí huệ.
Bấy giờ bốn trăm hai mươi vạn chúng sanh suy nghĩ như vậy rồi tâm họ an trụ vững chắc nơi Vô Thượng Bồ Ðề.
Trong đại chúng ấy có một Bồ Tát tên Thiện Huệ lễ Phật Diệu Hoa rồi bạch rằng:
– Bạch Ðức Thế Tôn! Xin Phật làm cho hai đồng tử này dậy, những chỗ họ bạch hỏi xin Ðức Phật giải đáp.
Đức Phật Diệu Hoa liền từ trong hư không phát ra âm thanh lớn vang khắp hằng hà sa thế giới của chư Phật mười phương, tất cả thế giới được âm thanh ấy vang đến đều chấn động sáu cách. Đức Phật Diệu Hoa lại phóng quang minh lớn chiếu khắp mười phương.
Nghe âm thanh của Phật hai Vương tử đứng dậy. Lúc hai đồng tử đứng dậy khắp đại thiên thế giới các kỹ nhạc của Nhơn Thiên chẳng đánh tự kêu, trong hư không mưa hoa đẹp. Hai Vương tử nhiễu Phật ba vòng đảnh lễ chưn Phật rồi cung kính chắp tay chiêm ngưỡng đức Diệu Hoa Như Lai.
Đức Diệu Hoa Như Lai bảo Thiện Huệ Bồ Tát:
Nầy thiện nam tử! Hai Vương tử này lễ chưn ta rồi hỏi như vầy: Còn có sự bố thí nào được thiện căn công đức hơn công đức thiện căn của vua Ni Di. Hai vương tử bạch hỏi ta vậy rồi cúi mọp lặng yên.
Thiện Huệ Bồ Tát bạch Phật Diệu Hoa:
Nguyện Ðức Thế Tôn giải nói chỗ hỏi của hai vương tử, để cho hàng Trời Người được an lạc.
Đức Diệu Hoa Như Lai nói:
Nầy Thiện Huệ! Nay ông lắng nghe sẽ vì ông mà nói. Nầy Thiện Huệ! Nếu có Bồ Tát an trụ tịch tĩnh thật hành viễn ly ít biết các pháp được vô sanh nhẫn thì công đức hơn công đức của vua Ni Di đã làm vô thượng vô biên.
Nầy Thiện Huệ! Nếu tất cả chúng sanh trong Đại thiên thế giới, mỗi chúng sanh đều tạo công đức như vua Ni Di, bao nhiêu công đức của tất cả chúng sanh trong Đại thiên thế giới ấy cũng chẳng bằng công đức của Bồ Tát tu hạnh viễn ly an trụ tâm thanh tịnh, chánh niệm tương ưng, tỏ ngộ các pháp không, không khứ không lai. Chút ít công đức của trí nhẫn này hơn công đức trước cả ngàn vạn ức phần cho đến cả toán số phần.
Nầy Thiện Huệ! Như tất cả chúng sanh trong hằng hà sa thế giới đều làm phước đức như vua Ni Di, các chúng sanh ấy tạo phước đức mãn hằng hà sa kiếp. Ông nghĩ thế nào, công đức nầy có nhiều chăng?
– Bạch Ðức Thế Tôn! Đức Như Lai nói ví dụ chẳng thể nghĩ bàn, công đức thiện căn như vậy bất tư nghị.
– Nầy Thiện Huệ! Nay ta bảo ông, người có trí huệ thành tựu thâm nhẫn thì có thể tin lời Phật nói.
Bao nhiêu thiện căn công đức của tất cả chúng sanh ấy tập họp chẳng bằng thiện căn của hai vương tử nầy dùng tâm thanh tịnh lễ chưn Phật, cho đến chẳng bằng một phần toán thí dụ.
Bấy giờ trong đại chúng của Ðức Phật Diệu Hoa có tám vạn bốn ngàn Tỳ Kheo đồng thanh phát ngôn: Bạch Ðức Thế Tôn! Chúng tôi tùy hỉ công đức của người ấy thành tựu thâm pháp nhẫn tin các pháp không, tâm ưa viễn ly xu hướng tịch tĩnh cất chưn Bảy bước phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề thành tựu trí huệ chúng tôi tùy hỉ.
Đức Phật Diệu Hoa tán thán chư Tỳ Kheo:
Lành thay, lành thay, nầy chư Tỳ Kheo! Các ông do thiện căn tùy hỉ bất tư nghị nầy sẽ làm Chuyển Luân Thánh Vương hằng hà sa đời, sau đó sẽ thành đạo Vô Thượng Bồ Ðề”.
Bấy giờ Tôn giả Ma Ha Ca Diếp cùng hàng đại chúng đồng thanh bạch Ðức Phật: “Bạch Ðức Thế Tôn! Chúng tôi tùy hỉ người ấy phát tâm thành tựu thâm nhẫn tin các pháp không, viễn ly tịch diệt tự tánh thanh tịnh”.
Đức Phật bảo Tôn giả Ma Ha Ca Diếp: “Thuở ấy Vương tử Đạt Ma bạch Ðức Phật Diệu Hoa:
Bạch Ðức Thế Tôn! Có đủ những pháp gì mà Bồ Tát bố thí chẳng mong báo đáp chẳng sanh lòng tật đố tâm chẳng xan lẫn tham trước hy vọng, hoàn thành công hạnh vô thượng của Như Lai được thâm pháp nhẫn thành vô thượng trí?
Đức Diệu Hoa Như Lai nói:
Nầy thiện nam tử! Bồ Tát có đủ bốn pháp thì được như chỗ ông nói: Một là tin các pháp không, hai là viễn ly, ba là thâm nhẫn, bốn là chánh niệm. Bồ Tát có đủ bốn pháp nầy thì bố thí chẳng mong báo, lòng chẳng tật đố, chẳng xan lẫn tham trước hi vọng, được thành tựu hạnh Như Lai vô thượng, thành nên thâm nhẫn đủ trí vô thượng.
Lại có bốn pháp, Bồ Tát nếu đủ bốn pháp nầy thì được viên mãn trí vô thượng, đó là Bồ Tát cầu đa văn, được đa văn rồi vào các tụ lạc thành ấp thuyết pháp, không hề hi vọng cho đến chẳng nhận một câu khen hay, lòng không hề ham muốn, trong tất cả hạnh bố thí của chư Phật dạy pháp thí là đệ nhứt, Bồ Tát an trụ đệ nhứt bố thí lòng vui mừng, chẳng cầu bố thí tài vật thế gian. Tại sao, nầy thiện nam tử! Trong vô số a tăng kỳ thế giới mười phương, chư Phật Như Lai và Tỳ Kheo Tăng chẳng thiếu đồ dùng thế gian. Nếu có Bồ Tát giữ giới thanh tịnh tu tập chánh pháp có tâm đại bi chẳng cầu lợi dưỡng thì được tất cả chư Phật nhớ ghi. Nếu có Bồ Tát hay nói bốn câu kệ nói văn tự của bài kệ đều tự tánh không tất cả các pháp cũng tự tánh không, Bồ Tát nầy được thiện căn công đức hơn thiện căn công đức trước trăm ngàn vạn ức phần cho đến a tăng kỳ phần.
Diệu Hoa Như Lai bảo hai vương tử Đạt Ma và Thiện Pháp:
Bồ Tát có đủ bốn pháp thì được thành hạnh vô thượng của Như Lai: Một là đi chỗ vô thượng, hai là nói pháp vô thượng, ba là thí vật vô thượng, bốn là tin pháp vô thượng.
Hai vương tử nghe đức Diệu Hoa Như Lai nói pháp trên đây rồi liền vọt lên hư không cao bảy cây đa la, đồng thanh nói kệ tán thán Ðức Phật:
Như Lai biết các hành
Dạy chúng sanh bố thí
Mà chẳng chấp nơi thí
Đây là vô thượng thí
Hay thành nhẫn vô thượng
Trong ấy không có ngã
Không nhơn chúng sanh mạng
Hi hữu đại tinh tấn
Diễn nói pháp như vậy
Hay thành tâm pháp nhẫn
Và được vô thượng hạnh
Cũng được vô thượng trí
Dứt hẳn các dục não
Đại trí huệ thanh tịnh
Chẳng còn thọ hậu hữu
Nói các hạnh viễn ly
Khiến an trụ tịch tĩnh
Tu tập không giải thoát
Cũng chẳng sanh phân biệt
Thường siêng làm bố thí
Chẳng sanh khởi phân biệt
Đây là vô cấu tế
Xa rời các danh tự
Nói thanh tịnh thi la
Khiến đi chỗ tịch diệt
Đây là đệ nhứt giới
Chỗ giác tri tịch diệt
Thường tu hành trí nhẫn
Chẳng phân biệt chúng sanh
Đây là thanh tịnh nhẫn
Rời tất cả phân biệt
Tu kiên cố tinh tấn
Rời tất cả hữu vi
Phật nói tinh tấn này
Hay thành pháp viễn ly
Đốt cháy tất cả sự
Đoạn dứt những hữu vô
Vô phân biệt thiền này
Chẳng sanh các phiền não
Chẳng đây chẳng phải kia
Trung gian cũng chẳng trụ
Là đệ nhứt trí huệ
Rời xa cả tam thế
Tu tập tịch diệt tưởng
Lại quan sát tưởng ấy
Tưởng ấy sanh chỗ nào
Vì thế biết vô tưởng
Tán thán Phật công đức
Diễn nói pháp đệ nhứt
Tâm ấy không dị niệm
Nghe thọ Phật chánh pháp
Nói danh tự vô tận
Tự tánh thể chẳng thành
Quán cảnh giới không thiệt
Thì tâm ấy giải thoát
Cảnh giới được tự tại
Nếu sanh ý tưởng nầy
Tôi là người thuyết pháp
Thì bị ma nó trói
Chẳng biết các pháp tướng
Nếu muốn được Bồ Ðề
Và người cầu Thanh Văn
Cầu Duyên Giác Bồ Ðề
Phải tu học pháp này
Diễn nói một giải thoát
Trí huệ vô biên lượng
Chớ phát nguyện hạ liệt
Nên nguyện vô thượng trí
Nếu cầu thân như vậy
Tướng hảo tự trang nghiêm
Như thân Phật kim sắc
Nên cầu vô thượng trí
Sanh khởi tất cả pháp
Tác giả bất khả đắc
Các pháp từ duyên sanh
Tự tánh không tự tánh.
Lúc hai vương tử ở hư không nói kệ ấy, vua Ni Di từ đô thành đi ra, các địa thần hư không thần đều đến tập họp. Bấy giờ có tám vạn bốn ngàn chúng sanh phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề, a tăng kỳ chúng sanh gieo trồng căn lành.
Hai Vương tử từ hư không xuống lễ Phật bạch rằng: Bạch Thế Tôn! Chúng tôi quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề dùng hình Tỳ Kheo hành đạo Bồ Tát. Bạch Thế Tôn! Người chơn phát tâm tin tất cả pháp vô sanh. Bạch Thế Tôn! Người chơn phát tâm chẳng trước các pháp. Tại sao? Vì có trước thì pháp chẳng sanh, thế nên nói rời tâm trước pháp thì được vô sanh ấy. Bạch Thế Tôn! Vô sanh này cũng chẳng nên nói là vô sanh. Tại sao? Vì có ngôn thuyết thì có sanh diệt. Nếu có đủ tịnh trí thì không sanh diệt, chỗ không sanh diệt là cứu cánh tận. Vì thế nên dùng bình đẳng tế phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề chẳng nhớ nghĩ nơi pháp, cũng không pháp được pháp chẳng được. Được pháp bình đẳng như vậy cũng không được bình đẳng. Tại sao? Vì tất cả pháp bổn tánh thanh tịnh vậy.
Lúc Diệu Hoa Như Lai vì hai Vương tử nói pháp ấy, trong đại chúng có mười ngàn chúng sanh được vô sanh pháp nhẫn. Vua Ni Di và ngàn Vương tử cùng năm ngàn đại thần đều phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề.
Thọ trai xong rửa bát rồi, đức Diệu Hoa Như Lai ở trong đại chúng bảo vua Ni Di: Nay ta thuyết pháp.
Vua và đại chúng nghe Phật sẽ thuyết pháp đều vui mừng hớn hở.
Bấy giờ hai Vương tử Đạt Ma và Thiện Pháp nghe Phật sẽ thuyết pháp do tâm tịnh tín rời lìa lửa dục cần cầu xuất gia liền xuất thành muốn đến chỗ Phật và nói kệ rằng:
Tất cả chư Như Lai
Tán thán pháp xuất gia
Tại gia nhiều cấu uế
Hư mất pháp bạch tịnh
Tăng trưởng pháp bất thiện
Hủy diệt các thiện pháp
Tại gia nhiều tội lỗi
Xuất gia rời nhiễm ô
Giả sử trăm ức kiếp
Thọ dục không chán đủ
Tại gia như chết mất
Thọ dục không chán đủ
Như biển thọ các dòng
Chẳng bao giờ biết đủ
Phàm phu cũng như vậy
Thọ dục chẳng biết đủ
Như lửa cháy cỏ khô
Không lúc nào biết chán
Phàm phu cũng như vậy
Thọ dục chẳng biết chán
Bị tham dục nó buộc
Phá hư cả thế gian
Thế nên phải rời buộc
Để phát tâm xuất gia
Tại gia đủ các lỗi
Chẳng được đạo vô thượng
Xuất gia tu viễn ly
Mới chứng được Bồ Ðề
Quá khứ chư Như Lai
Đã nhập đại Niết Bàn
An trụ pháp tịch tĩnh
Chứng được đại Bồ Ðề
Nên phải theo học Phật
Xu hướng chỗ tịch tĩnh
Bỏ ân ái ly gia
Rồi mới được an ổn
Tất cả cõi Đại thiên
Trân bửu đầy trong ấy
Tại gia dưng chư Phật
Nếu dùng tâm vô não
Biết tội lỗi tại gia
Học chư Phật Như Lai
Xuất gia cầu trí huệ
Đã cầu xuất gia rồi
Rời xa các lửa dục
Cất chưn đi bảy bước
Hơn trân bửu cúng trên
Công đức cúng trân bửu
Chẳng bằng một phần này
Thế nên người xuất gia
Được chư Phật tán thán
Thành tựu đại trí huệ
Xa rời các trói buộc
Lìa tất cả chấp trước
Mới chứng vô thượng đạo
Mau ở chỗ tịch tĩnh
Dứt trừ các ái dục
Tất cả độc rối lòng
Dứt hết chẳng còn thừa
Học theo Phật Như Lai
Biết các pháp như thiệt
Mau xa rời tại gia
An trụ pháp tịch tĩnh
Nếu muốn cầu Phật đạo
Tu tập hạnh viễn ly
Phải học ở tịch tĩnh
Chẳng nên ưa tại gia
Đây là cảnh giới Phật
Trụ xứ của thánh nhơn
An trụ được đạo nầy
Thì hay được Bồ Ðề
Tham dục hại chúng sanh
Nếu người cầu viễn ly
Phải rời lìa tại gia
Tu tập hạnh tịch tĩnh
Muốn chứng pháp cam lộ
Chuyển pháp luân vô thượng
Dẹp xô các ma oán
Nên tu hạnh tịch tĩnh.
Nói kệ xong hai Vương tử thẳng đến chỗ Ðức Phật Diệu Hoa đảnh lễ hữu nhiễu ba vòng chắp tay cung kính bạch rằng:
Bạch Thế Tôn! Nay chúng tôi ở chỗ Ðức Như Lai muốn cầu xuất gia, mong Phật thương xót nhận cho chúng tôi xuất gia.
Đức Diệu Hoa Như Lai biết hai Vương tử tín tâm thanh tịnh cầu pháp xuất gia liền cho xuất gia an trụ pháp Tỳ Kheo.
Vua Ni Di nghe hai Vương tử xuất gia liền truyền ngôi cho Thái tử rồi cùng chín trăm chín mươi chín Vương tử, tám vạn bốn ngàn phu nhơn, năm ngàn đại thần và số nhơn dân dùng tâm tin thanh tịnh rời lửa tham dục, đến lễ Phật cầu được xuất gia an trụ pháp Tỳ Kheo.
Thái tử lên ngôi vua bảy ngày tự nghĩ rằng: Tôi trọn chẳng rời bỏ tâm Nhứt thiết trí, nào cần gì ngôi vua báu để cho tham dục nó trói buộc. Tôi trọn chẳng bỏ Vô Thượng Bồ Ðề. Suy nghĩ rồi phát tâm xuất gia, trong ngày rằm đi khắp bốn thiên hạ và nói kệ rằng
Phụ vương cùng quyến thuộc
Thảy đều đã xuất gia
Vô lượng ức chúng sanh
Vì pháp cũng xuất gia
Nay tôi thích xuất gia
Chẳng ưa ở ngũ dục
Nhứt tâm cầu xuất gia
Muốn đến chỗ Như Lai
Ai phát tâm xuất gia
Rời lìa lửa tham dục
Phải mau theo tôi đi
Gặp Phật rất khó được
Chẳng phát tâm xuất gia
Chẳng rời được lửa dục
An tâm tại cư gia
An trụ nơi thiệt pháp
Lúc tân vương nói kệ tuyên cáo rồi, trong bốn thiên hạ không một ai ưa tại gia đều phát tâm nguyện cầu xuất gia.
Đức Diệu Hoa Như Lai biết tất cả chúng sanh trong tứ thiên hạ lòng tin thanh tịnh thích muốn xuất gia liền hiện Hóa Phật và Hóa Tỳ Kheo Tăng khắp tất cả thành ấp tụ lạc. Khắp tứ thiên hạ không có một ai ở tại gia, tất cả đều dùng lòng tin thanh tịnh rời lửa dục được xuất gia làm Tỳ Kheo.
Sau khi toàn thể dân chúng bốn thiên hạ xuất gia, cõi đất ấy chẳng cần gieo trồng tự nhiên sanh ngạnh mễ, các rừng cây tự nhiên sanh y phục, tất cả chư Thiên cung cấp hầu hạ.
Hai Vương tử Đạt Ma và Thiện Pháp trong sáu mươi ba ức năm dũng mãnh tinh tấn chẳng nằm, cầu Nhứt thiết trí niệm Nhứt thiết trí được tam muội tên Biến chí, chỗ hai Vương tử ngồi tu tên Kim Cương xứ, chỗ ấy toàn bằng kim cương, mười phương chư Phật thuyết pháp đều nghe và thọ trì lại hay giảng nói cho mọi người. Bấy giờ tất cả dân chúng trong tứ thiên hạ nếu là người tu theo thừa Thanh Văn thì không một ai còn thân phàm phu mà chết, kẻ tột giải đãi cũng được quả A Na Hàm sanh trời Tịnh Cư. Những người tu theo thừa Duyên Giác, khi mạng chung sanh trong thế giới không Phật, trong dòng đại tộc đủ các căn, do sức thiện căn trước tự rời lửa dục tu xuất gia sau bảy ngày thành Duyên Giác đạo làm lợi ích vô lượng vô biên chúng sanh rồi nhập Niết Bàn. Những người tu theo thừa Bồ Tát thì được ngũ thông đủ bốn tâm vô lượng bốn biện tài được đà la ni”.
Đức Phật bảo Tôn giả Ma Ha Ca Diếp: “Ông chớ có ý nghĩ gì khác. Thuở ấy vua Ni Di là thân ta đây, Thái tử kia nay là Di Lặc Bồ Tát, Đạt Ma Vương tử là Văn Thù Sư Lợi và Thiện Pháp Vương tử nay là Hư Không Tạng Bồ Tát.
Nầy Ca Diếp! Ông xem quốc độ của Phật Diệu Hoa thuở xưa ấy thanh tịnh toàn những chúng sanh đầy đủ thiện căn như vậy”.
Tôn giả Ma Ha Ca Diếp bạch rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Đức Phật Diệu Hoa thọ bao nhiêu?”.
Đức Phật nói: “Đức Diệu Hoa Như Lai thọ tám kiếp, sau khi Ðức Như Lai ấy diệt độ chánh pháp trụ thế mãn một kiếp. Tất cả chư Thiên cúng dường Xá lợi vì không có người tại gia. Bấy giờ hai Tỳ Kheo Đạt Ma và Thiện Pháp thiểu dục tri túc chẳng cúng Xá lợi chẳng lễ Phật tháp. Chư Thiên và tân học Tỳ Kheo trăm ngàn đại chúng bảo nhau rằng: Hai Tỳ Kheo ấy tà kiến, chẳng tin Phật Xá lợi, chẳng cúng dường, chẳng lễ Phật tháp. Hai Tỳ Kheo hỏi chư Thiên và đại chúng rằng: Ý các ngài nghĩ thế nào, cúng dường thế nào là chơn cúng dường Như Lai và do sự cớ gì mà Xá lợi Như Lai được cúng dường. Đại chúng đáp: Do tu giới định huệ giải thoát và giải thoát tri kiến mà Xá lợi được cúng dường. Hai Tỳ Kheo nói: Tu giới định huệ giải thoát giải thoát tri kiến là chơn cúng dường Như Lai chớ chẳng phải cúng Xá lợi. Chư Tỳ Kheo tân học đồng nói: Đúng như vậy, đúng như lời hai ngài nói. Thế nào là tướng của giới định huệ giải thoát giải thoát tri kiến, xin giải bày cho.
Hai Tỳ Kheo Đạt Ma và Thiện Pháp nói: Tướng vô tác là giới tướng, nhẫn đến tướng vô tác là giải thoát tri kiến tướng.
Hai Tỳ Kheo lại hỏi đại chúng rằng: Ý các ngài thế nào, vô tác hay cúng dường vô tác chăng?
Đại chúng đáp: Không vậy.
Hai Tỳ Kheo nói: Chơn cúng dường là không Phật tưởng, không thấy Phật hà huống cúng dường. Nếu cúng dường Phật thì nên cúng dường tự thân.
Đại chúng hỏi: Thế nào là cúng dường tự thân?
Hai Tỳ Kheo đáp: Phải như là Như Lai Ứng Chánh Biến Tri cúng dường tự thân được tất cả chúng sanh cúng dường. Như sở học của Phật, phải học theo như vầy: hộ trì cấm giới, họp các thiện pháp, tư duy các pháp, chớ lấy pháp tướng. Nếu có thể tự cúng dường như vậy thì được Trời Người cúng dường. Nếu muốn cúng dường Phật Xá lợi thì nên tự cúng dường. Như Ðức Phật Như Lai đủ các công đức nên Xá lợi Phật được cúng dường, nếu người thành tựu được công đức như vậy thì gọi là cúng dường Phật. Hoặc nhiều hay ít chẳng sanh phân biệt gọi là cúng dường Phật. Chẳng phải hậu thế đi chẳng phải kim thế đến, chẳng phải thử ngạn, chẳng phải bỉ ngạn, chẳng phải thường chẳng phải đoạn, chẳng phải thủ chẳng phải xả gọi là cúng dường Như Lai, chẳng tăng chẳng giảm chẳng sanh chẳng diệt chẳng tận chẳng bất tận gọi là cúng dường Như Lai. Chẳng tâm chẳng tâm số pháp chẳng ức tưởng chẳng ngã chẳng thủ chảng thọ, chẳng tránh luận chẳng phải chẳng tránh luận chẳng hủy chẳng tán chẳng hai chẳng nhập gọi là cúng dường Như Lai. Thân vô sở tác khẩu vô sở tác ý vô sở tác nơi thân khẩu ý cầu bất khả đắc gọi là cúng dường Như Lai, không quá khứ tưởng vị lai hiện tại tưởng bất khả đắc vô y vô trước vô sở cầu tưởng, cũng chẳng phân biệt gọi là cúng dường Như Lai, không Phật tưởng không Pháp tưởng không Tăng tưởng không nhơn không tự không tha tưởng gọi là cúng dường Như Lai.
Chơn Như Lai thân gọi là tướng vô sanh, chẳng nên dùng sanh mà sắm sửa cúng dường.
Chơn Như Lai thân gọi là tướng vô tác, chẳng nên dùng tạo tác mà sắm sửa cúng dường.
Chơn Như Lai thân gọi là không hai tướng, chẳng nên dùng hai tướng mà sắm sửa cúng dường.
Chơn Như Lai thân gọi là tướng vô lậu, chẳng nên dùng hữu lậu mà sắm sửa cúng dường.
Chơn Như Lai thân gọi là không tướng, chẳng nên dùng thân kiến, mạn kiến, đoạn thường kiến, ngã ngã sở kiến, hữu kiến, vô kiến mà sắm sửa cúng dường Như Lai.
Chơn Như Lai thân gọi là tướng vô tướng, chẳng nên dùng có tướng mà sắm sửa cúng dường.
Chơn Như Lai thân gọi là tướng vô nguyện, chẳng nên dùng tướng có nguyện cầu mà sắm sửa cúng dường.
Chơn Như Lai thân gọi là tướng vô hữu, chẳng nên dùng tướng hữu mà sắm sửa cúng dường.
Chơn Như Lai thân gọi là tướng bất động, chẳng nên dùng tướng động mà sắm sửa cúng dường.
Chơn Như Lai thân gọi là tướng vô hành, chẳng nên dùng hành mà sắm sửa cúng dường.
Chơn Như Lai thân gọi là tướng ly tham, chẳng nên dùng tham mà sắm sửa cúng dường. Chơn Như Lai thân gọi là tướng ly sân, chẳng nên dùng sân mà sắm sửa cúng dường. Chơn Như Lai thân gọi là tướng ly si, chẳng nên dùng si mà sắm sửa cúng dường Như Lai.
Chơn Như Lai thân đủ giới định huệ giải thoát giải thoát tri kiến, chẳng nên dùng phá giới loạn tâm ngu si mà sắm sửa cúng dường.
Chơn Như Lai thân đủ từ bi hỉ xả, chẳng nên dùng tâm sân tâm não tâm tật đố tâm tán loạn mà sắm sửa cúng dường.
Chơn Như Lai thân đủ thí giới nhẫn tấn thiền huệ, chẳng nên dùng xan phá sân giải tán si mà sắm sửa cúng dường.
Lúc hai Tỳ Kheo Đạt Ma và Thiện Pháp ở trong đại chúng nói pháp ấy, có bốn trăm hai mươi vạn chúng sanh được vô sanh pháp nhẫn, tám vạn bốn ngàn chúng sanh được trí thanh tịnh quả A Na Hàm, hai trăm ba mươi vạn chúng sanh phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề”.
Đức Phật bảo Tôn giả Ma Ha Ca Diếp: “Nầy Ca Diếp! Ông quan sát xem hai Tỳ Kheo ấy tâm thanh tịnh như vậy. Ông nên học theo thâm nhẫn của hai Chánh Sĩ ấy cùng với phương tiện hay giỏi.
Nầy Ca Diếp! Lúc hai Tỳ Kheo ấy ở trong đại chúng nói pháp như vậy, các Tỳ Kheo nghe pháp rồi đều an trụ thâm nhẫn đều làm hạnh thiểu dục tri túc chẳng cúng dường Xá lợi và tháp miếu Phật. Tại sao, vì các Tỳ Kheo đều ưa thích thâm pháp.
Nầy Ca Diếp! Sau đó Bảy ngày tất cả Phật pháp đều ẩn mất, các Phật Xá lợi ở trong bình cũng ẩn mất.
Nầy Ca Diếp! Ông nên học theo thâm nhẫn của các chánh sĩ ấy”.
Đức Phật lại bảo Tôn giả Ma Ha Ca Diếp: “Nếu biết đời mạt thế năm trăm năm sau, có chư Bồ Tát và chư Tỳ Kheo chẳng tu thân chẳng tu tâm chẳng tu giới chẳng tu huệ, họ vì sanh sống mà cúng dường Phật tháp và Phật Xá lợi, chẳng vì Niết Bàn chẳng vì ly dục mà sắm sửa cúng dường. Họ tự phạm cấm giới ngu si vô trí.
Xá lợi của Như Lai do huân tu giới định huệ giải thoát giải thoát tri kiến, họ vì sanh sống mà cúng dường tôn trọng.
Ở nơi Xá lợi của Phật Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri rời lìa tham sân si, họ đủ tham sân si vì mạng sống mà bầy sự cúng dường.
Tự thân họ đủ tham xan tật đố sân khuể giải đãi tán loạn ngu si, nếu có đại thí chủ chánh trụ chánh tâm, họ vì mạng sống mà khuyến hóa khiến cúng dường Xá lợi Như Lai.
Nầy Ca Diếp! Ta vì giáo hóa các thiện nam thiện nữ nhơn mới đầu phát tâm nên dùng sức thần thông lưu Xá lợi lại khiến họ cúng dường được thọ vui Nhơn Thiên để làm nhơn cho vị lai mãi đến Niết Bàn. Các người ngu si kia ở trong Phật pháp dầu được xuất gia mà chẳng hiểu Phật pháp, lại bỏ chánh hạnh xuất gia chuyên lo cúng dường tháp miếu Xá lợi để sanh sống. Họ vì áo cơm vì lợi dưỡng vì danh văn mà cúng dường Phật Xá lợi.
Cái gì gọi là nghiệp hạnh của Tỳ Kheo ? Như trên đã nói nghiệp hạnh của Sa Môn có hai thứ: Một là tu thiền, hai là tập tụng. Nói như vậy là vì nhập đạo chớ chẳng phải thuyết cứu cánh.
Nầy Ca Diếp! Nếu có tác nghiệp hay hết các nghiệp thì gọi là nghiệp của Sa Môn.
Không tác không tụng không thiền, không tác không vô tác, không niệm không chẳng niệm, vô tận vô sanh, chứng ba môn giải thoát chẳng ở tam giới, không lai không khứ, đây là nghiệp Sa Môn.
Các chúng sanh kia rời lìa chánh nghiệp Sa Môn mà tập các nghiệp khác.
Các phước nghiệp kia là để giáo hóa hàng tại gia. Các người tại gia thuận giáo pháp Như Lai sẽ được quả A Na Hàm.
Hạng ngu si kia ở trong Phật pháp đi xuất gia, họ còn chẳng tu hành pháp tùy thuận huống là có thể được. Không bao giờ họ có thể được.
Nầy Ca Diếp! Đời vị lai năm trăm năm sau, có hàng tương tợ Sa Môn, y phục hình mạo giống tượng Sa Môn mà giới chẳng tương tợ định chẳng tương tợ, huệ chẳng tương tợ.
Ví như có người biết giỏi phương thuốc và chú thuật, họ dùng chú thuật chú một ca sa cho người bảo mặc vào, người kia sanh tham liền mặc áo ấy đến Bảy ngày hoặc tám ngày thân thể nóng thiêu như khối lửa. Cũng vậy, Tỳ Kheo thấy y phục đẹp liền thọ nhận mặc vào, sau đó hoặc trong nhà trong xóm hoặc trong rừng y phục ấy nóng lên như lửa đốt cháy căn lành của người.
Nầy Ca Diếp! Ông nghĩ thế nào, người ấy mặc ca sa có lợi ích chăng?
– Bạch Thế Tôn! Không lợi ích.
– Nầy Ca Diếp! Đúng như vậy. Ca sa của Phật do sự tập họp của giới định huệ giải thoát giải thoát tri kiến vô lượng a tăng kỳ thiện căn. Đời sau có người mặc thánh y hình tợ Sa Môn đi vào các thôn ấp, có hàng tín tâm Bà La Môn trưởng giả cư sĩ thấy người ấy mặc pháp phục cho là Sa Môn đều cùng tôn trọng cúng dường cung kính. Người ngu si ấy do mặc ca sa mà được cúng dường sanh lòng vui mừng khi mạng chung đọa địa ngục bị lửa thiêu đốt, lá sắt nóng đỏ làm y phục, hoàn sắt cháy đỏ làm món ăn, nước sắt nóng chảy làm đồ uống, ngồi nằm giường sắt nóng.
Nầy Ca Diếp! Ông xem ca sa pháp phục có oai đức rất lớn như vậy, mà kẻ ngu si kia mặc ca sa thọ lạc phóng dật tạo ác nghiệp mạng chung đọa địa ngục.
Nầy Ca Diếp! Phật thường bảo rằng: thà đốt nóng lá sắt làm y phục chớ chẳng đem thân phá giới mà mặc ca sa, thà nuốt sắt nóng chớ chẳng đem thân phá giới mà ăn của tín thí.
Nầy Ca Diếp! Ông xem người phá giới ăn của tín thí có lỗi như vậy, thế nên các ông phải tu học giới pháp thanh tịnh.
Nầy Ca Diếp! Ông nghĩ thế nào, hoặc Trời, hoặc Rồng, hoặc Dạ Xoa, hoặc Càn Thát Bà, hoặc A Tu La, hoặc Ca Lâu La, hoặc Khẩn Na La, hoặc Ma Hầu La Già, hoặc Người, hoặc Phi Nhơn, có ai làm được thân tượng Như Lai chăng?
– Bạch Thế Tôn! Chẳng thể làm được, vì sắc thân Như Lai bất tư nghị không sắc tượng, nên các hạng chúng sanh ấy chẳng làm được.
– Nầy Ca Diếp! Đời vị lai năm trăm năm sau, có các Tỳ Kheo chẳng tu thân tâm giới huệ, nếu ở trên vải lụa tường vách họ tạo tượng Như Lai để tự sanh sống, do nghiệp tạo tượng nuôi sống ấy họ tự cao tự mạn khi người”.
Tôn giả Ma Ha Ca Diếp bạch rằng: “Bạch Thế Tôn! Vua Ba Tư Nặc tạo tượng Phật được phước nhiều chăng?
– Nầy Ca Diếp! Được phước rất nhiều. Vua Ba Tư Nặc tạo tượng Như Lai cúng y vô giá chẳng cầu lấy báo y phục ăn uống.
Nầy Ca Diếp! Người ngu si đời sau vì sanh sống mà tạo tượng Như Lai.
Nầy Ca Diếp! Người bán súc vật còn là nghiệp ác. Huống là người ngu si tạo tượng Như Lai rồi đối với hàng bạch y mà rao bán để tự sanh sống.
Nầy Ca Diếp! Ví như trẻ nít vô tri bỏ cam lộ mà uống độc dược. Cũng vậy, kẻ ngu si kia tạo tượng Như Lai vì sanh sống mà đem rao bán, đây gọi là độc. Nói độc đây là ở trong chánh pháp chính tham là độc đó. Kẻ ngu si kia vì lòng tham mà sanh khởi giận ghét đấu tranh lẫn nhau chê bai lẫn nhau, đều tự nói tôi cúng dường Phật tượng. Họ nhơn tranh luận mà đọa địa ngục.
Nầy Ca Diếp! Ví như có người không phương tiện giỏi lúc vào chiến đấu với kẻ địch đao kiếm của họ cầm trở lại thương tổn họ. Cũng vậy, người ngu si kia không phương tiện giỏi, họ nhơn nơi chánh pháp mà đọa địa ngục.
Nầy Ca Diếp! Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn dùng bảy báu tạo tháp Như Lai trang nghiêm thành tựu, mỗi tháp báu cao rộng tốt đẹp như núi Tu Di, họ tạo tháp như vậy khắp đầy hằng sa thế giới. Ông nghĩ thế nào, người tạo tháp ấy được phước nhiều chăng?
– Bạch Thế Tôn! Tạo tượng tháp Như Lai bằng bốn ngón tay được phước vô lượng huống là tạo tượng tháp Phật như núi Tu Di, công đức ấy chẳng thể nghĩ bàn được.
Nầy Ca Diếp! Nếu có Bồ Tát quán Phật thân được thâm pháp nhẫn thì được công đức hơn kia vô lượng vô biên. Nếu lại có người an trụ tịnh giới đem bốn câu kệ nói cho người khác hiểu được nghĩa thú cũng được phước đức vô lượng vô biên.
Nầy Ca Diếp! Quán Phật thân thế nào ? Nếu Bồ Tát muốn quán Phật thân thì nên học theo Đại Tinh Tấn Bồ Tát.
Thuở xưa vô số a tăng kỳ kiếp có Phật Thế Tôn hiệu Quang Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Sau khi Phật Quang Minh nhập Niết Bàn có Bồ Tát tên Đại Tinh Tấn dòng Bà La Môn đoan chánh vô tỉ. Trong chánh pháp của Phật Quang Minh chư Tỳ Kheo thiểu dục tri túc hành đúng như pháp, chư Tỳ Kheo ấy đều tạo lập hình tượng Như Lai.
Bấy giờ có một Tỳ Kheo họa tượng Như Lai trên lụa trắng mầu sắc trang nghiêm đầy đủ tướng tốt rồi mang đến chỗ Đại Tinh Tấn Bồ Tát. Thấy tượng ấy, Đại Tinh Tấn Bồ Tát rất vui mừng mà nói rằng: Hình tượng Như Lai còn đẹp lạ dường nầy huống là thân của đấng Như Lai Chánh Biến Tri. Nguyện đời sau tôi được sắc thân nghiêm đẹp như vậy. Đại Tinh Tấn Bồ Tát tự nghĩ rằng nay tôi không thể ở tại gia, vì người ở tại gia chẳng thể thành tựu thân như vậy.
Bấy giờ Đại Tinh Tấn Bồ Tát tuổi mới mười sáu đầy đủ các căn, Bồ Tát đến chỗ cha mẹ kính lễ thưa xin được tùy hỉ cho xuất gia trong Phật pháp. Cha mẹ bảo: Chớ nói lời ấy. Tại sao, vì nay chúng tôi tuổi già chỉ có con là trai duy nhứt, nếu con xuất gia, chúng ta sẽ chết mất.
Đại Tinh Tấn nói: Tôi phải phương tiện cho cha mẹ còn mà tôi được xuất gia.
Cha mẹ nói: Con muốn làm gì?
Đại Tinh Tấn nói: Từ ngày nay tôi chẳng ăn, chẳng lên giường, ghế nằm ngồi, chẳng ăn tô du, chẳng uống các thứ nước, việc lành việc dữ miệng chẳng nói ra lời, đến chừng nào được xuất gia mới thôi.
Thưa với cha mẹ như vậy xong, Đại Tinh Tấn nín lặng và quỳ luôn tại chỗ.
Ngày thứ nhứt nín lặng chẳng ăn uống, cha mẹ tụng các chú thuật đem các thức ăn đến, Đại Tinh Tấn chẳng chịu ăn cũng chẳng nói.
Ngày thứ hai cha mẹ cùng quyến thuộc của mẹ năm trăm người đem các thức ăn uống đến và tụng các chú thuật mong chịu ăn, Đại Tinh Tấn còn không ngó đến huống là ăn uống.
Ngày thứ ba cha mẹ cùng năm trăm quyến thuộc của cha đem các thức ăn uống đến khuyên bảo, Đại Tinh Tấn cũng nín lặng chẳng ăn chẳng uống chẳng nhìn ngó đến.
Ngày thứ tư năm trăm bạn thân đem các thức uống ăn đến nài nỉ hết lời, Đại Tinh Tấn vẫn quỳ yên nín lặng.
Ngày thứ năm cha mẹ đem hết kho báu vàng bạc lưu ly bửu vật và tám vạn bốn ngàn thể nữ trang sức xinh đẹp đến trước Đại Tinh Tấn. Cha mẹ và các bạn thân đều năm trăm người khuyên bảo rằng nên ở tại gia tùy ý dùng tất cả của cải ấy bố thí làm phước và cùng vui chung với các thể nữ. Đại Tinh Tấn ở giữa đại chúng vẫn nín lặng chẳng ngó đến.
Ngày thứ sáu Đại Tinh Tấn dứt các sự nhớ tưởng chỉ niệm tưởng Ðức Như Lai Ứng Chánh Biến Tri.
Bấy giờ cha mẹ bạn thân cùng tám vạn bốn ngàn thể nữ đồng khóc than lễ Đại Tinh Tấn, mà Đại Tinh Tấn vẫn chẳng nhìn ngó đến.
Chỗ Đại Tinh Tấn ở có một Trạch thần hiện đại thần lực ở giữa hư không nói kệ rằng
Lòng Tinh Tấn vững chắc
Khó động như Tu Di
Chẳng bỏ tâm xuất gia
Vì cầu được Bồ Ðề
Đại địa có thể nghiêng
Lửa có thể ở nước
Tất cả có thể chuyển
Chẳng động được Bồ Tát
Các người chớ cần khổ
Mà tạo nghiệp bất thiện
Chúng sanh không huệ nhãn
Lâu dài ở sanh tử
Vì lợi ích quần sanh
Nên cầu được Bồ Ðề
Lòng kia thích xuất gia
Tất sẽ thành Chánh Giác
Chẳng cầu phước thế gian
Mà tu Bồ Tát đạo
Nguyện thành trí vô thượng
Cứu tế chúng sanh khổ
Tam thiên Đại thiên giới
Trong ấy đầy châu báu
Cùng các cõi thượng diệu
Lòng kia chẳng tham trước
Các người tâm ngu si
Gây tạo nghiệp bất thiện
Các người phải tự hối
Bồ Tát chẳng ở tục.
Mọi người nghe lời bảo của thiên thần đều hối lỗi. Cha mẹ bảo Đại Tinh Tấn rằng: Cho phép con tùy ý xuất gia, nên ăn uống chớ để phải chết.
Cả bảy ngày chẳng ăn uống mà Đại Tinh Tấn nhan sắc chẳng biến đổi trái lại còn tươi đẹp sáng sủa hơn, nội tâm chỉ nhứt tâm niệm tưởng thân của Như Lai Chánh Biến Tri.
Trên không chư Thiên tán hoa cúng dường.
Sau đó bảy ngày, Đại Tinh Tấn rời bỏ gia nghiệp như bỏ nước miếng, nước mũi. Cha mẹ bạn thân quyến thuộc và tám vạn bốn ngàn thể nữ buồn khóc đưa đi.
Đại Tinh Tấn cầm bức lụa họa tượng Phật vào núi sâu nơi vắng vẻ không người và cầm thú rồi giăng treo tượng Phật lên, trải cỏ làm chỗ ngồi, kiết già đoan tọa trước tượng Phật chánh thân chánh niệm quán Phật. Quán nghĩ rồi tự nghĩ rằng: Đức Như Lai hi hữu vi diệu như vậy, họa tượng còn đoan nghiêm thù thắng huống là thân hình của Như Lai. Tôi phải quán Phật thế nào?
Bấy giờ Lâm thần biết tâm niệm của Bồ Tát liền thưa rằng: Ngài muốn quán Phật thì nên quán họa tượng. Quán họa tượng ấy chẳng khác Như Lai, đây gọi là quán Phật, cũng gọi là thiện quán.
Đại Tinh Tấn nghĩ rằng: Nay tôi quán họa tượng này đồng với Như Lai như thế nào?
Rồi lại suy nghĩ: Tượng Phật phi giác phi tri, tất cả các pháp cũng vậy: phi giác phi tri.
Tượng Phật chỉ có danh tự, tất cả các pháp cũng như vậy: chỉ có danh tự. Danh tự ấy tự tánh không tịch vô sở hữu, thân Như Lai cũng như vậy.
Tượng Phật ấy: phi chứng phi đắc phi quả, phi người chứng phi người đắc phi người đắc quả, phi người an trụ, phi khứ phi lai phi sanh phi diệt phi cấu phi tịnh, phi sắc phi phi sắc, phi hết tham phi hết sân phi hết si, phi ấm nhập giới, phi sơ phi trung phi hậu, tất cả các pháp cũng đều phi, thân Như Lai cũng như vậy.
Tượng Phật ấy phi giác tri phi tác vi, tất cả các pháp cũng như vậy, thân Như Lai cũng như vậy.
Tượng Phất ấy phi thấy phi nghe phi ngửi, phi nếm phi giác xúc, phi hay biết, phi thở phi hít, tất cả các pháp cũng như vậy. Thân Như Lai cũng như vậy.
Họa tượng ấy chẳng thuộc Dục, Sắc, Vô Sắc giới, tất cả các pháp cũng như vậy.
Họa tượng ấy phi sơ trung hậu, phi thử bỉ, phi hành phi chẳng hành, phi thủ xả, phi tác phi tụng, phi thiệt hư, phi sanh tử Niết Bàn, tất cả các pháp cũng vậy. Thân tướng Như Lai cũng vậy.
Kiết già đoan tọa quán thân Như Lai như vậy trải ngày đêm Bồ Tát Đại Tinh Tấn thành tựu ngũ thần thông, đủ bốn vô lượng tâm, được vô ngại biện tài, nhập phổ quang tam muội hiện đại quang minh, thành tựu thiên nhãn quá hơn nhơn nhãn, dùng thiên nhãn ấy thấy Đông phương vô số chư Phật, được tịnh thiên nhĩ chỗ thuyết pháp của chư Phật Thế Tôn đều nghe nhận được cả.
Đại Tinh Tấn siêng tu tinh tấn mãn bảy ngày dùng trí làm món ăn chẳng ăn đồ thế gian, chư Thiên tán hoa cúng dường. Lúc ấy Đại Tinh Tấn chẳng mặc ca sa chẳng thấy Phật chẳng thọ giới pháp chỉ nhứt tâm nhớ niệm Nhứt thiết trí.
Nầy Ca Diếp! Bồ Tát phải quán thân Như Lai như vậy: phi quán phi chẳng quán. Bồ Tát nên quán họa tượng Phật như Đại Tinh Tấn Bồ Tát đã quán. Quán như vậy thành đại trí huệ. Dùng trí huệ ấy thấy được hết vô số Phật mười phương và nghe chư Phật thuyết pháp.
Đại Tinh Tấn Bồ Tát ra khỏi núi đến xóm làng nói pháp cho mọi người. Một hội thuyết pháp có hai vạn chúng sanh an trụ Vô Thượng Bồ Ðề, vô lượng vô số chúng sanh an trụ công đức Thanh Văn Duyên Giác. Cha mẹ và thân thuộc đều an trụ bất thối chuyển vô thượng đạo.
Nầy Ca Diếp! Đại Tinh Tấn Bồ Tát thuở xưa ấy nay là thân ta. Vì thế nên Bồ Tát phải học theo Đại Tinh Tấn và chư đại Bồ Tát khác.
Đời mạt thế, năm trăm năm sau có các thiện nam tử thiện nữ nhơn cầu Bồ Tát đạo mà không có tâm phương tiện tốt, họ nhiều tham trước, ở nơi tường vách họ họa hình tượng Như Lai để cầu lợi dưỡng, họ nói riêng mình tôi cúng dường không ai cúng dường. Do tu thiện chút ít rồi họ tự cao mạn khinh người, nhơn nơi cúng dường tượng Phật để tự sanh sống.
Nầy Ca Diếp! Thuở vị lai ấy, chúng sanh chẳng tu tam muội, chẳng đọc tụng kinh chỉ lo cúng tượng để tự sanh sống, nhơn cúng tượng mà từ nơi thí chủ họ được nhiều lợi dưỡng: ăn uống y phục đồ nằm và thuốc men.
Nầy Ca Diếp! Ông xem các Bồ Tát phá giới ấy an trụ bất tịnh mà tự xưng đa văn, họ chẳng tụng đọc kinh điển, chỉ nhơn cúng hình tượng để tự nuôi sống”.
Tôn giả Ma Ha Ca Diếp bạch rằng: “ĐấngThế Tôn hi hữu, đấng Thiện Thệ hi hữu, Ðức Như Lai nói rộng về lỗi siểm khúc của các phàm phu ngu si. Nếu có thiện nam tử nữ nhơn được nghe lời nầy, chẳng ai là chẳng an trụ giới thanh tịnh.
Bạch Ðức Thế Tôn! Nguyện pháp nầy ở lâu nơi đời vị lai cho người phá giới được nghe mà sanh lòng tàm quí vì họ sẽ tự nghĩ rằng Ðức Như Lai biết rõ tôi thấy rõ tôi, do đây mà tà pháp của họ làm sẽ được dứt hẳn”.
Đức Phật bảo: “Nầy Ca Diếp! Lời nói của Như Lai đây là vì các thiện nam tử thiện nữ nhơn ấy, họ nghe pháp nầy của ta sẽ tu hành rời lìa tà ác. Ta vì họ mà nói pháp như vậy”.
Ðức Thế Tôn nói kinh nầy rồi, Tôn giả Ma Ha Ca Diếp, Di Lặc Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, tất cả thế gian Trời Người, Bát Bộ nghe lời Phật dạy đều rất vui mừng tín thọ phụng hànhành.