Cuộc Đời Thánh Tăng Ananda

Cuộc Đời Thánh Tăng Ananda

Đỗ Quang Huy 48

Chương IV

A Nan Ða đáng gọi là kho tàng pháp bảo

Kỳ công và biệt tài nổi bật, đã nâng A Nan Ða lên hàng một trong những đệ tử thông thái nhất của đức Phật, là khả năng nhớ nhanh, nhớ nhiều và nhớ dai của vị tông đồ này.

Mặc dù khi đức Phật còn tại tiền, A Nan Ða chưa đắc A La Hán, nhưng ông đã được xem tương đương như một trong những Thinh Văn của cộng đồng Thánh Nhân. Ông xứng đáng để được toàn thể Phật tử lúc bấy giờ tặng cho danh hiệu “Một tông đồ xuất chúng”. Bốn chữ tông đồ xuất chúng này có nghĩa là ông có đủ khả năng và đức tính của một bậc giải thoát.

Ngoại trừ hai đại Thinh Văn, có hai năng lực phi thường, là Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, thì A Nan Ða là một trong những 75 đại đệ tử nổi tiếng khác của đức Phật.

Trong khi 74 vị kia có những xuất sắc chuyên biệt thì A Nan Ða đã nổi tiếng nhờ bốn trong năm “nền tảng trí thức Thượng thừa”:

– Nền tảng trí thức thứ nhất là ông đã nghe nhiều hơn ai hết, nghe gần như toàn thể những lời Phật dạy.

– Nền tảng trí thức thứ hai là ông đã nhớ nhiều hơn ai hết, nhớ đầy đủ những lời Phật dạy.

– Nền tảng trí thức thứ ba là ông đã hiểu nhiều hơn ai hết, hiểu cả hệ thống Pháp Bảo, kể luôn ý nghĩa súc tích khi phối hợp các Phật ngôn dạy trước với các Phật ngôn dạy sau, một cách song đối hay thứ tự.

– Nền tảng trí thức thứ tư ông là người tin tưởng nơi Pháp Bảo của đức Phật, tin tưởng chắc chắn nhất, trên tất cả mọi học thuyết (Theo Anguttara Nikàya n.1,19 =Tăng Nhất A Hàm 1,19).

(Riêng nền tảng trí thức thứ năm là “sự cần cù, dẻo dai, nhiều nghị lực trong việc hầu hạ một bậc Toàn Giác của A Nan Ða”, không nên kể đến. Vì thuở bấy giờ, mà đề cặp đến nền tảng trí thức ấy, đối với A Nan Ða là một chuyện thừa! Chẳng khác nào như ta khen “nước biển là chất lỏng mặn nhất” trên thế gian này ).

Khi nghiên cứu kỹ trong kinh điển Phật giáo chúng ta sẽ nhận thấy rằng những nền tảng trí thức vừa nêu trên thuộc về một công phu rất diệu dụng, từ đó có sinh ra đức tính cảnh giác, tiếng Pàli gọi là Sati. Cái công phu mà sức mạnh và ảnh hưởng của nó hằng giúp cho hành giả có một tinh thần trong sáng , vững chắc, đủ khả năng để phân biệt mọi cảm giác trong thân cũng như mọi khái niệm ngoại thân, hầu không để cho ý thức bị tham, sân, si lôi kéo.

Và cũng nhờ cái công phu tuyệt diệu ấy, mà khả năng sử dụng trí nhớ của hành giả, ở bất cứ lúc nào, và đối diện với tất cả các vấn đề, đều luôn luôn thanh tịnh, không bị chính cái trí nhớ của họ dẫn vào nẻo ngã mạn cố chấp.

Nói cách khác dễ hiểu hơn: đức tính cảnh giác là hạt nhân sẽ đem lại thục quả là sự biết mình. Rồi nhờ sự biết mình ấy mà hành giả nhận rõ mọi hiện tượng xung quanh, phân biệt pháp lành với pháp ác, cái nào đang phát động trong tâm tư mình; hầu tự thu thúc lục căn, sống đúng theo Chánh Pháp.

Thực ra chữ Pàli “Sati” có nghĩa thông thường là “trí nhớ” (tức là khả năng tự “biết lại” những cái gì đã trôi qua). Chính nhờ cái”trí nhớ” ấy mà quá khứ và hiện tại mới được nối liền với nhau bằng những chuỗi truyền cảm ký ức.

Nhưng đối với A Nan Ða, trong kiếp chót, trí nhớ (sati) đã biến thành sự biết mình (sampa jãnnã). Tức là ông không phải chỉ nhớ suông đến những điều mà ông đã học thuộc lòng, mà ông còn cảm thấy, cái tác dụng của nó nữa. Ðể khi gặp lại, ông biết tùy theo trình độ trí thức của mỗi người nghe mà diễn đạt từ thấp tới cao, từ nông cạn đến sâu sắc, từ thô kệch đến vi tế, chứ ông không phải nhắm mắt lặp lại, một cách hỗn độn, loạn xà ngầu.

Còn về phương diện nhớ nhanh và nhớ chắc chắn thì A Nan Ða có thể xem là vô địch. Nhờ thiện tồn trữ từ nhiều đời trước, kiếp này ông chỉ nghe qua một lần là ông có thể lặp lại nguyên văn một bài pháp của đức Phật gồm 60.000 chữ một cách dễ dàng. Một lần khác, A Nan Ða đã tụng lại 150 ngàn bài kệ, mỗi bài bốn câu của đức Phật dạy.

Kỷ lục ghi nhớ tức khắc, và ghi nhớ đầy đủ của A Nan Ða, khiến ta có cảm tưởng, như ông đã dùng phép lạ, mới thực hiện nổi một kỳ công như thế. Nhưng theo Phật giáo thì phép “lạ” của A Nan Ða không có gì khác hơn là không để cho tâm trí của mình bị vướng mắc bởi những ý tưởng vô ích. Những ý tưởng vô ích vốn có hàng trăm, ngàn thứ và luôn luôn “choán hết chỗ” trong đầu óc con người , thì còn đâu tiềm lực để cho trí nhớ của họ được phát triển?

Ðức Phật dạy rằng: “Nguyên nhân duy nhất khiến cho một người hay quên là sự pháp chướng: tham dục, ác tâm, hôn trầm, vọng tưởng (phóng dật) và hoài nghi” (theo Anguttara Nikàya V 193).

A Nan Ða lúc ấy tuy chưa đắc quả A La Hán, nhưng nhờ ông vâng lời Phật dạy lấy Chánh Niệm làm nền tảng tu luyện, đồng thời nhờ phúc duyên tu nhiều kiếp trước, nên mỗi khi ông tập trung tâm trí để nghe pháp, là năm pháp chướng ấy không thể nào khuấy nhiễu ông được.

Ngay cả ngày nay, nhiều Cao Tăng Phật giáo ở Miến Ðiện, chỉ nhờ thành công phần nào trong việc loại trừ năm pháp chướng ấy, mà cũng có thể nhớ nằm lòng Tạng Luật, Tạng Kinh hay Tạng Luật một cách dễ dàng. Có vị còn đủ khả năng nhớ cả Tam Tạng gồm 45 quyển in đầy cả chữ nữa.

Khi A Nan Ða nghe pháp, ông không có một gợn tư duy nào trong tâm ông cả. Ông không để cho cái “ngã” nổi dậy để bình phẩm “Câu này dài, câu kia ngắn. Câu này sâu sắc, câu kia thông thường, âm thanh câu này cao, âm thanh câu kia thấp v.v..”.

Trong ý thức của ông lúc ấy chỉ có một điều là nghe và ghi nhớ một cách tự nhiên, không bấn loạn hay hoang mang, sợ rồi mình sẽ quên nhưng điều Phật dạy. Như một viên thư ký chuyên nghiệp, chỉ biết vô tư chép đúng những lời người khác nói, lên trang giấy trắng tinh một cách tự tin và bình thản.

Và trang giấy trắng tinh của A Nan Ða là trí óc thanh tịnh, không bị năm pháp chướng làm ô đục, hoen ố vậy!

Ðây chính là tư cách của một đại Thinh Văn (Bậc được nghe nhiều học rộng). Vì ai được nghe và học nhiều bằng phẩm hạnh này sẽ loại trừ được tánh ương ngạnh, tự đắc, nằm sẵn trong tâm, và biến trí óc mình thành một kho tàng chứa toàn chân lý. Và người được nghe và hấp thụ càng nhiều chân lý thì những ác pháp trong tâm họ, đương nhiên càng được tiêu trừ.

Các hạng Thinh Văn như thế có thể ví như những hạt kim cương, tiếp nhận ánh sáng chân lý, từ tôn khẩu của đức Phật, nên sự phản chiếu ánh sáng chân lý (ám chỉ sự lập lại) cũng trung thực, không thêm, không bớt, không rõ, không mờ. (Theo vật lý học, kim cương là môi trường mà ánh sáng hiện ra chính xác nhất).

Bởi vậy, một bậc Thinh Văn chân chánh là người luôn luôn tự nhiên, và tuyệt đối tôn trọng sự thật. Bất cứ điều lành nào họ ghi vào trí nhớ để thực hành, là họ không bao giờ cho rằng “Ấy là nhờ trí tuệ tinh lanh của mình suy diễn mà được, nhưng ấy là “Sự thật trong pháp”. Và họ chỉ là người được nghe và khách quan nhận ra giá trị của nó.

Như mấy câu thơ đây của Rainer Maria Rilke đã ca ngợi A Nan Ða:

“Thấy sự thật mà không tự hào tinh mắt,
Hiểu sâu xa không nghĩ tuệ mình cao.
Hàng Thinh Văn như thế hiếm dường nào,
Như giọt nước long lanh trong sa mạc”
.

Bài thơ này phản ảnh một cách trái ngược tâm tánh của A Nan Ða, khi ông chưa xuất gia. Lúc ông mới đến với đức Phật, A Nan Ða là người chứa đầy vô minh, phiền não, ngã mạn và tự đắc. Nhưng càng về sau, nhờ sống bên cạnh đức Bổn Sư, mà ông mỗi ngày một thấm nhuần chân lý giải thoát. Thấm nhuần đến độ mà không còn là ông nữa! Ông đã biến thành hiện thân của Pháp Bảo, biến thành “Pháp Thân” của đức Phật, để hơn 2500 năm sau, cái tên A Nan Ða không còn là một danh xưng nữa, mà nó chính là “ngôn ngữ mở đề” của các kinh điển Phật giáo.

Phẩm cách nghe Pháp và thấm nhuần chân lý vào trí óc của A Nan Ða được gọi là nền tảng trí thức thứ nhất(trong năm nền tảng trí thức). Kinh Samyutta Nikàya (Tạp A Hàm số 14.5) còn ghi rõ rằng:”A Nan Ða đã thấm nhuần lời Phật dạy như thế nào, thì khi ông truyền lại Phật ngôn cho các đệ tử, cũng làm cho họ thấm nhuần như thế ấy!”.

Còn theo kinh Tăng Nhất A Hàm số 3, 78 (Anguttara Nikàya n.3, 78) thì Phật đã xác nhận rằng:

“A Nan Ða có một nghệ thuật nghe pháp rất đặc biệt, không thể tìm ra một người thứ hai trên thế gian này”.

Một lần nọ, đức Phật ngự tại vườn Song Long Thọ Gosinga (cũng gọi là rừng Gosinga) với một số đông đệ tử hạng Tôn túc. Ðức Trưởng lão Xá Lợi Phật (Sàrìputta) thấy được khung cảnh thanh nhã, đã tán dương rằng:”Ðây có thể gọi là vườn An Lạc, vì những cây Song Long ở đây nở đầu hoa, hương tỏa kín không gian, như một cõi trời…!”.

Rồi Trưởng lão nêu câu hỏi:

– Kính thưa chư đạo huynh! Một khung cảnh thanh tịnh như thế này, có thể đem so sánh với phẩm hạnh của Sa môn nào trong chúng ta, là xứng đáng nhất?

Các vị đại đệ tử của đức Phật liền lần lượt trả lời. Mỗi vị làm nổi bật một khía cạnh trong sự so sánh của mình. Nhưng nói chung, tất cả ý chính đều qui về một điểm là: Mỗi Sa môn đều có một phẩm hạnh đặc sắc, xứng đáng để so sánh với khung cảnh thanh tịnh của ngôi vườn.

Riêng câu trả lời của A Nan đa thì như sau:

– Này chư đạo huynh! Sa môn nào là người nghe đủ bốn ngàn pháp môn của đức Phật, là người sống đúng theo chánh pháp, là người làm sáng tỏ và bảo tồn Pháp Bảo tốt đẹp ở đoạn đầu, tốt đẹp ở đoạn giữa, và tốt đẹp ở đoạn chót. Sa môn nào là người có khả năng truyền lại những điều Phật dạy một cách tròn đủ, không thêm, không bớt một cách khiêm nhượng, tự nhiên. Sa môn nào là người luôn luôn ghi nhớ rằng: Pháp nào ta đã hiểu được, ta có bổn phận cống hiến cho cộng đồng xã hội. Tức là Sa môn có khả năng thuyết Pháp đến các hàng tứ chúng (Tỳ khưu, Tỳ khưu ni, thiện nam, và tín nữ) làm cho họ trước tiên thỏa thích trong Pháp Bảo, rồi sau đó hiểu đúng nghĩa đế, để tiến tới phẩm hạnh diệt tận tham, sân, si, giải thoát… thì Sa môn ấy xứng đáng để so sánh với ngôi vườn kỳ diệu này. (Theo Majjhina Nikaya 32 = Trung A Hàm số 32).

Nền tảng trí thức thứ hai là giữ lại trong tâm bất cứ Pháp Bảo nào mà mình nghe được và tự động áp dụng những thiện pháp ấy, để mang lại lợi ích cao thượng cho chính bản thân mình.

Nền tảng trí thức thứ ba, chú giải tiếng Pàli gọi là Gatimanta, tức là sự hiểu đúng mạch văn và hoàn cảnh của từng vấn đề. Cùng một từ ngữ mà trong bài pháp này đức Phật ám chỉ thân nghiệp, rồi trong một bài pháp khác, đức Phật có thể ám chỉ ý nghiệp. Khi A Nan Ða được nghe nói đến hai lần trong hai trường hợp đặc biệt khác nhau, ông cũng hiểu Phật ngôn đúng theo ý nghĩa của từng thời pháp. Nói cách khác là bộ óc của A Nan Ða có khả năng “thu thanh” một cách chính xác và phân biệt mọi vấn đề theo thứ tự thời gian: Ðiều nào ông đã nghe, ông hiểu khác với nhiều điều ông đang nghe, không bao giờ lầm lẫn vì cố chấp trên một số từ ngữ.

Nhiều học giả Phật giáo đã ví bộ óc của A Nan Ða như một cái máy ghi âm siêu đảng, có nhiều tầng số thanh lọc. Một tầng số dành thu phát một vấn đề chuyên biệt, không bao giờ cho những âm thanh bất thiện, ngoại đề, có thể nhập vào trong âm trường của làn sóng.

Theo một thuật sự trong tam tạng Pàli thì A Nan Ða có khả năng nghe nhiều đoạn pháp khác nhau cùng một lúc. Những đoạn pháp ấy có thể thuộc về nhiều đề tài khác nhau, và được thuyết xen kẽ nhau. Nhưng sau khi nghe xong, A Nan Ða đã có thể ráp nối các đoạn pháp rời rạc ấy một cách mạch lạc, thứ tự, để hoàn tất một lúc hai ba bài pháp, thật dễ dàng. Thậm chí A Nan Ða có thể vừa nghe, vừa đem thuyết lại từng đoạn Phật ngôn rời rạc cho các hàng tứ chúng hấp thụ về một số đề pháp chuyên biệt.

Và khi nghe xong các đoạn pháp ấy, thính giả luôn luôn khen ngợi A Nan Ða đã cống hiến cho một bài pháp, tuy nhiều đoạn ráp nối nhưng rất dễ hiểu, hấp dẫn và mạch lạc.

Ðiều ấy chứng tỏ rằng A Nan Ða đã có khả năng hiểu đúng, và nắm vững ý chính, từng chữ, từng câu, hay từng đoạn do đức Phật thuyết dạy, bằng một nghệ thuật rất khoa học.

Nhờ thế, nhiều lần A Nan Ða, trong lúc đang thuyết lại một số Pháp Bảo, chợt bị các đồng đạo chất vấn bất ngờ, ông vẫn có thể ngưng lời, để giải đáp cặn kẽ, rồi quay lại đề chính một cách tự nhiên, dễ dàng, mà không bao giờ bị lạc ý và lúng túng.

Nền tảng trí thức thứ tư là nghị lực và sự hiến thân không thối chuyển trong nhiệm vụ học hỏi và duy trì Pháp Bảo Giải Thoát, với tư cách là một Thinh Văn thân cận nhất của một bậc Giác Ngộ.

Nền tảng trí thức thứ năm là công hạnh của một đệ tử hầu Phật hoàn toàn nhất, của A Nan Ða, như chúng ta đã đề cặp qua trong đoạn trước.

Ngày nay, khi chúng ta nhắc lại năm nền tảng trí thức ấy, chúng ta không thể nào không mường tượng ra hình ảnh linh hoạt của đại Tôn giả A Nan Ða. Tuy ông ở vai trò làm pháp ngôn viên chính thức của đức Phật, ông là trọng tâm của mọi sự chú ý, mà ông vẫn ung dung, hòa ái, đối xử một cách bình dị, cởi mở với tất cả mọi người.

Ðối với những ai thường tiếp xúc với ông, A Nan Ða là mẫu người hiếm khi bị chê trách, vì đức tính phụng sự đức Phật và Tăng chúng không hề biết mệt, cũng như tình bạn không lay chuyển, mà ông luôn luôn dành cho tất cả mọi người.

Nhiều khi, có những xung đột xảy ra trong các hàng Tăng chúng, mà A Nan Ða hay. Thay vì ông dửng dưng làm người ngoại cuộc cho yên thân thì A Nan Ða đã tình nguyện làm “hòa bình sứ giả” để dùng từ tâm của mình giải quyết một vấn đề một cách êm đẹp.

Và A Nan Ða đã luôn luôn thành công, vì ông là một Sa môn không bị ai ghét bỏ. Ông là một người không có kẻ thù. Hình ảnh của ông chỉ là một hình ảnh trung thành với đức Phật.

Ông đã hết lòng phục vụ Tăng chúng đồng thời với sự tận tụy với đức Phật. Nên trong tâm tư của những đồng đạo của ông, ông không bao giờ lưu lại một nét bất mãn.

Mặt khác, A Nan Ða vốn là người rất giỏi tổ chức. Ông luôn luôn biết trước và nắm vững mọi sinh hoạt của các hàng tứ chúng, có liên hệ đến ông hàng ngày. Ông như một vị “giám đốc” kỳ tài, biết phân phối rõ ràng chương trình làm việc đến tất cả mọi người để cho những sinh hoạt Tăng Già luôn luôn được diễn ra tốt đẹp. Rồi nhờ tính cẩn thận và cảnh giác cố hữu, A Nan Ða hàng ngày rút ra nhiều bài học quý giá. Cùng một sơ hở, người khác có thể vấp phải nhiều lần, nhưng A Nan Ða không bao giờ vấp lại lần thứ hai.

Tính cảnh giác và trí nhớ đặc biệt còn giúp cho A Nan Ða có thể nhận diện hàng trăm ngàn Phật tử xa gần khác nhau một cách kỳ diệu. Ông chỉ cần thấy mặt một người nào đó một lần, là trong bao nhiêu lần sau, ông cũng nhận ra họ được.

Và cũng nhờ cái tài “nhớ rõ mặt mũi từng người” ấy, mà A Nan Ða đã có thể đoán trước (ngày nay chúng ta thường gọi là xem tướng) biết được bản chất của từng người một, hầu đối xử với họ làm sao cho hợp lẽ, để họ tự động học hỏi thấm nhuần Phật giáo, không gây cho họ cảm tưởng “Ông là người đã khéo léo dẫn dụ họ quay về với đạo Phật”. Bất cứ ai lúc quy y đạo Phật, sau khi đã nghiên cứu giáo lý Phật Ðà với A Nan Ða, cũng điều nghĩ rằng: Chính họ đã tìm ra Chánh Pháp, chứ không bị ai ảnh hưởng cả.

Nói tóm lại, A Nan Ða là một Sa môn có đủ phẩm hạnh để đóng vai trò đại diện cho đức Phật trước hàng tứ chúng, hầu cùng với những vị đại tông đồ khác lãnh đạo Giáo hội. Và cái phẩm hạnh nổi bật nhất, cần luôn luôn nhắc đến ở đây, là phẩm hạnh của một bật gìn giữ Pháp Bảo. Nếu Phật pháp là một kho tàng của báu vô giá, thì A Nan Ða chính là vị bảo vệ kho tàng ấy chắc chắn nhất vậy.