Kinh Tăng Nhất A-Hàm

Kinh Tăng Nhất A-Hàm

Trương Văn Chiến 39

XXVII. Phẩm Đẳng thú Tứ đế

1. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-Vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Này các Tỳ-kheo! Ta thường thuyết pháp Tứ đế. Dùng vô số phương tiện mà quán sát pháp này, phân biệt nghĩa và diễn giảng rộng cho người. Thế nào là Tứ đế? Nghĩa là pháp Khổ đế. Ta đem vô số phương tiện mà quán sát pháp này, phân biệt nghĩa và diễn giảng rộng cho người; dùng vô số phương tiện thuyết Tập, Tận, Ðạo đế mà quán sát pháp này, phân biệt nghĩa và diễn giảng rộng cho người.

Tỳ-kheo! Các Thầy nên gần gũi Tỳ-kheo Xá-lợi-phất, thừa sự cúng dường. Vì sao thế? Tỳ-kheo Xá-lợi-phất dùng vô số phương tiện thuyết Tứ đế này, diễn giảng rộng cho người. Tỳ-kheo Xá-lợi-phất sẽ phân biệt nghĩa này cho các chúng và bốn bộ chúng, diễn giảng rộng cho người. Và vô số chúng sanh được sạch hết các trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh.

Tỳ-kheo! Các Thầy nên gần gũi Tỳ-kheo Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, hầu hạ cúng dường, Vì sao thế? Tỳ-kheo Xá-lợi-phất là cha mẹ của chúng sanh. Ðã sanh rồi, nuôi nấng cho lớn là Tỳ-kheo Mục-kiền-liên. Vì sao thế? Tỳ-kheo Xá-lợi-phất thuyết pháp là muốn thành tựu Tứ đế cho người. Tỳ-kheo Mục-kiền-liên thuyết pháp là thành tựu đệ nhất nghĩa, thành tựu hạnh vô lậu cho người. Các Thầy hãy gần gũi Tỳ-kheo Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên.

Thế Tôn nói xong, trở vào tịnh thất. Thế Tôn đi chưa bao lâu, Tôn giả Xá-lợi-phất bảo các Tỳ-kheo:

– Người nào có thể được pháp Tứ đế, người ấy mau được lợi lành. Thế nào là Tứ đế? Nay nói Khổ đế và dùng vô số phương tiện diễn giảng rộng nghĩa này.

Thế nào là Khổ đế? Nghĩa là sanh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ưu bi não khổ, oán tắng hội khổ, ái ân biệt ly khổ, cầu bất đắc khổ. Nói tóm lại, là Nam thạnh ấm khổ. Ðó là Khổ đế.

Thế nào là Khổ tập đế? Nghĩa là ái kết vậy.

Thế nào là Tận đế? Nghĩa là ái kết dứt hẳn, không sót. Ðó là Tận đế.

Thế nào là Ðạo đế? Nghĩa là Tám đạo phẩm của Hiền Thánh: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh phương tiện, chánh mạng, chánh nghiệp, chánh niệm, chánh định. Ðó là Ðạo đế. Chúng sanh chóng được lợi lành vì có thể nghe được pháp Tứ đế này.

Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất đang thuyết pháp này, vô lượng chúng sanh không kể được lúc nghe pháp này các trần cấu sạch hết, được pháp nhãn thanh tịnh: ‘Chúng ta cũng chóng được lợi lành. Thế Tôn thuyết pháp cho ta ở yên phước địa.’

– Thế nên này Bốn bộ chúng! Hãy tìm phương tiện hành Tứ đế này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

2. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-Vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ có nhiều Tỳ-kheo vào thành Xá-vệ. Những Tỳ-kheo này liền nghĩ: ‘Chúng ta khất thực hãy còn sớm. Chúng ta nên đến thôn của ngoại đạo dị học, luận nghị với họ’.

Rồi những Tỳ-kheo này đi đến thôn ngoại đạo. Ðến nơi thăm hỏi rồi ngồi một bên. Bấy giờ dị học hỏi các Tỳ-kheo rằng:

– Sa-môn Cù-đàm thuyết pháp này cho các đệ tử: ‘Tỳ-kheo, các Thầy đều nên học pháp này, đều nên liễu tri, do liễu tri rồi nên cùng vâng làm’. Chúng tôi, cũng thuyết pháp này cho các đệ tử: ‘Các ông đều nên học pháp này, đều nên liễu tri, do liễu tri rồi nên cùng vâng làm’. Sa-môn Cù-đàm với chúng tôi đây có khác gì? Có thêm bớt gì? Nghĩa là Sa-môn Cù-đàm thuyết pháp, ta cũng thuyết pháp, Sa-môn Cù-đàm giáo hối, ta cũng giáo hối.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe lời này xong, không nói đúng cũng chẳng nói sai, từ chỗ ngồi đứng lên mà đi. Những Tỳ-kheo ấy tự bảo nhau:

– Chúng ta nên đem nghĩa này bạch với Thế Tôn.

Các Tỳ-kheo vào thành Xá-vệ khất thực, ăn xong thu xếp y bát, vắt tọa cụ lên vai trái, đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi ngồi một bên. Bấy giờ số đông Tỳ-kheo đem nhân duyên này bạch đầy đủ với Thế Tôn. Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Nếu ngoại đạo kia hỏi điều này thì các thầy nên dùng lời này đáp họ:

– ‘Có một cứu cánh hay có nhiều cứu cánh?’

Hoặc có thể Phạm chí kia thuyết bình đẳng sẽ phải nói rằng:

‘- Là một cứu cánh chứ chẳng phải nhiều cứu cánh.

‘- Cứu cánh ấy là vô dục cứu cánh.

‘- Thế nào, cứu cánh ấy là cứu cánh có sân giận hay cứu cánh không sân giận?

‘- Cứu cánh ấy là cứu cánh không sân giận. Chẳng phải là cứu cánh có sân giận.

‘- Thế nào, cứu cánh ấy có si hay cứu cánh không si?

‘- Cứu cánh ấy là cứu cánh không si.

‘- Thế nào, cứu cánh ấy là cứu cánh có ái hay cứu cánh không ái?

‘- Cứu cánh ấy là cứu cánh không ái.

‘- Thế nào, cứu cánh ấy là cứu cánh có thọ hay cứu cánh không thọ?

‘- Cứu cánh ấy là cứu cánh không thọ.

‘- Thế nào, cứu cánh ấy là trí hay không phải trí?

‘- Cứu cánh của trí.

‘- Cứu cánh này là cứu cánh của nộ hay cứu cánh không nộ? Họ sẽ nói rằng:

‘- Cứu cánh này là cứu cánh chẳng phải nộ.

Này Tỳ-kheo! Có hai kiến này. Thế nào là hai kiến? Là hữu kiến và vô kiến. Các Sa-môn, Bà-la-môn chẳng biết gốc ngọn của hai kiến này. Họ liền có tâmn dục, có tâm sân giận, có tâm ngu si, có tâm ái, có tâm thọ. Ðó là vô tri. Họ có tâm nộ, không cùng hạnh tương ưng. Người ấy không thoát khỏi sanh, già, bịnh, chết, sầu lo khổ não, chua cay vạn mối không thoát khỏi khổ.

Cũng có các Sa-môn, Bà-la-môn như thực mà biết. Người đó sẽ không có tâm ngu si, sân giận, hằng cùng hạnh tương ưng, liền thoát được sanh, già, bịnh, chết. nay thuyết nguồn gốc của khổ. Như thế, Tỳ-kheo! Có diệu pháp này gọi là pháp bình đẳng. Các pháp không hành bình đẳng thì rơi vào ngũ kiến.

Nay ta sẽ thuyết về bốn thọ. Thế nào là bốn thọ? Nghĩa là dục thọ, kiến thọ, giới thọ, ngã thọ. Ðó là bốn thọ. Nếu có Sa-môn, Bà-la-môn tận tri tên của dục thọ, người ấy tuy biết tên của dục thọ mà lại chẳng tương ưng. Họ phân biệt tên của dục thọ mà chẳng phân biệt tên kiến thọ, giới thọ, ngã thọ. Vì sao thế? Vì Sa-môn, Bà-la-môn đó không thể phân biệt tên ba thọ này.

Thế nên hoặc có Sa-môn, Bà-la-môn phân biệt hết các thọ này, họ liền phân biệt dục thọ, kiến thọ mà chẳng phân biệt giới thọ, ngã thọ. Sở dĩ như thế là vì Sa-môn, Bà-la-môn ấy không thể phân biệt hai thọ này.

Giả sử Sa-môn, Bà-la-môn có thể phân biệt hết các thọ, hoặc lại có người chẳng đầy đủ. Người ấy bèn có thể phân biệt dục thọ, kiến thọ, giới thọ mà chẳng phân biệt ngã thọ. Sở dĩ như thế là vì Sa-môn, Bà-la-môn ấy không thể phân biệt ngã thọ vậy.

Thế nên lại có Sa-môn, Bà-la-môn phân biệt hết các thọ, lại có người không đủ. Ðây gọi là bốn thọ. Có những nghĩa gì? Làm sao phân biệt?

Bốn thọ do ái sanh. Như thế, Tỳ-kheo! Có diệu pháp này đáng nên phân biệt. Nếu có người không hành các thọ này, đây không gọi là bình đẳng. Vì sao thế? Vì nghĩa của các pháp khó rõ, khó hiểu. Nghĩa của phi pháp như thế chẳng phải là chỗ bậc Chánh Ðẳng Chánh Giác nói. Tỳ-kheo nên biết! Như Lai có thể phân biệt hết tất cả các thọ. Vì có thể phân biệt tất cả các thọ nên cùng tương ưng với pháp; phân biệt dục thọ, kiến thọ, giới thọ, ngã thọ, Như Lai phân biệt hết các thọ, nên cùng pháp tương ưng, không có trái nhau.

Bốn thọ này do đâu mà sanh? Bốn thọ này do ái sanh, do ái mà tăng trưởng và thành tựu thọ này. Ta liền không khởi tâm đối với các thọ. Vì không khởi các thọ nên không sợ hãi, vì không sợ hãi liền nhập Niết-bàn. Sanh tử đã tận, Phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không còn thọ thân sau nữa, như thật mà biết, đầy đủ các pháp, là gốc của pháp hạnh. Sở dĩ như thế là vì pháp này rất vi diệu, nên chư Phật thuyết, ở các hành không có thiếu sót.

Ở đây có đệ nhất Sa-môn (Tu-đà-hoàn), đệ nhị Sa-môn (Tư-đà-hàm), đệ tam Sa-môn (A-na-hàm) và đệ tứ Sa-môn (A-la-hán). Không còn có Sa-môn nào vượt hơn điều này, có thể hơn người này, tạo tiếng rống của sư tử.

Các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

3. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-Vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ trưởng giả Cấp Cô Ðộc đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi ngồi một bên. Thế Tôn hỏi Trưởng giả:

– Thế nào Trưởng giả, trong nhà Ông cũng thường bố thí chứ?

Trưởng giả bạch Phật:

– Nhà con bây giờ nghèo mà cũng thường bố thí. Nhưng thức ăn uống xấu tệ, không bằng lúc thường.

Thế Tôn bảo:

– Nếu lúc bố thí, hoặc tốt hay xấu, dù nhiều hay ít mà không dùng tâm ý, cũng không phát nguyện, lại không có lòng tin nên do quả báo của việc làm này mà sanh ra không được thức ăn ngon, ý không ưa vui, ý lại cũng không thích mặc quần áo đẹp, cũng không thích gia nghiệp ruộng vườn tốt, tâm cũng không vui ngũ dục. Cho dù có nô tỳ, đầy tớ, họ cũng không biết vâng lời. Vì sao thế? Chính vì trong lúc bố thí không dụng tâm, nên chịu quả báo này.

Nếu lúc Trưởng giả bố thí, dù tốt hay xấu, nhiều hay ít, nên chí thành dụng tâm, chớ có làm tổn phí thêm cầu đòi đời sau. Như thế nếu sanh ở đâu Trưởng giả cũng có thức ăn uống tự nhiên, bảy báu đầy đủ, tâm thường vui trong ngũ dục. Cho dù có nô tỳ, đầy tớ, họ đều biết vâng lời. Sở dĩ như thế là vì trong lúc bố thí, có phát lòng hoan hỉ.

Trưởng giả nên biết! Quá khứ lâu xa có Phạm chí tên Tỳ-la-ma giàu có, nhiều của báu, trân châu, hổ phách, xa cừ, mã não, thủy tinh, lưu ly. Ông ta ưa bố thí. Lúc bố thí, ông dùng tám vạn bốn ngàn bát vàng đựng đầy bạc vụn mà bố thí như thế. Ông ta lại đem tám vạn bốn ngàn bồn tắm bằng vàng bạc bố thí, lại đem tám vạn bốn ngàn trâu, lấy vàng bạc treo lên sừng đem bố thí như thế; lại đem tám vạn bốn ngàn ngọc nữ bố thí, y phục tự khoác lại đem tám vạn bốn ngàn giường đều dùng chăn đệm thêu đủ màu trải lên; lại đem tám vạn bốn ngàn y phục bố thí; lại đem tám vạn bốn ngàn long tượng bố thí, đều dùng vàng bạc trang sức; lại đem tám vạn bốn ngàn ngựa bố thí, đều lấy yên cương vàng bạc phủ lên; lại đem tám vạn bốn ngàn xe bố thí. Ông ta làm một cuộc đại thí như thế. Ông ta lại đem tám vạn bốn ngàn nhà cửa bố thí. Ông bố thí tại bốn cửa thành, ai cần ăn cho ăn, cần áo cho áo, y phục, thức ăn uống, giường chiếu, thuốc men trị bịnh.. đều cho tất cả.

Trưởng giả nên biết! Ông Tỳ-la-ma ấy tuy bố thí như thế mà chẳng bằng tạo một phòng xá đem bố thí cho Chiêu-đề Tăng. Phước này chẳng thể kể lường. Dù cho tạo bố thí như thế và tạo phòng nhà đem thí Chiêu-đề Tăng, chẳng bằng thọ tam tự quy y Phật, Pháp và Thánh chúng. Phước này chẳng thể kể. Dù cho người ấy bố thí như thế, làm phòng nhà và thọ tam tự quy, tuy có phước này vẫn không bằng thọ trì ngũ giới. Dù cho người ấy bố thí như thế là làm phòng nhà, thọ tam tự quy y, thọ trì ngũ giới, tuy có phước này vẫn chẳng bằng trong khoảng búng ngón tay có lòng thương xót chúng sanh. Phước này công đức không thể đo lường.

Dù cho người kia bố thí như thế, làm phòng xá Tăng, thọ tam tự quy, trì ngũ giới và trong khoảng búng ngón tay thương xót chúng sanh; tuy có phước này cũng không bằng trong chốc lát khởi tưởng thế gian không đáng ưa thích. Phước này công đức không thể cân lường. Người ấy tạo công đức gì, Ta đều chứng minh hết; tạo phòng nhà cho Tăng, Ta cũng biết phước này. Thọ tam tự quy Ta cũng biết phước này. Thọ trì ngũ giới, Ta cũng biết phước này. Trong khoảng búng ngón tay thương xót chúng sanh, Ta cũng biết phước này. Trong chốc lát khởi tưởng thế gian không đáng ưa thích. Ta cũng biết phước này. Bấy giờ, Bà-la-môn làm cuộc bố thí lớn như thế, há là người khác sao? Chớ xem thế. Vì sao? Thí chủ khi ấy chính là Ta.

Trưởng giả nên biết! Quá khứ lâu xa, những công đức Ta tạo được là do lòng tin chẳng dứt, không khởi tâm dính mắc. Thế nên Trưởng giả! Lúc muốn bố thí, hãy hoan hỉ ban cho, chớ khởi tưởng dính mắc. Tự tay bố thí, chớ sai người khác. Phát nguyện cầu quả báo, chớ sai người khác. Phát nguyện cầu quả báo, sau cầu thọ phước, Trưởng giả sẽ được phước vô cùng. Như thế, Trưởng giả nên học điều này.

Bấy giờ Trưởng giả nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

4. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Như lúc mặt trời vừa mọc, nhân dân đều đi làm ruộng, trăm chim hót vang, con nít khóc la. Tỳ-kheo nên biết! Nay Ta lấy đây làm thí dụ và sẽ giải thích nghĩa của nó. Nghĩa này phải hiểu thế nào?

Nếu lúc mặt trời vừa mọc, đây thí dụ Như Lai ra đời. Nhân dân đều làm ruộng, thí dụ như đàn-việt, thí chủ tùy thời cung cấp y phục, cơm nước, giường nệm, thuốc men trị bịnh. Trăm chim hót vang, đây dụ cho bậc Pháp sư cao đức, hay thuyết pháp vi diệu cho bốn bộ chúng. Con nít khóc la là dụ cho Tệ ma Ba-tuần.

Thế nên các Tỳ-kheo! Như mặt trời mới mọc, Như Lai ra đời trừ đi bóng tối, chiếu sáng tất cả. Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

5. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Bồ-tát Di-lặc đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi ngồi một bên. Bồ-tát Di-lặc bạch Thế Tôn:

– Bồ-tát Ma-ha-tát thành tựu mấy pháp để hành bố thí Ba-la-mật, đầy đủ được sáu Ba-la-mật, chóng thành đạo Vô thượng Chánh Chân?

Phật bảo Bồ-tát Di-lặc:

– Bồ-tát Ma-ha-tát hành bốn pháp bổn, đầy đủ sáu Ba-la-mật, chóng thành Vô thượng Chánh Chân Ðẳng Chánh Giác. Thế nào là bốn?

Ở đây Bồ-tát bố thí từ Phật Bích-chi xuống đến người phàm đều bình đẳng, không chọn lựa, hằng nghĩ: ‘Tất cả do ăn mà tồn tại, không ăn thì chết’. Ðó là Bồ-tát thành tựu pháp đầu tiên, đầy đủ lục độ.

Lại nữa, nếu lúc Bồ-tát bố thí đầu, mắt, tủy, não, đất nước, tài sản, vợ con, hoan hỉ bố thí, không có tâm dính mắc. Ví như người đáng lẽ chết, lúc ấy được sống lại, vui mừng hớn hở không kềm nổi. Bấy giờ Bồ-tát phát tâm hoan hỉ cũng như thế; bố thí thệ nguyện không sanh lòng chấp trước.

Lại nữa, Di-lặc! Lúc Bồ-tát bố thí đến khắp tất cả, chẳng tự vì mình khiến thành đạo Vô thượng Chánh Chân. Ðó là thành tựu pháp thứ ba này, đầy đủ lục độ.

Lại nữa, Di-lặc! Bồ-tát Ma-ha-tát lúc bố thí suy nghĩ rằng: ‘Trong các loại chúng sanh, Bồ-tát thật là thượng thủ, đầy đủ lục độ, trọn vẹn các pháp bổn’. Vì sao? Vì các căn tịch tĩnh, tư duy cấm giới, không khởi lòng sân giận, tu hành tâm từ, dũng mãnh, tinh tấn, tăng trưởng các pháp lành, trừ các pháp bất thiện, hằng giữ nhất tâm, ý chẳng lầm lẫn, đầy đủ pháp môn biện tài, trọn không vượt thứ lớp, khiến các bố thí này đầy đủ lục độ, thành tựu Ðàn-ba-la-mật. Nếu Bồ-tát Ma-ha-tát hành bốn pháp này, chóng thành Vô thượng Chánh Chân Ðẳng Chánh Giác.

Thế nên, Di-lặc! Nếu Bồ-tát Ma-ha-tát, lúc muốn bố thí nên phát thệ nguyện đầy đủ các hạnh này. Như thế, Di-lặc nên học điều này.

Bấy giờ Bồ-tát Di-lặc nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

6. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Như Lai xuất hiện ở đời có Bốn vô sở úy. Như Lai được Bốn vô sở úy này, ở trong thế gian không có chỗ dính mắc, ở trong đại chúng rống tiếng sư tử, chuyển bánh xe pháp. Thế nào là bốn?

Nay Ta đã thành tựu pháp này, dù cho Sa-môn, Bà-la-môn, Ma hoặc Ma thiên, loài bò bay máy cựa, ở trong đại chúng bảo Ta không thành tựu pháp này, việc này chẳng đúng; Ta không sợ hãi. Ðó là vô sở úy thứ nhất.

Hôm nay, như Ta các lậu hoặc đã hết, không thọ thân nữa. Nếu có Sa-môn, Bà-la-môn, các loài chúng sanh, ở trong đại chúng nói Ta chưa sạch hết các lậu hoặc; việc này chẳng đúng. Ðó là vô sở úy thứ hai.

Nay Ta đã lìa pháp ngu tối, muốn cho ngu tối trở lại, không có việc này. Nếu lại có Sa-môn, Bà-la-môn, Ma hoặc Ma thiên, chúng sanh, ở trong đại chúng nói Ta bị ngu tối trở lại; việc này không đúng. Ðó là vô sở úy thứ ba của Như Lai.

Pháp xuất yếu của chư Như Lai dứt hết khổ, muốn cho không xuất yếu, trọn không có việc ấy. Nếu có Sa-môn, Bà-la-môn, Ma hoặc Ma thiên, các loại chúng sanh, ở trong đại chúng, nói rằng Như Lai chẳng dứt hết khổ; việc này chẳng đúng. Ðó là vô sở úy thứ tư của Như Lai. Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

7. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Nay có bốn người thông minh, dõng mãnh, thông suốt cổ kim, mọi pháp đều thành tựu. Thế nào là bốn? Tỳ-kheo đa văn, thông suốt cổ kim, ở trong đại chúng, thật là bậc nhất. Tỳ-kheo-ni đa văn, thông suốt cổ kim, ở trong đại chúng, thật là bậc nhất. Ưu-bà-tắc đa văn, thông suốt cổ kim, ở trong đại chúng, thật là bậc nhất. Ưu-bà-di đa văn, thông suốt cổ kim ở trong đại chúng, thật là bậc nhất.

Ðó là, Tỳ-kheo, có bốn người này ở trong đại chúng thật là bậc nhất.

Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ này:

Dõng mãnh không chỗ sợ,
Ða văn hay thuyết pháp,
Trong chúng là sư tử,
Năng trừ pháp khiếp nhược.
Tỳ-kheo thành tựu giới,
Tỳ-kheo-ni đa văn,
Ưu-bà-tắc vững tín,
Ưu-bà-di cũng thế.
Trong chúng là đệ nhất,
Nếu hay hòa thuận chúng,
Muốn biết được nghĩa là,
Như lúc trời mới mọc.

Thế nên, này các Tỳ-kheo! Hãy học thông suốt cổ kim, thành tựu mọi pháp. Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

8. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Có bốn loại kim sí điểu. Thế nào là bốn? Kim sí điểu sanh bằng trứng, kim sí điểu sanh bằng thai, kim sí điểu do thấp sanh, kim sí điểu do hóa sanh. Ðó là bốn loài kim sí điểu.

Cũng thế, Tỳ-kheo! Có bốn loại rồng. Thế nào là bốn? Có rồng sanh bằng trứng, có rồng sanh bằng thai, có rồng do thấp sanh và có rồng do hóa sanh. Ðó là, Tỳ-kheo! Có bốn loại rồng.

Tỳ-kheo nên biết! Nếu kim sí điểu sanh bằng trứng, lúc muốn ăn thịt rồng, lên trên cây thiết xoa, gieo mình xuống biển. Nước biển đó dọc ngang hai mươi tám vạn dặm, dưới đó có bốn loại long cung. Có rồng loại trứng, có rồng loại thai, có rồng thấp sanh, có rồng hóa sanh. Bấy giờ, kim sí điểu sanh bằng trứng dùng cánh lớn quạt nước rẽ hai, bắt rồng loài trứng ăn thịt. Nếu lúc ấy nhằm loài rồng sanh bằng thai thì kim sí điểu sẽ mất mạng. Kim sí điểu quạt nước bắt rồng, lúc nước chưa khép lại, nó đã trở lại cây thiết xoa.

Tỳ-kheo nên biết! Nếu kim sí điểu sanh bằng thai, lúc muốn ăn thịt rồng, lên trên cây thiết xoa gieo mình xuống biển. Nước biển đó ngang dọc hai mươi tám vạn dặm, nó quạt nước, xuống để gặp loại rồng thai sanh. Nếu gặp rồng sanh bằng trứng, cũng có thể bắt đem ra khỏi biển. Nếu nó gặp rồng thấp sanh thì thân chim sẽ chết.

Tỳ-kheo nên biết! Nếu kim sí điểu thấp sanh, lúc muốn ăn thịt rồng lên trên cây thiết xoa, gieo mình xuống biển. Nước biển đó ngang dọc hai mươi tám vạn dặm. Chim ấy nếu được rồng loài trứng, loài thai, thấp sanh đều có thể bắt được. Nếu gặp rồng hóa sanh, thì thân chim sẽ chết.

Này Tỳ-kheo! Nếu kim sí điểu hóa sanh, lúc muốn ăn thịt rồng, lên trên cây thiết xoa gieo mình xuống biển. Nước biển đó ngang dọc hai mươi tám vạn dặm, nó quạt nước, xuống gặp rồng loài trứng, loài thai, rồng thấp sanh, rồng hóa sanh đều có thể bắt hết. Lúc nước chưa kịp khép lại, nó đã trở lên cây thiết xoa.

Tỳ-kheo nên biết! Nếu như Long vương phụng sự Phật, bấy giờ kim sí điểu không thể ăn nuốt được. Vì sao thế? Như Lai thường hành Tứ đẳng tâm, vì thế nên chim không thể ăn rồng. Thế nào là Tứ đẳng tâm?

Như Lai thường hành tâm từ, hằng hành tâm bi, hằng hành tâm hỉ, hằng hành tâm xả (hộ). Ðó là, này Tỳ-kheo! Như Lai hằng có bốn tâm bình đẳng này; có gân sức lớn, có đại dõng mãnh, không thể ngăn trở, phá hoại. Vì thế kim sí điểu không thể ăn rồng. Vậy nên, các Tỳ-kheo! Hãy hành Tứ đẳng tâm. Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

9. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Nếu lúc Thiện tri thức bố thí, có bốn việc công đức. Thế nào là bốn? Biết lúc bố thí, chẳng phải không biết lúc; tự tay bố thí, chẳng sai người khác; bố thí thường trong sạch chẳng phải không trong sạch; bố thí hết sức vi diệu, không có nhơ đục.

Thiện tri thức khi bố thí có bốn công đức này. Thế nên, này các Tỳ-kheo! Thiện nam, tín nữ khi bố thí nên có đầy đủ bốn công đức này. Vì đủ bốn công đức này sẽ được phước nghiệp lớn, được vị cam lồ tịch diệt. Nhưng phước đức này chẳng thể cân lường. Nói sẽ có phước nghiệp như thế, hư không chẳng thể chứa đựng. Ví như nước biển chẳng thể đo lường mà nói một hộc, nửa hộc, một lẻ, nửa lẻ (mười lẻ: 1 thưng) để gọi số cân. Nhưng phước nghiệp này không thể nêu đủ. Như vậy công đức thiện nam, tín nữ tạo được không thể kể tính; được phước nghiệp lớn, được cam lồ diệt, nên nói sẽ có phước đức như thế. Thế nên, các Tỳ-kheo! Thiện nam, tín nữ sẽ đầy đủ bốn công đức này. Như vậy, các Tỳ-kheo, hãy học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

10. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Nay có bốn loại người đáng kính, đáng quý, là phước điền của đời. Thế nào là bốn? Nghĩa là gìn giữ lòng tin, vâng theo giáo pháp, tự thân chứng và thấy được đến nơi.

Thế nào gọi là người gìn giữ lòng tin? Hoặc có một người chịu người dạy dỗ, dốc một lòng tin, ý không nghi nan. Có lòng tin đối với Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Họ cũng tin lời Như Lai, cũng tin lời Phạm chí; hằng tin lời những vị ấy, không chấp giữ trí mình. Ðó gọi là người giữ gìn lòng tin.

Thế nào gọi là người tự vâng theo giáo pháp? Ở đây có người phân biệt pháp, không tin người khác, quán sát pháp là có hay không, là thực hay hư. Người ấy liền nghĩ: ‘Ðây là lời Như Lai. Ðây là lời Phạm chí’. Vì biết đây là pháp ngữ của Như Lai, người ấy liền phụng trì, còn các lời ngoại đạo thì xa lìa. Ðó gọi là người vâng theo giáo pháp.

Thế nào gọi là người thân chứng? Ở đây, có người thân tự tác chứng, họ cũng chẳng tin người khác, cũng chẳng tin lời Như Lai. Họ cũng chẳng tin các ngôn giáo của các bậc tôn túc nói, chỉ theo tánh mình mà đi. Ðó gọi là người thân chứng.

Thế nào gọi là người thấy đến nơi? Ở đây, có người đoạn ba kiết sử, thành tựu pháp Tu-đà-hoàn, chẳng thối chuyển. Người ấy có được cái thấy rằng có bố thí, có người nhận, có quả báo thiện ác, có đời này, đời sau, có cha, có mẹ, có A-la-hán… Người ấy thọ giáo, thân tín, tác chứng mà tự du hóa. Ðó gọi là người thấy đến nơi.

Ðó là, này Tỳ-kheo! Có bốn người này. Hãy nhớ trừ bỏ ba người trên. Nhớ tu pháp thân chứng. Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

XXVIII. Phẩm Thanh văn

1. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở thành La-duyệt, vườn trúc Ca-lan-đà cùng năm trăm đại chúng Tỳ-kheo.

Bấy giờ, có bốn vị Ðại Thanh văn đang họp chung một nơi, bàn nhau: ‘Chúng ta cùng xem thử trong thành La-duyệt này, có ai không tạo công đức, cúng dường Phật, Pháp và Chúng Tăng. Chúng ta hãy đến người không tin ấy khiến họ tin Như Lai, Pháp và Tăng’.

Ðó là các Tôn giả Mục-kiền-liên, Tôn giả Ca-diếp, Tôn giả A-na-luật và Tôn giả Tân-đầu-lô.

Bấy giờ có trưởng giả tên là Bạt-đề, nhiều tiền lắm của, không thể tính kể: vàng, trân bảo, xa cừ, mã não, trân châu, hổ phách, voi, ngựa, xe cộ, nô tỳ, đầy tớ, đều đầy đủ, nhưng lại xan tham không chịu bố thí; không có một chút thiện cảm đối với Phật, Pháp, Tăng, không hề tin tưởng, nên ông ta đã hết phước lại chẳng tạo phước mới. Ông hằng ôm tà kiến cho là không thí, không phước, cũng không có người thọ, cũng không quả báo thiện ác đời này, đời sau, cũng không có cha mẹ và người đắc A-la-hán, cũng lại không có người thủ chứng.

Nhà trưởng giả ấy có bảy lớp cửa, mỗi cửa đều có người giữ, không để cho ăn mày đến cửa. Ông lại lấy lồng sắt vây chụp trong sân sợ chim bay đến trong sân.

Trưởng giả có người chị tên là Nan-đà cũng xan tham không chịu bố thí, không trồng cội công đức, đã hết phước cũ mà không tạo thêm phước mới. Bà cũng ôm tà kiến cho là không thí, không phước cũng không người thọ, cũng không có quả báo thiện ác đời này, đời sau, cũng không cha mẹ, không người đắc A-la-hán, cũng không có người thủ chứng. Cửa nhà Nan-đà cũng có bảy lớp, cũng có người giữ cửa chẳng để người đến xin ăn. Bà cũng lại lấy lồng sắt chụp lên sân, không cho chim bay vào nhà.

Các Tôn giả bàn với nhau: ‘Chúng ta hôm nay có thể khiến cho Nan-đà dốc lòng tin Phật, Pháp, Tăng’.

Bấy giờ, sáng sớm trưởng giả Bạt-đề ngồi ăn bánh. Tôn giả A-na-luật đến giờ, đắp y ôm bát từ dưới đất nhà trưởng giả đứng lên, đưa bát cho trưởng giả. Trưởng giả hết sức sầu lo, đưa một chút bánh cho A-na-luật. Ngài A-na-luật được bánh rồi liền trở về chỗ mình. Trưởng giả nổi cơn giận dữ bảo các người gác cửa:

– Ta ra lệnh không cho người vào cửa. Tại sao lại cho người vào?

Người gác cửa đáp:

– Cửa nẻo chắc chắn, không biết Ðạo sĩ này từ đâu đến.

Trưởng giả im lặng không nói. Ăn bánh xong, trưởng giả lại ăn tiếp thịt, cá. Tôn giả Ðại Ca-diếp đắp y ôm bát đến nhà trưởng giả, từ dưới đất đứng lên, đưa bát về phía trưởng giả. Trưởng giả hết sức buồn bực, đem một chút thịt cá cho ngài. Ngài Ca-diếp được thịt liền biến mất, trở về chỗ mình. Trưởng giả càng thêm sân giận, bảo người gác cửa.

– Trước ta đã ra lệnh không cho người vào nhà. Cớ sao lại để hai Sa-môn vào nhà khất thực?

Người gác cửa đáp:

– Chúng tôi không thấy Sa-môn này vào từ đâu!

Trưởng giả nói:

– Sa-môn trọc đầu này khéo dùng huyễn thuật cuống hoặc người đời, chẳng có hạnh chân chánh.

Bấy giờ vợ trưởng giả ngồi cách đó không xa. Người vợ này là em của trưởng giả Chất-đa, được cưới từ núi Ma-sư về. Người vợ bảo trưởng giả:

– Nên giữ miệng mồm. Chớ nói rằng Sa-môn học huyễn thuật. Vì sao? Các Sa-môn này có đại oai thần. Sở dĩ họ đến nhà trưởng giả là có nhiều ích lợi cho Ông. Trưởng giả! Ông có biết vị Tỳ-kheo đến trước chăng?

Trưởng giả đáp:

– Tôi không biết.

Người vợ nói:

– Trưởng giả có nghe con trai vua Hộc Tịnh nước Ca-tỳ-la-vệ tên A-na-luật, ngay khi sanh, mặt đất chấn động sáu lần. Chung quanh nhà trong một do tuần, các kho tàng tự nhiên hiện ra chăng?

Trưởng giả đáp:

– Tôi nghe có A-na-luật nhưng không thấy.

Người vợ bảo trưởng giả:

– Vị hào tộc này đã bỏ nhà xuất gia học đạo, tu Phạm hạnh, đắc đạo A-la-hán, là vị thiên nhãn đệ nhất không ai hơn được. Và Như Lai cũng nói: ‘Trong hàng đệ tử của Ta, thiên nhãn bậc nhất là Tỳ-kheo A-na-luật’. Kế đó, Ông có biết vị Tỳ-kheo thứ hai vào đây khất thực chăng?

Trưởng giả đáp:

– Tôi không biết.

Người vợ nói:

– Trưởng giả có nghe trong thành La-duyệt này có đại Phạm chí tên Ca-tỳ-la, lắm tiền nhiều của không thể tính kể, có chín trăm chín mươi chín trâu cày ruộng không?

Trưởng giả đáp:

– Tôi có thấy Phạm chí này.

Người vợ nói:

– Trưởng giả! Ông có nghe con của Phạm chí này tên là Tỷ-ba-la-da-đàn-na, thân màu vàng, vợ tên là Bà-đà, là vị thù thắng trong hàng nữ lưu. Nếu đem vàng tử ma đến trước cô ấy thì như đem đen mà so với trắng không?

Trưởng giả đáp:

– Tôi nghe Phạm chí này có con tên là Tỷ-ba-la-da-đàn-na, nhưng không thấy.

Người vợ nói:

– Chính là vị Tỳ-kheo đến sau vừa rồi đó. Ông ta đã bỏ báu ngọc nữ này, xuất gia học đạo, nay đắc A-la-hán, hằng hành hạnh đầu đà. Người có đầy đủ các pháp theo hạnh đầu đà không ai hơn Tôn giả Ca-diếp. Thế Tôn cũng nói: ‘Trong hàng đệ tử của Ta, Tỳ-kheo hành đầu đà đệ nhất là Ðại Ca-diếp’.

Nay Trưởng giả chóng được lợi lành, mới khiến các vị Hiền Thánh đến đây khất thực. Tôi đã quán nghĩa này nên nói Ông khéo giữ miệng, chớ phỉ báng bậc Hiền Thánh, bảo họ là tạo huyễn thuật. Ðệ tử của đức Thích-ca đều có thần đức, nên tôi nói lời này.

Bấy giờ, Tôn giả Mục-kiền-liên đắp y ôm bát bay lên hư không đến nhà trưởng giả phá lồng sắt sụp xuống, rồi ngồi kiết-già trong hư không. Trưởng giả Bạt-đề thấy Tôn giả Mục-kiền-liên ngồi trong hư không liền sợ hãi nói:

– Ngài là Trời chăng?

Tôn giả Mục-kiền-liên đáp:

– Tôi không phải là Trời.

Trưởng giả hỏi:

– Ngài là Càn-thát-bà chăng?

Tôn giả Mục-kiền-liên đáp:

– Tôi không phải là Càn-thát-bà.

Trưởng giả hỏi:

– Ông là quỷ chăng?

Tôn giả Mục-kiền-liên đáp.

– Tôi không phải quỷ.

Trưởng giả hỏi:

– Ông là quỷ La-sát ăn thịt người chăng?

Tôn giả Mục-kiền-liên nói:

– Tôi cũng chẳng phải quỷ La-sát ăn thịt người.

Trưởng giả Bạt-đề liền nói kệ:

Là Trời, Càn-thát-bà
La-sát, quỷ thần chăng?
Lại nói không phải trời,
Hay La-sát, quỷ thần,
Chẳng giống Càn-thát-bà,
Du hành trong khu vực,
Vậy Ông tên là gì?
Nay tôi muốn được biết.

Bấy giờ Tôn giả Mục-kiền-liên dùng kệ đáp:

Chẳng Trời, Càn-thát-bà,
Chẳng loài quỷ La-sát,
Ba đời được giải thoát,
Nay ta là thân người.
Có thể hàng phục ma,
Thành tựu đạo Vô thượng,
Thầy ta tên Thích-ca,
Ta tên Mục-kiền-liên.

Trưởng giả Bạt-đề nói với Tôn giả Mục-kiền-liên rằng:

– Tỳ-kheo có điều gì dạy bảo tôi?

Tôn giả Mục-kiền-liên đáp:

– Nay ta muốn thuyết pháp cho Ông, hãy khéo nghĩ nhớ!

Tôn giả lại nghĩ: ‘Các Ðạo sĩ này suốt đời để ý uống ăn. Nay muốn luận bàn, chính là luận bàn về ăn uống. Nếu theo ta đòi ăn, ta sẽ nói ‘không!’. Rồi ông lại nghĩ: ‘Nay ta hãy nghe người này nói ít nhiều’.

Bấy giờ Tôn giả Mục-kiền-liên biết tâm niệm của trưởng giả, liền nói kệ:

Như Lai thuyết hai thí,
Pháp thí và tài thí,
Nay sẽ thuyết pháp thí,
Chuyên tâm nhất ý nghe!

Trưởng giả nghe thuyết pháp thí, trong lòng hoan hỉ và thưa với Tôn giả Mục-liên:

– Mong Ngài diễn thuyết cho, tôi nghe rồi sẽ biết.

Tôn giả Mục-liên nói:

– Trưởng giả nên biết! Như Lai thuyết năm đại thí, nên nhớ tu hành suốt đời.

Trưởng giả lại nghĩ: ‘Vừa rồi Tôn giả Mục-liên muốn thuyết pháp thí. Nay lại nói có năm đại thí’.

Tôn giả Mục-liên biết tâm trưởng giả, nên lại nói với trưởng giả:

– Như Lai nói có hai đại thí là pháp thí và tài thí. Nay tôi sẽ thuyết pháp thí, không thuyết tài thí.

Trưởng giả nói:

– Cái gì là năm đại thí?

Tôn giả Mục-liên đáp:

– Không được sát sanh, đây gọi là đại thí, trưởng giả nên suốt đời tu hành. Không trộm cắp, đây gọi là đại thí, nên suốt đời tu hành. Không dâm, không nói dối, không uống rượu, nên suốt đời tu hành.

Ðó là, này Trưởng giả, năm đại thí, nên nhớ tu hành.

Trưởng giả Bạt-đề nghe lời này rồi, hết sức hoan hỉ, nghĩ: ‘Phật Thích-ca-văn thuyết pháp rất vi diệu. Nay chỗ diễn thuyết chẳng cần đến bảo vật. Như ngày nay, ta chẳng kham sát sanh. Ðiều này ta có thể vâng làm được. Hơn nữa, của cải nhà ta rất nhiều, ta trọn không trộm cắp. Ðây cũng là việc ta làm. Lại, đàn bà trong nhà ta rất đẹp, ta trọn chẳng dâm vợ người khác. Ðó là việc ta làm. Lại, ta không ưa người nói láo, huống là chính mình nói láo. Ðây cũng là việc ta làm. Như ngày nay, ta chẳng nghĩ đến rượu, huống là nếm nó. Ðây cũng là việc ta làm’. Trưởng giả liền thưa với Tôn giả Mục-liên:

– Năm thí này tôi có thể vâng làm.

Bấy giờ, trưởng giả thầm nghĩ: ‘Nay ta nên mời Tôn giả Mục-liên ăn cơm’. Trưởng giả liền ngẩng đầu lên và thưa với Tôn giả Mục-liên:

– Ngài nên hạ cố xuống đây ngồi.

Tôn giả Mục-liên theo lời, xuống ngồi.

Trưởng giả Bạt-đề tự mình dọn các món ăn uống cho Tôn giả Mục-liên, Tôn giả Mục-liên ăn xong, uống nước. Trưởng giả nghĩ: ‘Ta nên đem một tấm dạ dâng ngài Mục-liên’. Rồi ông vào kho chọn một tấm dạ trắng, muốn lựa cái xấu mà vớ nhằm tấm tốt. Ông lại bỏ ra, lựa tấm khác, cũng tốt luôn, ông lại bỏ để chọn tấm khác.

Tôn giả Mục-liên biết tâm niệm trưởng giả, liền nói kệ:

Thí cùng tâm đấu tranh,
Phước này bậc Hiền bỏ,
Lúc cho, không đấu tranh,
Mới nên tùy tâm cho.

Bấy giờ, trưởng giả liền nghĩ: ‘Nay Tôn giả Mục-liên biết ý ta’. Ông liền cầm tấm dạ trắng dâng lên Tôn giả Mục-liên. Tôn giả Mục-liên chú nguyện cho:

Quán sát thí đệ nhất,
Biết có người Hiền Thánh,
Trong thí là tối thượng
Ruộng lành sanh hoa trái.

Tôn giả Mục-liên chú nguyện xong, nhận tấm dạ trắng cho trưởng giả được phước vô cùng. Trưởng giả liền ngồi một bên. Tôn giả Mục-liên dần dần thuyết pháp về các diệu luận cho ông. Luận nghĩa là thí luận, giới luận, luận sanh thiên, dục là tưởng bất tịnh, xuất yếu là vui. Chư Phật Thế Tôn thuyết pháp Khổ, Tập, Tận, Ðạo; Tôn giả Mục-liên bèn thuyết hết cho trưởng giả. Ông ở ngay trên tòa được pháp nhãn tịnh. Như áo rất sạch dễ nhuộm màu, trưởng giả Bạt-đề này cũng lại như vậy: Ở ngay trên tòa được pháp nhãn thanh tịnh. Do đắc pháp, kiến pháp, không có hồ nghi mà thọ ngũ giới, ông tự quy y Phật, Pháp và Thánh chúng.

Tôn giả Mục-liên thấy trưởng giả đã được pháp nhãn thanh tịnh, liền nói kệ:

Như Lai chỗ thuyết kinh,
Căn nguyên đều đầy đủ,
Nhãn tịnh, không uế bẩn,
Không nghi, không do dự.

Trưởng giả Bạt-đề thưa với Tôn giả Mục-liên:

– Từ nay về sau, xin Ngài và bốn bộ chúng nhận lời thỉnh của con mãi mãi. Con sẽ cung cấp y phục, thức ăn uống, giường nệm, thuốc men trị bịnh, không có luyến tiếc.

Tôn giả Mục-liên thuyết pháp cho trưởng giả rồi, liền từ chỗ ngồi đứng lên đi. Các đại Tanh văn khác như Tôn giả Ca-diếp, Tôn giả A-na-luật nói với Tôn giả Tân-đầu-lô:

– Chúng tôi đã độ trưởng giả Bạt-đề rồi. Nay Hiền giả hãy đến hàng phục bà già Nan-đà.

Tôn giả Tân-đầu-lô đáp:

– Việc này rất hay.

Bấy giờ bà già Nan-đà đang làm bánh sữa. Tôn giả Tân-đầu-lô đến giờ, đắp y, ôm bát vào thành La duyệt để khất thực, dần dần đến nhà bà già Nan-đà. Tôn giả từ dưới đất vọt lên, đưa tay cầm bát cho bà già Nan-đà để khất thực. Bà già thấy Tôn giả Tân-đầu-lô, hết sức giận dữ nói ác:

– Tỳ-kheo nên biết! Dù Ông lọt mắt ra, ta trọn không cho Ông thức ăn.

Tôn giả Tân-đầu-lô liền nhập tam-muội cho hai mắt lọt ra ngoài. Bà già Nan-đà càng thêm sân giận, nói ác:

– Dù cho Sa-môn treo ngược trên không, ta trọn chẳng cho Ông ăn.

Tôn giả Tân-đầu-lô lại dùng sức tam-muội treo ngược trên không trung.

Bà già Nan-đà càng tức giận bội phần liền nói ác:

– Dù cho Sa-môn toàn thân phun ra khói, ta trọn chẳng cho Ông ăn.

Tôn giả Tân-đầu-lô lại dùng sức tam-muội toàn thân phun khói. Bà già thấy rồi, sân nộ càng nhiều và nói:

– Dù cho Sa-môn toàn thân bốc cháy, ta trọn chẳng cho Ông ăn.

Tôn giả Tân-đầu-lô liền dùng sức tam-muội, khiến thân thể bốc cháy. Bà già thấy rồi lại nói:

– Dù cho Sa-môn toàn thân ra nước, ta trọn chẳng cho Ông ăn.

Tôn giả Tân-đầu-lô liền lại dùng sức tam-muội khiến toàn thân ra nước. Bà già thấy rồi lại nói:

– Dù cho Sa-môn chết ở trước mặt ta, ta trọn chẳng cho Ông ăn.

Tôn giả Tân-đầu-lô liền nhập Diệt tận định, không còn hơi thở ra vào, chết trước mặt bà già. Bà già thấy Tôn giả ngưng hơi thở thì sợ hãi, lông áo dựng ngược và nghĩ: ‘Sa-môn này là con dòng họ Thích, được nhiều người biết, Quốc vương cung kính. Nếu họ biết ông ta chết ở nhà mình, chắc chắn sợ ta không tránh khỏi gặp việc quan’.

Bà bèn nói:

– Sa-môn sống lại đi! Ta sẽ cho Sa-môn ăn.

Tôn giả Tân-đầu-lô liền từ tam-muội dậy. Bà già bèn nghĩ: ‘Bánh này lớn quá, hãy làm cái nhỏ cho Ông ta’. Bà lấy một chút bột làm bánh, bánh bèn phồng to. Bà già thấy xong lại nghĩ: ‘Bánh này lớn quá nên làm cái nhỏ nữa’. Nhưng bánh lại lớn. ‘Hãy lấy cái bánh làm trước đem cho’. Bà liền lấy cái trước. Nhưng các cái bánh lại dính vào nhau. Bà Nan-đà bảo Tôn giả Tân-đầu-lô:

– Tỳ-kheo! Ông cần ăn thì tự lấy mà ăn. Cớ sao làm phiền nhiễu nhau thế.

Tôn giả Tân-đầu-lô đáp:

– Thí chủ nên biết, tôi chẳng cần ăn. Chỉ cần muốn nói với thí chủ.

Bà già Nan-đà nói:

– Tỳ-kheo muốn răn dạy gì?

Ngài Tân-đầu-lô nói:

– Thí chủ nên biết! Nay ta đem bánh đến chỗ Thế Tôn. Nếu Thế Tôn có dạy bảo gì, chúng ta sẽ cùng vâng làm.

Bà già Nan-đà đáp:

– Việc này rất phù hợp.

Bà già tự bưng bánh này theo sau Tôn giả Tân-đầu-lô, đến chỗ Thế Tôn, đến rồi cúi lạy Phật và đứng một bên. Bấy giờ, Tôn giả Tân-đầu-lô Bạch Thế Tôn:

– Bà Nan-đà này là chị của trưởng giả Bạt-đề, tham lam, ăn một mình chẳng chịu bố thí cho người. Cúi mong Thế Tôn thuyết pháp cho bà dốc lòng tin và cởi mở.

Bấy giờ Thế Tôn bảo Bà già Nan-đà:

– Nay Bà hãy đưa bánh thí cho Như Lai và Tỳ-kheo Tăng.

Bà già Nan-đà lấy bánh dâng lên Thế Tôn và Tỳ-kheo Tăng khác. Bánh vẫn còn dư. Bà Nan-đà bạch Thế Tôn:

– Bánh còn dư.

Thế Tôn bảo:

– Lại đem cho Phật và Tỳ-kheo Tăng.

Bà già Nan-đà nhận lời Phật dạy, lại đem bánh này cúng Phật và Tỳ-kheo Tăng. Sau đó lại còn dư bánh, Thế Tôn bảo bà già Nan-đà.

– Nay Bà đem bánh này cho chúng Tỳ-kheo-ni, chúng Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di.

Nhưng vẫn còn dư bánh, Thế Tôn bảo:

– Nên đem bánh này thí cho người bần cùng.

Nhưng vẫn còn dư bánh. Thế Tôn bảo:

– Hãy đem bánh này bỏ nơi đất sạch hoặc để vào nước thật sạch. Vì sao thế? Ta trọn không thấy Sa-môn, Bà-la-môn, Trời và người nào có thể tiêu được bánh này, trừ Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác.

Bà già Nan-đà đáp:

– Xin vâng, Thế Tôn!

Bà Nan-đà liền đem bánh này bỏ vào nước sạch, tức thời lửa bùng lên. Bà già Nan-đà thấy xong, ôm lòng sợ hãi đi đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy Phật rồi ngồi một bên. Thế Tôn dần dần thuyết pháp cho Bà. Các luận nghĩa là thí luận, giới luận, luận sanh Thiên, dục là tưởng bất tịnh, lậu là ô uế, xuất yếu là vui. Ngài đã thấy Bà già Nan-đà tâm khai ý mở. Chư Phật thường thuyết pháp Khổ, Tập, Tận, Ðạo. Thế Tôn đều thuyết hết cho Bà già Nan-đà. Khi ấy, Bà già Nan-đà ngay nơi chỗ ngồi được pháp nhãn thanh tịnh. Ví như vải trắng dễ nhuộm màu, đây cũng như thế: Bà già Nan-đà hết các trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh. Bà đã đắc pháp, thành tựu pháp, không có hồ nghi, đã hết do dự, được không chỗ sợ, phụng sự Tam Bảo, thọ trì ngũ giới.

Bấy giờ Thế Tôn lại thuyết pháp thêm khiến bà phát tâm hoan hỉ. Bà già Nan-đà bạch Thế Tôn:

– Từ nay về sau, bốn bộ chúng hãy đến nhà con thọ thí. Từ nay trở đi, con hằng thường bố thí, tu các công đức phụng thờ các bậc Hiền Thánh.

Thưa xong, bà đứng lên cúi lạy Phật và lui đi.

Trưởng giả Bạt-đề và Bà già Nan-đà có em tên là trưởng giả Ưu-bà-ca-ni là người mà vua A-xà-thế lúc trẻ rất yêu mến. Bấy giờ, trưởng giả Ưu-bà-ca-ni kinh doanh ruộng nương, nghe anh là Bạt-đề và chị là Nan-đà được Như Lai giáo hóa. Nghe xong, ông vui mừng hớn hở không kềm được, trong suốt bảy ngày không ngủ nghỉ, cũng không ăn uống. Trưởng giả làm ruộng xong trở về thành La-duyệt, giữa đường nghĩ: ‘Nay ta hãy đến chỗ Thế Tôn trước, rồi về nhà sau’. Trưởng giả đến chỗ Thế Tôn cúi lạy rồi ngồi xuống một bên. Trưởng giả bạch Thế Tôn:

– Anh Bạt-đề và chị Nan-đà của con đã được Như Lai thuyết pháp giáo hóa phải chăng?

Thế Tôn đáp:

– Ðúng thế, nay trưởng giả Bạt-đề và Nan-đà đã thấy pháp Tứ đế, tu các pháp lành.

Trưởng giả Ưu-bà-ca-ni bạch Thế Tôn:

– Gia đình chúng con được lợi rất lớn.

Thế Tôn bảo:

– Ðúng vậy, Trưởng giả, như lời Ông nói. Nay cha mẹ Ông được lợi rất lớn, trồng phước đời sau.

Bấy giờ Thế Tôn thuyết pháp vi diệu cho trưởng giả. Trưởng giả nghe pháp xong, đảnh lễ lui đi. Ông đến chỗ vua A-xà-thế, ngồi xuống một bên. Vua hỏi trưởng giả:

– Có phải anh chị của Ông được Như Lai giáo hóa không?

– Ðúng vậy, Ðại vương!

Vua nghe lời này, vui mừng hớn hở không kềm được, liền đánh chuông trống ra lệnh trong thành: ‘Từ nay về sau, nhà nào không thờ Phật sẽ bị nộp tiền, và phải đón rước và tiễn đưa những người thờ Phật. Vì sao thế? Vì đây đều là huynh đệ trong đạo pháp của ta’.

Bấy giờ vua A-xà-thế bày các thức ăn uống ban cho trưởng giả. Trưởng giả nghĩ: ‘Ta trọn không nghe Thế Tôn thuyết pháp Ưu-bà-tắc nên nhận thức ăn loại nào, nên uống nước loại nào. Nay ta nên đến chỗ Thế Tôn, trước hỏi nghĩa này, sau sẽ ăn’. Trưởng giả liền bảo một người thân cận:

– Ông đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy, đem lời ta bạch Thế Tôn: ‘Trưởng giả Ưu-bà-ca-ni bạch Thế Tôn: phàm pháp Hiền giả nên trì mấy giới, lại phạm mấy giới thì chẳng phải là cư sĩ nam? Nên ăn loại thức ăn nào? Uống loại nước nào?

Người đó nhận lời dạy của trưởng giả, đến chỗ Thế Tôn cúi lạy Phật rồi đứng một bên. Người đó đem tên trưởng giả bạch Thế Tôn:

– Phàm pháp cư sĩ nam nên giữ mấy giới? Phạm mấy giới thì chẳng phải Ưu-bà-tắc? Lại nên ăn loại thức ăn nào? Uống loại nước nào?

Thế Tôn bảo:

– Nay Ông nên biết! Ăn có hai loại: có thể thân cận và không thể thân cận. Thế nào là hai? Nếu thân cận lúc ăn, khởi pháp bất thiện, pháp lành bị tổn giam. Thức ăn này không thể thân cận. Nếu lúc được ăn, pháp lành tăng thêm, pháp bất thiện tôn giảm. Thức ăn này có thể thân cận.

Nước cũng có hai việc. Nếu lúc được uống, khởi pháp bất thiện, pháp lành bị tổn giảm. Ðây chẳng thể thân cận. Nếu lúc được uống, pháp bất thiện tổn giảm, pháp lành có tăng trưởng. Ðây có thể thân cận.

Phàm pháp cư sĩ, hạn chế có năm giới. Trong đó có thể giữ một giới, hai giới, ba giới, bốn giới cho đến năm giới, đều nên gìn giữ. Phải hỏi hai ba phen, người có thể gìn giữ được mới cho gìn giữ. Nếu cư sĩ nam phạm một giới rồi thì thân hoại mạng chung, đọa trong địa ngục. Nếu người cư sĩ lại vâng giữ một giới thì sanh vào cõi lành, lên trời, hà huống hai, ba, bốn năm.

Người kia nhận lời Phật dạy rồi, đảnh lễ lui đi. Khi người ấy đi cách đó không xa. Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Từ nay về sau, Tỳ-kheo được phép truyền ngũ giới và tam quy cho Ưu-bà-tắc. Nếu Tỳ-kheo lúc muốn truyền giới cho cư sĩ nữ, dạy họ để lộ cánh tay, vòng tay, chắp ngón tay, dạy xưng tên họ, quy y Phật, Pháp, Thánh chúng ba phen. Ðã dạy xưng tên họ quy y Phật, Pháp, Thánh chúng, rồi lạy tự xưng: ‘Nay con quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tỳ-kheo Tăng, Như Phật Thích-ca-văn đầu tiên có năm trăm khách buôn thọ tam tự quy, suốt đời không giết, không trộm, không dâm, không dối, không uống rượu’. Như trì một giới còn dư bốn giới; nếu thọ hai giới còn dư ba giới; nếu thọ ba giới còn dư hai giới; nếu thọ bốn giới còn dư một giới. Nếu thọ năm giới sẽ là người trì đầy đủ.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

2. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Nay mặt trời, mặt trăng có bốn thứ che lấp nặng nề khiến không phóng được ánh sáng. Bốn loại nào? Mây, gió bụi, khói và A-tu-la, khiến mặt trời, mặt trăng bị che không phóng ánh sáng được. Ðó là, này Tỳ-kheo, mặt trời, mặt trăng có bốn thứ che đậy, khiến mặt trời, mặt trăng không phóng ánh sáng lớn được. Ðây cũng như thế, Tỳ-kheo có bốn kết che đậy tâm người không được cởi mở. Thế nào là bốn? Dục kết che đậy tâm người không được khai mở, sân nhuế, ngu si và lợi dưỡng che đậy tâm người không khai mở được.

Ðó là, này Tỳ-kheo, có bốn kết che đậy tâm người không khai mở được. Hãy cầu phương tiện diệt bốn kết này. Như thế, các Tỳ-kheo, nên học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

3. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở bên cạnh đền thờ A-la-tỳ. Bấy giờ trời rất lạnh lẽo, cây cối trơ trụi.

Khi ấy, con của trưởng giả Thủ-a-la-bà ra khỏi thành ấy, đi dọc theo bên ngoài, dần đến chỗ Thế Tôn, đến rồi cúi lạy và ngồi xuống một bên. Con trưởng giả bạch Thế Tôn:

– Chẳng rõ hôm rồi Ngài ngủ ngon chăng?

Thế Tôn đáp:

– Ðúng vậy, Chàng trai. Ta ngủ ngon lắm.

Con của trưởng giả bạch Phật:

– Nay là ngày rất lạnh, vạn vật trơ trụi. Thế Tôn lại ngồi đệm cỏ, mặc y áo quá mỏng manh. Thế sao Thế Tôn nói: ‘Ta ngủ ngon lắm’.

Thế Tôn bảo:

– Chàng trai lắng nghe! Nay Ta hỏi lại, hãy theo đó mà trả lời! Ví như nhà trưởng giả chắc chắn, phòng nhà không có gió bụi. Trong nhà đó, có giường nệm, mền, mùng, chiếu, gối đầy đủ mọi thứ. Có bốn ngọc nữ nhan sắc đoan chánh, mặt như hoa đào, hiếm có ở đời, nhìn không chán mắt, đèn đốt sáng sủa. Vậy trưởng giả ấy có ngủ ngon được chăng?

Con của trưởng giả đáp:

– Ðúng thế, Thế Tôn! Có giường nằm tốt thì ngủ rất ngon.

Thế Tôn bảo:

– Thế nào, Chàng trai? Nếu người ngủ được ngon giấc rồi nổi dục ý. Do dục ý này có mất ngủ chăng?

Con của trưởng giả đáp:

– Ðúng vậy, Thế Tôn! Nếu người kia dục ý nổi lên, liền không ngủ được.

Thế Tôn bảo:

– Như người kia dục ý mạnh. Nay Như Lai đã dứt hẳn không sót, không còn gốc rễ, chẳng còn hưng khởi nữa. Thế nào, Chàng trai, nếu có tâm sân giận, ngu si nổi lên, há ngủ ngon được sao?

Chàng trai đáp:

– Không ngủ ngon được. Vì sao thế? Do tâm có ba độc vậy.

Thế Tôn bảo:

– Như Lai hôm nay không còn tâm này, dứt hẳn không sót, cũng không gốc rễ. Chàng trai nên biết! Nay Ta sẽ nói về bốn loại tòa. Thế nào là bốn? Có tòa thấp hèn, có tòa của Thiên, tòa của Phạm thiên và tòa của Phật. Chàng trai nên biết! Tòa thấp là tòa của Chuyển luân Thánh vương. Tòa Thiên là tòa Thích-đề-hoàn nhân. Tòa Phạm thiên là tòa của Phạm thiên vương. Tòa Phật là tòa Tứ đế.

Toà thấp là tòa hướng Tu-đà-hoàn. Tòa Thiên là tòa đắc Tu-đà-hoàn. Tòa Phạm thiên là tòa hướng Tư-đà-hàm. Tòa Phật là tòa Tứ ý chỉ.

Tòa thấp là tòa đắc Tư-đà-hàm. Tòa Thiên là tòa hướng A-na-hàm. Tòa Phạm thiên là tòa đắc quả A-na-hàm. Tòa Phật là tòa Tứ đẳng.

Tòa thấp là tòa Dục giới. Tòa Thiên là tòa Sắc giới. Tòa Phạm thiên là tòa Vô sắc giới. Tòa Phật là tòa Tứ thần túc.

Thế nên, này Chàng trai! Như Lai đã ngồi tòa Tứ thần túc, chóng được ngủ ngon. Trong đó không khởi dâm, nộ, si. Ðã chẳng khởi tâm ba độc này, liền ở Vô dư Niết-bàn mà Bát-niết-bàn. Sanh tử đã dứt, Phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không còn tái sanh nữa, như thực mà biết. Thế nên Chàng trai! Ta quán nghĩa này xong, nên nói Như Lai chóng được ngủ ngon.

Bấy giờ, con của trưởng giả liền nói kệ:

Gặp nhau ngày rất lâu,
Bát-niết-bàn Phạm chí,
Do nương sức Như Lai,
Rõ ngủ và diệt độ.
Tòa thấp và tòa Thiên,
Tòa Phạm và tòa Phật,
Như Lai đều phân biệt,
Thế nên được ngủ ngon.
Tự quy Nhân Trung Tôn.
Cũng quy Nhân Trung Thượng,
Nay con chưa thể biết,
Là nương những Thiền nào?

Con của trưởng giả nói lời xong, Thế Tôn im lặng bằng lòng. Con của trưởng giả liền nghĩ: ‘Thế Tôn đã hứa khả. Ta vui mừng hết sức, không kềm được’, liền từ chỗ ngồi đứng lên, cúi lạy Phật mà lui đi.

Bấy giờ chàng trai ấy nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

4. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở thành La-duyệt, trong núi Kỳ-xà-quật cùng năm trăm đại chúng Tỳ-kheo. Khi ấy Thế Tôn từ tịnh thất đứng lên, đi xuống núi Linh Thứu, cùng Phạm chí Lộc Ðầu, dần dần du hành đến bãi tha ma đáng sợ.

Bấy giờ, Thế Tôn cầm một đầu lâu người chết trao cho Phạm chí và bảo:

– Phạm chí! Nay Ông rõ được tinh tú lại kiêm cả thuốc men, có thể trị lành bịnh chúng sanh. Ông hiểu hết các nẻo, cũng còn có thể biết nhân duyên người chết. Nay Ta hỏi ông: Ðây là đầu lâu người nào? Là đàn ông hay đàn bà? Lại do bịnh gì mà chết?

Lúc ấy, Phạm chí liền cầm đầu lâu, lật qua lật lại quan sát, lấy tay gõ gõ rồi bạch Thế Tôn:

– Ðây là đầu lâu đàn ông, không phải đàn bà.

Thế Tôn bảo:

– Ðúng thế! Phạm chí! Như lời Ông nói. Ðây là đàn ông, chẳng phải đàn bà.

Thế Tôn hỏi:

– Do đâu người này mạng chung?

Phạm chí lại cầm gõ đầu lâu và bạch Thế Tôn:

– Ðây là nhiều bệnh nhóm lại. Trăm đốt xương đau nhức đến chết.

Thế Tôn hỏi:

– Nên dùng cách nào trị?

Phạm chí Lộc Ðầu bạch Phật:

– Nên lấy trái a-lê-lặc hòa chung với mật, rồi uống thì bệnh lành được.

Thế Tôn bảo:

– Lành thay! Như lời ông nói. Nếu người này được uống thuốc ấy thì cũng chưa chết. Ngày nay, người này mạng chung, sanh đến chỗ nào?

Phạm chí nghe xong, lại cầm đầu lâu gõ, bạch Thế Tôn:

– Người này mạng chung đọa trong ba đường ác, không sanh chỗ lành.

Thế Tôn bảo:

– Ðúng vậy, Phạm chí! Như lời Ông nói. Ông ta đọa trong ba đường ác, sanh chỗ chẳng lành.

Bấy giờ, Thế Tôn lại cầm một đầu lâu nữa đưa cho Phạm chí và hỏi:

– Ðây là người nào? Nam hay nữ?

Phạm chí lại lấy tay gõ đầu lâu, bạch Thế Tôn:

– Ðâu lâu này thân đàn bà.

Thế Tôn hỏi:

– Do bệnh tật gì mà chết?

Phạm chí Lộc Ðầu lại lấy tay gõ, rồi bạch Thế Tôn:

– Ðàn bà này mang thai mà chết.

Thế Tôn bảo:

– Ðàn bà này vì sao chết?

Phạm chí bạch Phật:

– Ðàn bà này sanh non tháng nên chết.

Thế Tôn bảo:

– Lành thay, lành thay! Phạm chí! Như lời Ông nói. Bà ta mang thai mà chết lại có cách nào trị?

Phạm chí bạch:

– Như bệnh này cần có bơ, đề hồ tốt uống thì khỏi.

Thế Tôn bảo:

– Ðúng thế, đúng thế! Như lời Ông nói. Nay người đàn bà này đã chết rồi sanh chỗ nào?

Phạm chí bạch Phật:

– Người đàn bà này mạng chung sanh trong súc sanh.

Thế Tôn bảo:

– Lành thay, lành thay! Phạm chí! Như lời Ông nói.

Thế Tôn lại cầm một đầu lâu khác đưa cho Phạm chí và hỏi:

– Nam hay nữ?

Phạm chí lấy tay gõ đầu lâu, bạch Thế Tôn:

– Ðầu lâu này là đàn ông.

Thế Tôn bảo:

– Lành thay, lành thay! Như lời Ông nói. Người này do bịnh tật gì mà chết?

Phạm chí lại lấy tay gõ, bạch Thế Tôn:

– Người này mạng chung vì ăn uống quá độ, lại gặp thổ tả nên chết.

Thế Tôn bảo:

– Bệnh này có cách nào trị?

Phạm chí bạch Phật:

– Nhịn đói ba ngày liền khỏi.

Thế Tôn bảo:

– Lành thay, lành thay! Như lời Ông nói. Người này mạng chung sanh về đâu?

Bấy giờ Phạm chí lấy tay gõ đầu lâu, bạch Thế Tôn:

– Người này mạng chung sanh trong ngạ quỷ. Vì sao thế? Vì nghĩ đến nước.

Thế Tôn bảo:

– Lành thay, lành thay! Như lời Ông nói.

Bấy giờ Thế Tôn lại cầm một đầu lâu khác trao cho Phạm chí và hỏi:

– Nam hay nữ?

Phạm chí lấy tay gõ, bạch Thế Tôn:

– Ðầu lâu này là đàn bà.

Thế Tôn bảo:

– Lành thay, lành thay! Như lời Ông nói, người này bịnh gì mà chết?

Phạm chí lại lấy tay gõ đầu lâu, bạch Thế Tôn:

– Lúc đang sanh thì chết.

Thế Tôn bảo:

– Tại sao đang sanh mà chết.

Phạm chí lấy tay gõ, bạch Thế Tôn:

– Người đàn bà này khí lực suy kiệt và đói quá mà chết.

Thế Tôn bảo:

– Người này mạng chung sanh chỗ nào?

Phạm chí lại lấy tay gõ đầu lâu, bạch Thế Tôn:

– Người này mạng chung sanh trong loài Người.

Thế Tôn bảo:

– Phàm người chết đói mà muốn sanh trong chỗ lành, việc này chẳng đúng; đọa trong ba đường ác thì thích đáng hơn!

Phạm chí lại lấy tay gõ, bạch Thế Tôn:

– Người đàn bà này trì giới đầy đủ mà chết.

Thế Tôn bảo:

– Lành thay, lành thay! Như lời Ông nói. Người đàn bà này cấm giới đầy đủ đến lúc mạng chung. Vì sao thế. Phàm có đàn ông, đàn bà cấm giới hoàn toàn thì lúc mạng chung sẽ đi vào hai đường: hoặc lên Trời hay trong loài Người.

Bấy giờ, Thế Tôn lại cầm một đầu lâu khác đưa cho Phạm chí hỏi:

– Nam hay nữ?

Phạm chí lấy tay gõ, bạch Thế Tôn:

– Ðầu lâu này là đàn ông.

Thế Tôn bảo:

– Lành thay, lành thay! Như lời Ông nói người này bịnh gì mà chết?

Phạm chí lại lấy tay gõ đầu lâu, bạch Thế Tôn:

– Người này không bịnh mà bị người hại chết.

Thế Tôn bảo:

– Lành thay, lành thay! Như lời Ông nói, vị ấy bị người hại mà chết.

Thế Tôn bảo:

– Người này chết sanh về đâu?

Phạm chí lấy tay gõ, bạch Thế Tôn:

– Người này chết sanh trong cõi lành, lên Trời.

Thế Tôn bảo:

– Như lời Ông nói, luận trước, luận sau không hợp nhau.

Phạm chí bạch Phật:

– Vì duyên cớ gì mà không hợp nhau?

Thế Tôn bảo:

– Ðàn ông, đàn bà bị người hại mà chết, đều đọa ba đường ác. Sao Ông lại nói sanh cõi lành, lên Trời?

Phạm chí lại lấy tay gõ đầu lâu, bạch Thế Tôn:

– Người này vâng giữ năm giới kiêm hành thập thiện, nên đến lúc mạng chung sanh chỗ lành, lên Trời.

Thế Tôn bảo:

Thế Tôn bảo:

– Lành thay, lành thay! Như lời Ông nói. Người giữ giới không xúc chạm, sanh chỗ lành, lên Trời.

Thế Tôn lại lập lại:

– Người này giữ mấy giới mà chết?

Bấy giờ, Phạm chí lại chuyên chú một lòng, không nghĩ gì khác. Ông lấy tay gõ đầu lâu, bạch Thế Tôn:

– Trì một giới ư? Không phải. Trì hai, ba, bốn, năm chăng? Không phải. Người này trì pháp bát quan trai mà chết.

Thế Tôn bảo:

– Lành thay, lành thay! Như lời Ông nói. Người này giữ giới bát quan trai mà chết.

Bấy giờ ở phương Ðông, phía Nam núi Phổ Hương có Tỳ-kheo Ưu-đàn-diên nơi Vô dư Niết-bàn mà Bát-niết-bàn. Khi ấy Thế Tôn trong khoảng co duỗi cánh tay, đến lấy đầu lâu của Tỳ-kheo đưa cho Phạm chí và hỏi:

– Nam hay nữ?

Bấy giờ Phạm chí lại lấy tay gõ đầu lâu, bạch Thế Tôn:

– Tôi xem đầu lâu này, nguồn gốc không phải nam cũng không phải nữ. Vì sao thế? Tôi quán đầu lâu này cũng không thấy sanh, cũng không thấy đoạn cũng không thấy xoay vần qua lại. Vì sao thế? Tôi xem tám phương, trên dưới đều không có tăm hơi. Bạch Thế Tôn! Nay tôi chưa rõ đầu lâu này của ai?

Thế Tôn bảo:

– Thôi, thôi! Phạm Chí! Ông trọn không biết là đầu lâu của ai. Ông nên biết rằng: đầu lâu này không đầu không cuối, cũng không sanh tử, cũng không thích ứng ở tám phương, trên dưới. Ðây là Tỳ-kheo Ưu-đà-diên ở phía Nam núi Phổ Hương phương Ðông. Tỳ-kheo nơi Vô dư Niết-bàn mà Bát-niết bàn. Chính vì đầu lâu của bậc A-la-hán.

Bấy giờ Phạm thiên nghe lời này xong, khen chưa từng có, liền bạch Phật:

– Nay tôi xem nhưng con trùng như con kiến này từ chỗ này đến thảy đều biết được. Tiếng tăm của chim thú, tôi có thể phân biệt biết được: đây là con đực, đây là con cái. Nhưng tôi xem vị A-la-hán này trọn không thấy gì, chẳng thấy chỗ đến cũng chẳng thấy chỗ đi. Chánh pháp Như Lai rất là kỳ đặc. Vì sao thế? Gốc của các pháp phát ra từ kim khẩu của Như Lai. Mà A-la-hán phát xuất từ gốc của kinh pháp.

Thế Tôn bảo:

– Ðúng vậy, Phạm chí! Như lời Ông nói. Gốc của các pháp phát xuất từ miệng Như Lai. Ngay cho chư Thiên, người đời, Ma hoặc Ma thiên, trọn không thể biết chỗ đến của A-la-hán.

Bấy giờ, Phạm chí cúi lạy và bạch Thế Tôn:

– Con có thể biết hết chín mươi sáu loại thú hướng, thảy đều biết hết, nhưng chỗ thú hướng của pháp Như Lai, con không thể phân biệt. Cúi mong Thế Tôn cho con được vào đạo.

Thế Tôn bảo:

– Lành thay! Phạm chí! Mau tu Phạm hạnh rồi cũng sẽ không ai biết chỗ thú hướng của ông.

Bấy giờ Phạm chí liền được xuất gia học đạo. Ông ở chỗ vắng vẻ, tư duy đạo thuật và đạt đến mục đích mà vị vọng tộc cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y nhắm đến, sanh tử đã dứt, Phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không còn tái sanh nữa, như thực mà biết. Lúc ấy Phạm chí thành A-la-hán.

Khi ấy Tôn giả Lộc Ðầu bạch Thế Tôn:

– Nay con đã biết pháp tu hành của A-la-hán.

Thế Tôn bảo:

– Ông biết hạnh của A-la-hán thế nào?

Tôn giả Lộc Ðầu bạch Phật:

– Nay có bốn loại giới. Thế nào là bốn? Ðịa giới, thủy giới, hỏa giới và phong giới. Ðó là, bạch Thế Tôn! Có bốn loại giới này. Lúc ấy, người mạng chung thì đất liền tự thuộc đất, nước liền tự thuộc nước, lửa thì tự thuộc lửa, gió thì tự thuộc gió.

Thế Tôn bảo:

– Thế nào Tỳ-kheo, nay có mấy giới?

Tôn giả Lộc Ðầu bạch Phật:

– Kỳ thực, nghĩa của bốn giới có tám giới.

Thế Tôn bảo:

– Thế nào là nghĩa bốn giới có tám giới?

Tôn giả Lộc Ðầu bạch Phật:

– Nay có bốn giới. Thế nào là bốn giới? Ðất, nước, lửa và gió. Ðó là bốn giới. Thế nào là nghĩa có tám giới? Ðịa giới có hai loại: nội địa và ngoại địa. Thế nào gọi là loại nội địa? Tóc, lông, móng, răng, thân thể, da dẻ, gân cốt, tủy não, ruột, bao tử, gan, mật, tỳ thận. Ðó gọi là nội địa. Thế nào là ngoại địa? Có các thứ cứng chắc. Ðây gọi là loại ngoại địa. Ðó là hai loại địa (đất).

Thế nào là thủy chủng? Thủy chủng có hai: nội thủy chủng và ngoại thủy chủng. Nội thủy chủng là đờm dãi, nước mắt, nước tiểu, máu, tủy. Ðó gọi là nội thủy chủng. Các vật mềm ướt bên ngoài, đó gọi là ngoại thủy chủng. Ðây gọi là hai loại thủy (nước).

Thế nào gọi là hỏa chủng? Hỏa chủng có hai: nội hỏa và ngoại hỏa. Thế nào gọi là nội hỏa? Các vật bị ăn, thảy đều tiêu hóa không có dư sót. Ðây gọi là nội hỏa. Thế nào gọi là ngoại hỏa? Các vật chứa nhiệt, vật bên ngoài. Ðây gọi là ngoại hỏa. Ðó là hai loại hỏa (lửa).

Thế nào gọi là phong chủng? Phong chủng có hai: nội phong và ngoại phong. Nội phong nghĩa là gió trong môi, gió mắt, gió đầu, gió hơi thở ra, gió hơi thở vào, gió trong tất cả đốt xương. Ðây gọi là nội phong. Thế nào gọi là ngoại phong? Nghĩa là vật nhẹ nhàng, lay động mau chóng. Ðây gọi là ngoại phong. Ðó là, bạch Thế Tôn có hai loại phong (gió), kỳ thực có bốn mà đếm có tám. Như thế, bạch Thế Tôn! Con xét nghĩa này: con người nếu lúc mạng chung, bốn loại mỗi thứ trở về với gốc của nó.

Thế Tôn bảo:

– Pháp vô thường cũng chẳng cùng hữu thường hợp. Vì sao như thế? Ðịa chủng, có hai, hoặc trong hoặc ngoài. Bấy giờ nội địa chủng là pháp vô thường, là pháp biến đổi. Loại ngoại địa là pháp hằng trụ không biến đổi. Ðó là đất có hai loại chẳng cùng hữu thường, vô thường tương ưng. Ba đại kia cũng lại như thế, không cùng tương ứng với hữu thường, vô thường. Thế nên, Lộc Ðầu! Tuy có tám loại, kỳ thực có bốn. Như thế, Lộc Ðầu, nên học điều này.

Bấy giờ Tôn giả Lộc Ðầu nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

5. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Nay có nghĩa của bốn sự quảng diễn lớn. Thế nào là bốn? Nghĩa là Khế kinh, Luật, A-tỳ-đàm (luận) và Giới. Ðó là bốn.

Tỳ-kheo nên biết! Nếu có Tỳ-kheo từ phương Ðông đến, tụng kinh, trì pháp, vâng hành cấm giới và nói: ‘Tôi hay tụng kinh, trì pháp, vâng hành cấm giới, học rộng nghe nhiều’; thì dù cho Tỳ-kheo đó có nói gì, các Thầy chẳng nên thừa nhận, chớ hết lòng tin. Các Thầy giữ Tỳ-kheo ấy lại, cùng luận nghị, án pháp cùng luận. Thế nào là án pháp cùng luận? Nghĩa là luận về bốn quảng diễn này: Ðó là Khế kinh, Luật, A-tỳ-đàm, và Giới. Các Thầy hướng Tỳ-kheo ấy thuyết Khế kinh, bố hiện luật, phân biệt pháp.

Ngay lúc thuyết Khế kinh, lúc bố hiện luật, phân biệt pháp, nếu người ấy bổ hiện cùng với Khế kinh tương ưng, Luật, Pháp, tương ưng thì hãy thọ trì. Nếu chẳng cùng Khế kinh, Luật, A-tỳ-đàm tương ưng, hãy đáp người ấy rằng: ‘Này Hiền giả nên biết! Ðây chẳng phải lời Như Lai nói. Lời Hiền giả nói chẳng phải gốc của chánh kinh. Vì sao thế? Nay tôi thuyết Khế kinh, Luật, A-tỳ-đàm đều không tương ưng với lời Hiền giả’.

Vì không tương ứng, nên hỏi giới hạnh. Nếu không cùng giới hạnh tương ưng, hãy bảo người ấy: ‘Ðây không phải là tạng của Như Lai’. Và các Thầy nên đuổi người ấy đi. Ðây gọi là căn bản nghĩa lớn của quảng diễn đầu tiên. Lại nữa, Tỳ-kheo! Nếu có Tỳ-kheo từ phương Nam đến nói: ‘Tôi hay tụng kinh, trì pháp, vâng hành giới cấm, học rộng nghe nhiều’; thì dù cho Tỳ-kheo ấy có nói gì, các Thầy chẳng nên thừa nhận, chẳng nên tin hết. Hãy giữ Tỳ-kheo ấy để cùng luận nghị. Ngay cho Tỳ-kheo ấy có nói gì, nếu không cùng với nghĩa tương ưng, hãy đáp người ấy rằng: ‘Ðây là nghĩa thuyết, chẳng phải chánh kinh bổn’.

Bấy giờ nên giữ nghĩa ấy chớ nhận kinh bổn. Vì sao thế? Vì nghĩa là nguồn để hiểu (giải) kinh. Ðó là căn bản nghĩa lớn của quảng diễn thứ hai.

Lại nữa, Tỳ-kheo! Nếu có Tỳ-kheo từ phương Tây lại, tụng kinh, trì pháp, vâng hành cấm giới, học rộng nghe nhiều; thì các Thầy hãy hướng Tỳ-kheo ấy thuyết Khế kinh, Luật, A-tỳ-đàm. Nhưng Tỳ-kheo ấy chính giải vị chẳng giải nghĩa, hãy bảo Tỳ-kheo ấy rằng: ‘Chúng tôi không rõ lời này có phải của Như Lai nói hay không!’. Ngay lúc thuyết Khế kinh, Luật, A-tỳ-đàm, giải vị, không giải nghĩa; tuy nghe Tỳ-kheo ấy nói, các Thầy cũng chẳng nên khen lành, cũng chẳng nên nói ác. Lại đem giới hạnh mà hỏi. Nều cùng tương ưng, hãy tương ưng, còn nghĩa chẳng thể rõ. Ðó là nghĩa của quảng diễn thứ ba.

Lại nữa Tỳ-kheo! Nếu có Tỳ-kheo từ phương Bắc đến, tụng kinh, trì pháp, vâng hành cấm giới (nói): ‘Chư Hiền có nghi nan, liền nên hỏi nghĩa, tôi sẽ nói cho các Thầy’; thì Tỳ-kheo ấy có nói gì, các Thầy chẳng nên thừa nhận, chẳng nên phúng tụng. Nhưng hãy hướng Tỳ-kheo ấy hỏi Khế kinh, Luật, A-tỳ-đàm và Giới. Nếu cùng tương ứng, thì các Thầy nên hỏi nghĩa. Nếu lại cùng nghĩa tương ưng, thì nên khen ngợi Tỳ-kheo ấy: ‘Lành thay! Lành thay! Hiền giả! Ðây thật là lời Như Lai thuyết nghĩa, không lầm lẫn, đều tương ưng với Khế kinh, Luật, A-tỳ-đàm và Giới’.

Hãy dùng pháp cúng dường, phụng sự Tỳ-kheo ấy. Vì sao thế? Vì Như Lai cung kính pháp vậy. Nếu có người cung kính pháp, tức cung kính Ta; ai đã quán pháp này là đã quán Ta. Ðã có pháp thì có Ta. Ðã có pháp thì có Tỳ-kheo Tăng. Có pháp thì có bốn bộ chúng. Có pháp thì có bốn giai cấp ở đời. Vì sao thế? Do có pháp ở đời, trong Hiền kiếp có Ðại Oai Vương ra đời, từ đây về sau liền có bốn giai cấp ở đời.

Nếu có pháp ở đời thì có bốn dòng họ ở đời: Sát-lợi, Bà-la-môn, thợ thuyền và dòng cư sĩ. Nếu pháp có ở đời thì có ngôi Chuyển luân Thánh vưong chẳng dứt. Nếu pháp có ở đời thì có dòng Tứ thiên vương, Ðâu-suất thiên, Diễm thiên, Hóa tự tại thiên, Tha hóa tự tại thiên liền có ở đời. Nếu pháp có ở đời thì có trời Dục giới, trời Sắc giới, trời Vô sắc giới ở tại thế gian. Nếu pháp có ở đời thì có quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán, quả Bích chi Phật, Phật thừa liền hiện ở đời. Thế nên, Tỳ-kheo, hãy khéo cung kính đối với pháp.

Hãy nên tùy thời cúng dường các thứ cần dùng cho Tỳ-kheo ấy. Hãy bảo Tỳ-kheo ấy rằng: ‘Lành thay! Lành thay! Như lời Ông nói. Những lời hôm nay thật là lời Như Lai nói’.

Tỳ-kheo! Ðó là bốn nghĩa được quảng diễn lớn này. Thế nên, các Tỳ-kheo! Hãy để tâm hành bốn việc này chớ có sơ sót. Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

6. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ vua Ba-tư-nặc, sáng sớm, tụ tập bốn binh chủng, cỡi xe vũ bảo đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi ngồi một bên. Thế Tôn hỏi vua:

– Ðại vương từ đâu đến mà bụi bặm lấm đầy người như thế? Tụ tập bốn binh chủng có việc gì?

Vua Ba-tư-nặc bạch Thế Tôn:

– Nay, nước ta có giặc lớn nổi lên. Nửa đêm hôm qua, con dấy binh bắt được. Thân thể mệt mỏi, con muốn trở về cung, nhưng giữa đường, con lại nghĩ: ‘Ta nên đến chỗ Như Lai trước rồi sau hãy vào cung’. Con do việc này mà ngủ nghỉ không yên. Nay vì có công lao dẹp giặc xong, vui mừng hớn hở không kềm được, nên đến lễ bái thăm hỏi Như Lai. Nếu hôm qua con không dấy binh thì không bắt được giặc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo:

– Ðúng vậy, Ðại vương! Như lời vua nói. Vua nên biết rằng: Có bốn việc trước khổ mà sau vui. Thế nào là bốn? Sớm mai dậy sớm, trước khổ sau vui. Nếu dùng dầu bơ, trước khổ sau vui. Nếu lúc uống thuốc, trước khổ sau vui. Gia nghiệp, cưới gả tốt đẹp, trước khổ sau vui. Này Ðại vương! Ðó là có bốn việc này trước khổ mà sau vui.

Vua Ba-tư-nặc bạch Thế Tôn:

– Thế Tôn nói thật đúng lẽ. Có bốn (gốc của) việc này trước khổ sau vui. Vì sao thế? Như hôm nay, con xem bốn việc này như xem châu trong tay, đều là nghĩa trước khổ mà sau vui.

Bấy giờ, Thế Tôn thuyết pháp vi diệu cho vua Ba-tư-nặc, khiến lòng vui hoan hỉ. Vua nghe pháp xong, bạch Thế Tôn:

– Việc nước bề bộn, con muốn trở về cung.

Thế Tôn bảo:

– Vua nên biết đúng lúc.

Vua Ba-tư-nặc bèn từ chỗ ngồi đứng lên, cúi lạy chân Phật, đi nhiễu ba vòng rồi lui đi. Vua đi chưa lâu, Thế Tôn liền bảo các Tỳ-kheo:

– Nay có bốn việc trước khổ sau vui. Thế nào là bốn? Tu tập Phạm hạnh, trước khổ sau vui. Tụng tập kinh văn, trước khổ sau vui. Tọa Thiền, niệm định, trước khổ sau vui. Ðếm hơi thở ra vào, bốn việc này, trước khổ sau vui. Nếu có Tỳ-kheo hành pháp trước khổ sau vui này thì sẽ hẳn xứng đáng được quả báo vui của Sa-môn. Thế nào là bốn?

Tỳ-kheo siêng hành pháp này, không muốn pháp ác, nhớ giữ hỷ an, tâm dạo chơi ở Sơ thiền. Ðó là được điều vui đầu tiên của Sa-môn.

Lại nữa, có giác, có quán, dừng bên trong có tâm hỷ, chuyên ròng một lòng, không giác không quán niệm giữ hỷ an, đạo ở Nhị thiền. Ðó là được điều vui thứ hai của Sa-môn.

Lại nữa, vô niệm, dạo tâm ở xả (hộ), hằng tự giác tri, biết thân có lạc, chỗ các Hiền thánh hy vọng, bỏ niệm lạc, dạo tâm ở Tam thiền. Ðó là được điều vui thứ ba của Sa-môn.

Lại nữa, khổ vui đã dứt, trước không có hoạn lo lắng, không khổ, không vui, xả niệm không thanh tịnh, đạo tâm ở Tứ thiền. Ðó là có bốn điều vui này của Sa-môn.

Lại nữa, Tỳ-kheo! Nếu có Tỳ-kheo hành trước khổ, sau được quả báo bốn điều vui của Sa-môn này, dứt ba lưới kết, thành tựu Tu-đà-hoàn, không lui sụt pháp, ắt sẽ đến diệt độ.

Lại nữa, Tỳ-kheo! Nếu dứt ba kết này, dâm nộ si nhạt mỏng, thành tựu Tu-đà-hàm, trở lại đời này, ắt dứt hết mé khổ.

Lại nữa, Tỳ-kheo! Nếu có Tỳ-kheo đoạn năm hạ phần kết, thành tựu A-na-hàm, ở đó Bát-niết-bàn, không đến cõi này nữa.

Lại nữa, Tỳ-kheo! Nếu có Tỳ-kheo hữu lậu đã hết, thành vô lậu, tâm giải thoát, trí tuệ giải thoát, ở trong hiện pháp thân tác chứng mà tự du hí, ‘Sanh tử đã đứt, Phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không còn tái sanh’; như thật mà biết. Ðó là, Tỳ-kheo ấy tu pháp trước khổ này, sau được bốn quả vui của Sa-môn. Thế nên, các Tỳ-kheo! Hãy cầu phương tiện thành tựu pháp trước khổ mà sau vui này. Như thế, các Tỳ-kheo, nên học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

7. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Có bốn loại người xuất hiện ở đời. Thế nào là bốn? Có Sa-môn tợ như hoa hoàng lam, có Sa-môn tợ hoa phân-đà-lợi, có Sa-môn tợ như nhu nhuyến và có Sa-môn nhu nhuyến trong nhu nhuyến.

Thế nào gọi là Sa-môn tợ hoa hoàng lam? Hoặc có một người dứt ba kiết sử, thành Tu-đà-hoàn, chẳng thối chuyển pháp ắt đến Niết-bàn, chậm nhất là trải quả bảy phen sanh tử. Hoặc lại làm bậc hướng A-na-hàm ví như hoa hoàng lam sáng búp chiều nở. Tỳ-kheo này cũng thế, ba kiết sử dứt sạch thành Tu-đà-hoàn, chẳng thối chuyển pháp ắt đến Niết-bàn, chậm nhất là qua bảy lần sanh tử, nếu cầu phương tiện có ý dũng mãnh làm bậc hướng A-na-hàm liền thành đạo tích. Ðó gọi là Sa-môn như hoa hoàng lam.

Thế nào gọi là Sa-môn hoa phân-đà-lợi? Hoặc có một người dứt ba kiết sử, dâm nộ si nhạt mỏng, thành Tư-đà-hàm, trở lại cõi đời này dứt hết mé khổ. Nếu người hơi chậm thì đời sau trở lại cõi này dứt hết mé khổ. Còn nếu dũng mãnh thì ngay trong đây dứt hết mé khổ. Ví như hoa phân-đà-lợi sáng sớm nở hoa, xế chiều khô héo. Ðó là Sa-môn như hoa phân-đà-lợi.

Thế nào là Sa-môn nhu nhuyến? Hoặc có một người đoạn năm hạ phần kết (sử) thành A-na-hàm, liền ở nơi ấy Bát-niết-bàn, chẳng trở lại cõi này. Ðó là Sa-môn nhu nhuyến.

Thế nào là Sa-môn nhu nhuyến trong nhu nhuyến? Hoặc có một người dứt sạch hữu lậu, thành tựu vô lậu, tâm giải thoát, trí tuệ giải thoát, ở trong hiện pháp tự thân tác chứng mà tự du hý, ‘Sanh tử đã dứt, Phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không còn tái sanh nữa’, như thật mà biết. Ðó là Sa-môn nhu nhuyến trong nhu nhuyến.

Ðó là, này Tỳ-kheo! Có bốn người này xuất hiện ở đời. Thế nên, các Tỳ-kheo! Nên cầu phương tiện này làm Sa-môn nhu nhuyến trong nhu nhuyến. Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

Tu-đà, Tu-ma-quân,
Tân-đầu, Lộc-ế-thủ,
Lộc Ðầu, quảng diễn nghĩa,
Hậu lạc, nhu nhuyến kinh.

XXIX. Phẩm Khổ lạc

1. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Nay có bốn hạng người xuất hiện ở đời. Thế nào là bốn? Có người trước khổ sau vui, hoặc có người trước vui sau khổ, hoặc có người trước khổ sau cũng khổ, hoặc có người trước vui sau cũng vui.

Thế nào là người trước khổ sau vui?

Ở đây, có người sanh trong nhà ti tiện, hoặc dòng đồ tể, hoặc dòng thợ thuyền, hoặc sanh trong nhà tà đạo và các nhà bần khó khác, ăn mặc chẳng đủ. Người ấy sanh trong nhà kia nhưng không có tà kiến. Người ấy nhận thấy có bố thí, có người thọ, có đời này, đời sau, có Sa-môn, Bà-la-môn, có cha, có mẹ, có A-la-hán v.v… lãnh thọ giáo pháp, cũng có quả báo thiện ác.

Nếu người ấy có nhà rất giàu, đã biết là quả báo do bố thí, quả báo không buông lung ngày xưa. Nếu người ấy thấy người người nhà không cơm áo, biết những người này không bố thí, hằng gặp bần tiện. ‘Nay tôi lại gặp bần tiện không có cơm áo, đều do ngày trước không tạo phước, hoặc người đời hành pháp buông lung. Do quả báo ác hạnh này, nay gặp bần tiện, ăn mặc chẳng đủ’.

Nếu người ấy lại thấy Sa-môn, Bà-la-môn, tu pháp lành, liền đến sám hối, sửa đổi việc làm cũ; nếu lại có dư dả, đem chia đều cho người. Người ấy thân hoại mạng cung sẽ sanh cõi lành. Nếu sanh trong loài Người thì người ấy lắm tiền nhiều của, không thiếu thốn. Ðó là người trước khổ sau vui.

Hạng người nào trước vui sau khổ?

Ở đây, có một người sanh trong nhà hào tộc, hoặc dòng Sát-lợi, hoặc dòng Trưởng giả, hoặc con nhà dòng dõi, và các nhà phú quý, áo cơm đầy đủ. Nhưng người ấy hằng ôm tà kiến, tương ưng với biểu kiến. Người ấy có cái thấy thế này: không có bố thí, không có người thọ, cũng không quả báo đời này, đời sau, cũng không cha mẹ, không có A-la-hán, cũng không có người đắc chứng, cũng không có người có quả báo thiện ác. Người ấy có tà kiến này. Nếu người ấy lại có người phú quý liền nghĩ: ‘Người này có tiền của từ lâu, đàn ông đã từ lâu làm đàn ông, đàn bà đã từ lâu làm đàn bà, súc sanh từ lâu làm súc sanh’. Người ấy không ưa bố thí, không giữ giới luật.

Nếu người ấy thấy Sa-môn, Bà-la-môn phụng trì giới liền nổi giận: ‘Người này hư dối, sẽ có phước báo cảm ứng ở đâu?’ Người ấy thân hoại mạng chung sẽ sanh trong địa ngục. Nếu được làm người sẽ sanh nhà bần cùng, không đủ áo cơm, thân thể lõa lồ, an mặc không đủ. Ðó là người trước vui sau khổ.

Hạng người nào trước khổ, sau khổ?

Ở đây, có người sanh nhà bần tiện, hoặc dòng đồ tể, hoặc dòng thợ thuyền, và các nhà hạ liệt, không đủ cơm áo. Người ấy sanh trong nhà kia. Sau người ấy ôm tà kiến, tương ưng với biểu kiến. Người ấy có kiến chấp này: không có bố thí, không có người thọ, cũng không có quả báo thiện ác đời này, đời sau; cũng không có cha mẹ, không có A-la-hán’. Người ấy không ưa bố thí, không giữ giới luật.

Nếu người ấy lại thấy Sa-môn, Bà-la-môn thì liền nổi giận đối với bậc Hiền Thánh. Người ấy thấy người nghèo cho là đã thế từ lâu, thấy người giàu cho là đã thế từ lâu, thấy cha xưa đã là cha; thấy mẹ xưa đã là mẹ. Khi thân hoại mạng chung, người ấy đọa sanh trong địa ngục. Nếu sanh người ấy làm người thì hết sức bần tiện, áo cơm chẳng đủ. Ðó là người trước khổ, sau khổ.

Thế nào là người trước vui, sau vui?

Ở đây, có người sanh nhà phú quý, hoặc dòng Sát-lợi, hoặc dòng Phạm chí, hoặc dòng Quốc vương, hoặc sanh dòng trưởng giả và sanh trong các nhà nhiều tiền lắm của. Chỗ sanh không bị thiếu thốn. Sau, người ấy lại có chánh kiến, không có tà kiến. Người ấy có chánh kiến như thế này: ‘Có bố thí, có người thọ, có đời này, đời sau, có Sa-môn, Bà-la-môn, cũng có quả báo thiện ác, có cha, có mẹ, có A-la-hán’.

Người ấy nếu lại thấy người thuộc nhà phú quý, lắm tiền, nhiều của, liền nghĩ: ‘Người này do ngày xưa bố thí mà được’. Nếu lại thấy nhà bần tiện: ‘Người này do ngày xưa chẳng bố thí’. Vậy nay ta có thể tùy thời bố thí, chẳng để sau sanh trong nhà bần tiện. Vì thế người ấy thường ưa bố thí cho người.

Người ấy nếu thấy Sa-môn, Bà-la-môn, đạo sĩ liền tùy thời thăm hỏi sức khỏe, cung cấp y phục, thức ăn uống, giường nằm, thuốc men trị bịnh, đều bố thí cho. Khi mạng chung người ấy sẽ sanh lên Trời, chỗ lành. Nếu sanh trong loài Người thì người ấy sẽ vào nhà phú quý, lắm tiền nhiều của. Ðó là người trước vui, sau vui.

Bấy giờ có một Tỳ-kheo bạch Thế Tôn:

– Con thấy đời này có chúng sanh trước khổ, sau vui, hoặc có chúng sanh trước vui sau khổ, hoặc có chúng sanh trước khổ sau khổ, hoặc có chúng sanh trước vui sau vui.

Thế Tôn bảo Tỳ-kheo ấy:

– Có nhân duyên này khiến chúng sanh trước khổ sau vui, cũng lại có chúng sanh trước vui sau khổ, cũng lại có chúng sanh trước khổ sau khổ, cũng lại có chúng sanh trước vui sau vui.

Tỳ-kheo bạch Phật:

– Lại do nhân duyên nào trước khổ sau vui? Lại do nhân duyên nào trước vui sau khổ? Lại do nhân duyên nào trước khổ sau khổ? Lại do nhân duyên nào trước vui sau vui?

Thế Tôn dạy:

– Tỳ-kheo nên biết! Giả như có người thọ trăm tuổi, vừa đúng một trăm và khiến thọ trọn đông, hạ, xuân, thu. Này Tỳ-kheo, nếu trong một trăm năm người ấy tạo các công đức, trong trăm năm tạo các ác nghiệp các tà kiến thì vào lúc khác, người ấy hoặc mùa đông thọ vui, mùa hạ thọ khổ.

Nếu trong trăm năm công đức đầy đủ không từng có tà kém thiếu và trong khoảng trăm năm tạo các tà kiến, làm hạnh bất thiện thì người ấy trước thọ tội, sau thọ phước.

Nếu lại lúc nhỏ tạo phước, lúc lớn tạo tội thì đời sau, người ấy lúc nhỏ hưởng phước, lúc lớn chịu tội.

Nếu lại lúc nhỏ tạo tội, lúc lớn cũng tạo tội thì người ấy đời trước khổ mà sau cũng khổ.

Nếu lại lúc nhỏ tạo các công đức, phân đàn bố thí, lúc lớn cũng tạo các công đức, phân đàn bố thí thì người ấy đời trước vui sau cũng vui.

Này Tỳ-kheo! Ðó là nhân duyên này trước khổ mà sau vui, cũng do nhân duyên này trước vui mà sau khổ, cũng do nhân duyên này mà trước khổ sau cũng khổ, cũng do nhân duyên này trước vui sau cũng vui.

Tỳ-kheo ấy bạch Phật:

– Kính ngưỡng Thế Tôn! Nếu có chúng sanh muốn trước vui sau vui thì nên hành bố thí, cầu được trước vui sau cũng vui vậy.

Thế Tôn dạy:

– Ðúng vậy, Tỳ-kheo! Như lời Thầy nói. Nếu có chúng sanh muốn thành tựu Niết-bàn và chứng A-la-hán cho đến Phật quả thì nên ở trong đây hành bố thí, tạo các công đức. Như thế, Tỳ-kheo, hãy học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

2. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Có bốn hạng người xuất hiện ở đời. Thế nào là bốn? Có người thân vui, tâm chẳng vui hoặc có người tâm vui, thân chẳng vui; hoặc có người tâm không vui, thân cũng không vui; hoặc có người thân vui tâm cũng vui.

Hạng người nào thân vui, tâm chẳng vui? Ở đây, phàm phu tạo phước, đối với bốn việc cúng dường y phục, thức ăn uống, giường nằm, thuốc men khi bịnh tật, không có thiếu thốn nhưng họ lại chẳng thoát khỏi đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, cũng lại chẳng khỏi trong đường ác. Ðó là hạng người thân vui, tâm chẳng vui.

Hạng người nào tâm vui, thân chẳng vui? Ðó là A-la-hán không tạo công đức. Ở đây, trong bốn việc cúng dường, vị ấy không thể tự lo xong, trọn không có được. Nhưng vị ấy thoát khỏi các đường ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục. Ví như La-hán Duy Dụ. Ðó là hạng người tâm vui, thân chẳng vui.

Hạng người nào thân chẳng vui, tâm cũng chẳng vui? Nghĩa là người phàm phu, không tạo công đức, không thể được bốn việc cúng dường y phục, thức uống ăn, giường nằm thuốc men chữa bịnh, hằng chẳng được thoát khỏi ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục. Ðó là hạng người thân chẳng vui, tâm cũng chẳng vui.

Hạng người nào thân vui, tâm cũng vui? Nghĩa là A-la-hán tạo công đức, bốn việc cúng dường khi bị thiếu thốn: y phục, thức uống ăn, giường nằm, thuốc men trị bệnh. Vị ấy thoát khỏi đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Ví như Tỳ-kheo Thi-ba-la vậy. Ðó là hạng người thân vui, tâm cũng vui.

Này Tỳ-kheo! Thế gian có bốn người này. Thế nên Tỳ-kheo! Hãy tìm phương tiện, nên như Tỳ-kheo Thi-ba-la. Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

3. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Nay Ta sẽ nói về bốn phước báo cõi Phạm thiên. Thế nào là bốn? Nếu có thiện nam, tín nữ hay dựng tháp chỗ chưa dựng tháp thì đó là phước báo đầu tiên cõi Phạm thiên. Lại nữa, thiện nam, tín nữ sửa chữa chùa cũ, đó là phước báo thứ hai cõi Phạm thiên. Lại nữa, thiện nam, tín nữ tạo sự hòa hợp Thánh chúng, đó là phước báo thứ ba cõi Phạm thiên. Lại nữa, nếu lúc Phật mới chuyển Pháp luân, chư Thiên và người đời khuyến thỉnh Ngài chuyển Pháp luân, đó là phước báo thứ tư cõi Trời Phạm thiên. Ðó là bốn phước hưởng cõi Trời Phạm thiên.

Bấy giờ các Tỳ-kheo khác bạch Thế Tôn:

– Phước của Phạm thiên rốt ráo nhiều hay ít?

Thế Tôn dạy:

– Lắng nghe, lắng nghe! Hãy khéo suy nghĩ! Nay Ta sẽ nói.

Các Tỳ-kheo đáp:

– Xin vâng, bạch Thế Tôn.

Thế Tôn dạy:

– Ðất Diêm-phù-đề Ðông, Tây bảy ngàn do tuần, Nam, Bắc hai vạn một ngàn do tuần, đất hình dáng như chiếc xe. Chúng sanh ở đó có công đức bằng công đức của một Chuyển luân vương.

Ðất Cù-da-ni dọc ngang ba mươi hai vạn dặm, đất hình bán nguyệt. Tỳ-kheo nên biết, công đức nhân dân toàn cõi Diêm-phù-đề và một Chuyển Luân vương sánh bằng công đức một người cõi đó.

Lại nữa, Tỳ-kheo! Ðất Phất-vu-đệ, ngang dọc ba mươi sáu vạn dặm, đất hình vuông vắn, so phước của hai phương Diêm-phù-đề và Cù-da-ni thì chẳng bằng phước một người Phất-vu-đệ.

Tỳ-kheo nên biết! Ðất Uất-đan-việt ngang dọc bốn mươi vạn dặm, hình như mặt trăng tròn. Phước của nhân dân ba phương kia sánh chẳng bằng phước của một người uất-đan-việt.

Tỳ-kheo nên biết! So phước nhân dân bốn thiên hạ chẳng bằng đức của Tứ thiên vương.

So phước của nhân dân bốn thiên hạ và Tứ thiên vương thì không bằng phước một vị ở trời Ba mươi ba.

So bốn thiên hạ, Tứ thiên vương và Trời Ba mươi ba thì chẳng bằng phước một Thích-đề-hoàn-nhân.

So bốn thiên hạ, Tứ thiên vương, cùng Trời Ba mươi ba và Thích-đề-hoàn-nhân chẳng bằng phước một Diễm thiên.

So bốn thiên hạ, Tứ thiên vương, Trời Ba mươi ba, Thích-đề-hoàn-nhân và Diễm thiên thì chẳng bằng phước một vị ở Trời Ðâu-suất.

So với phước bốn thiên hạ đến Trời Ðâu-suất. thì không bằng phước của một Hóa tự tại thiên.

So phước từ bốn thiên hạ đến Trời Hóa tự tại thì không bằng phước một vị ở Trời Tha hóa tự tại.

So phước từ bốn thiên hạ đến Trời Tha hóa tự tại thì không bằng phước một Phạm thiên vương.

Tỳ-kheo nên biết! Ðây là phước Phạm thiên. Nếu có thiện nam, tín nữ muốn cầu phước đó thì đây là chừng mực. Thế nên, Tỳ-kheo, muốn cầu phước Phạm thiên, hãy tìm phương tiện thành tựu công đức này. Như thế, Tỳ-kheo hãy học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

4. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Chúng sanh có bốn loại thức ăn để nuôi lớn. những gì là bốn? Ðoàn thực hoặc lớn hoặc nhỏ, cánh lạc thực (xúc thực), niệm thực, thức thực.

Thế nào gọi là đoàn thực? Ðoàn thực là thức ăn của người bây giờ, những vật có thể đưa vào miệng ăn nuốt. Ðó gọi là đoàn thực.

Thế nào gọi là cánh lạc thực (xúc thực)? Cánh lạc thực là áo quần, dù lọng, hương hoa, lò sưởi và dầu thơm cùng đàn bà sum vầy, khiến người ta vui thêm. Ðó gọi là cánh lạc thực.

Thế nào gọi là niệm thực? Ðó là những tư tưởng, ý nghĩ hoặc do miệng nói, hoặc do thân xúc chạm và các pháp được gìn giữ. Ðó gọi là niệm thực.

Thế nào gọi là thức thực? Là chỗ niệm hiểu, chỗ ý biết. Từ Phạm thiên cho đến Trời Hữu tưởng, Vô tưởng đều lấy thức làm món ăn. Ðó gọi là thức thực.

Này Tỳ-kheo! Ðó là có bốn loại thức ăn. Chúng sanh do bốn loại thức ăn này mà lưu chuyển sanh tử từ đời này đến đời sau. Thế nên, các Tỳ-kheo, hãy cùng lìa bốn thức ăn này. Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

5. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Có bốn loại biện tài. Thế nào là bốn? Nghĩa là nghĩa biện, pháp biện, từ biện và ứng biện.

Thế nào gọi là nghĩa biện? Nghĩa biện là lời nói của người này, người kia như Trời, rồng, quỷ thần nói đều có thể phân biệt được nghĩa. Ðó gọi là nghĩa biện.

Thế nào gọi là pháp biện? Như Lai thuyết Mười hai bộ kinh. Nghĩa là Khế Kinh, Kỳ dạ, Bổn mạt, Kệ, Nhân Duyên, Thọ ký, Tự thuyết, Tạo tụng, Sanh kinh, Phương đẳng, Hợp tập, Vị tằng hữu; và các pháp hữu vi, pháp vô vi, pháp hữu lậu, pháp vô lậu, các pháp thật không thể phá hoại, có thể tổng trì. Ðó gọi là pháp biện.

Thế nào gọi là từ biện? Như chúng sanh ở trước có lời hay, dở; lời đàn ông, lời đàn bà; lời Phật, lời Phạm chí, Trời, rồng, quỷ thần, lời của A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la nói, tùy theo căn nguyên của họ mà thuyết pháp cho. Ðó gọi là từ biện.

Thế nào gọi là ứng biện? Lúc đang thuyết pháp không có khiếp nhược, không sợ hãi, hay làm vui hòa bốn bộ chúng. Ðó gọi là ứng biện.

Nay Ta sẽ dạy dỗ các Thầy! Nên như Ma-ha-Câu-hy-la. Vì sao thế? Câu-hy-la có bốn biện tài này, hay cùng bốn bộ chúng rộng phân biệt nói. Như ngày nay, Ta xem trong các chúng không có ai được bốn biện tài hơn Câu-hy-la. Như Lai có bốn biện tài này. Thế nên, hãy cầu phương tiện thành tựu bốn biện tài. Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

6. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Có bốn việc trọn không thể tư duy. Thế nào là bốn? Chúng sanh bất khả tư nghì, thế giới bất khả tư nghì, nước rồng bát khả tư nghì, cõi Phật bất khả tư nghì. Vì sao thế? Vì không do (biết) chỗ này mà được đến Diệt tận Niết-bàn.

Thế nào là chúng sanh bất khả tư nghì? Chúng sanh này từ đâu đến? Từ đâu đi? Lại bắt đầu từ chỗ nào? Từ chỗ này chết sẽ sanh chỗ nào?’ Ðấy là chúng sanh bất khả tư nghì (chẳng thể suy nghĩ).

Thế nào là thế giới bất khả tư nghì? Có những người tà kiến cho rằng thế giới đoạn diệt, thế giới chẳng đoạn diệt; thế giới hữu biên, thế giới vô biên, là mạng, là thân, chẳng phải mạng, chẳng phải thân; do Phạm thiên tạo ra; các đại quỷ thần làm ra thế giới v.v…

Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:

Phạm thiên tạo nhân dân,
Thế gian quỷ làm ra
Hoặc rồng, các quỷ làm.
Lời này ai sẽ đúng?
Dục sân trói buộc mình
Cả ba đều cùng hạng.
Tâm chẳng được tự tại.
Thế tục có tai biến.

Này các Tỳ-kheo! Ðấy là thế gian bất khả tư nghì.

Thế nào là cõi rồng bất khả tư nghì? Thế nào? Trận mưa này là từ miệng rồng phun ra chăng? Vì sao thế? Giọt mưa không từ miệng rồng ra. Là từ mắt, tai, mũi ra chăng? Ðây cũng không thể nghĩ suy. Vì sao thế? Giọt mưa không từ mắt, tai, mũi ra mà là do ý nghĩ của rồng. Nếu rồng nghĩ ác cũng mưa, nghĩ thiện cũng mưa thì cũng do hạnh của mình mà làm mưa này. Vì sao thế? Nay trong núi Tu-di có Trời tên là Ðại Lực biết tâm niệm chúng sanh, cũng hay làm mưa. Nhưng mưa không từ miệng Trời kia ra, hay mắt, tai, mũi phun ra mà là đều do thần lực của Trời kia nên làm mưa được. Như thế, Tỳ-kheo! Cảnh giới rồng bất khả tư nghì.

Thế nào là cõi Phật bất khả tư nghì? Thân Như Lai là do cha mẹ tạo ra chăng? Ðây cũng chẳng thể nghĩ vậy. Vì sao thế? Thân Như Lai thanh tịnh không dơ ế, nhận khí của chư Thiên là do người tạo ra chăng? Ðây cũng không thể nghĩ bàn. Vì sao thế? Vì vượt quá hành động của người.

Thân Như Lai là thân lớn? Ðây cũng chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao thế? Thân Như Lai là chẳng thể tạo ác, chẳng phải chỗ chư Thiên đến được.

Như Lai hưởng thọ ngắn chăng? Ðây cũng chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao thế? Như Lai có Tứ thần túc.

Như Lai trường thọ chăng? Ðây cũng chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao thế? Vì Như Lai đã chu toàn cho thế gian; cùng tương ưng với quyền phương tiện lành.

Thân Như Lai chẳng thể đo lường, không thể nói cao, nói thấp, âm thanh cũng chẳng thể có phép tắc. Phạm âm của Như Lai, trí tuệ biện tài của Như Lai chẳng thể nghĩ bàn, người thế gian không sánh kịp. Như thế, cảnh giới Phật bất khả tư nghì.

Như thế, Tỳ-kheo! Có bốn việc này không thể nghĩ bàn, không phải chỗ nghĩ bàn của người thường, mà bốn việc này chẳng phải cội rễ lành, cũng không do đây mà tu được Phạm hạnh, không đến được chỗ thôi dứt, cũng chẳng tới được Niết-bàn, chỉ khiến người cuồng loạn tâm ý, lầm lẫn khởi các nghi kết. Vì sao thế?

Tỳ-kheo nên biết! Quá khứ lâu xa, trong thành Xá-vệ này có một người nghĩ; ‘Này ta nên suy nghĩ về thế giới’. Bấy giờ người ấy ra khỏi thành Xá-vệ, đến bên một ao hoa, ngồi kiết-già tư duy về thế giới: ‘Thế giới này thành như thế nào, hoại như thế nào? Ai tạo thế giới này? Chúng sanh này từ đâu tới từ đâu ra sanh lúc nào?’ Lúc người ấy đang suy nghĩ thì thấy trong ao hoa có bốn binh chủng ra vào. Người ấy liền nghĩ: ‘Nay ta tâm ý cuồng loạn, lầm lẫn. Thế gian không có, nay ta lại thấy’. Người ấy trở vào thành Xá-vệ, trong làng xóm nói rằng:

– Chư Hiền nên biết! Thế gian không có mà nay tôi lại thấy.

Bấy giờ, nhiều người bảo người ấy:

– Thế nào là thế gian không có mà nay Ông thấy?

Người ấy đáp mọi người:

– Vừa rồi, tôi suy nghĩ xem thế giới từ đây sanh, mới đi ra khỏi thành Xá-vệ đến bên ao hoa nghĩ ngợi: ‘Thế giới từ đâu lại? Ai tạo thế giới này? Chúng sanh này từ đâu đến, do ai sanh? Nếu người mạng chung sẽ đi về đâu?’. Tôi đang suy nghĩ thì thấy trong ao hoa có bốn binh chủng ra vào. Thế giới không có mà nay tôi thấy.

Mọi người bảo người ấy:

– Như Ông thật là cuồng loạn ngu si. Trong ao hoa làm gì có bốn binh chủng được? Trong số những người ngu ngốc trong thế giới, Ông ngu nhất.

Thế nên, Tỳ-kheo! Ta quán nghĩa này xong, nên nói với các Thầy. Vì cớ sao? Ðây chẳng phải là gốc lành công đức, chẳng tu được Phạm hạnh, cũng chẳng đến được Niết-bàn. Nhưng suy nghĩ như thế ắt khiến người tâm ý cuồng loạn. Tỳ-kheo nên biết! Người ấy thực thấy bốn binh chủng. Vì sao thế? Ngày xưa, chư Thiên cùng A-tu-la đánh nhau, chư Thiên thắng, A-tu-la thua. Bấy giờ A-tu-la sợ hãi, hóa hình hết sức nhỏ, chui qua lỗ ngó sen, mắt Phật mới thấy được, chẳng phải người khác thấy đến.

Thế nên, các Tỳ-kheo! Hãy suy nghĩ về Tứ đế? Vì sao thế? Tứ đế này có nghĩa, có lý, tu được Phạm hạnh, hành pháp Sa-môn, đến được Niết-bàn. Thế nên, các Tỳ-kheo! Hãy xa lìa pháp của thế giới này. Hãy tìm phương tiện suy nghĩ Tứ đế. Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

7. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Có bốn thần túc. Những gì là bốn? Tự tại tam-muội hành tận thần túc, Tâm tam-muội hành tận thần túc, Tinh tấn tam-muội hành tận thần túc, Giới tam-muội hành tận thần túc.

Thế nào là Tự tại tam-muội hành tận thần túc? Nghĩa là có các tam-muội tự tại, ý muốn tâm vui, khiến thân thể nhẹ nhàng lanh lợi, hay ẩn hình thật nhỏ. Ðó gọi là Tự tại tam-muội hành tận thần túc.

Thế nào là Tâm tam-muội hành tận thần túc? Nghĩa là tâm biết các pháp, biết khắp mười phương xuyên qua các vách đá đều không chướng ngại. Ðó gọi là Tâm tam-muội hành tận thức.

Thế nào gọi là Tinh tấn tam-muội hành tận thức? Nghĩa là tam-muội này không lười mỏi, cũng không sợ hãi, có ý dũng mãnh. Ðó gọi là Tinh tấn tam-muội hành tận thức.

Thế nào gọi là Giới tam-muội hành tận thần túc? Có các tam-muội biết tâm niệm chúng sanh, lúc sanh, lúc diệt thảy đều biết hết. Tâm có dục, tâm không dục, có tâm sân giận, không tâm sân giận; tâm có ngu si, tâm không ngu si; tâm có tật đố, tâm không tật đố; tâm có loạn, tâm không loạn; tâm có nhỏ mọn, tâm không nhỏ mọn; tâm có rộng lớn, tâm không rộng lớn; tâm có lượng, tâm vô lượng, tâm định, tâm không định; tâm giải thoát, tâm không giải thoát thảy đều rõ biết. Ðó gọi là Giới tam-muội hành tận thần túc.

Như thế, Tỳ-kheo! Có bốn thần túc này. Muốn biết tâm niệm của tất cả chúng sanh, hãy tu hành hữu thần túc này. Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

8. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Có bốn pháp khiến ái khởi lên. Những gì là bốn? Tỳ-kheo do y phục mà khởi ái. Do khất thực mà khởi ái. Do sàng tọa mà khởi ái. Do thuốc men mà khởi ái.

Ðó là, Tỳ-kheo! Có bốn pháp khiến ái khởi lên, có chỗ dính mắc.

Nếu có Tỳ-kheo dính mắc về y phục, Ta chẳng nói tới người này. Vì sao thế? Người ấy lúc chưa được y, liền khởi sân giận, suy nghĩ, dính mắc.

Nếu có Tỳ-kheo dính mắc về thức ăn, Ta chẳng nói tới người này. Vì sao thế? Người ấy lúc chưa khất thực được , liền nổi giận, suy nghĩ, dính mắc.

Nếu có Tỳ-kheo dính mắc về giường tòa, Ta chẳng nói tới người này. Vì sao thế? Người ấy lúc chưa được giường tòa, liền nổi giận, suy nghĩ, dính mắc.

Nếu có Tỳ-kheo dính mắc về thuốc men, Ta chẳng nói tới người này. Vì sao thế? Người này lúc chưa được thuốc men, liền nổi giận, suy nghĩ, dính mắc.

Tỳ-kheo nên biết! Nay Ta sẽ nói hai việc (về y phục), nên thân cận; và không nên thân cận.

Thế nào là nên thân cận? Thế nào là không nên thân cận?

Nếu được y phục, hết sức ưa thích y, khởi pháp bất thiện thì đây chẳng nên thân cận. Nếu lại được y phục, khởi pháp lành, tâm không ái trước, thì đây nên thân cận.

Nếu lúc khất thực, khởi pháp bất thiện thì đây chẳng nên thân cận. Nếu lúc khất thực khởi pháp lành thì đây nên thân cận.

Nếu lúc được giường tòa, khởi pháp bất thiện thì đây chẳng nên thân cận. Nếu lúc được giường tòa khởi pháp lành thì cũng nên thân cận.

Thuốc men cũng thế. Thế nên, các Tỳ-kheo, hãy gần gũi pháp lành, trừ bỏ pháp ác! Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học điều này: muốn khiến đàm việt, thí chủ được công đức, thọ phước vô cùng, được vị cam lồ.

Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:

Y phục dùng bố thí,
Uống ăn, giường, ngọa cụ,
Trong ấy chớ khởi yêu,
Chẳng sanh các thế giới.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

9. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Nay có bốn dòng sông lớn từ suối A-nậu-đạt chảy ra. Những gì là bốn? Ðó là Hằng-già, Tân-đầu, Bà-xoa, Tư-đà. Nước sông Hằng-già từ miệng trâu chảy ra về hướng Ðông. Nước Tân-đầu từ miệng sư tử chảy về hướng Nam. Nước Tư-đà từ miệng voi chảy về hướng Tây. Nước Bà-xoa từ miệng ngựa chảy về hướng Bắc. Bốn dòng sông lớn nhiễu quanh hồ A-nậu-đạt, Hằng-già vào biển đông, Tân-đầu và biển Nam, Bà-xoa vào biển Tây, Tư-đà vào biển Bắc. Bốn sông lớn vào biển rồi, không còn tên cũ, chỉ gọi là biển.

Ðây cũng như thế, có bốn dòng họ. Những gì là bốn? Dòng Sát-lợi, Bà-la-môn, Trưởng giả, Cư sĩ. Ở chỗ Như Lai cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia học đạo, không còn dòng họ cũ, chỉ gọi là Sa-môn Thích tử. Vì cớ sao? Chúng của Như Lai ví như biển lớn. Bốn dòng họ như bốn sông lớn, trừ bỏ kiết sử vào thành Niết-bàn Vô úy. Thế nên, các Tỳ-kheo! Có các vị thuộc bốn dòng cạo bỏ râu tóc, do niềm tin kiên cố, xuất gia học đạo, họ sẽ bỏ tên cũ, tự xưng Thích tử. Vì sao thế? Nay Ta chính là Thích tử, từ trong dòng họ Thích xuất gia học đạo.

Tỳ-kheo nên biết! Muốn luận nghĩa sanh con, nên gọi là Sa-môn con dòng học Thích. Vì sao thế? Sanh đều do Ta sanh, từ pháp khởi lên, từ pháp mà thành tựu. Thế nên Tỳ-kheo! Nên cầu phương tiện được làm con dòng họ Thích. Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

10. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Có bốn đẳng tâm. Thế nào là bốn? Từ, Bi, Hỉ, Xả (Hộ).

Do những gì mà gọi là Phạm đường?

Tỳ-kheo nên biết! Có Ðại Phạm thiên tên Thiên vô Dữ đẳng (Trời không ai bằng), không có ai cao hơn, thống lãnh cõi Thiên Quốc. Cung điện của vị ấy gọi là Phạm đường.

Tỳ-kheo! Có bốn Phạm đường này, thể lực có thể xem xét hết cõi Thiên quốc này. Thế nên gọi là Phạm đường. Thế nên, các Tỳ-kheo! Nếu có Tỳ-kheo muốn qua khỏi trời Dục giới, ở đất vô dục, Bốn bộ chúng ấy nên tìm phương tiện thành tựu bốn Phạm đường này. Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.