Kinh Tăng Nhất A-Hàm

Kinh Tăng Nhất A-Hàm

Trương Văn Chiến 34

XXXVIII.1. Phẩm Lực (1)

1. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Có sáu sức mạnh ở đời. Thế nào là sáu? Con nít lấy kêu khóc làm sức mạnh, muốn đòi gì, trước hết khóc; đàn bà lấy sân giận làm sức mạnh, nương vào sân giận rồi sau mới nói; Sa-môn, Bà-la-môn dùng nhẫn làm sức mạnh, thường nghĩ thấp mình, đối với người, rồi sau bày tỏ; quốc vương dùng kiêu ngạo làm sức mạnh, lấy hào thế này để tự biểu lộ; nhưng A-la-hán lấy tinh chuyên là sức mạnh để tự trình bày; chư Phật Thế Tôn thành tựu đại từ bi, lấy đại bi làm sức mạnh để lợi ích rộng rãi cho chúng sanh.

Ðó là, này Tỳ-kheo! Có sáu sức mạnh ở đời. Thế nên, các Tỳ-kheo! Nên nhớ tu hành sức đại từ bi này. Như thế, các Tỳ-kheo, nên học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

2. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Các Thầy nên tư duy tưởng vô thường, quảng bá tưởng vô thường. Ðã tư duy, quảng bá tưởng vô thường rồi, các Thầy sẽ đoạn dứt dục ái, sắc ái, vô sắc ái, cũng đoạn vô minh, kiêu mạn. Ví như lấy lửa thiêu đốt cây cỏ, không sót gì cả, cũng không còn dấu vết. Ðây cũng như thế, nếu tu tưởng vô thường, đoạn hết dục ái, sắc ái, vô sắc ái, vô minh, kiêu mạn, không còn sót gì. Vì sao thế? Tỳ-kheo ngay khi tu tưởng vô thường, người ấy không có tâm dục, đã không có tâm dục, thì có thể phân biệt pháp, tư duy về ý nghĩa của nó, không có sầu lo, khổ não. Người ấy đã tư duy pháp nghĩa thì không ngu hoặc, tu hành lầm lẫn. Nếu thấy có ai tranh tụng, người ấy liền nghĩ: ‘Các hiền sĩ này không tu tưởng vô thường, không quảng bá tưởng vô thường, nên mới đi đến sự tranh tụng này. Họ đã tranh tụng thì không quán được nghĩa này; đã không quán nghĩa này thì có tâm mê hoặc. Họ đã chấp sự ngu mê này thì mạng chung sẽ vào ba đường ác: ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục’.

Thế nên, các Tỳ-kheo, nên tư tưởng vô thường, quảng bá tưởng vô thường, thì sẽ không có tưởng sân giận, ngu hoặc, cũng có thể quán pháp, cũng quán được nghĩa này. Nếu sau khi mạng chung, sẽ sanh vào ba đường lành: lên trời, trong loài người, và đạt Niết-bàn. Như thế, các Tỳ-kheo, nên học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

3. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở nước Ma-kiệt, bên bờ sông Ưu-ca-chi.

Bấy giờ Thế Tôn đến dưới một gốc cây trải tòa ngồi, chính thân, chính ý, buộc niệm ở trước.

Có một Phạm chí đi đến chỗ đó, Phạm chí này thấy dấu chân của đức Thế Tôn rất là kỳ diệu, liền nghĩ: ‘Dấu chân này của người nào? Là của Trời, Rồng, Quỷ, Thần, Càn-thát-bà, A-tu-la, Nhơn, Phi nhơn; Phạm thiên, Tổ tiên ta chăng?

Khi đó, Phạm chí noi theo dấu tiến đến trước, xa thấy Thế Tôn ngồi dưới một gốc cây, chính thân, chính ý buộc niệm ở trước; thấy rồi liền nói:

– Ngài là Trời chăng?

Thế Tôn bảo:

– Ta chẳng phải là Trời.

– Là Càn-thát-bà chăng?

– Ta chẳng phải Càn-thát-bà.

– Là Rồng chăng?

– Ta chẳng phải rồng.

– Là Dạ-xoa chăng?

– Ta chẳng phải là Dạ-xoa.

– Là Tổ phụ chăng?

– Ta chẳng phải Tổ phụ.

Lúc đó, Phạm chí hỏi Thế Tôn:

– Thế Ông là ai?

[#]

Thế Tôn bảo:

– Có ái thì có thọ, có thọ thì có ái, nhân duyên hội họp rồi sau mỗi mỗi tương sinh. Như thế, năm thạnh ấm không có lúc đoạn dứt. Ðã biết ái thì biết ngũ dục, cũng biết sáu trần bên ngoài, sáu nhập bên trong, tức biết gốc ngọn của thạnh ấm này.

Lúc ấy Thế Tôn liền nói kệ:

‘Thế gian có ngũ dục,
Ý là vua thứ sáu,
Biết sáu thứ trong ngoài,
Hãy nhớ dứt mé khổ’.

Thế nên, hãy cầu phương tiện diệt sáu việc trong ngoài. Như thế, Phạm chí, nên học điều này.

Bấy giờ, Phạm chí kia nghe Phật dạy như thế, tư duy luyện tập không rời tâm, liền ngay chỗ ngồi, các trần cấu dứt, được pháp nhãn thanh tịnh.

Bấy giờ Phạm chí ấy nghe Phật dạy xong, hoan hỷ vâng làm.

[#]

Ghi chú:

Đoạn [#]…[#] dường như không tương thích với tinh thần của bài kinh. Bài kinh tương đương trong Tăng Chi Bộ là kinh “Tùy thuộc thế giới”, AN IV.36, trong đó, Đức Phật trả lời Bà-la-môn (Phạm chí) Dona rằng:

– “… Này Bà-la-môn, đối với những người chưa đoạn tận các lậu hoặc, Ta có thể là chư Thiên, với các lậu hoặc đã đoạn tận, được chặt đứt từ gốc rễ, được làm thành như thân cây ta-la, được làm cho không thể hiện hữu, được làm cho không thể sanh khởi trong tương lai. Này Bà-la-môn, đối với những người chưa đoạn tận các lậu hoặc, Ta có thể là Càn-thát-bà, Ta có thể là Dạ-xoa, Ta có thể là Người, với các lậu hoặc đã đoạn tận, được chặt dứt từ gốc rễ, được làm thành như thân cây ta-la, được làm cho không thể hiện hữu, được làm cho không thể sanh khởi trong tương lai. Ví như, này Bà-la-môn, bông sen xanh, hay bông sen hồng, hay bông sen trắng, sanh ra trong nước, lớn lên trong nước, vươn lên khỏi nước, và đứng thẳng không bị nước thấm ướt. Cũng vậy, này Bà-la-môn sanh ta trong đời, lớn lên trong đời, Ta sống chinh phục đời, không bị đời thấm ướt. Này Bà-la-môn, Ta là Phật, hãy như vậy thọ trì.”

— (Bình Anson, 02-2004)

*

4. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Xưa, lúc Ta còn là Bồ-tát chưa thành Phật đạo, có nghĩ thế này: ‘Thế gia này rất là khổ, có sanh, già, bịnh, chết, mà năm thạnh ấy này chẳng dứt được nguồn gốc’. Lúc ấy, Ta lại nghĩ: ‘Do nhân duyên nào có sanh, già, bệnh, chết, lại do nhân duyên nào đưa đến tai họa này?’. Lúc đang tư duy điều này, Ta lại nghĩ: ‘Có sanh thì có già, bịnh, chết’.

Lúc đang tư duy điều này, Ta lại nghĩ thêm: ‘Do nhân duyên nào có sanh? Ðây do hữu mà sanh’, lại nghĩ: ‘Hữu do đâu mà có?’. Ðang lúc Ta tư duy liền sanh niệm này: ‘Hữu do thủ mà có’, lại nghĩ: ‘Thủ này do đâu mà có?’. Bấy giờ Ta dùng trí quán: ‘Do ái mà có thủ’, lại suy nghĩ thêm: ‘Ái này do đâu mà sanh?’ Ta quán sát lần nữa: ‘Do thọ mà có ái’, lại suy nghĩ thêm: ‘Thọ này do đâu mà sanh?’ Lúc ấy Ta quán sát như vầy: ‘Do xúc mà có thọ’, lại tư duy nữa: ‘Xúc này do đâu mà có?’ Ta liền sanh niệm này: ‘Do lục nhập mà có xúc này’. Rồi ta lại suy nghĩ nữa: ‘Lục nhập này do đâu có?’.; quán sát lúc ấy, Ta biết: ‘Do danh sắc mà có lục nhập’. Rồi Ta lại nghĩ rằng: ‘Danh sắc do đâu mà có?’; Ta quán sát thì biết: ‘Do thức mà có danh sắc’; ‘Thức này do đâu có?’; Ta quán sát thì biết: ‘Do hành sanh thức’. Rồi Ta lại nghĩ: ‘Hành do đâu mà sanh?’; Ta quán sát thì biết ‘Hành do đâu mà sanh?’; Ta quán sát thì biết ‘Hành do si sanh’. Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên tử, tử duyên sầu lo khổ não chẳng thể tính kể. Như thế gọi là nguyên nhân của khổ thạnh ấm.

Lúc đó ta lại nghĩ: ‘Do nhân duyên nào mà diệt được sanh, già, bịnh, chết?’. Khi ấy Ta quán sát: ‘Sanh diệt thì già, bịnh, chết diệt’. Rồi Ta lại sanh niệm này: ‘Do đâu mà không có sanh?’; Ta quán sát thì thấy: ‘Do hữu diệt thì sanh sẽ diệt’, lại nghĩ: ‘Do đâu mà không có hữu?’. Ta quán sát thì thấy: ‘Do thủ diệt thì hữu sẽ diệt’. Rồi Ta sanh niệm này: ‘Do đâu mà thủ diệt?’; Ta quán sát thì thấy: ‘Do ái diệt mà thủ diệt’; lại sanh niệm này: ‘Do đâu mà ái diệt?’ Ta quán sát thêm nữa: ‘Thọ diệt thì ái diệt’; lại tư duy: ‘Do đâu mà thọ diệt?’; quán sát thì thấy: ‘Xúc diệt thì thọ diệt?’, lại tư duy: ‘Xúc do đâu mà diệt?’, quán sát thì thấy: ‘Lục nhập diệt thì xúc diệt’. Lại xem: ‘Do đâu mà lục nhập này diệt?’. Lúc ấy Ta quán sát thấy: ‘Danh sắc diệt thì lục nhập diệt’; lại quán ‘Danh sắc do đâu mà diệt?’. Quán sát thì biết: ‘Thức diệt thì danh sắc diệt’; lại quán sát: ‘Thức này do đâu mà diệt?’; quán sát thì biết: ‘Hành diệt thì thức diệt’; lại quán ‘Hành này do đâu mà diệt?’; quán sát thì biết: ‘Vô minh diệt thì hành diệt’. Hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì lục nhập diệt, lục nhập diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sanh diệt, sanh diệt thì lão bịnh diệt, lão bịnh diệt thì tử diệt. Ðó gọi là năm thạnh ấm diệt’.

Rồi Ta lại sanh niệm này: ‘Thức này là nguồn gốc đầu đưa đến sanh, già, bịnh, chết. Nhưng Ta chẳng thể biết nguồn gốc của sanh, già, bệnh, chết này’. Ví như có người ở trong núi rừng đi theo con đường mòn nhỏ, đi đến phía trước một lát, thấy con đường lớn cũ, ngày xưa mọi người đi qua đây. Khi ấy, người nọ bèn đi lại con đường này, tiến đến một chút lại thấy thành quách, vườn cảnh, ao tắm cũ đều rất tươi tốt. Nhưng trong thành kia không có dân cư. Người này thấy rồi lại trở về nước mình, tâu với vua rằng:

– ‘Vừa rồi tôi dạo núi rừng thấy thành quách, cây cối um tùm. Nhưng trong thành đó không có nhân dân. Tâu Ðại vương! Nên cho nhân dân vào thành đó cư trú’.

Bấy giờ quốc vương nghe người này nói, liền cho nhân dân đến ở, và thành quách này trở nên đông đúc dân cư như cũ, vui thích vô cùng.

Các Tỳ-kheo nên biết! Xưa, lúc Ta chưa thành Phật, ở trong núi học đạo, thấy chỗ du hành của chư Phật thời xưa, liền theo đường ấy mà biết chỗ khởi nguyên của sanh, già, bệnh, chết. Có sanh, có diệt thảy đều phân biệt. Biết sanh khổ, sanh tập, sanh diệt, sanh đạo, đều liễu tri cả. Hữu, thủ, ái, thọ, xúc, lục nhập, danh sắc, thức, hành, vô minh cũng lại như thế. Vô minh khởi thì hành khởi, hành tạo điều gì lại là do thức. Nay ta đã biết rõ về thức, nên cùng bốn bộ chúng mà nói điều căn bản này để cho tất cả đều biết nguồn gốc chỗ khởi này; biết Khổ, biết Tập, biết Diệt, biết Ðạo, khiến nhớ rõ ràng. Ðã biết lục nhập thì biết sanh, lão, bệnh, tử; lục nhập diệt thì sanh, lão, bệnh, tử diệt. Thế nên, Tỳ-kheo, nên cầu phương tiện diệt lục nhập. Như thế, các Tỳ-kheo, nên học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

5. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn đang thuyết pháp cho vô số trăm ngàn vạn chúng. Lúc đó Tôn giả A-na-luật đang ngồi trong chúng ngủ gục. Ðức Phật thấy A-na-luật ngủ gục, liền nói kệ rằng:

Thọ pháp thích ngủ nghỉ,
Ý không có lầm lẫn,
Chỗ Hiền Thánh thuyết pháp,
Ðiều người trí ưa thích.
Ví như nước vực sâu,
Lóng trong không tỳ vết,
Người nghe pháp như thế,
Thanh tịnh tâm lạc thọ.
Cũng như đá vuông lớn,
Gió thổi không thể động,
Như thể bị chê khen,
Tâm không có lay động.

Khi ấy Thế Tôn bảo Tôn giả A-na-luật:

– Thầy sợ phép vua và sợ giặc cướp mà hành đạo chăng?

A-na-luật đáp:

– Thưa không, bạch Thế Tôn.

Phật bảo A-na-luật:

– Vì sao Thầy xuất gia học đạo?

A-na-luật bạch Phật:

– Con chán ngán sanh, lão, bịnh, tử, sầu lo khổ não nên muốn bỏ, nó; vì thế xuất gia học đạo.

Thế Tôn bảo:

– Nay Thầy là con nhà quý tộc, có lòng tin kiên cố, xuất gia học đạo. Hôm nay Thế Tôn đích thân thuyết pháp, tại sao Thầy ngồi trong đây mà ngủ gục.

Tôn giả A-na-luật liền từ chỗ ngồi đứng dậy, bày vai áo phải, quỳ xuống chấp tay bạch Thế Tôn:

– Từ nay về sau dù thân hình tan nát, con trọn không ở trước Như Lai mà ngủ gục.

Bấy giờ Tôn giả A-na-luật suốt đến đến sáng chẳng ngủ, nhưng không thể trừ khử được thùy miên, mắt bèn hư. Khi ấy, Thế Tôn bảo A-na-luật:

– Người chuyên cần tinh tấn thì cùng trạo cử tương ưng. Còn nếu giải đãi lại cùng kiết sử tương ưng. Nay thầy nên hành vừa chừng ở giữa.

A-na-luật bạch Phật:

– Khi trước, con đã ở trước Như Lai phát thệ, nay không thể làm trái bổn nguyện mình.

Lúc đó Thế Tôn bảo Kỳ-vực (Kỳ-bà):

– Ông hãy trị liệu mắt cho A-na-luật!

Kỳ-vực thưa:

– Nếu A-na-luật chịu ngủ một chút, con sẽ trị mắt được.

Thế Tôn bảo A-na-luật:

– Thầy nên ngủ. Vì sao thế? Tất cả các pháp do ăn mà được tồn tại, không ăn thì không còn. Con mắt lấy ngủ làm thức ăn, tai lấy âm thinh làm thức ăn, mũi lấy hương làm thức ăn, lưỡi lấy mùi vị làm thức ăn, thân lấy xúc chạm làm thức ăn, ý lấy pháp làm thức ăn. Nay ta cũng nói Niết-bàn cũng có thức ăn.

A-na-luật bạch Phật:

– Niết-bàn lấy những gì làm thức ăn?

Phật bảo A-na-luật:

– Niết-bàn lấy không phóng dật làm thức ăn, nương không phóng dật được đến vô vi.

A-na-luật bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Tuy nói ngủ là thức ăn của mắt, nhưng con chẳng kham ngủ nghỉ.

Rồi sau A-na-luật vá y phục cũ. Khi ấy mắt đã bị hư và đắc thiên nhãn không có tì vết. A-na-luật dùng pháp thường mà vá y áo, không thể xâu chỉ qua lỗ kim được. Khi ấy A-na-luật liền nghĩ: ‘Chư A-la-hán đắc đạo trong thế gian hãy xâu kim giúp tôi’.

Bấy giờ Thế Tôn dùng thiên nhĩ thanh tịnh nghe được âm thanh này: ‘Chư A-la-hán đắc đạo trong thế gian hãy xâu kim giúp tôi’. Thế Tôn bèn đến chỗ A-na-luật mà bảo:

– Thầy đưa kim đây Ta xâu cho.

A-na-luật bạch Phật:

– Vừa rồi con gọi các vị muốn cầu phước ở thế gian xâu kim cho con.

Thế Tôn bảo:

– Người cầu phước ở thế gian không ai hơn Ta. Như Lai đối với sáu pháp không chán bỏ. Những gì là sáu? thí; dạy dỗ; nhẫn; nói pháp; nói nghĩa; bảo hộ chúng sanh; cầu đạo vô thượng chánh chân. Này A-na-luật! Ðó là sáu điều Như Lai không hề chán bỏ.

A-na-luật thưa:

– Thân Như Lai là thân của Chân pháp, lại còn muốn cầu pháp nào nữa? Như Lai đã qua khỏi biển sanh tử, lại thoát khỏi ái trước, và nay cố cầu làm phước.

Thế Tôn bảo:

– Ðúng thế, A-na-luật. Ðúng như lời Thầy nói. Như Lai cũng biết sáu pháp này không chán đủ. Nếu chúng sanh biết nguồn cội của tội ác do thân, miệng, ý tạo, thì hoàn toàn không đọa trong ba đường ác. Vì chúng sanh chẳng biết nguồn gốc tội phước nên đọa trong ba đường ác.

Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:

‘Các sức mạnh thế gian,
Dạo ở trong Trời, Người,
Phước lực là hơn hết,
Do phước thành Phật đạo’.

Thế nên, A-na-luật! Nên cầu phương tiện được sáu pháp này. Như thế, các Tỳ-kheo, nên học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, hoan hỷ vâng làm.

*

6. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ có nhiều Tỳ-kheo vào thành Xá-vệ khất thực, nghe ngoài cổng cung vua Ba-tư-nặc có rất đông dân chúng khoa tay, kêu la oán trách: ‘Trong nước có giặc tên Ương-quật-ma (Angulimala) rất hung bạo, sát hại người không kể xiết, chẳng có lòng thương xót chúng sanh. Nhân dân trong nước đều chán ghét. Mỗi ngày bắt người giết, lấy ngón tay xâu làm tràng hoa, gọi là Chỉ Man. Cúi mong Ðại vương hãy đến đánh hắn!’. Các Tỳ-kheo khất thực xong trở về Tinh xá Kỳ Hoàn, thu xếp y bát, vắt tọa cụ lên vai, đi đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi ngồi một bên. Bấy giờ những Tỳ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

– Nhiều Tỳ-kheo chúng con vào thành Xá-vệ khất thực, thấy nhân dân ở trước cổng vương cung kêu oán, tố cáo: ‘Nay vương quốc có giặc tên Ương-quật-ma là người hung bạo, không có lòng từ, sát hại tất cả chúng sanh, người chết đất nước trống rỗng đều do hắn lấy ngón tay người làm tràng hoa’.

Bấy giờ, Thế Tôn nghe Tỳ-kheo kia nói xong, liền từ tòa đứng dậy, lặng thinh mà đi. Khi ấy, Thế Tôn tìm đến chỗ tên giặc kia. Những người lượm củi, gánh cỏ về người chăn trâu, chăn dê thấy Thế Tôn đến đường đó, họ bèn bạch Phật rằng:

– Sa-môn! Sa-môn! Chớ đi theo đường đó. Vì sao vậy? Bên đường này có giặc tên Ương-quật-ma ở trong đó. Những người muốn đi đường này, phải nhóm mười người, hoặc hai mươi người, ba mươi, bốn mươi, năm mươi người vẫn còn chẳng qua nổi, đều bị Ương-quật-ma bắt hết. Mà Sa-môn Cù-đàm lại đi một mình không có bạn, bị Ương-quật-ma xúc nhiễu, vì đối với việc không dè dặt.

Thế Tôn tuy nghe nói mà vẫn tiến bước không dừng lại. Khi đó mẹ của Ương-quật-ma đem thức ăn đến chỗ ông ta. Lúc ấy Ương-quật-ma nghĩ: ‘Vòng ngón tay của ta không biết đủ số chưa?’, liền đếm ngón tay thấy chưa đủ số, lại đếm một lần nữa, chỉ thiếu có một ngón. Ương-quật-ma bèn nhìn chung quanh tìm người muốn bắt giết, nhưng nhìn bốn bên cũng chẳng thấy ai, liền nghĩ: ‘Thầy ta có dạy: người nào có thể hại mẹ mình, thì sẽ sanh lên trời’. Nay mẹ ta tự đến đây, tức là có thể bắt giết, ngón tay được đủ số chắc chắn sẽ sanh lên trời’. Rồi Ương-quật-ma tay trái nắm đầu mẹ, tay phải rút gươm, nói với mẹ:

– Dừng một tí, Mẹ!

Khi ấy, Thế Tôn liền nghĩ: ‘Tên Ương-quật-ma này sẽ phạm ngũ nghịch’. Ngài liền phóng hào quang giữa chặng mày chiếu sáng khắp núi rừng ấy. Ương-quật-ma thấy ánh sáng, liền nói với mẹ:

– Ðây là ánh sáng gì chiếu rừng núi này? Chẳng phải quốc vương tụ tập binh lính để công phạt ta chăng?

Người mẹ bảo:

– Nay Con nên biết. Ðây không phải là ánh lửa của mặt trời, mặt trăng, cũng không phải là ánh sáng của Thích, Phạm thiên vương.

Bấy giờ, người mẹ liền nói kệ:

‘Ðây không phải lửa sáng,
Chẳng trời, trăng, Thích, Phạm,
Chim thú chẳng kinh sợ,
Hót mừng khác bình thường.
Ánh sáng rất thanh tịnh,
Khiến người vui vô cùng,
Ắt bậc Tôn tối thắng,
Thập Lực đến nơi đây,
Ở trong Trời và Người,
Thiên nhãn xem thế giới,
Nên muốn độ cho Con,
Thế Tôn đến nơi này.

Khi ấy, Ương-quật-ma nghe âm hưởng Phật, vui mừng hớn hở không thể kiềm được liền nói:

– Thầy ta cũng có dạy, bảo ta rằng: ‘Nếu ngươi giết được mẹ và giết Sa-môn Cù-đàm, chắc chắc sẽ được sanh lên trời’.

Ương-quật-ma bảo mẹ:

– Mẹ hãy đứng đây. Con giết Sa-môn Cù-đàm trước đã, rồi sẽ ăn sau.

Rồi Ương-quật-ma buông mẹ ra, đuổi theo Thế Tôn, xa thấy Thế Tôn đi đến, như khối vàng tỏa sáng khắp nơi, thấy rồi cười nói:

– Nay Sa-môn Cù-đàm nhất định chết trong tay ta không còn nghi ngờ. Những người muốn đi đường này đều tụ tập đông người, còn Sa-môn Cù-đàm chỉ đi một mình, không bạn lữ, nay ta sẽ bắt giết.

Khi ấy, Ương-quật-ma rút kiếm chạy đến để hại Thế Tôn. Thế Tôn cứ theo đường thong thả bước đi, Ương-quật-ma rượt đuổi mà chẳng kịp Như Lai, ông ta bèn bảo Thế Tôn:

– Dừng lại, dừng lại, Sa-môn!

Thế Tôn bảo:

– Ta đã dừng rồi. Còn Ông chẳng chịu dừng.

Ương-quật-ma vừa chạy vừa nói kệ:

Ði mà lại nói dừng,
Bảo rằng tôi không dừng,
Hãy giải nghĩa cho tôi,
Ðó dừng, tôi chẳng dừng?
Bấy giờ, Thế Tôn dùng kệ đáp:
Thế Tôn đã nói dừng,
Vì không hại tất cả,
Nay Ông có tâm sát,
Chẳng lìa nơi nguồn ác,
Ta trụ đất tâm từ,
Thương giúp tất cả người,
Ông gieo khổ địa ngục,
Chẳng lìa nơi nguồn ác.

Ương-quật-ma nghe kệ xong, liền nghĩ: ‘Nay xét lại ta làm ác chăng? Thầy ta bảo rằng: ‘Ðây là phước lớn, được quả báo lớn. Người có thể giết ngàn người lấy ngón tay làm tràng hoa, sẽ được đạt kết quả sở nguyện. Người như thế mạng chung rồi sẽ sanh cõi trời’. Nếu người giết mẹ và Sa-môn Cù-đàm sẽ được sanh lên Phạm thiên’.

Khi ấy, Phật dùng oai thần khiến thần thức ông ta bừng tỉnh, ông nghĩ các sách vở Phạm chí cũng có lời này: ‘Như Lai ra đời rất khó gặp, thường cả ức kiếp mới ra đời. Lúc Ngài ra đời, người chưa độ sẽ được độ, người không giải thoát sẽ khiến được giải thoát. Ngài thuyết pháp diệt sáu kiến chấp. Những gì là sáu? Ai nói có ngã kiến, Ngài thuyết pháp ngã kiến; người nói không có ngã, Ngài cũng thuyết pháp diệt không có ngã kiến cho họ; người nói có ngã kiến và không có ngã kiến, Ngài cũng thuyết pháp diệt có ngã kiến và không ngã kiến cho họ; Ngài lại tự quán sát và thuyết pháp quán sát; tự thuyết pháp vô ngã; Pháp chẳng phải ta thuyết cũng chẳng phải ta chẳng thuyết!

Nếu Như Lai ra đời, sẽ thuyết pháp diệt lục kiến này. Hơn nữa, lúc ta chạy có thể kịp voi, ngựa, xe cộ và cả mọi người. Nhưng Sa-môn này đi không gấp gáp, vậy mà ta theo chẳng kịp. Chắc Ngài là Như Lai.

Lúc ấy, Ương-quật-ma liền nói kệ:

‘Nay Ngài đã vì con,
Mà thuyết kệ vi diệu,
Người ác nay biết chân,
Ðều do oai thần Ngài.
Tức thời buông kiếm bén,
Liệng vào trong hầm sâu,
Nay lễ chân Sa-môn,
Và mong làm Sa-môn.

Ương-quật-ma bèn đến trước bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Cúi mong cho con làm Sa-môn.

Thế Tôn bảo:

– Khéo đến! Tỳ-kheo!

Ương-quật-ma liền thành Sa-môn, mặc ba pháp y. Bấy giờ Thế Tôn bèn nói kệ:

‘Nay Thầy đã cạo đầu
Trừ kiết sử cũng vậy,
Kết diệt thành đại quả,
Không còn sầu khổ não.

Khi ấy, Ương-quật-ma nghe xong, tức thời các trần cấu sạch hết, được pháp nhãn thanh tịnh. Thế Tôn đem Tỳ-kheo Ương-quật-ma trở về Tinh Xá Kỳ Hoàn ở thành Xá-vệ.

Vua Ba-tư-nặc đang tụ tập bốn binh chủng, muốn đến dẹp giặc Ương-quật-ma.

Khi ấy, vua nghĩ: ‘Ngay ta nên đến chỗ Thế Tôn đem nhân duyên này bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn có dạy gì, ta sẽ vâng theo’.

Vua Ba-tư-nặc liền họp bốn bộ binh đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi ngồi một bên. Thế Tôn hỏi vua:

– Ðại vương! Hôm nay muốn đi đâu, mà bụi bặm đầy người như thế?

Vua Ba-tư-nặc bạch Phật:

– Hôm nay trong nước con có giặc tên Ương-quật-ma rất là hung bạo, không có lòng từ đối với tất cả chúng sanh, khiến đất nước hoang sơ, dân chúng bỏ chạy tán loạn, đều do tên giặc này, giết người lấy ngón tay làm vòng hoa. Ðây là ác quỷ chớ chẳng phải là người. Nay con muốn giết chết hắn. Thế Tôn bảo:

– Ðại vương! Nếu bây giờ vua thấy Ương-quật-ma lòng tin kiên cố, xuất gia học đạo thì vua sẽ làm gì?

Vua bạch Phật:

– Còn biết làm sao? Con sẽ thừa sự cúng dường tùy thời lễ bái. Nhưng thưa Thế Tôn! Ương-quật-ma là ác nhân, không có một chút xíu lành, hằng giết hại, làm sao có thể phát tâm xuất gia học đạo được? Việc này hoàn toàn không thể có.

Khi ấy Ương-quật-ma ngồi cách Thế Tôn chẳng xa, ngồi kiết-già chính thân, chính ý, cột niệm ở trước. Bấy giờ Thế Tôn đưa tay phải chỉ cho vua, nói:

– Ðây là Ương-quật-ma.

Vua nghe xong kinh sợ, áo lông dựng ngược. Thế Tôn bảo:

– Chớ kinh sợ, hãy đến trước người ấy, rồi vua sẽ hiểu ý.

Vua nghe Phật nói, liền đến trước Ương-quật-ma hỏi:

– Nay ngài họ gì?

Ương-quật-ma nói:

– Tôi họ Già-già, mẹ tên Mãn-túc.

Vua cúi lạy, rồi ngồi một bên. Vua bảo:

– Khéo vui trong Chánh pháp này, chớ có giải đãi, tu Phạm hạnh thanh tịnh, sẽ được dứt mé khổ. Tôi sẽ trọn đời cúng dường y phục, thức ăn, giường mền, thuốc men.

Ương-quật-ma im lặng chẳng đáp. Vua liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trở lại chỗ Thế Tôn, cúi lạy và ngồi một bên. Vua bạch Phật:

– Người không hàng khiến hàng, người không phục khiến phục. Thật là kỳ đặc chưa hề có! Ngài có thể hàng phục được người cực ác. Cúi mong Thế Tôn! Mong cầu Ngài được thọ mạng vô cùng, nuôi lớn chúng sanh. Nhờ ơn Thế Tôn mà chúng con khỏi được nạn này. Quốc sự quá bề bộn, nay con muốn trở về thành.

Thế Tôn bảo:

– Vua biết đúng lúc.

Bấy giờ Quốc vương liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cúi lạy rồi lui đi.

Khi ấy Ương-quật-ma tu hạnh tịch tĩnh, mặc áo năm mảnh, đến giờ ôm bát đi từng nhà khất thực, giáp vòng rồi trở lại từ đầu, mặc y rách và rất thô xấu; lại ngồi giữa trời không mái che thân. Bấy giờ Ương-quật-ma ở chỗ vắng vẻ, tự tu hạnh mà con nhà vọng tộc xuất gia học đạo muốn tu Phạm hạnh vô thượng, sanh tử đã tận, Phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không tái sanh nữa, như thực mà biết. Và Ương-quật-ma thành A-la-hán, lục thông trong suốt, không có trần cấu. Ðã thành A-la-hán, đến giờ ngài đắp y ôm bát vào thành Xá-vệ khất thực. Khi đó có phụ nữ đang sanh khó khăn. Ngài thấy rồi nghĩ thầm: ‘Chúng sanh rất là đau khổ, thọ thai vô hạn’.

Ương-quật-ma ăn xong, thu dọn y bát, vắt tọa cụ lên vai đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy, ngồi một bên. Bấy giờ Ương-quật-ma bạch Phật:

– Con vừa đắp y ôm bát vào thành Xá-vệ khất thực, thấy một phụ nữ đang sanh khó khăn. Khi ấy con nghĩ rằng: ‘Chúng sanh chịu khổ, sao đến như thế!’.

Thế Tôn bảo:

– Nay Thầy đến chỗ bà ấy nói rằng: ‘Từ khi tôi sanh trong dòng Hiền Thánh đến nay, chưa hề sát sanh!’ Ðem lời chí thành này khiến bà ấy sanh được nhẹ nhàng.

Ương-quật-ma thưa:

– Xin vâng, Thế Tôn!

Ngài Ương-quật-ma, ngay hôm ấy đắp y, ôm bát vào thành Xá-vệ, đến nhà phụ nữ kia, bảo:

– Từ khi tôi sanh trong dòng Hiền Thánh đến nay, chưa hề sát sanh. Xin đem lời chí thành này khiến cho thai ra được.

Khi ấy phụ nữ kia liền sanh được.

Ngài Ương-quật-ma khất thực trong thành, nam nữ, lớn nhỏ trông thấy mỗi người đều bảo nhau:

– Ðây là Ương-quật-ma đã giết hại chúng sanh nhiều không thể kể, nay lại khất thực trong thành.

Nhân dân trong thành liền lấy ngói, đá ném ngài; có người lấy dao chém, ngài bị thương khắp đầu mặt, y phục rách nát, máu chảy khắp thân. Ngài ra khỏi thành Xá-vệ, đến chỗ Thế Tôn, Thế Tôn xa thấy Ương-quật-ma đầu mặt bị thương, máu chảy nhuộm y đang đi đến. Ngài liền bảo:

– Nay Thầy hãy nhẫn. Vì sao thế? Tội Thầy đáng lẽ chịu khổ vĩnh kiếp.

Khi ấy, Ương-quật-ma đến chỗ Thế Tôn cúi lạy, ngồi một bên, rồi ở trước Như Lai nói kệ:

‘Kiên cố nghe pháp cú,
Kiên cố hành Phật pháp,
Kiên cố gần bạn lành,
Liền đến chỗ diệt-tận.
Con vốn là đại tặc,
Tên là Ương-quật-ma,
Bị trôi nổi giữa dòng,
Nhờ Thế Tôn cứu vớt.
Nay quán tự quy nghiệp,
Cũng sẽ quán pháp bổn,
Nay đã được tam minh,
Thành tựu hạnh nghiệp Phật.
Con vốn tên Vô Hại,
Lại giết hại vô kể,
Nay tên Chân Ðế Thực,
Chẳng hại hết tất cả.
Nếu lại thân, miệng ý,
Ðều không tâm thức hại,
Ðây gọi không sát hại,
Hà huống khởi tư tưởng.
Thợ bắn cung nắn tên,
Thủy thủ, khéo dẫn nước,
Thợ khéo uốn nắn cây,
Người trí tự điều thân,
Hoặc bị roi gậy đánh,
Hoặc bị lời sỉ nhục,
Trọn không thêm dao gậy,
Nay con tự hàng phục.
Trước là người làm ác,
Sau dừng không phạm nữa,
Sẽ chiếu sáng thế gian,
Như mây tan trăng hiện.
Người trước làm lỗi ác,
Sau dừng, không phạm nữa,
Sẽ chiếu sáng thế gian,
Như mây tan, trời hiện.
Tỳ-kheo già, trẻ, trung,
Tu hành theo Phật pháp,
Sẽ chiếu sáng thế gian,
Như trăng kia, mây tan.
Tỳ-kheo già, trẻ, trung,
Người tu hành Phật pháp,
Chiếu sáng thế gian này,
Như mặt trời, mây tan.
Nay con chịu đau ít,
Uống ăn tự biết đủ,
Thoát hẳn tất cả khổ,
Duyên xưa nay đã dứt.
Không chịu dấu chết nữa,
Cũng chẳng ưa sanh lại,
Nay chính chờ thời tiết,
Hoan hỷ mà chẳng loạn.

Như Lai chấp nhận lời của Ương-quật-ma.

Ngài Ương-quật-ma thấy Như Lai bằng lòng rồi, liền từ chỗ ngồi đứng lên, lạy Thế Tôn rồi lui đi

Khi ấy chư Tỳ-kheo bạch Thế Tôn:

– Ương-quật-ma vốn tạo công đức gì mà ngày nay được thông minh trí tuệ, diện mạo đoan chánh hiếm có ở đời? Lại tạo hạnh chẳng lành nào, mà đời này sát hại chúng sanh vô kể? Lại tạo công đức nào, mà nay gặp Thế Tôn được đắc quả A-la-hán?

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Ngày xưa, ở quá khứ lâu xa, trong thời Hiền kiếp có Phật Ca-diếp Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác xuất hiện ở đời. Sau khi đức Ca-diếp Như Lai nhập diệt, có vua Ðại Quả, thống lãnh cõi nước ở Diêm-phù-đề. Vua có đến tám vạn bốn ngàn cung phi thể nữ mà không có con. Bấy giờ vua Ðại Quả khẩn cầu các thần cây, thần núi, tinh tú, nhật nguyệt khắp nơi, mong được con cái.

Khi ấy, đệ nhất phu nhân của vua bèn có thai, tám chín tháng sau sanh được một bé trai, nhan mạo đoan chánh, hiếm có ở đời. Vua liền nghĩ: ‘Ta vốn không có con, qua biết bao lâu mới sanh con, nên đặt tên, khiến cho vui chơi trong ngũ dục’.

Khi ấy, vua cho mời những quần thần biết xem tướng đến bảo:

– Nay Ta đã sanh con, các Ông nên đặt tên tự.

Quần thần nghe vua dạy thế, liền tâu:

– Nay thái tử rất là kỳ diệu, đoan chánh vô song, mặt như màu hoa đào, chắc chắn sẽ có thế lực lớn. Bây giờ hãy đặt tên là Ðại Lực.

Các thầy tướng đặt tên cho thái tử xong đứng dậy đi ra. Quốc vương rất yêu thái tử, chưa hề rời mắt. Khi thái tử vừa tám tuổi, theo các cận thần đến chỗ cha mình, triều giá thăm hỏi. Vua cha liền nghĩ: ‘Nay thái tử thật là kỳ đặc’, rồi bảo rằng:

– Ta muốn cưới vợ cho con, được không?

Thái tử tâu vua:

– Con tuổi còn thơ ấu, đâu cần cưới vợ!

Vua cha bèn tạm hoãn không cưới vợ cho thái tử. Ðến khi thái tử hai mươi tuổi, vua lại bảo rằng:

– Ta muốn cưới vợ cho con.

Thái tử tâu:

– Chẳng cần lấy vợ.

Vua cha bảo quần thần và nhân dân:

– Ta vốn không con, trải qua bao nhiêu lâu mới sanh được một thái tử. Nay thái tử không chịu lấy vợ, muốn thanh tịnh không tỳ vết.

Bấy giờ, thái tử đổi tên thành Thanh Tịnh. Khi thái tử Thanh Tịnh vừa ba mươi tuổi, vua lại ra lệnh cho quần thần:

– Nay ta tuổi đã suy yếu, lại hiếm con cái, chỉ có thái tử Thanh Tịnh. Nay địa vị cao trọng của vua nên truyền cho thái tử, mà thái tử chẳng ưa ngũ dục, làm sao lo việc nước?

Quần thần đáp:

– Hãy dùng phương tiện cho thái tử ưa ngũ dục.

Khi ấy, vua cha liền đánh chuông, gióng trống ra lệnh cho nhân dân trong nước: ‘Ai có thể khiến thái tử Thanh Tịnh vui ngũ dục, ta sẽ ban cho ngàn vàng và các báu vật’.

Bấy giờ, có một cô gái tên là Dâm Chủng, biết rõ sáu mươi bốn cách. Cô gái ấy nghe vua ra lệnh ‘Ai có thể khiến thái tử làm quen với ngũ dục, sẽ ban cho ngàn cân vàng và các báu vật’, liền đến chỗ tâu vua:

– Hãy cho tôi ngàn vàng và các báu vật, tôi có thể khiến thái tử tập quen ngũ dục.

Vua đáp:

– Nếu xét có thể được vậy, thì ta sẽ trọng thưởng, chẳng trái lời.

Dâm nữ tâu vua:

– Thái tử ngủ ở đâu?

Vua đáp:

– Ở đông đường, không có đàn bà, chỉ có một đàn ông làm thị vệ.

Cô gái tâu:

– Cúi mong Ðại vương ra lệnh người trong nội cung thấy tôi chớ cản trở, cho tùy ý ra vào.

Trong canh hai đêm ấy, cô gái đứng bên cửa phòng thái tử, cất tiếng khóc. Thái tử nghe tiếng đàn bà khóc, liền sai người hầu đến hỏi:

– Người nào khóc vậy?

Người hầu đáp:

– Có người đàn bà đứng khóc bên cửa.

Thái tử bảo:

– Ông mau đến hỏi xem tại sao khóc?

Người hầu bèn đến hỏi cô ta tại sao khóc.

Dâm nữ đáp:

– Tôi bị chồng bỏ nên tôi khóc.

Người hầu trở vào tâu thái tử:

– Người đàn bà này bị chồng bỏ, lại sợ giặc trộm, vì thế mà khóc.

Thái tử bảo:

– Dẫn cô ta đến chuồng voi!

Ðến đó, cô ta cũng khóc nữa, lại đem dẫn đến chuồng ngựa, cũng khóc.

Thái tử lại bảo người hầu:

– Ðem vào đây!

Người hầu liền dẫn cô ta vào nhà. Cô vào rồi, lại đứng khóc nữa. Thái tử đích thân đến hỏi:

– Sao còn khóc nữa?

Dâm nữ đáp:

– Thái tử! Thân đàn bà yếu đuối lẻ loi, rất sợ hãi cho nên tôi khóc.

Thái tử bảo:

– Lên giường của ta đi, có thể hết sợ.

Cô gái làm thinh chẳng nói, cũng không khóc nữa. Rồi cô ta cởi bỏ y phục, nắm tay thái tử để lên ngực mình. Tức thời, thái tử kinh sợ, dục tưởng dần dần nổi lên. Dục tưởng đã khởi liền thành thân với cô ta.

Sáng sớm hôm sau, thái tử Thanh Tịnh đến chỗ vua. Vua cha từ xa thấy vẻ mặt thái tử khác hơn ngày thường, liền nói:

– Việc mong muốn của con nay có kết quả rồi chăng?

Thái tử đáp:

– Ðúng như lời Ðại vương nói.

Lúc ấy, vua cha vui mừng hớn hở không thể kềm được, bảo rằng:

– Con mong cầu điều gì, ta sẽ ban cho?

Thái tử nói:

– Ban cho con rồi chớ nên hối hận, thì con sẽ xin.

Vua bảo:

– Sẽ đúng như lời con, trọn không hối hận. Con muốn xin gì?

Thái tử tâu:

– Ngày nay Ðại vương thống lãnh Diêm-phù-đề, hoàn toàn tự do. Các cô gái chưa chồng trong Diêm-phù-đề phải đến nhà con trước, sau đó mới cho lấy chồng.

Vua nói:

– Tùy theo lời con.

Vua liền ra lệnh cho nhân dân trong nước:

– Ai có con gái chưa xuất giá, trước phải cho đến với thái tử Thanh Tịnh, sau đó hãy gả chồng.

Bấy giờ trong thành có cô gái tên là Tu Man, con gái trưởng giả tới phiên mình phải vào cung vua, bèn khỏa thân đi chân không giữa đám đông, chẳng hổ thẹn gì cả. Mọi người trông thấy bèn bảo nhau:

– Ðây là con gái trưởng giả nổi tiếng khắp nơi, tại sao lại khỏa thân đi giữa đám đông chẳng khác gì lừa!

Cô gái bảo mọi người:

– Tôi chẳng phải lừa, mấy người các Ông mới là lừa. Các Ông có thấy đàn bà gặp đàn bà mà hổ thẹn sao? Chúng sanh trong thành này đều là đàn bà. Chỉ có thái tử Thanh Tịnh là đàn ông. Nếu tôi đến cửa cung của thái tử Thanh Tịnh, tôi sẽ mặc y phục.

Khi ấy nhân dân trong thành bảo nhau:

– Cô này nói thật vừa ý tôi. Chúng ta thực là đàn bà chẳng phải đàn ông. Chỉ có thái tử Thanh Tịnh mới là đàn ông. Hôm nay chúng ta sẽ làm đàn ông.

Rồi, nhân dân trong thành, sắm sửa chiến cụ, mặc giáp cầm gậy, đến cung vua, tâu vua rằng:

– Chúng thần muốn xin hai điều, xin vua chấp nhận.

Vua hỏi:

– Hai điều gì?

Dân chúng tâu:

– Vua muốn còn sống, hãy giết thái tử Thanh Tịnh. Thái tử muốn sống, nay hãy giết vua. Chúng tôi chẳng chịu phụng sự thái tử Thanh Tịnh, làm nhục phép nước.

Khi ấy, nhà vua bèn nói kệ:

‘Vì nhà, mất một người,
Vì làng, mất một nhà,
Vì nước, mất một làng,
Vì thân, mất thế gian’.

Vua nói kệ xong, bảo dân chúng rằng:

– Nay chính phải lúc, tùy ý các Ngươi.

Mọi người liền đem thái tử Thanh Tịnh trói hai tay dẫn ra ngoài thành. Họ bảo nhau:

– Chúng ta cùng lấy ngói, đá ném chết. Ðâu cần một người giết làm chi!

Thái tử Thanh Tịnh lúc sắp chết, nói lời thề rằng:

– Các Người giết ta oan uổng. Vì chính vua cha cho phép ta. Nay ta chịu chết cũng chẳng dám từ. Mong ta đời sau sẽ báo được oán này, lại khiến ta gặp được bậc Chân nhân La-hán mau được giải thoát.

Khi đó nhân dân giết thái tử xong, giải tán đi.

Các Tỳ-kheo, chớ xem như thế! Bấy giờ vua Ðại Quả đâu phải ai lạ, nay chính là thầy của Ương-quật-ma đấy. Dâm nữ lúc đó nay là vợ của ông thầy. Nhân dân bấy giờ, nay là tám vạn dân bị chết, đó là như vậy. Thái tử Thanh Tịnh nay là Tỳ-kheo Ương-quật-ma. Lúc sắp chết ông ấy thệ nguyện như vậy nay trở lại báo oán không người nào thoát khỏi tay, do nhân duyên này giết hạn vô hạn. Sau ông ấy lại nguyện muốn gặp Phật, giờ được giải thoát, thành A-la-hán. Ðây là ý nghĩa, nên nhớ vâng làm. Khi ấy, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Trong hàng đệ tử của ta, người có trí thông minh mau lẹ, là Tỳ-kheo Ương-quật-ma.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, hoan hỷ vâng làm.

XXXVIII.2. Phẩm Lực (2)

7. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở thành La-duyệt, trong núi Kỳ-xà-quật, cùng chúng đại Tỳ-kheo năm trăm người.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Các Thầy có thấy núi Linh Thứu này chăng?

Các Tỳ-kheo đáp:

– Dạ thấy, bạch Thế Tôn.

– Các Thầy nên biết, thời quá khứ lâu xa, núi này có tên khác, chẳng như bây giờ. Các Thầy lại thấy núi Quảng Phổ chăng?

Các Tỳ-kheo đáp:

– Dạ thấy, bạch Thế Tôn.

– Các Thầy nên biết, thời quá khứ lâu xa, núi này lại có tên khác, chẳng giống bây giờ. Các Thầy thấy núi Bạch Thiện chăng?

Các Tỳ-kheo đáp:

– Dạ thấy, bạch Thế Tôn.

– Quá khứ lâu xa, núi này lại có tên khác, chẳng như bây giờ. Các Thầy có thấy núi Phụ Trọng này không?

Các Tỳ-kheo đáp:

– Dạ thấy, bạch Thế Tôn.

– Các Thầy có thấy núi Tiên Nhân Quật này chăng?

Các Tỳ-kheo đáp:

– Dạ thấy, bạch Thế Tôn.

– Núi này từ quá khứ lâu xa vẫn chỉ tên này không có tên khác. Vì sao vậy? Núi Tiên nhân này thường có Bồ-tát thần thông, La-hán đắc đạo, là chỗ của chư tiên ở, các Bích-chi Phật cũng dạo nơi đây. Nay Ta sẽ nói về danh hiệu Bích-chi Phật. Các Thầy hãy lắng nghe, khéo suy nghĩ.

Có chư Phật Bích-chi tên là A-lợi-tra, Bà-lợi-tra, Thẩm Ðế Trùng, Thiện Quán, Cứu Cánh, Thông Minh, Vô Cấu, Ðế Xà Niệm Quán, Vô Diệt Vô Hình, Thắng Tối Thắng, Cực Ðại, Cực Lôi, Ðiện Quang Minh. Này Tỳ-kheo! Khi Như Lai chưa xuất hiện, trong núi này có năm trăm Bích Chi Phật ở. Như Lai ở trên trời Ðâu-suất, lúc muốn hạ sanh, Thiên tử Tịnh Cư sẽ tự đến đây thông báo, ra lệnh khắp thế gian hãy làm sạch cõi Phật. Sau hai năm Như Lai sẽ xuất hiện ở đời. Các Bích-chi Phật nghe Thiên nhân nói xong, bay lên không trung nói kệ:

‘Lúc chư Phật chưa ra,
Xứ này Hiền Thánh ở,
Bích-chi Phật tự ngộ,
Hằng ở trong núi này.
Ðây gọi núi Tiên Nhơn,
Nơi Bích-chi Phật ở,
Tiên nhân và La-hán,
Trọn không có lúc trống’.

Khi ấy, các Bích-chi Phật ở trong không, thiêu thân nhập Niết-bàn. Vì sao thế? Ðời không có hai danh hiệu Phật nên các Ngài diệt độ. Trong một đoàn khách buôn, không có hai người dẫn đường; trong một nước, không hai vua; một cảnh giới Phật, không có hai tên hiệu. Vì sao thế? Quá khứ lâu xa, trong thành La-duyệt này có vua Hỷ Ích hằng nghĩ đến sự đau khổ của địa ngục, cũng nhớ sự khổ đau của ngạ quỷ, súc sanh. Lúc ấy vua nghĩ rằng: ‘Nay ta hằng nhớ sự khổ đau của địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, chẳng nên vào lại ba đường ác này, hãy bỏ hết ngôi vị quốc vương, vợ con, tôi tớ, đem lòng tin kiên cố xuất gia học đạo’.

Khi ấy, Ðại vương Hỷ Ích chán sự khổ đau, liền bỏ ngôi vua, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia học đạo, ở chỗ vắng vẻ, tự khép mình, quán năm thạnh ấm, quán vô thường. Nghĩa đây là sắc, đây là sắc tập, đây là sắc diệt; thọ, tưởng, hành, thức cũng như thế, thảy đều vô thường. Ngay lúc quán ngũ thạnh ấm, các pháp có thể tập, đều là pháp diệt. Quán pháp này xong, sau thành Bích-chi Phật. Khi ấy, Bích-chi Phật Hỷ Ích đã thành Phật quả liền nói kệ:

Ta nhớ khổ địa ngục,
Súc sanh trong năm đường,
Xả bỏ, nay học đạo,
Riêng đi mà chẳng lo.

Khi ấy vị Bích Chi Phật này ở trong núi Tiên Nhân.

Tỳ-kheo nên biết! Do phương tiện này mà biết, trong núi này thường có Bồ-tát, thần thông tự tại chân nhân đắc đạo và người học đạo tiên ở. Thế nên gọi là núi Tiên Nhân, không có tên khác. Lúc Như Lai chưa xuất hiện ở đời, trong núi Tiên Nhân này, chư Thiên thường đến cung kính. Vì sao thế? Trong núi toàn là bậc chân nhân, không có lẫn lộn người khác. Lúc Phật Di-lặc giáng trần, tên các núi đều thay đổi, chỉ núi Tiên Nhân này không có tên khác. Trong Hiền kiếp này, tên núi này cũng chẳng khác. Tỳ-kheo các Thầy nên gần gũi núi này, phụng sự cung kính thì sẽ được tăng thêm các công đức. Như thế, các Tỳ-kheo, nên học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, hoan hỷ vâng làm.

*

8. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Các Thầy hãy chuyên niệm mà tự tu chính mình. Thế nào là nên chuyên niệm? Ở đây, này Tỳ-kheo! Khi đi biết mình đi, các phép tắc cử động, tiến dừng, co duỗi, cúi ngước, mặc áo, ngủ nghỉ, thức tỉnh, nói hoặc im, thảy đều phải biết lúc. Nếu Tỳ-kheo tâm ý chuyên chính, Tỳ-kheo ấy dục lậu chưa sanh liền chẳng sanh, đã sanh liền diệt, hữu lậu chưa sanh khiến chẳng sanh, đã sanh liền diệt, vô minh lậu chưa sanh khiến chẳng sanh, đã sanh khiến diệt.

Nếu chuyên niệm phân biệt lục nhập, trọn sẽ không rơi vào ác đạo. Thế nào là lục nhập ác đạo? Mắt quán sắc này hoặc đẹp hoặc xấu, thấy đẹp thì vui, thấy xấu chẳng vui. Tai nghe tiếng hoặc hay hoặc dở, nghe hay thì vui, nghe dở thì chẳng vui; mũi, miệng, thân, ý cũng lại như thế. Ví như có sáu loại thú chó, dã hồ, khỉ, cá, rắn, chim, mỗi loại tính nết chẳng đồng, nếu có người lấy dây cột chúng lại, cột chung một chỗ rồi buông ra thì bấy giờ sáu con, mỗi con một tính hạnh, con chó thì muốn chạy đến xóm làng, dã hồ thì muốn chạy ra gò mả, cá thì muốn xuống nước, khỉ thì muốn vào rừng núi, rắn muốn bò vào hang, chim thì muốn bay lên trời. Sáu loại thú, mỗi con có tính hạnh chẳng giống nhau. Nếu có người đem sáu con vật này cột vào một nơi, khiến không cho chạy Ðông, Tây, Nam, Bắc gì được thì khi ấy sáu con tuy cũng chuyển động mà chẳng lìa chỗ cũ. Lục tình cũng lại như thế, mỗi thứ chỉ mỗi việc chẳng đồng. Sự quán khác biệt hoặc tốt, hoặc xấu. Bấy giờ các Tỳ-kheo cột sáu tình này để vào một chỗ. Thế nên, các Tỳ-kheo, hãy nhớ tinh chuyên, ý chớ lầm lẫn, thì tệ ma Ba-tuần trọn sẽ không được tiện lợi, các công đức sẽ được thành tựu. Thế nên, các Tỳ-kheo, hãy nhớ đầy đủ các căn, đắc nhị quả; ở trong hiện pháp được quả A-na-hàm, hoặc đắc quả A-la-hán. Như thế, các Tỳ-kheo, nên học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, hoan hỷ vâng làm.

*

9. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Lộc Dã, nước Ba-la-nại, cùng chúng đại Tỳ-kheo năm trăm người.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Nên tư duy, tưởng vô thường, quảng bá tưởng vô thường. Ðã tư duy tưởng vô thường, quảng bá tưởng vô thường thì sẽ đoạn dục ái, sắc ái, vô sắc ái, đoạn kết kiêu mạn, vô minh. Vì cớ sao?

Ngày xưa, trong thời quá khứ lâu xa, có Bích-chi Phật tên là Thiện Mục, nhan mạo đoan chánh, mặt như màu hoa đào, ngắm mãi không chán, miệng thơm hương hoa sen, thân có mùi chiên-đàn. Khi ấy, Bích-chi Phật Thiện Mục, đến giờ đắp y ôm báo vào thành Ba-la-nại khất thực, dần dần đến nhà đại trưởng giả, yên lặng đứng ngoài cửa. Cô con gái trưởng giả thấy có đạo sĩ đứng ngoài cửa, đoan chánh vô song, nhan mạo kỳ đặc hiếm có ở đời, miệng tỏa hương sen, thân thơm chiên-đàn, liền động lòng dục nói với Tỳ-kheo ấy rằng:

– Này Thầy đoan chánh, mặt như màu hoa đào, hiếm có ở đời. Nay tôi tuy là phận đàn bà, nhưng cũng đoan chánh, nên cùng nhau sum vầy. Trong nhà tôi dồi dào châu báu, tài sản vô lượng; còn làm Sa-môn thật chẳng dễ.

Bích-chi Phật bèn hỏi:

– Này Cô! Nay Cô bị đắm nhiễm chỗ nào?

Cô gái trưởng giả đáp:

– Nay tôi chính là để ý con mắt thầy, miệng lại thơm mùi sen, thân có mùi chiên-đàn.

Bích-chi Phật liền duỗi tay trái, dùng tay phải móc mắt đặt vào bàn tay, bảo:

– Con mắt đáng yêu đây! Này Cô, bây giờ đắm nhiễm chỗ nào? Ví như mụn nhọt, chẳng có chút nào đáng ưa. Mà con mắt này cũng rỉ chảy chẳng sạch. Cô nên biết! Mặt như bọt nổi chẳng kiên cố gì, huyễn ngụy không thật, dối gạt người đời. Mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý, đều không kiên cố, lừa dối chẳng chơn thật. Miệng là chỗ khạc đờm dãi bất tịnh, toàn là xương trắng. Thân là vật khổ, là pháp hoại diệt, hằng chứa đồ hôi thúi, các trùng quấy nhiễu. Cũng như trong cái bình vẽ, chứa đầy bất tịnh. Này Cô! Hôm nay Cô bị dính mắc chỗ nào? Thế nên, Cô nên chuyên tâm suy nghĩ, pháp này huyễn ngụy không chân. Nếu Cô suy nghĩ nhãn sắc vô thường, thì dục tưởng đắm trước sẽ tự tiêu diệt; tai, mũi, miệng, thân ý thảy đều vô thường, suy nghĩ như thế rồi, dục ý sẽ tự tiêu trừ, tư duy lục nhập sẽ không dục tưởng.

Khi ấy, cô gái trưởng giả khiếp sợ, liền đến trước lạy Bích-chi Phật, bạch rằng:

– Từ nay trở đi, con xin sửa lỗi làm lành, không khởi dục tưởng nữa. Cúi mong Ngài cho con hối lỗi.

Như thế hai ba phen. Bích-chi Phật bảo:

– Thôi! Thôi! Này Cô! Ðây chẳng phải là lỗi của Cô mà là do tội cũ của ta khiến thọ thân hình này, làm cho người khởi tình ý tham muốn. Hãy nhìn kỹ con mắt này. Mắt này chẳng phải ta, ta cũng chẳng phải do kia có, cũng chẳng phải ta tạo, cũng chẳng phải kia làm, do từ trong chỗ không có mà sanh, đã có sẽ bị bại hoại, cũng chẳng phải đời trước, đời này, đời sau, mà đều do nhân duyên hội họp.

Nhân duyên hội họp là: duyên cái này có cái này, đây khởi thì kia khởi, đây không thì kia không, đây diệt thì kia diệt. Mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý cũng lại như thế, thảy đều không tịch. Thế nên, Cô chớ dính mắc nhãn sắc; vì không dính sắc thì sẽ đến chỗ an ổn, không có tình dục nữa. Như thế, Cô nên học điều này.

Khi ấy Bích-chi Phật thuyết bốn pháp vô thường cho cô gái rồi, bay lên hư không, hiện mười tám pháp thần biến rồi về chỗ mình. Cô gái kia quán mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý trọn không có gì, liền ở chỗ vắng vẻ, suy tư pháp này. Cô lại tư duy sáu tình không có chủ tể, được bốn bình đẳng tâm (từ, bi, hỷ, xả). Khi thân hoại mạng chung, Cô sanh lên trời Phạm thiên.

Tỳ-kheo nên biết! Nếu tư duy tưởng vô thường, quảng bá tưởng vô thường, sẽ đoạn hết dục ái, sắc ái, vô sắc ái; kiêu mạn, vô minh thảy đều trừ sạch. Thế nên, Tỳ-kheo, nên học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, hoan hỷ vâng làm.

*

10. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc bảo người đánh xe rằng:

– Nay ngươi sửa soạn xe vũ bảo. Ta muốn ra ngoài dạo xem.

Người kia vâng lệnh vua sửa soạn xe xong đến trước tâu vua:

– Ðã sửa soạn xe vũ bảo xong. Vua nên biết đúng thời.

Vua Ba-tư-nặc bảo người này đánh xe ra khỏi thành Xá-vệ. Ðến vườn cảnh xem thấy cây cối không một tiếng động, không một bóng người, lặng lẽ vắng không. Vua thấy rồi chợt nhớ Như Lai nói về gốc của các pháp. Khi đó người hầu cầm quạt, quạt vua. Vua nói:

– Vườn trái cây cối này không có tiếng động, không có bóng người, lặng lẽ, vắng vẻ. Ta muốn thỉnh đức Thế Tôn Chí Chân Ðẳng Chánh Giác đến du hóa ở đây. Nhưng chẳng biết Như Lai nay ở đâu, Ta muốn đến thăm hỏi.

Người hầu tâu:

– Họ Thích có làng tên Lộc Ðường. Như Lai đang du hóa ở đó.

Vua Ba-tư-nặc bảo:

– Lộc Ðường cách đây bao xa?

Người hầu tâu:

– Trụ xứ của Như Lai cách đây không xa. Ði đường chừng ba do tuần.

Vua Ba-tư-nặc bảo:

– Mau lấy xe vũ bảo, ta muốn gặp Như Lai.

Người hầu vâng lệnh vua, liền chuẩn bị xe, đến trước vua tâu:

– Nay xe đã sẵn sàng, vua nên biết đúng thời.

Vua liền lên xe đến làng kia. Khi ấy, chúng Tỳ-kheo đang kinh hành ngoài trời. Vua liền xuống xe đến chỗ các Tỳ-kheo cúi lạy, rồi đứng một bên. Vua thưa các Tỳ-kheo:

– Như Lai ở đâu? Tôi muốn gặp.

Các Tỳ-kheo đáp:

– Thế Tôn đang ở trong giảng đường, hãy đến gặp, chẳng khó khăn gì.

Vua chầm chậm nhấc chân, không để có tiếng động. Vua quay lại nhìn người hầu, người này liền nghĩ: ‘Nay vua đi một mình đến gặp Thế Tôn. Ta nên đứng đây’. Và vua đi một mình đến chỗ Thế Tôn. Bấy giờ Thế Tôn dùng thiên nhãn xem thấy vua Ba-tư-nặc đứng ngoài cửa, Ngài liền đứng lên mở cửa cho vua. Vua thấy Thế Tôn, cúi lạy và xưng tên họ ba lần.

– Con là vua Ba-tư-nặc.

Thế Tôn bảo:

– Nay Ngài là vua, còn Ta họ Thích, xuất gia học đạo.

Vua thưa:

– Cúi mong Thế Tôn sống lâu vô cùng, để cho Trời Người được an ổn.

Thế Tôn bảo:

– Chúc Ðại vương được thọ vô cùng, đem Chánh pháp trị dân, chẳng dùng phi pháp. Những vị dùng pháp cai trị đều sanh lên trời, cõi lành; sau khi chết, tên tuổi bất hủ, người đời sẽ truyền nhau rằng: ‘Xưa có quốc vương dùng pháp trị dân chưa từng ép uổng’. Nhân dân trong nước đều ca ngợi công đức của vua; nhớ mãi chẳng quên. Thân vua ở trên trời tăng thêm sáu việc công đức. Thế nào là sáu? Thiên thọ; thiên sắc; thiên lạc; thiên thần túc; thiên hao; thiên quang. Thế nên, Ðại vương, hãy dùng pháp trị chớ dùng phi pháp… Ngày nay chính Ta có công đức nầy nên được người cung kính lễ bái.

Vua bạch Phật:

– Công đức Như Lai đáng nhận người lễ bái.

Thế Tôn bảo:

– Vì sao nay vua nói rằng Như Lai đáng nhận người lễ bái?

Vua bạch Phật:

– Như Lai có sáu công đức, đáng được người lễ bái. Thế nào là sáu? Chính pháp Như Lai rất hòa nhã, được người trí tu hành. Ðó là công đức đầu tiên của Như Lai.

Lại nữa, Thánh chúng của Như Lai rất hòa thuận, pháp pháp đều thành tựu, giới thành tựu, trí tuệ thành tựu, giải thoát thành tựu, giải thoát tri kiến thành tựu. Thánh chúng là bốn đôi, tám bậc. Ðây là Thánh chúng của Như Lai, đáng kính, đáng quý, là đại phước điền của thế gian. Ðó là công đức thứ hai của Như Lai.

Lại nữa, bốn bộ chúng của Như Lai đều học tập thực hành các pháp nên thi hành, không xúc nhiễu Như Lai nữa. Ðó là công đức thứ ba của Như Lai.

Lại nữa, Thế Tôn! Con thấy dòng Sát Lợi, Bà-la-môn, Cư sĩ, Sa-môn cao tài cái thế đều đến tụ tập luận nghị: ‘Chúng ta hãy đem luận này đến hỏi Như Lai. Nếu Sa-môn Cù-đàm không đáp luận này tức là ông ta có khuyết điểm. Nếu trả lời được chúng ta sẽ khen hay’. Bấy giờ, bốn dòng họ đều đến chỗ Thế Tôn để hỏi luận, cũng có người làm thinh. Thế Tôn thuyết pháp cho họ. Nghe pháp xong, không ai hỏi gì nữa, huống là muốn luận. Họ đều thờ Như Lai làm thầy. Ðó là công đức thứ tư.

Lại nữa, những người có sáu mươi hai kiến chấp dối gạt thế gian, chẳng hiểu Chánh pháp; do đó đến chỗ ngu si. Nhưng Thế Tôn có thể trừ các nghiệp tà kiến nầy, khiến họ tu chánh kiến. Ðó là công đức thứ năm của Như Lai.

Lại nữa, chúng sanh thân, miệng, ý hành ác, nếu khi mạng chung nhớ công đức của Như Lai liền lìa ba đường ác, được sanh lên trời, cho dù người cực ác cũng được sinh Thiên. Ðó là công đức thứ sáu của Như Lai. Chúng sanh nào thấy Như Lai cũng đều khởi tâm cung kính, cúng dường.

Thế Tôn bảo:

– Lành thay, lành thay! Ðại vương có thể ở trước Như Lai làm sư tử rống diễn nói các công đức của Như Lai. Thế nên, Ðại vương, nên thường nghĩ đến Như Lai. Như thế, Ðại vương, nên học điều này.

Bấy giờ, Thế Tôn thuyết pháp vi diệu cho vua Ba-tư-nặc, khiến cho vua hoan hỷ. Ðại vương nghe Phật thuyết xong, từ chỗ ngồi đứng lên cúi lạy rồi lui đi. Chưa bao lâu, Phật bảo các Tỳ-kheo:

– Các Thầy nên trì pháp nầy cúng dường, khéo tụng niệm. Vì sao thế? Ðây là lời của vua Ba-tư-nặc. Các Thầy cũng nên giảng rộng nghĩa cho bốn bộ chúng. Như thế, các Tỳ-kheo, nên học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

11. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở thành La-duyệt, trong vườn trúc Ca-lan-đà, cùng chúng đại Tỳ-kheo năm trăm người.

Bấy giờ, vua A-xà-thế bảo quần thần:

– Các Ngươi mai sửa soạn xe vũ bảo, ta muốn đến gặp Thế Tôn.

Quần thần vâng lệnh vua, sửa soạn xe vũ bảo, rồi đến trước vua tâu:

– Xa giá đã xong, vua nên biết thời.

Vua ngồi xe vũ bảo, đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy và ngồi một bên. Khi ấy, vua A-xà-thế bạch Thế Tôn:

– Cúi mong Thế Tôn nhận lời thỉnh của con mà ở thành La-duyệt nhập hạ chín mươi ngày.

Thế Tôn làm thinh nhận lời. Vua thấy Thế Tôn im lặng nhận lời thỉnh, liền từ chỗ ngồi đứng lên, cúi lạy và lui đi. Rồi vua A-xà-thế tùy thời cúng dường y phục, thức ăn uống, giường nằm, thuốc men.

Khi ấy, tại thành Tỳ-xá-ly, quỷ thần hưng thịnh; nhân dân chết chóc vô kể, trong một ngày cả trăm người chết. Quỷ thần, La-sát, đầy dẫy ở đó. Người mặt mũi vàng khè, trải qua ba, bốn ngày rồi chết. Nhân dân Tỳ-xá-ly kinh hoàng, tụ tập một nơi bàn luận:

– Ðại thành này rất thịnh đạt, dân chúng giàu có, vui sướng vô hạn, như trụ xứ của Trời Ðế-thích thế mà ngày nay bị quỷ thần hại, rồi sẽ chết hết, hoang sơ ví như núi rừng, ai có thần đức để trừ tai nạn này?

Mọi người bảo nhau:

– Chúng ta nghe nói Sa-môn Cù-đàm hễ đi đến đâu thì những quỷ tà ác không thể đến gần quấy nhiễu. Nếu Như Lai đến đây thì quỷ thần này sẽ chạy tan. Nhưng hôm nay Thế Tôn ở trong thành La-duyệt, được A-xà-thế cúng dường, sợ rằng Ngài không đến đây du hóa.

Có người lại nói:

– Như Lai có lòng từ bi rộng lớn, thương nhớ chúng sanh, xem khắp tất cả, người chưa độ sẽ khiến được độ, không bỏ tất cả chúng sanh, như mẹ yêu con. Nếu có người thỉnh thì Như Lai đến ngay. Vua A-xà-thế chẳng giữ được đâu! Ai chịu đến nước vua A-xà-thế bạch với Thế Tôn rằng: ‘Trong thành chúng con gặp việc nguy khốn, cúi mong Thế Tôn từ mẫn chiếu cố?’.

Khi ấy, có đại trưởng giả Tối Ðại ở trong chúng ấy. Mọi người mới bảo Trưởng giả:

– Chúng tôi nghe Sa-môn Cù-đàm đi đến đâu, các quỷ tà ác không thể hại được. Nếu Như Lai đến đây thì tai nạn nầy có thể trừ được. Ông hãy đến chỗ Thế Tôn bạch với Ngài đầy đủ ý nầy, để thành quách còn tồn tại mãi.

Trưởng giả lặng thinh theo lời mời mọi người; từ chỗ ngồi đứng lên đi về nhà, sửa soạn hành trang lên đường. Trưởng giả dẫn người làm đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy, rồi ngồi một bên. Khi ấy, Trưởng giả bạch Thế Tôn:

– Nhân dân trong thành Tỳ-xá-ly gặp tai nạn, người chết rất nhiều, trong một ngày, xe chở xác chết có đến cả trăm. Cúi xin Thế Tôn thương xót tiếp độ, để những người còn lại được an ổn vô sự. Chúng con lại nghe, Thế Tôn đi đến đâu. Thiên long quỷ thần không dám bén mảng quấy nhiễu. Mong Ngài rũ lòng chiếu cố đến thành kia, độ cho dân chúng an ổn vô sự.

Thế Tôn bảo:

– Nay Ta đã nhận lời thỉnh của vua A-xà-thế ở thành La-duyệt. Chư Phật Thế Tôn chẳng nói hai lời. Nếu vua A-xà-thế bằng lòng thì Như Lai sẽ đến.

Trưởng giả Tối Ðại bạch Phật:

– Việc này rất khó, vua A-xà-thế chắc chắn không để Như Lai đến nước kia. Vì sao thế? Vua A-xà-thế chẳng có mảy may thân thiện với nước con, ông luôn luôn tìm phương tiện muốn hại dân nước con. Nếu vua A-xà-thế trông thấy con là giết ngay, huống là cho bày tỏ việc này. Nếu vua ấy nghe được nhân dân nước kia bị quỷ thần hại, thì vui mừng không lường.

Thế Tôn bảo:

– Chớ sợ hãi! Nay Ông hãy đến tâu vua việc này: ‘Như Lai thọ ký cho vua hoàn toàn không hư vọng, không hai lời. Phụ vương ngài vô tội mà bị giết. Ðáng lẽ ngài phải sanh vào địa ngục A-tỳ suốt một kiếp. Nhưng ngày nay, ngài đã lìa bỏ tội này, sửa đổi tội lỗi, có tín căn thành tựu đối với pháp Như Lai. Do đức bổn này, diệt được tội kia, không còn sót mảy may. Ðời này ngài mạng chung, sẽ sanh vào địa ngục Phách Cừu. Ở đó mạng chung sẽ sanh lên trời Tứ Thiên vương, rồi sanh lên trời Diệm Thiên. Ở đó mạng chung, ngài sanh lên trời Ðâu-suất, trời Hóa-tự-tại, trời Tha hóa tự tại, rồi trở lại đến trời Tứ Thiên vương. Ðại vương nên biết! Trong hai mươi kiếp ngài không đọa đường ác, hằng sanh trong loài người, thân cuối cùng do lòng tin kiên cố, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia học đạo tên là Phật Bích-chi Trừ Ác’. Vua kia nghe xong sẽ mừng rỡ không kềm được, cũng sẽ bảo Ông rằng: ‘Tùy Ngươi cầu xin điều gì, ta sẽ không trái ý’.

Trưởng giả bạch Thế Tôn:

– Nay con sẽ nương oai thần của Thế Tôn để đến chỗ vua.

Rồi, ông từ chỗ ngồi đứng lên, cúi lạy, đi đến chỗ vua. Bấy giờ, vua A-xà-thế cùng các quần thần đang ở trên điện cao bàn luận. Ðại trưởng giả đi đến trước vua. Vua từ xa trông thấy, bảo quần thần:

– Nếu người này đến đây, các Ngươi muốn bắt làm gì?

Có người nói:

– Chúng ta sẽ bắt đem xẻo năm chỗ.

Có người nói:

– Sẽ bêu đầu.

Vua A-xà-thế nói:

– Các Ngươi cứ giục bắt giết đi, chẳng cần gặp ta.

Trưởng giả nghe xong kinh sợ, vội lớn tiếng nói:

– Tôi là sứ giả của Phật.

Vua nghe tiếng Phật liền xuống tòa, quỳ gối phải, hướng về chỗ Phật, hỏi trưởng giả ấy rằng:

– Như Lai dạy dỗ điều gì?

Trưởng giả đáp:

– Thế Tôn thọ ký trước cho Thánh vương, không có hư vọng, lời dạy không có hai lời. Như Lai nói: ‘Vua giết hại vua cha, do tội này đáng vào địa ngục A-tỳ suốt một kiếp. Sau, vua lại biết hối lỗi với Như Lai nên sẽ sanh trong địa ngục Phách Cừu. Ở đó, khi vua chết, sẽ sanh lên trời Tứ Thiên vương, lần lượt sanh lên trời Tha hóa tự tại, rồi lại trở về trời Tứ Thiên vương. Trong hai mươi kiếp vua không rơi ba đường ác, hằng sanh trong loài người. Thân cuối cùng do lòng tin kiên cố, vua xuất gia học đạo, tên là Phật Bích-chi Trừ Ác, xuất hiện ở đời.

Vua nghe xong mừng rỡ, liền bảo đại trưởng giả:

– Nay Ông muốn xin điều gì, ta sẽ cho.

Trưởng giả tâu:

– Xin vua chớ trái lời cầu xin.

Vua A-xà-thế bảo:

– Nay Ông nếu nói cần gì, ta cũng chẳng trái ý.

Trưởng giả tâu vua:

– Nhân dân thành Tỳ-xá-ly gặp tai nạn, bị quỷ thần làm hại vô kể. La-sát quỷ thần rất hung bạo. Cúi mong Ðại vương để Thế Tôn đến nước đó cho quỷ thần chạy tan. Vì sao thế? Chúng tôi từng nghe, Như Lai đến đâu thì Trời, Rồng, Quỷ thần, chẳng được tiện lợi. Cúi mong Ðại vương chấp thuận để Thế Tôn đến nước kia.

Vua nghe xong thở dài nói:

– Ðiều yêu cầu này rất lớn, chẳng phải tầm thường. Nếu Ông xin ta thành quách, làng xóm, của cải quốc gia hay vợ con thì ta chẳng tiếc. Ta không ngờ Ông xin đến Thế Tôn, nhưng trước ta đã hứa, thì thôi! Ðành theo ý Ông!

Trưởng giả hết sức vui mừng liền đứng lên cáo từ lui đi. Ông đến chỗ Thế Tôn thưa:

– Vua A-xà-thế đã chấp thuận để Thế Tôn đến nước kia.

Thế Tôn bảo:

– Người về trước đi. Như Lai sẽ tự biết đúng lúc.

Trưởng giả cúi lạy, nhiễu Phật ba vòng rồi lui đi.

Sáng sớm, Thế Tôn đem các chúng Tỳ-kheo vây quanh trước sau ra khỏi vườn trúc Ca-lan-đà, đến thành Tỳ-xá-ly. Vua A-xà-thế đang ở trên lầu cao với một người cầm lọng, trông thấy Thế Tôn đi về phía nước kia liền than thở bảo tả hữu:

– Chúng ta bị Trưởng giả kia lừa rồi. Nay ta sống làm gì mà để Thế Tôn ra khỏi nước.

Vua A-xà-thế đem năm trăm lọng tiễn đưa Thế Tôn, sợ bụi bặm lấm thân Ngài. Người trong thành La-duyệt cũng đem năm trăm lọng báu theo sau Thế Tôn. Thích-đề-hoàn-nhân biết ý Thế Tôn cũng đem năm trăm lọng báu ở trên hư không sợ bụi đất lấm thân Như Lai. Các thần sông cũng cầm năm trăm lọng báu ở trên hư không. Nhân dân Tỳ-xá-ly nghe tin hôm nay Thế Tôn sẽ vào thành, lại đem năm trăm lọng báu đến rước. Bấy giờ, có hai ngàn năm trăm lọng báu treo ở hư không.

Khi Thế Tôn trông thấy các lọng báu này, Ngài bèn mỉm cười, miệng phóng hào quang năm màu: xanh, vàng, trắng, đen, đỏ. Thị giả A-nan thấy ánh sáng này liền suy nghĩ: ‘Ðây là cớ gì? Thế Tôn cười ắt có lý do, không phải việc thường’.

Tôn giả A-nan liền quỳ xuống chấp tay bạch Thế Tôn:

– Như Lai không có cười suông, cười ắt phải có duyên cớ.

Thế Tôn bảo:

– Nay Thầy có thấy hai ngàn năm trăm lọng báu cúng dường Như Lai chăng?

Tôn giả A-nan bạch:

– Dạ thấy, thưa Thế Tôn.

Thế Tôn bảo:

– Nếu Như Lai không xuất gia học đạo thì trong hai ngàn năm trăm kiếp sẽ làm Chuyển luân Thánh vương cai trị nhân dân. Vì Như Lai xuất gia học đạo nên không nhận lọng báu này. A-nan nên biết! Quá khứ lâu xa có vua tên Thiện Hóa Trị, ở nước Mật-hy-la, dùng pháp cai trị, có cách thức tiếp nạp, thống lãnh cõi Diêm-phù-đề, mọi người đều tùng phục.

Bấy giờ, vua có tám vạn bốn ngàn phu nhân, thể nữ đều thuộc dòng Sát-lợi. Ðệ nhất phu nhân tên Nhật Quang, cũng không có con nối dõi. Vua liền nghĩ: ‘Nay ta thống trị cõi Diêm-phù, mà không có con’. Vua liền cầu khẩn thần núi, thần cây, thần minh trong trời đất mong được một đứa con. Chưa được mấy ngày, phu nhân hoài thai. Phu nhân Nhật Quang báo cho vua hay:

– ‘Ðại vương nên biết! Nay tôi biết được mình mang thai, hãy nên gìn giữ cho’.

Qua tám chín tháng, phu nhân sanh một thái tử, nhan sắc đoan chánh như màu hoa đào. Phu nhân trông thấy hết sức vui mừng đến báo cho vua. Vua cũng mừng rỡ không kềm được. Cả tám vạn bốn ngàn phu nhân thấy sanh thái tử cũng đều vui mừng. Quốc vương cho mời quần thần, quốc sư, đạo sĩ đến xem tướng cho thái tử, lại đặt tên tự để đời xưng hô. Các thầy tướng tâu vua:

– ‘Nay sanh thái tử rất đoan chánh khác đời, ai trông thấy cũng yêu mến. Bây giờ, đặt tên là Ái Niệm’.

Ðặt tên tự xong, mọi người ra về.

Quốc vương thương yêu thái tử chưa hề rời mắt. Ngài xây giảng đường ba mùa cho thái tử, cùng đông đảo thể nữ để thái tử vui chơi. Bấy giờ, thái tử liền nghĩ:

– ‘Thể nữ ở đây có thường còn không lìa thế gian, cũng không biến đổi chăng? Nay ta xem tất cả bọn họ đều vô thường hết, chả ai còn mãi ở đời, tức là huyễn ngụy, không chân thật mà khiến nhân dân đắm nhiễm yêu thích, không ai biết xa lìa. Nay ta dùng họ làm gì? Nên bỏ mà học đạo’.

Ngay ngày đó, thái tử Ái Niệm cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia học đạo. Ngay đêm ấy, thái tử dứt hết mọi trói buộc, suy nghĩ pháp có tập đều là pháp hoại diệt. Rồi Thái tử thành Phật Bích-chi. Thành Phật rồi, Ngài liền nói kệ:

‘Dục là pháp vô thường,
Biến đổi không chắc thật,
Biết đây là hoạn lớn,
Không chung, đi một mình’.

Phật Bích-chi nói kệ xong, bay lên hư không, vòng quanh thành Mật-hy-la ba vòng. Bấy giờ, Quốc vương đang ở trên điện cao cùng vui chơi với các cung nhân, thấy Phật Bích-chi nhiễu thành ba vòng, hết sức vui mừng bảo:

– ‘Nay thái tử của ta bay trên không trung như chim bay’.

Vua không biết thái tử thành Phật Bích-chi, nên bảo:

– ‘Con hạ xuống điện này cùng ta vui chơi’.

Bấy giờ, A-nan! Phật Bích-chi hạ xuống điện, muốn độ cha mẹ.

Vua bảo:

– ‘Hôm nay vì sao thái tử mặc y thể nữ, lại cạo râu tóc khác người?’.

Phật Bích-chi đáp:

– ‘Nay con mặc rất thanh nhã, chẳng phải theo thói người thường’.

Vua bảo:

– ‘Vì sao không vào cung?’.

Phật Bích-chi nói:

– ‘Từ nay về sau, con không tập dục nữa, cũng không ưa ngũ dục’.

Vua nói:

– ‘Nếu không ưa ngũ dục thì đến ở sau vườn của ta’.

Quốc vương đích thân đến vườn, tạo dựng nhà cửa. Phật Bích-chi vì muốn độ cha mẹ nên đến ở nhà trong vườn. Ngài nhận sự cúng dường của vua một thời gian rồi nhập Vô dư Niết-bàn. Vua đem Xá-lợi trà tì, rồi lập thần tự lớn ở đó. Ngày khác, vua lại đến vườn xem xét, thấy thần tự ấy hư hỏng điêu tàn, liền nghĩ: ‘Ðây là thần tự của con trai ta, nay bị hư hoại’. Vua bèn lấy lọng của mình che lên thần tự. Ðó là vì lòng yêu thương chưa hết.

Thế nên, A-nan! Chớ cho như thế! Vua Thiện Hóa bấy giờ chính là Ta. Ta vì con mà lấy lọng che trên thần tự. Do công đức này lưu chuyển trong trời người, mấy trăm ngàn lần làm Chuyển luân Thánh vương, hoặc làm Ðế-thích, Phạm thiên. Lúc ấy, Ta không biết con Ta là Phật Bích-chi. Nếu Ta biết là Phật Bích-chi thì công đức không thể đo lường. Nếu Như Lai không thành đạo Vô Thượng Chánh Chân, thì lại thêm hai ngàn năm trăm lần làm Chuyển luân Thánh vương cai trị thiên hạ. Vì Ta thành đạo, nên nay có hai ngàn năm trăm lọng tự nhiên ứng hiện.

Vì thế, A-nan! Do nhân duyên này Như Lai cười. Thừa sự chư Phật, công đức không thể kể xiết. Thế nên, A-nan! Hãy tìm phương tiện cúng dường chư Phật, Thế Tôn. Như thế, A-nan! Hãy học điều này.

Rồi Thế Tôn dẫn chúng Tỳ-kheo vào thành Tỳ-xá-ly, Ngài đứng giữa cửa thành nói kệ:

Nay đã thành Như Lai,
Thế gian cao trọng nhất,
Ðem lời chí thành này,
Tỳ-xá-ly không khác.
Lại đem Pháp chí thành,
Ðược đạt đến Niết-bàn,
Ðem lời chí thành này,
Tỳ-xá-ly không khác.
Lại đem Tăng chí thành,
Chúng Hiền thánh đệ nhất,
Ðem lời chí thành này,
Tỳ-xá-ly không khác.
Hai chân được an ổn,
Bốn chân cũng như thế,
Ði đường cũng tốt lành,
Ðến nơi cũng lại thế.
Ngày đêm được an ổn,
Không có bị xúc nhiễu,
Ðem lời chí thành này,
Khiến Tỳ-xá không khác.

Như Lai nói xong, La-sát quỷ thần đều bỏ chạy không yên chỗ, không vào thành Tỳ-xá-ly nữa, những người bệnh tật đều được trừ lành.

Bấy giờ Thế Tôn đi dạo bên hồ Di Hầu, nhân dân trong nước thừa sự cúng dường y phục, thức ăn, giường nằm, thuốc men, tùy sức mà cúng dường Phật và Tỳ-kheo Tăng. Họ cũng thọ bát quan trai không lỡ thời tiết.

Lúc ấy, trong thành Tỳ-xá-ly có lục sư ngoại đạo du hóa ở đó. Lục sư là Bất-lan Ca-diếp, A-di-chuyên, Cù-da-lâu, Bỉ-hưu-ca-chiên, Tiên-tỷ-lô-trì, Ni-kiền Tử. Các lục sư nhóm lại một chỗ, nói:

– Sa-môn Cù-đàm ở thành Tỳ-xá-ly được nhân dân cúng dường, còn chúng ta chẳng được cúng dường, chúng ta hãy đến luận nghị với ông ta, xem ai thắng ai thua.

Bất-lan Ca-diếp nói:

– Có các Sa-môn, Bà-la-môn không nhận lời ông ta mà đến cật vấn. Ðây chẳng phải là pháp của Bà-la-môn, Sa-môn. Chúng ta chưa nhận lời của Sa-môn Cù-đàm mà đến vấn nạn thì đâu được luận nghị với ông ta.

A-di-chuyên nói:

– Không thí, không nhận, cũng không người cho, cũng không đời này, đời sau. Chúng sanh cũng không có quả báo thiện ác.

Cù-da-lâu nói:

– Ở bên này sông Hằng giết hại người vô số, thịt chất thành núi; ở bên trái sông Hằng tạo các công đức. Do đó, đều không có quả báo thiện ác.

Bỉ-hư-ca-chiên nói:

– Dù cho ở bên trái sông Hằng bố thí, trì giới, tùy thời cung cấp không cho thiếu thốn, cũng chẳng có phước báo.

Tiên-tỷ-lô-trì nói:

– Không có nói năng, cũng không có quả báo của ngôn ngữ. Chỉ có im lặng là sung sướng.

Ni-kiền Tử nói:

– Có ngôn ngữ, cũng có quả báo của ngôn ngữ, Sa-môn Cù-đàm cũng là người, chúng ta cũng là người, Sa-môn Cù-đàm biết gì, chúng ta cũng biết, Sa-môn Cù-đàm có thần túc, chúng ta cũng có thần túc, nếu Sa-môn kia hiện một thần túc, chúng ta sẽ hiện hai thần túc, Ông ta hiện hai thần túc, ta sẽ hiện bốn thành túc, Ông ta hiện bốn thần túc, ta sẽ hiện tám thần túc, Ông ta hiện tám, ta hiện mười sáu, Ông ta hiện mười sáu, ta hiện ba mươi hai, hằng khiến tăng thêm nhiều, hoàn toàn không chịu thua ông ta, đủ sức cùng ông ta thi thố. Nếu ông ta không chịu luận với chúng ta, đó là lỗi của ông ta, nhân dân nghe được sẽ không cúng dường ông ta nữa, chúng ta sẽ được cúng dường.

Bấy giờ, có Tỳ-kheo-ni nghe được các lục sư tụ họp một chỗ bàn luận: ‘Sa-môn Cù-đàm nếu không chịu nghị luận cùng người, chúng ta đủ thắng được’. Tỳ-kheo-ni Du-lô liền bay lên hư không hướng về lục sư nói kệ:

Thầy ta không ai bằng,
Tối tôn không người hơn,
Ta là đệ tử Ngài,
Tên là Du-lô Ni.
Ngươi nếu có cảnh giới,
Hãy cùng ta nghị luận,
Ta sẽ đáp từng việc,
Như sư tử chụp nai.
Lại, ngoài thầy ta ra,
Vốn không có Như Lai,
Nay ta Tỳ-kheo-ni,
Ðủ hàng phục ngoại đạo.

Tỳ-kheo-ni nói xong, ngoại đạo chẳng thể ngước nhìn thấy mặt, huống là luận nghị.

Bấy giờ, nhân dân thành Tỳ-xá-ly từ xa trông thấy Tỳ-kheo-ni ở trên hư không luận nghị với lục sư mà lục sư không đáp được. Ai nấy đều hoan hỷ reo mừng vô lượng:

– Hôm nay lục sư bị khuất phục rồi.

Nhóm lục sư buồn bã ra khỏi thành Tỳ-xá-ly, không vào thành nữa. Khi ấy, rất đông Tỳ-kheo nghe Tỳ-kheo-ni Du-lô tranh luận thắng lục sư, liền đến chỗ Thế Tôn cúi lạy, rồi bạch đầy đủ nhân duyên này với Thế Tôn. Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Tỳ-kheo-ni Du-lô có đại thần túc, có đại oai thần, trí huệ, đa văn. Ta vẫn thường nghĩ: ‘Không có ai tranh luận với lục sư nổi, chỉ có Như Lai và Tỳ-kheo-ni này’.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Các Thầy có thấy Tỳ-kheo-ni nào khác có thể hàng phục ngoại đạo như Tỳ-kheo-ni này không?

Các Tỳ-kheo đáp:

– Thưa không, bạch Thế Tôn!

Thế Tôn bảo:

– Này các Tỳ-kheo! Trong hàng Thanh văn của Ta, Tỳ-kheo-ni hàng phục ngoại đạo đệ nhất là Tỳ-kheo-ni Du-lô.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

12. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Có sáu xúc thọ nhập. Thế nào là sáu? Nghĩa là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý nhập. Ðó là sáu nhập.

Người phàm phu nếu mắt thấy sắc, liền khởi tâm dính mắc, không thể xa lìa. Họ vì thấy sắc, dính mắc cùng cực nên lưu chuyển trong sanh tử, không có lúc giải thoát. Lục tình cũng vậy, họ khởi ý dính mắc, không thể xa lìa, do đó lưu chuyển không có lúc giải thoát.

Nếu là đệ tử Hiền Thánh của Thế Tôn, thì khi mắt thấy sắc không dính mắc, không có tâm ô trược. Họ có thể phân biệt ngay: Mắt này là pháp vô thường, là pháp khổ, không, chẳng phải thân ta. Lục tình cũng vậy, không khởi tâm nhiễm ô, phân biệt được lục tình này là pháp vô thường, khổ, không, vô ngã. Ngay khi tư duy điều này, họ liền đắc Tư-đà-hàm quả. Ở trong hiện pháp họ đắc A-na-hàm hoặc A-la-hán. Ví như, có người đói quá, muốn chà vỏ lúa, quạt cho sạch rồi nấu ăn để hết đói khát. Bậc đệ tử Hiền thánh cũng vậy, đối lục tình nầy nên tư duy là ô uế bất tịnh, thì liền thành đạo quả, vào Vô dư Niết-bàn. Thế nên, Tỳ-kheo! Hãy tìm phương tiện diệt lục tình này.Như thế, các Tỳ-kheo! nên học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

XXXIX. Phẩm Đẳng pháp

1. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Nếu có Tỳ-kheo thành tựu bảy pháp thì sẽ ở trong pháp hiện tại được sự an vui vô cùng, muốn được hết lậu hoặc liền sẽ được hết. Thế nào là bảy pháp? Ở đây, vị Tỳ-kheo biết pháp, biết nghĩa, biết thời, có thể biết mình, lại có thể biết đủ, và cũng biết vào trong chúng, quan sát mọi người. Ðó là bảy pháp.

Thế nào là Tỳ-kheo biết pháp? Tỳ-kheo biết pháp là biết Khế kinh, Kỳ-dạ, Kệ, Nhân duyên, Thí dụ, Bổn mạt, Quảng diễn, Phương đẳng, Vị tằng hữu, Quảng phổ, Thọ quyết, Sanh kinh. Nếu có Tỳ-kheo không biết pháp là không biết mười hai bộ kinh. Ðây chẳng phải là Tỳ-kheo. Vì Tỳ-kheo thì phải hay hiểu rõ pháp. Ðó gọi là biết pháp. Như thế là Tỳ-kheo hiểu rõ pháp.

Thế nào là Tỳ-kheo hiểu rõ nghĩa? Ở đây, Tỳ-kheo biết cơ thú (chỗ nhắm đến) của Như Lai, hiểu rõ nghĩa sâu không có nghi nan, Nếu Tỳ-kheo không hiểu rõ nghĩa thì không phải Tỳ-kheo. Vì Tỳ-kheo có thể biết thầm nghĩa, nên gọi là hiểu nghĩa. Như thế là Tỳ-kheo có thể phân biệt được nghĩa.

Thế nào là Tỳ-kheo biết thời nghi? Ở đây, Tỳ-kheo biết thời tiết, lúc nên tu quán thì tu quán, lúc nên tu chỉ thì tu chỉ, lúc nên im lặng biết im lặng, nên đi thì biết đi, nên tụng thì biết tụng, nên giáo thọ cho người ở trước mặt thì giáo thọ cho người ở trước mặt, nên nói thì biết nói. Nếu Tỳ-kheo chẳng biết những điều này, chẳng biết nên chỉ, quán, tiến, dừng thì chẳng phải là Tỳ-kheo. Nếu Tỳ-kheo biết thời tiết, không mất thời nghi, đó gọi là tùy thời nghi. Như thế là Tỳ-kheo biết thời nghi.

Thế nào là Tỳ-kheo tự biết mình? Ở đây, Tỳ-kheo tự biết mình: nay ta có kiến, văn, giác niệm, hiểu biết này, có trí tuệ như thế, đi bước, tiến, dừng, hằng theo Chánh pháp. Nếu Tỳ-kheo không tự biết trí tuệ mình, nên ra, vào, đi đến, thì đây không phải Tỳ-kheo. Vì Tỳ-kheo có thể tự tu thích nghi với sự tiến, dừng của mình. Ðây gọi là tự tu hạnh mình. Ðây là Tỳ-kheo tự biết mình.

Thế nào là Tỳ-kheo tự biết đủ? Ở đây, Tỳ-kheo có thể tự điều hòa ngủ nghỉ, tỉnh thức, ngồi, nằm, kinh hành, các cách thức tiến, dừng. Ðều có thể biết dừng đủ. Nếu Tỳ-kheo không thể biết như thế thì chẳng phải Tỳ-kheo. Vì Tỳ-kheo có thể hiểu rõ điều này, nên gọi là biết đủ. Như thế là Tỳ-kheo biết đủ.

Thế nào là Tỳ-kheo biết vào đại chúng? Ở đây, Tỳ-kheo phân biệt đại chúng: ‘Ðây là dòng Sát-lợi, đây là chúng Bà-la-môn, đây là chúng Trưởng giả, đây là chúng Sa-môn. Ta sẽ dùng phép tắc này để thích ứng ở trong chúng kia’; nên nói hay nên im lặng đều biết tất cả. Nếu Tỳ-kheo chẳng biết cách nhập chúng này thì chẳng phải là Tỳ-kheo. Vì Tỳ-kheo biết vào đại chúng nên gọi là biết nhập chúng. Ðó là, Tỳ-kheo biết nhập chúng.

Thế nào là Tỳ-kheo biết căn nguyên của mọi người? Tỳ-kheo nên biết! Có hai hạng người. Thế nào là hai? Có hạng người muốn đến vườn quán để gần gũi Tỳ-kheo; còn hạng thứ hai không ưa đến gặp Tỳ-kheo. Trong hai hạng người này, hạng người muốn gần gũi Tỳ-kheo là hơn.

Này Tỳ-kheo! Lại có hai hạng người. Thế nào là hai? Hạng người thứ nhứt tuy đến chỗ Tỳ-kheo mà chẳng hỏi nghi thức; hạng người thứ hai cũng chẳng vào chùa gặp Tỳ-kheo. Trong hai hạng này thì hạng người đến chùa kia là hơn cả.

Này Tỳ-kheo! Lại có hai hạng người. Thế nào là hai? Hạng người thứ nhất đến chỗ Tỳ-kheo thăm hỏi thời nghi; hạng người thứ hai không đến chỗ Tỳ-kheo thăm hỏi thời nghi. Trong hai hạng người này thì hạng người đến chùa kia là hơn cả.

Này Tỳ-kheo! Lại có hai hạng người. Thế nào là hai? Hạng người thứ nhất hay quan sát, thọ trì, đọc tụng; hạng người thứ hai chẳng thể thọ trì, đọc tụng. Trong hai hạng này thì hạng người thọ trì đọc tụng kia là hơn cả.

Này Tỳ-kheo! Lại có hai hạng người. Thế nào là hai? Hạng người thứ nhất nghe pháp rồi hiểu nghĩa; hạng người thứ hai nghe pháp mà không hiểu nghĩa. Hạng người nghe pháp hiểu nghĩa kia là hơn.

Này Tỳ-kheo! Lại có hai hạng người. Thế nào là hai? Hạng người thứ nhất nghe pháp, mọi pháp đều thành tựu; hạng người thứ hai chẳng nghe pháp, chẳng thành tựu pháp. Hạng người nghe pháp, thành tựu pháp kia là hơn.

Này Tỳ-kheo! Lại có hai hạng người. Thế nào là hai? Hạng người thứ nhất nghe pháp có thể kham nhẫn tu hành, phân biệt hộ trì Chánh pháp; hạng người thứ hai chẳng thể kham nhẫn tu hành. Vậy hạng người tu hành pháp kia là hơn. Ví như, bò có lạc, do lạc có tô, do tô có đề hồ, đề hồ là hơn cả, không gì bì kịp. Ðây cũng như thế, nếu ai có thể tu hành, người này là hơn cả, không ai sánh kịp. Ðó là Tỳ-kheo quán sát căn nguyên của người. Người nào không rõ điều này thì chẳng phải Tỳ-kheo. Vị Tỳ-kheo nghe pháp, phân biệt nghĩa này. Ðây là đệ nhất. Như thế là Tỳ-kheo quán sát căn nguyên của người.

Nếu Tỳ-kheo nào thành tựu bảy pháp này thì ở trong hiện pháp được vui thích vô vi, ý muốn dứt hết lậu, cũng chẳng có gì nghi ngờ. Thế nên, Tỳ-kheo! Hãy cầu phương tiện thành tựu bảy pháp này. Như thế, Tỳ-kheo, hãy học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

2. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Cây trú độ ở cõi trời Ba mươi ba, gốc của nó to năm mươi do tuần, cao một trăm do-tuần, bóng che bốn phía năm mươi do tuần. Các trời Ba mươi ba vui chơi ở đó bốn tháng.

Tỳ-kheo nên biết! Có lúc hoa lá của cây trú độ héo vàng rơi rụng trên đất. Lúc ấy, chư Thiên thấy điểm ứng này, tất cả đều hoan hỷ, vui vẻ: ‘Cây này chẳng bao lâu sẽ sanh hoa trái’.

Tỳ-kheo nên biết! Có lúc hoa trái của cây rơi rụng đầy đất. Bấy giờ, trời Ba mươi ba lại càng thêm hoan hỷ bảo nhau:

– Cây này không bao lâu sẽ có màu tro.

Tỳ-kheo nên biết! Trải qua khoảng thời gian, cây kia ngã màu tro. Bấy giờ chư Thiên trời Ba mươi ba lại rất vui mừng bảo nhau.

– Cây này đã có màu tro, chẳng bao lâu sẽ nẩy chồi.

Chư Thiên trời Ba mươi ba thấy cây trú độ đã nẩy chồi, chẳng bao lâu sẽ sanh nụ hoa. Thấy rồi, chư vị ấy sanh lòng hoan hỷ: ‘Hôm nay, cây này đã sanh nụ hoa (bạc tiết), chẳng bao lâu sẽ nở tròn.

Tỳ-kheo nên biết! Chư Thiên trời Ba mươi ba thấy cây này dần dần nở tròn liền vui mừng: ‘Cây này đã dần dần nở tròn, chẳng bao lâu sẽ đều đầy hoa’.

Tỳ-kheo nên biết! Lúc cây này nở tròn, mọi người đều hoan hỷ: ‘Hôm nay, tất cả cây này đều đơm hoa’. Bấy giờ hương thơm bay ngược gió, trong vòng một trăm do-tuần, ai cũng ngửi được mùi thơm. Lúc ấy, chư Thiên ở đó vui chơi suốt trong bốn tháng, thích thú không thể kể.

Ðây cũng như thế! Nếu bậc đệ tử Hiền Thánh ý muốn xuất gia học đạo thì cũng giống như cây kia lúc muốn rụng lá.

Lại nữa, bậc đệ tử Hiền Thánh, bỏ vợ con tài sản, đem lòng tin kiên cố xuất gia học đạo, cạo bỏ râu tóc giống như cây kia rụng lá đầy đất.

Tỳ-kheo nên biết! Nếu bậc đệ tử Hiền Thánh, không có tưởng tham dục, trừ bỏ pháp bất thiện, niệm giữ hoan hỷ, để chí ở Sơ thiền, như cây trú độ có màu tro.

Lại nữa, bậc đệ tử Hiền Thánh, có giác, có quán, dừng bên trong sanh hoan hỷ, chuyên chú nhất tâm, không giác, không quán, dạo tâm ở Nhị thiền, ví như cây kia sanh chồi.

Lại nữa, bậc đệ tử Hiền Thánh, không niệm mà có hộ (xả), tự biết thân có lạc, là điều chư Hiền Thánh cầu, xả niệm đầy đủ, dạo ở Tam thiền, giống như cây kia sanh nụ hoa.

Lại nữa, bậc đệ tử Hiền Thánh, khổ lạc đã dứt hết, không có sầu lo, không khổ không vui, xả niệm thanh tịnh, dạo ở Tứ thiền, giống như cây kia dần dần nở tròn.

Lại nữa, bậc đệ tử Hiền Thánh, dứt hết hữu lậu, thành tựu vô lậu, tâm giải thoát, trí huệ giải thoát, ở trong hiện pháp tự vui thích, sanh tử đã dứt, Phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không còn tái sanh, như thật mà biết, giống như cây kia trổ hoa đầy đủ.

Bấy giờ, hương giới đức của bậc đệ tử Hiền Thánh bay khắp bốn phương, ai cũng khen ngợi. Trong bốn tháng vui chơi là dạo tâm ở Tứ thiền, đầy đủ hạnh bổn.

Thế nên, các Tỳ-kheo! Hãy tìm phương tiện thành tựu hương giới đức. Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

3. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Nay Ta sẽ nói bảy thí dụ về nước. Người cũng như thế. Hãy lắng nghe! Lắng nghe! Khéo suy nghĩ về chúng.

Các Tỳ-kheo đáp:

– Xin vâng, Thế Tôn!

Thế Tôn bảo:

– Bảy thí dụ về nước giống như người thế nào?

Ví như, có người chìm ở đáy nước; có người tạm ngoi lên mặt nước rồi chìm xuống lại; có người ra khỏi nước nhìn xem; có người ra khỏi nước mà đứng; có người muốn đi qua nước; có người ra khỏi nước muốn đến bờ kia; có người đã lên hẳn trên bờ. Ðó là, này Tỳ-kheo, có bảy thí dụ về nước xuất hiện ở đời.

Thế nào là người chìm đáy nước không ra khỏi được? Ở đây, có người toàn thân hành pháp bất thiện, trải qua kiếp số không thể trị liệu. Ðó là người chìm ở đáy nước.

Thế nào là người ra khỏi nước rồi chìm lại? Ở đây, có người lòng tin cạn cợt, tuy có pháp lành mà không kiên cố. Người ấy thân, miệng, ý làm lành, sau lại hành bất thiện. Sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào địa ngục. Ðó là người ra khỏi nước lại chìm.

Thế nào là người ra khỏi mặt nước nhìn trông? Ở đây, có người có tín thiện căn, thân, miệng, ý làm lành nhưng không tăng trưởng pháp này, tự giữ đứng. Người ấy thân hoại mạng chung sanh trong A-tu-la. Ðó là người ra khỏi nước nhìn.

Thế nào là người ra khỏi nước mà đứng? Ở đây, có người có lòng tin, tinh tấn đoạn ba kiết sử, không thối chuyển nữa, chắc chắn đạt được cứu cánh thành đạo vô thượng. Ðó là người ra khỏi nước mà đứng.

Thế nào là người muốn đi qua nước? Ở đây, có người tín căn tinh tấn, hằng ôm lòng hổ thẹn, mong đoạn ba kiết sử dâm, nộ, si. Người ấy trở lại đời này mà đoạn dứt mé khổ. Ðó là người muốn qua nước.

Thế nào là người muốn đến bờ kia? Ở đây, có người tín căn tinh tấn, đoạn năm hạ phần kiết sử, thành A-na-hàm, liền đó nhập Niết-bàn, không trở lại đời này nữa. Ðó là người muốn đến bờ kia.

Thế nào là người đã đến bờ kia? Ở đây, hoặc có người tín căn tinh tấn, ôm lòng hổ thẹn, dứt hết hữu lậu, thành tựu vô lậu. Ở trong hiện pháp, người ấy tự an vui; sanh tử đã dứt, Phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không còn tái sanh, như thật mà biết; nơi Vô dư Niết-bàn mà nhập Niết-bàn. Ðó là người đã qua đến bờ kia.

Này Tỳ-kheo! Ðó là bảy thí dụ nước và người, Ta nói với các Thầy. Chỗ chư Phật Thế Tôn đáng tu hành tiếp độ mọi người, nay Ta đã thi hành. Các Thầy nên ở chỗ vắng vẻ, như dưới cội cây, hãy nhớ tọa Thiền chớ có lười biếng. Ðây là lời Ta dạy dỗ.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

4. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Bậc Thánh vương trị nước, nếu thành tựu bảy pháp thì chẳng bị oan gia, giặc cướp bắt bớ, khiến cho bên ngoài không thể đến xâm phạm. Thế nào là bảy? Thành quách cao lớn, sửa sang tề chỉnh; đó là pháp thành tựu thứ nhất. Cửa thành lại kiên cố; đó là pháp thành tựu thứ hai. Ngoài thành hào lũy rất sâu rộng; đó là pháp thành tựu thứ ba. Trong thành lại chứa nhiều lúa thóc, kho lẫm tràn đầy; đó là pháp thành tựu thứ tư. Thành ấy lại có nhiều củi, cỏ; đó là pháp thành tựu thứ năm. Thành lại có nhiều binh khí, đầy đủ các chiến cụ; đó là pháp thành tựu thứ sáu. Người chủ thành kia lại thông minh tài cao, dự biết lòng người, đáng phạt thì đánh phạt, đáng trị thì trị; đó là pháp thành tựu thứ bảy, khiến cho bên ngoài không thể đến xâm phạm.

Này Tỳ-kheo! Ðó là bảy pháp mà vị quốc chủ thành tựu được thì người ngoài không thể đến gần quấy nhiễu. Tỳ-kheo cũng vậy, nếu thành tựu được bảy pháp thì tệ ma Ba-tuần chẳng được thuận tiện. Thế nào là bảy?

Ở đây, Tỳ-kheo thành tựu giới luật, đầy đủ oai đức, phạm luật nhỏ còn sợ hãi huống là tội lớn. Ðó là, Tỳ-kheo, thành tựu pháp thứ nhất, khiến tệ ma Ba tuần không được thuận tiện; ví như thành cao rộng kia rất nghiêm ngặt không thể phá hoại.

Lại nữa, này Tỳ-kheo! Nếu mắt thấy sắc chẳng khởi tưởng dính mắc, cũng không dấy niệm, đầy đủ nhãn căn không có thiếu sót, mà gìn giữ nhãn căn; tai đối với tiếng, mũi với mũi, lưỡi với vị, thân với xúc, ý với pháp cũng vậy; cũng chẳng khởi tưởng, đầy đủ ý căn mà không loạn tưởng, ủng hộ ý căn đầy đủ. Ðó là Tỳ-kheo thành tựu pháp thứ hai khiến tệ ma Ba tuần chẳng được thuận tiện như cửa thành kiên cố.

Lại nữa, Tỳ-kheo nghe nhiều chẳng quên, hằng nhớ tư duy chánh pháp, đạo giáo ngày xưa trải qua đều biết đầy đủ. Ðó là Tỳ-kheo thành tựu pháp thứ ba, khiến tệ ma Ba-tuần không được thuận tiện; như hào lũy ngoài thành vừa sâu, vừa rộng.

Lại nữa, Tỳ-kheo có nhiều phương tiện, có các pháp ban đầu thiện, ở giữa thiện, cuối cùng thiện, thanh tịnh đầy đủ, tu được Phạm hạnh. Ðó là Tỳ-kheo thành tựu pháp thứ tư, khiến tệ ma Ba-tuần không được thuận tiện; như thành quách có nhiều lúa thóc, giặc ngoài không dám đến xâm lấn.

Lại nữa, Tỳ-kheo tư duy bốn pháp tăng thượng tâm, cũng không thiếu sót. Ðó là Tỳ-kheo thành tựu pháp thứ năm, khiến tệ ma Ba-tuần chẳng được thuận tiện; như thành quách có nhiều củi cỏ, người ngoài không thể đến quấy rối.

Lại nữa, Tỳ-kheo được bốn thần túc làm việc không khó khăn.

Ðó là Tỳ-kheo thành tựu pháp thứ sáu, khiến tệ ma Ba tuần không được thuận tiện, như trong thành đầy đủ binh khí.

Lại nữa, Tỳ-kheo có thể phân biệt ấm, nhập, giới đầy đủ, cũng phân biệt được pháp mười hai nhân duyên khởi lên. Ðó là Tỳ-kheo thành tựu pháp thứ bảy, khiến tệ ma Ba-tuần không được thuận tiện; như người chủ thành quách thông minh, tài cao, đáng thâu thì thâu, nên bỏ thì bỏ. Tỳ-kheo cũng vậy, biết phân biệt ấm, trì, nhập.

Nếu có Tỳ-kheo thành tựu bảy pháp này thì tệ ma Ba-tuần sẽ không được tiện lợi. Thế nên các Tỳ-kheo! Hãy tìm phương tiện phân biệt ấm, trì nhập và mười hai nhân duyên, chẳng mất thứ lớp, liền vượt khỏi cảnh ma, không ở trong đó nữa. Như thế, Tỳ-kheo! Hãy học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

5. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Nay Ta sẽ thuyết về bảy chỗ trụ của thần thức. Các Thầy hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ.

Các Tỳ-kheo đáp:

– Xin vâng, Thế Tôn!

Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Sao gọi là bảy trụ xứ của thần thức? Nghĩa là chúng sanh có nhiều thân, nhiều tưởng; như là Trời và Người. Lại có chúng sanh nhiều thân mà có một tưởng như là trời Phạm-ca-di mới xuất hiện ở đời. Có chúng sanh một thân mà có nhiều tưởng như là trời Quang Âm. Có chúng sanh một thân, một tưởng như là trời Biến Tịnh. Có chúng sanh vô lượng không như là trời Không xứ. Có chúng sanh vô lượng thức như là trời Thức xứ. Có chúng sanh vô hữu xứ như là trời Vô hữu xứ.

Này Tỳ-kheo! Ðó là bảy trụ xứ của thần thức. Nay Ta đã nói xong bảy thức xứ, chư Phật Thế Tôn có thể thi hành, tiếp độ mọi người, hôm nay Ta đã giải thích xong. Các Thầy nên ở nơi vắng vẻ, dưới cội cây, khéo tu hạnh ấy, chớ có giải đãi. Ðây là lời giáo hối của Ta.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

6. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Tỳ-kheo Quân-đầu mắc bệnh nặng nằm trên giường không thể tự cử động. Tỳ-kheo liền nghĩ rằng: ‘Hôm nay, Như Lai Thế Tôn chẳng thấy rũ lòng lân mẫn, ta mang bệnh nặng, chẳng nhận được thuốc men. Ta lại nghe Thế Tôn nói rằng: ‘Nếu một người chưa được độ, Ta chẳng bỏ họ’. Mà nay ta thấy Thế Tôn bỏ sót ta, còn gì khổ hơn nữa!’

Bấy giờ, Thế Tôn dùng thiên nhĩ nghe Tỳ-kheo Quân-đầu trách móc như thế, liền bảo các Tỳ-kheo:

– Các Thầy hãy tụ tập đến chỗ Tỳ-kheo Quân-đầu hỏi thăm bệnh ông ta.

Các Tỳ-kheo đáp:

– Xin vâng, Thế Tôn!

Thế Tôn dẫn chúng Tỳ-kheo từ từ đến phòng Tỳ-kheo Quân-đầu. Tỳ-kheo Quân-đầu xa thấy Thế Tôn đến, liền gieo mình xuống đất. Khi ấy, Thế Tôn bảo Quân-đầu rằng:

– Nay Thầy mang bệnh nặng, chẳng nên xuống giường. Ta tự có chỗ ngồi.

Thế Tôn bảo Quân-đầu:

– Bệnh Thầy tăng hay giảm, hay không tăng giảm? Có thể nghe Ta dạy được không?

Tỳ-kheo Quân-đầu bạch Phật:

– Hôm nay, đệ tử bịnh rất nặng, chỉ có tăng chứ không giảm, không được đầy đủ thuốc men.

Thế Tôn hỏi:

– Ai săn sóc bịnh cho Thầy?

Quân-đầu bạch:

– Các vị Phạm hạnh có đến thăm bịnh con.

Bấy giờ Thế Tôn bảo Quân-đầu:

– Nay Thầy có thể nói bảy giác ý cho Ta nghe chăng?

Quân-đầu liền nêu tên bảy giác ý ba lần:

– Nay con có thể thuyết pháp bảy giác ý trước Như Lai được.

Thế Tôn nói:

– Nếu có thể thuyết cho Như Lai thì hãy thuyết đi!

Khi ấy, Tỳ-kheo Quân-đầu bạch Phật:

– Bảy giác ý. Những gì là bảy? Nghĩa là niệm giác ý, pháp giác ý, tinh tấn giác ý, hỷ giác ý, khinh an giác ý, định giác ý, hộ xả giác ý. Bạch Thế Tôn, có bảy giác ý chính là đây.

Tỳ-kheo Quân-đầu nói xong liền lành bệnh, không còn các khổ não. Quân-đầu bạch Thế Tôn:

– Bình đựng thuốc chính là pháp bảy giác ý này. Con muốn nói thuốc không gì hơn bảy giác ý này. Nay con tư duy bảy giác ý này, các bịnh đều được lành.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Các Thầy thọ trì pháp bảy giác ý này, khéo nghĩ nhớ tụng đọc; chớ có hồ nghi đối với Phật, Pháp, Tăng. Chúng sanh có bệnh sẽ được lành. Vì cớ sao? Bảy giác ý này rất khó hiểu hết. Nếu hiểu rồi, tất cả các pháp đều liễu tri cả, chiếu sáng tất cả các pháp, cũng như thuốc hay trị liệu tất cả các bịnh. Ví như cam lồ, ăn không biết chán. Nếu không được bảy giác ý này thì chúng sanh lưu chuyển sanh tử. Các Tỳ-kheo! Hãy cầu phương tiện tu bảy giác ý. Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

7. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Nếu lúc Chuyển luân Thánh vương xuất hiện ở đời, liền có bảy báu xuất hiện thế gian; đó là xe báu, voi báu, ngựa báu, châu báu, ngọc nữ báu, cư sĩ báu, điển binh báu. Lúc Chuyển luân Thánh vương xuất hiện ở đời liền có bảy báu lưu bố thế gian.

Lúc Như Lai xuất hiện ở thế gian, liền có báu bảy giác ý xuất hiện thế gian. Thế nào là bảy? Ðó là niệm giác ý, pháp giác ý, tinh tấn giác ý, hỷ giác ý, khinh an giác ý, định giác ý, hộ (xả) giác ý, xuất hiện ở đời. Nếu lúc Như Lai xuất hiện thế gian, liền có bảy giác ý quý báu này xuất hiện thế gian. Thế nên, các Tỳ-kheo! Hãy cầu phương tiện tu bảy giác ý này. Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

8. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Lúc Chuyển luân Thánh vương xuất hiện ở đời, khi ấy liền chọn lựa đất tốt để xây thành quách, Ðông Tây hai mươi do-tuần. Nam Bắc bảy do-tuần, đất đai thuần thục, sung sướng vô kể.

Bấy giờ, ngoài thành quách ấy, có bảy lớp bao quanh làm bằng bảy báu. Bảy báu là vàng, bạc, thủy tinh, lưu ly, hổ phách, mã não, xa cừ; đó là bảy báu. Lại có bảy hào bằng bảy báu vây quang bảy lớp ấy, rất sâu, rộng khó vượt qua, trong đó toàn cát vàng. Lại có bảy lớp cây mọc ở đó. Các cây ấy lại có bảy màu: vàng, bạc, thủy tinh, lưu ly, xa cừ, mã não, hổ phách.

Vây quanh thành, có bảy lớp cửa kiên cố, cũng làm bằng bảy báu. Cửa bạc để dép vàng ở đó, cửa vàng đặt dép bạc, cửa thủy tinh để dép lưu ly, cửa lưu ly để dép thủy tinh, cửa mã não để dép hổ phách, rất là sung sướng, thật không thể nói.

Thành đó bốn mặt có bốn ao tắm. Mỗi ao tắm dài rộng một do-tuần, tự nhiên có nước làm bằng vàng, bạc, thủy tinh, lưu ly. Ao nước lưu ly đông lại thành báu lưu ly. Ao nước thủy tinh đông lại thành báu thủy tinh. Ao nước bạc đông lại thành báu bạc. Ao nước vàng đông lại thành báu vàng. Và Chuyển luân Thánh vương lấy đây dùng.

Bấy giờ, trong thành lại có bảy loại âm thanh. Thế nào là bảy? Ðó là tiếng ốc, tiếng trống, tiếng trống nhỏ, tiếng chuông, tiếng trống tế yêu, tiếng múa, tiếng ca. Ðó là bảy loại tiếng.

Bấy giờ, dân chúng thường vui chơi với nhau bằng những thứ này. Những chúng sanh ấy không bị nóng lạnh, không bị đói khát, cũng không tật bệnh.

Vị Chuyển luân Thánh vương ở đời du hóa, thành tựu được bảy báu này và bốn thần túc, không có thiếu thốn, không mất mát gì cả. Thế nào là Chuyển luân Thánh vương thành tựu bảy báu? Ðó là xe báu, voi báu, ngựa báu, châu báu, ngọc nữ báu, cư sĩ báu, điển binh báu; lại có một ngàn người con hết sức dũng mãnh, có thể hàng phục giặc ngoài. Ðất Diêm-phù-đề này không dùng dao gậy để giáo hóa quốc dân.

Bấy giờ, có một Tỳ-kheo bạch Thế Tôn:

– Làm sao Chuyển luân Thánh vương lại thành tựu được xe báu?

Thế Tôn bảo:

– Lúc ấy, Chuyển luân Thánh vương, sáng sớm ngày mười lăm, tắm rửa, gội đầu rồi lên đại điện, các ngọc nữ vây quanh. Bấy giờ, bánh xe báu đầy đủ ngàn căm từ phương Ðông lại đến trước điện, ánh sáng huy hoàng không phải người làm được, cách mặt đất bảy nhẫn, từ từ đến trước vua dừng lại. Chuyển luân Thánh vương thấy rồi liền hỏi:

– ‘Ta nghe người xưa nói: ‘Chuyển luân Thánh vương, ngày mười lăm tắm rửa, gội đầu, rửa tay lên điện ngồi. Bánh xe báu từ phương Ðông đến dừng ở trước vua’. Nay ta hãy thử xe báu này!’.

Chuyển luân Thánh vương lấy tay phải cầm luân bảo và nói:

– ‘Nay Ngươi hãy xoay chuyển cho đúng pháp, chớ phi pháp!’

Bấy giờ, bánh xe báu tự nhiên xoay chuyển rồi dừng trên không, Chuyển luân Thánh vương lại cùng bốn bộ binh cũng ở trong hư không, xe báu lại xoay về phương Ðông. Chuyển luân Thánh vương cũng theo xe báu mà đi. Nếu lúc xe báu dừng thì Chuyển luân Thánh vương cùng chúng đem theo cũng dừng trong không.

Khi ấy các vị tiểu vương ở phương Ðông cùng nhân dân từ xa thấy vua lại, đều đứng dậy chào đón, lại đem bát vàng đựng đầy bạc, bát bạc đựng đầy vàng, dâng lên Chuyển luân Thánh vương và tâu:

– ‘Kính chào Thánh vương! Xứ này nhân dân đông đúc, khoái lạc vô cùng. Kính mong Ðại vương hãy cai trị chốn này’.

Chuyển luân Thánh vương bảo dân chúng rằng:

– ‘Các Ngươi nên sống đúng pháp, chớ làm việc phi pháp, cũng chớ nên sát sanh, trộm cắp, dâm dật. Cẩn thận chớ làm phi pháp’.

Xe báu lại di chuyển đến phương Nam, phương Tây, phương Bắc và Chuyển luân Thánh vương đến đâu cũng vỗ về, khuyên nhủ dân chúng. Rồi xe báu quay trở về chỗ vua cai trị, đứng cách mặt đất bảy nhẫn. Tỳ-kheo! Chuyển luân Thánh vương thành tựu xe báu như thế đó.

Các Tỳ-kheo bạch Thế Tôn:

– Chuyển luân Thánh vương thành tựu voi báu thế nào?

Thế Tôn bảo:

– Tỳ-kheo, nên biết, Chuyển luân Thánh vương vào ngày rằm, tắm rửa rồi lên đại điện. Khi ấy, voi báu từ phương Nam đến, có sáu ngà, lông toàn trắng, bảy chỗ bằng phẳng đều có đeo vàng bạc, trân bảo trang sức, có thể bay trên hư không. Bấy giờ, Chuyển luân Thánh vương thấy được liền nghĩ: ‘Voi báu này rất thù diệu, hiếm có ở đời, tánh nết nhu hòa, không hung bạo. Nay ta hãy thử nó’. Rồi Chuyển luân Thánh vương, sáng sớm, mặt trời vừa lên, liền cỡi voi báu này dạo khắp bốn biển, cai trị dân chúng. Chuyển luân Thánh vương thanh tựu voi báu như thế!

Tỳ-kheo bạch Thế Tôn:

– Chuyển luân Thánh vương làm sao thành tựu ngựa báu?

Thế Tôn bảo:

– Lúc Chuyển luân Thánh vương xuất hiện ở đời, ngựa báu liền từ phương Tây đến, lông toàn màu xanh, lông đuôi ánh đỏ, bước đi không di động, có thể bay ở hư không, không chướng ngại. Vua thấy xong, rất mực vui mừng nói:

– ‘Ngựa báu này rất thù diệu, nên sử dụng nó. Tánh nó lại hiền lành, không nổi chứng. Nay ta hãy thử ngựa báu’.

Chuyển luân Thánh vương liền cỡi ngựa nay đi khắp bốn thiên hạ. trị hóa nhân dân, rồi trở về chỗ vui cai trị. Tỳ-kheo! Chuyển luân Thánh vương thành tựu ngựa báu như thế.

Tỳ-kheo bạch Phật:

– Lại do nhân duyên gì, Chuyển luân Thánh vương thành tựu được châu báu?

Thế Tôn bảo:

– Ở đây, Tỳ-kheo! Lúc Chuyển luân Thánh vương xuất hiện ở đời, châu báu liền từ phương Ðông lại, có tám góc, bốn mặt tỏa hỏa quang dài một thước sáu tấc. Chuyển luân Thánh vương thấy rồi liền nghĩ: ‘Châu báu này rất thù diệu, nay ta sẽ thử nó’. Chuyển luân Thánh vương nửa đêm tụ tập bốn bộ binh, đem báu ma-ni này đặt trên ngọn cờ cao, ánh sáng của nó chiếu xa mười hai do-tuần trong nước. Bấy giờ nhân dân trong thành thấy ánh sáng này, ai nấy tự bảo:

– ‘Mặt trời đã lên, hãy làm việc nhà!’.

Chuyển luân Thánh vương ở trên điện, thấy khắp nhân dân xong liền trở về cung, đem hạt ma-ni này đặt trong cung, trong ngoài đều sáng, không đâu không khắp. Tỳ-kheo! Chuyển luân Thánh vương thành tựu châu báu như thế đó!

Bấy giờ, Tỳ-kheo bạch Phật:

– Chuyển luân Thánh vương thành tựu ngọc nữ báo thế nào?

Thế Tôn bảo:

– Tỳ-kheo nên biết! Lúc Chuyển luân Thánh vương xuất hiện ở đời, tự nhiên có ngọc nữ báu này xuất hiện, nhan mạo đoan chánh, mặt mày như màu hoa đào, chẳng cao chẳng thấp, chẳng trắng chẳng đen, tánh nết nhu hòa, không hung dữ, hơi miệng thơm mùi hoa sen, thơm mùi chiên-đàn, hằng hầu hạ một bên Thánh vương, không trái thời tiết, thường tươi cười nhìn mặt vua. Tỳ-kheo! Chuyển luân Thánh vương thành tựu ngọc nữ báu này như thế!

Bấy giờ, Tỳ-kheo bạch Phật:

– Chuyển luân Thánh vương thành tựu cư sĩ báu thế nào?

Thế Tôn bảo:

– Ở đây, Tỳ-kheo! Chuyển luân Thánh vương xuất hiện ở đời liền có cư sĩ báu này xuất hiện thế gian, không cao không thấp, thân thể hồng hào, tài cao trí tột, việc gì cũng thông suốt, lại được Thiên nhãn thông. Lúc ấy, cư sĩ đến chỗ vua, tâu vua rằng:

– ‘Kính mong Thánh vương sống lâu vô cùng! Nếu vua có cần vàng, bạc, trân bảo, tôi sẽ cung cấp đầy đủ cả’.

Bấy giờ, cư sĩ dùng Thiên nhãn quán sát nơi nào có kho báu hay không kho báu đều thấy hết. Vua cần báu gì thì tùy thời cung cấp. Chuyển luân Thánh vương muốn thử cư sĩ này, liền cùng cư sĩ qua sông. Khi chưa đến bờ kia, vua bảo cư sĩ:

– ‘Nay ta muốn cần vàng bạc, châu báu. Nên lo xong ngay bây giờ!’.

Cư sĩ đáp:

– ‘Bước lên bờ, hạ thần sẽ cấp cho’.

Chuyển luân Thánh vương nói:

– ‘Ta cần ngay bây giờ, chẳng chờ lên bờ’.

Bấy giờ cư sĩ liền quỳ gối, chắp tay hướng xuống nước, bảy báu trong nước liền vọt lên.

Chuyển luân Thánh vương bảo cư sĩ:

– ‘Thôi! Thôi! Cư sĩ! Ta không cần báu nữa’.

Tỳ-kheo! Chuyển luân Thánh vương thành tựu cư sĩ báu như thế đó.

Bấy giờ, Tỳ-kheo bạch Phật:

– Chuyển luân Thánh vương thành tựu điển binh báu thế nào?

Thế Tôn bảo:

– Ở đây, Tỳ-kheo! Lúc Chuyển luân Thánh vương xuất hiện ở đời, liền có điển binh báu này tự nhiên đến ứng hầu, thông minh cái thế, biết trước lòng người, thân hình đẹp tốt, đến trước Chuyển luân Thánh vương, tâu Thánh vương rằng:

– ‘Kính mong Thánh vương chóng được vui vẻ. Nếu Thánh vương muốn cần binh lính, thần sẽ cung cấp ngay, cách thức tiến lui rất đúng lúc’.

Rồi điển binh báu tùy ý vua, tập họp binh chúng ở cạnh vua. Bấy giờ, Chuyển luân Thánh vương muốn thử điển binh báu, liền nghĩ: ‘Làm sao cho binh chúng của ta tụ tập ngay!’. Tức thời, binh chúng liền ở ngoài cửa của vua. Nếu ý Chuyển luân Thánh vương muốn binh chúng đứng, họ liền đứng; muốn tiến, họ liền tiến. Tỳ-kheo! Chuyển luân Thánh vương thành tựu điển binh báu này như thế đó.

Tỳ-kheo nên biết! Chuyển luân Thánh vương thành tựu được bảy báu này.

Tỳ-kheo kia bạch Thế Tôn:

– Chuyển luân Thánh vương làm sao thành tựu bốn thần túc, chóng được lợi lành?

Phật bảo Tỳ-kheo:

– Ở đây, Chuyển luân Thánh vương, nhan mạo đoan chánh, hiếm có ở đời, vượt hẳn mọi người, không ai sánh kịp. Dù cho Thiên tử cũng không bì kịp. Này Tỳ-kheo, đó là Chuyển luân Thánh vương thành tựu thần túc thứ nhất.

Lại nữa, Chuyển luân Thánh vương thông minh cái thế, rành rẽ mọi việc, là bậc hùng mạnh trong loài người, không ai có trí tuệ hơn Chuyển luân Thánh vương này. Này Tỳ-kheo, đó là Chuyển luân Thánh vương thành tựu thần túc thứ hai.

Lại nữa, Tỳ-kheo! Chuyển luân Thánh vương không có tật bệnh, thân thể khang kiện, thức ăn uống tự nhiên tiêu hóa, không cần phải đại, tiểu tiện. Này Tỳ-kheo, đó là Chuyển luân Thánh vương thành tựu được thần túc thứ ba này.

Lại nữa, Tỳ-kheo! Chuyển luân Thánh vương thọ mạng rất dài không đếm nổi. Mọi người không ai sống lâu hơn Chuyển luân Thánh vương. Này Tỳ-kheo, đó là Chuyển luân Thánh vương thành tựu thần túc thứ tư này.

Này Tỳ-kheo, đó là Chuyển luân Thánh vương thành tựu bốn thần túc này.

Bấy giờ, Tỳ-kheo kia bạch Phật:

– Chuyển luân Thánh vương sau khi mạng chung sẽ sanh về đâu?

Thế Tôn bảo:

– Chuyển luân Thánh vương sau khi mạng chung sẽ sanh cõi trời Ba mươi ba, sống lâu ngàn tuổi. Vì sao thế? Chuyển luân Thánh vương không tự mình sát sanh, lại dạy người khác khiến không sát sanh; tự mình không trộm cắp, lại dạy người khác khiến không trộm cắp; tự mình không dâm dục, lại dạy người khác khiến không dâm dục; tự mình không vọng ngữ, lại dạy người khác khiến không vọng ngữ; tự mình hành pháp thập thiện, lại dạy người khác khiến hành thập thiện.

Tỳ-kheo nên biết! Do công đức này, Chuyển luân Thánh vương sau khi mạng chung sẽ sanh lên cõi trời Ba mươi ba.

Bấy giờ, Tỳ-kheo kia liền nghĩ: ‘Chuyển luân Thánh vương rất đáng hâm mộ. Muốn nói là người, nhưng lại không phải là người. Kỳ thực không phải là Trời mà thi hành việc Trời, nhận thọ các diệu lạc, chẳng đọa ba đường ác. Nay nếu ta trì giới dũng mãnh, sẽ có phước, đến đời sau được làm Chuyển luân Thánh vương, không thích hay sao?’.

Bấy giờ, Thế Tôn biết tâm niệm Tỳ-kheo ấy mới bảo Tỳ-kheo ấy:

– Nay Thầy ở trước Như Lai, chớ nên nghĩ thế. Vì cớ sao? Chuyển luân Thánh vương tuy thành tựu bảy báu, và bốn thần túc không ai bì kịp; nhưng vẫn chưa thoát khỏi ba đường ác: địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ. Vì sao thế? Vì Chuyển luân Thánh vương chẳng được Tứ thiền, Tứ thần túc và Tứ đế. Do nhân duyên này, lại đọa vào ba đường ác. Thân người rất khó được, gặp phải tám nạn, cầu xa lìa rất khó; sanh ở chính quốc cũng chẳng phải dễ dàng; cầu có bạn tốt lành cũng không phải dễ; muốn theo học đạo trong pháp Như Lai cũng lại khó gặp. Như Lai xuất hiện thật khó thể gặp. Pháp được diễn bày cũng lại như thế. Pháp Tứ đế giải thoát và Tứ vô thượng thật chẳng thể được nghe. Chuyển luân Thánh vương chẳng được cứu cánh của bốn pháp này.

Này Tỳ-kheo! Lúc Như Lai xuất hiện ở đời liền có bảy báu xuất hiện ở thế gian, thời báu thất giác ý của Như Lai đến tột cùng vinh dự của Người, Trời. Này Tỳ-kheo! Ngày nay, hãy khéo tu Phạm hạnh, ở đời này tự thân dứt hết được mé khổ, dùng bảy báu của Chuyển luân Thánh vương làm gì?

Khi ấy, Tỳ-kheo kia nghe Như Lai dạy như thế rồi, liền ở chỗ vắng vẻ, tư duy đạo pháp mà do đó, bậc vọng tộc, cạo bỏ râu tóc, xuất gia học đạo, muốn tu chánh nghiệp vô thượng; sanh tử đã dứt, Phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không còn tái sanh nữa; như thật mà biết. Bấy giờ, Tỳ-kheo kia liền thành A-la-hán.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

9. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Tôn giả đồng chân Ca-diếp ở vườn Trú Ám, nước Xá-vệ.

Bấy giờ, Tôn giả Ca-diếp đi kinh hành nửa đêm, có vị Trời đến chỗ Tôn giả, ở trên hư không bảo rằng:

– Tỳ-kheo nên biết! Nhà này ban đêm có khói, ban ngày bị lửa đốt. Bà-la-môn bảo người trí rằng:

‘Nay Ông nên cầm dao đục núi. Khi đục núi, Ông sẽ gặp phụ vật, hãy cứu giúp nó. Rồi tiếp tục đục núi. Ông sẽ gặp núi. Ông hãy bỏ núi ấy đi. Và tiếp tục đục núi, Ông sẽ thấy ễnh ương, hãy bỏ ễnh ương. Và tiếp tục đục núi, lúc ấy Ông sẽ thấy một đống thịt. Thấy đống thịt rồi, hãy rời bỏ nó. Ðục núi tiếp, sau đó Ông sẽ gặp gông cùm, hãy rời bỏ nó. Và đục núi tiếp, Ông sẽ thấy hai con đường, hãy rời bỏ nó. Và hãy đục núi, Ông sẽ thấy cành cây, thấy cành cây rồi, hãy bỏ nó đi. Ðục núi nữa, Ông sẽ thấy rồng. Thấy rồng. Ông chớ nói chuyện với rồng, hãy tự quy mạng, kính mộ cho được chỗ’.

Tỳ-kheo! Hãy khéo suy nghĩ nghĩa này. Nếu Ông không hiểu, hãy đến thành Xá-vệ hỏi đức Thế Tôn ý nghĩa này. Nếu Như Lai có nói gì, hãy khéo nhớ thực hành. Vì cớ sao? Nay tôi chẳng thấy có Sa-môn, Bà-la-môn, Ma hay Ma thiên nào có thể hiểu được nghĩa này, trừ đức Như Lai và đệ tử của Ngài, theo tôi được nghe.

Tôn giả Ca-diếp đáp:

– Việc này rất hay!

Bấy giờ, Tôn giả Ca-diếp, sáng sớm đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy và ngồi một bên, rồi đem nhân duyên bạch với Thế Tôn, và thưa:

– Nay con xin hỏi nghĩa Như Lai, vị Trời muốn nói gì? Vì sao mà nói: ‘Nên biết nhà này đêm có khói, ngày sẽ bị lửa đốt? Vì sao gọị là Bà-la-môn? Sao gọi là người trí? Lại nói là đục đá, nghĩa này nói về gì? Lại nói dao, con cũng không hiểu. Vì sao lại nói ễnh ương? Sao lại nói đống thịt? Sao lại nói gông cùm? Vì cớ gì lại nói hai con đường? Cành cây, nghĩa này thế nào? Sao lại gọi là rồng?’.

Thế Tôn bảo:

– Nhà tức là thân thể, do tứ đại tạo ra, nhận huyết mạch của cha mẹ, dần dần to lớn, hằng nuôi dưỡng thức ăn, không để thiếu thốn. Ðêm có khói là chỉ tâm niệm chúng sanh. Ban ngày lửa đốt là thân, miệng, ý tạo các hạnh. Bà-la-môn là A-la-hán. Trí giả là người học. Ðục núi là tâm tinh tấn. Dao là trí tuệ. Phụ vật là năm kiết sử. Núi là kiêu mạn. Ễnh ương là tâm sân giận. Ðống thịt là tham dục. Gông là ngũ dục. Hai con đường là nghi. Cành cây là vô minh. Rồng là Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác. Vị Trời ấy nói với nghĩa như thế. Nay Thầy nên suy nghĩ kỹ càng, không bao lâu sẽ dứt hết hữu lậu.

Bấy giờ, Tôn giả Ca-diếp nhận lời dạy của Như Lai như thế, liền đến chỗ vắng vẻ tự tu hành. Thế rồi, vị vọng tộc cạo bỏ râu tóc, xuất gia học đạo, muốn tu Phạm hạnh, sanh tử đã dứt, Phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không còn tái sanh nữa; như thật mà biết. Khi ấy Tôn giả Ca-diếp liền thành A-la-hán.

Bấy giờ, Tôn giả Ca-diếp nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

10. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở thành La-duyệt, vườn trúc Ca-lan-đà cùng với chúng đại Tỳ-kheo năm trăm người. Tôn giả Mãn-từ Tử cũng đem năm trăm Tỳ-kheo đi về quê, nơi sanh trưởng.

Bấy giờ, Thế Tôn ở thành La-duyệt nhập hạ qua chín mươi ngày xong, du hóa trong nhân gian dần dần đến vườn Cấp Cô Ðộc, ở rừng Kỳ-đà, trong thành Xá-vệ. Khi ấy, nhiều Tỳ-kheo tản mát trong nhân gian cũng đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi ngồi một bên. Thế Tôn hỏi, các Tỳ-kheo:

– Các Thầy đã nhập hạ ở đâu?

Các Tỳ-kheo đáp:

– Chúng con nhập hạ ở quê quán.

Thế Tôn bảo:

– Các Thầy! Nơi sanh của các Thầy chính là ở trong chúng Tỳ-kheo, phải năng tự thực hành A-lan-nhã, lại hay khen ngợi A-lan-nhã. Tự mình hành khất thực và dạy người khác hành khất thực, không mất thời nghi. Tự mình mặc áo vá, lại dạy người khác mặc áo vá. Tự mình tu tri túc lại hay khen ngợi hạnh tri túc. Tự mình hành thiểu dục, lại khen ngợi hạnh thiểu dục. Tự mình ưa thích nơi vắng vẻ, lại khuyên người khác nên ở chỗ nhàn vắng. Tự mình giữ hạnh này lại khuyên người giữ hạnh này. Thân mình giới hạnh thanh tịnh đầy đủ, lại dạy người khác khiến tu giới này. Tự mình thành tựu tam-muội, lại dạy người khác hành tam-muội. Tự mình thành tựu trí tuệ, lại khiến người hành trí tuệ. Thân mình thành tựu giải thoát, lại dạy người khác hành giải thoát. Tự mình thành tựu giải thoát tri kiến, lại dạy người thành tựu pháp này. Giáo hóa không chán, thuyết pháp không lười mỏi.

Bấy giờ các Tỳ-kheo bạch Thế Tôn:

– Tỳ-kheo Mãn-từ Tử ở trong chúng Tỳ-kheo này, kham nhận giáo hóa, chính mình tu hạnh A-lan-nhã, cũng lại khen ngợi hạnh A-lan-nhã; thân mình mặc áo vá, thiểu dục, tri túc, tinh tấn, dũng mãnh, khất thực, ưa chỗ vắng vẻ, thành tựu giới, tam-muội, trí tuệ, giải thoát, giải thoát kiến tuệ, lại dạy người khác khiến hành pháp này, và thuyết pháp không biết chán.

Bấy giờ, Thế Tôn thuyết pháp vi diệu cho các Tỳ-kheo. Các Tỳ-kheo nghe Phật thuyết pháp rồi, ở lại một chút rồi từ chỗ ngồi đứng lên, nhiễu quanh Phật ba vòng và lui đi.

Lúc ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất ở cách Thế Tôn không xa, ngồi kiết-già, chính thân, chính ý, buộc niệm ở trước, rồi nghĩ: ‘Nay Mãn-từ Tử chóng được lợi lành. Vì cớ sao? Các Tỳ-kheo Phạm hạnh khen ngợi đức của Tôn giả, và đức Thế Tôn chấp nhận điều này, không phản đối. Hôm nào ta sẽ gặp gỡ và nói chuyện cùng Tôn giả ấy’

Bấy giờ Tôn giả Mãn-từ Tử đang ở quê mình đi khất thực và giáo hóa trong nhân gian dần dần đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy và ngồi một bên. Thế Tôn từ từ thuyết pháp cho ngài. Tôn giả Mãn-tử Từ nghe thuyết pháp xong, từ chỗ ngồi đứng lên cúi lạy và lui đi, vắt tọa cụ lên vai phải đi đến vườn Trú Ám.

Bấy giờ, có một Tỳ-kheo trông thấy Tôn giả Mãn-từ Tử vắt tọa cụ trên vai phải đi đến vườn kia, liền đến chỗ Tôn giả Xá-lợi-phất bạch:

– Tôn giả Mãn-từ Tử, người thường được Phật khen ngợi, vừa ở chỗ Thế Tôn nghe pháp, nay đến trong vườn. Tôn giả nên biết là đã đến lúc.

Tôn giả Xá-lợi-phất nghe vị Tỳ-kheo nói thế, liền đứng lên, vắt tọa cụ lên vai phải, đi đến vườn kia. Lúc ấy, Tôn giả Mãn-từ Tử ngồi kiết-già dưới một gốc cây. Tôn giả Xá-lợi-phất cũng đến một gốc cây, ngồi ngay ngắn tư duy. Rồi Tôn giả Xá-lợi-phất đứng dậy, đến chỗ Tôn giả Mãn-từ Tử, chào hỏi và ngồi một bên, và hỏi:

– Thế nào Tôn giả Mãn-từ Tử! Có phải do Thế Tôn mà Tôn giả được tu Phạm hạnh và làm đệ tử không?

Tôn giả Mãn-từ Tử đáp:

– Ðúng thế, đúng thế!

– Tôn giả lại nhân Thế Tôn mà tu giới được thanh tịnh chăng?

– Không phải.

– Tôn giả do tâm thanh tịnh đối với Như Lai mà tu Phạm hạnh phải không?

– Không phải.

– Tôn giả do kiến thanh tịnh đối với Như Lai mà tu Phạm hạnh phải không?

– Không phải.

– Thế nào? Hay Tôn giả do không do dự mà tu được Phạm hạnh chăng?

– Không phải.

– Hay Tôn giả do hành tích thanh tịnh mà được tu Phạm hạnh?

– Không phải.

– Thế nào? Có phải Tôn giả đối với đạo được trí thanh tịnh mà tu Phạm hạnh chăng?

– Không phải.

– Thế nào? Tôn giả được tri kiến thanh tịnh mà tu Phạm hạnh chăng?

Tôn giả Mãn-từ Tử đáp:

– Không phải.

Tôn giả Xá-lợi-phất nói:

– Tôi đã hỏi Tôn giả: ‘Có phải ở chỗ Như Lai mà được tu Phạm hạnh không?’. Tôn giả đáp: ‘Ðúng thế!’. Tôi lại hỏi: ‘Tôn giả do trí huệ, tâm thanh tịnh, đạo tri kiến thanh tịnh mà được tu Phạm hạnh chăng?’ Tôn giả lại nói: ‘Không’. Nay Tôn giả ở chỗ Như Lai được tu Phạm hạnh thế nào?

Tôn giả Mãn-từ Tử đáp:

– Nghĩa của giới thanh tịnh có thể khiến tâm thanh tịnh. Nghĩa của tâm thanh tịnh có thể khiến kiến thanh tịnh. Nghĩa kiến thanh tịnh có thể khiến không do dự thanh tịnh. Nghĩa không do dự thanh tịnh có thể khiến đạo thanh tịnh. Nghĩa đạo thanh tịnh có thể khiến nhập nghĩa Niết-bàn. Ðó là tôi ở chỗ Như Lai tu được Phạm hạnh.

Tôn giả Xá-lợi-phất nói:

– Nay nghĩa Tôn giả nói nhắm về đâu?

Tôn giả Mãn-từ Tử nói:

– Nay tôi sẽ đưa thí dụ để giải thích nghĩa này. Người trí do thí dụ mà hiểu được nghĩa, người trí tự ngộ. Ví như hôm nay, vua Ba-tư-nặc đi từ thành Xá-vệ đến nước Bạt-kỳ, khoảng giữa hai nước đặt bảy cỗ xe. Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc ra khỏi thành cỡi xe thứ nhất đến xe thứ hai, lên xe thứ hai bỏ xe thứ nhất, đi thêm một lúc lại bỏ xe thứ hai, lên xe thứ ba, tiến tới lại bỏ xe thứ ba, lên xe thứ tư tiến tới lại bỏ xe thứ tư, lên xe thứ năm, rồi lại tiến tới trước bỏ xe thứ năm, lên xe thứ sáu, rồi lại tiến đến bỏ xe thứ sáu, lên xe thứ bảy và vào nước Bạt-kỳ. Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc đã vào đến cung. Nếu có người hỏi: ‘Hôm nay Ðại vương dùng xe nào đến cung này?’. Vua ấy sẽ đáp thế nào?

Tôn giả Xá-lợi-phất nói:

– Nếu có người hỏi, vua sẽ đáp thế này: ‘Tôi ra khỏi thành Xá-vệ. Trước hết, ngồi xe thứ nhất, đến xe thứ hai, rồi bỏ xe thứ hai đi xe thứ ba, lại bỏ xe thứ ba lên xe thứ tư, bỏ xe thứ tư lên xe thứ năm, lại bỏ xe thứ năm lên xe thứ sáu, lại bỏ xe thứ sáu lên xe thứ bảy, đến nước Bạt-kỳ. Vì sao thế? Tất cả đều do từ xe đầu đến xe thứ bảy, đến nước Bạt-kỳ. Vì sao thế? Tất cả đều do từ xe đầu đến xe thứ hai, lần lượt nhân nhau mà đến được nước đó’. Nếu có người hỏi, vua sẽ đáp như thế.

Tôn giả Mãn-từ Tử đáp:

– Nghĩa giới thanh tịnh cũng lại như thế. Do tâm thanh tịnh được kiến thanh tịnh, do kiến thanh tịnh đến được chỗ không do dự thanh tịnh, do nghĩa không do dự thanh tịnh đến được hành tích thanh tịnh, do hành tích thanh tịnh đến được đạo thanh tịnh, do đạo thanh tịnh đến được tri kiến thanh tịnh, do tri kiến thanh tịnh đến được Niết-bàn. Tôi ở chỗ Như Lai tu được Phạm hạnh. Vì sao thế?

Nghĩa giới thanh tịnh là hình thức thọ nhập, song Như Lai nói khiến trừ thọ nhập, nghĩa tâm thanh tịnh cũng là lối thọ nhập, nhưng Như Lai nói trừ thọ nhập, cho đến nghĩa của tri kiến cũng là thọ nhập. Như Lai nói trừ thọ nhập, cho đến Niết-bàn là chỗ sở đắc tu Phạm hạnh của Như Lai.

Nếu ngay giới thanh tịnh cho là ở chỗ Như Lai được tu Phạm hạnh thì người phàm phu cũng sẽ được diệt độ. Vì cớ sao? Phàm phu cũng có giới pháp này. Lời Thế Tôn nói, do thứ tự thành đạo đến Niết-bàn, không phải chỉ riêng giới thanh tịnh mà đến được Niết-bàn.

Ví như có người muốn lên trên lầu bảy tầng, cần theo thứ tự mà lên. Giới thanh tịnh cũng vậy, dần dần đến tâm. Do tâm đến kiến, do kiến đến không do dự, do không do dự đến được hành tích thanh tịnh, do tịnh hành tích mà đến được đạo, do tịnh đạo đến được tri kiến, do tịnh tri kiến đến được Niết-bàn.

Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất liền khen:

– Lành thay, lành thay! Tôn giả thuyết nghĩa này thật hay! Nay Tôn giả tên gì? Các Tỳ-kheo Phạm hạnh gọi hiệu Tôn giả là gì?

– Các Tỳ-kheo gọi tôi là Mãn-từ Tử. Mẹ tôi họ Di-đa-da-ni.

Tôn giả Xá-lợi-phất nói:

– Lành thay, lành thay! Ngài Mãn-từ Tử! Trong pháp Hiền Thánh thật không ai bằng Ngài, Ngài chứa đựng cam lồ ban rải vô cùng. Tôi hỏi nghĩa rất sâu xa mà Ngài đều diễn nói tất cả. Dầu cho các vị Phạm hạnh có đội Ngài trên đầu đi khắp thế gian cũng không thể báo đáp được ân này. Ai được đến thân cận thăm hỏi sẽ chóng được lợi lành. Nay tôi cũng được lợi lành, vâng nhận lời dạy bảo.

Tôn giả Mãn-từ Tử nói:

– Lành thay, lành thay! Như lời Tôn giả nói. Tôn giả tên gì? Các Tỳ-kheo gọi Tôn giả là gì?

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:

– Tôi tên Ưu-ba-đề-xá. Mẹ tên Xá-lợi. Các Tỳ-kheo gọi tôi là Xá-lợi-phất.

Tôn giả Mãn-từ Tử nói:

– Nay tôi cùng Ðại nhân bàn luận. Tôi không được biết trước bậc Ðại tướng của Pháp đến đây! Nếu tôi biết Tôn giả Xá-lợi-phất đến, tôi đã không đối đáp với Tôn giả thế này. Chỗ hỏi của Tôn giả rất sâu xa, tùy lúc mà phát khởi.

Lành thay! Tôn giả Xá-lợi-phất! Tôn giả là bậc thượng thủ trong đệ tử Phật, hằng dùng pháp vị cam lồ để tự an lạc. Dù cho các vị Phạm hạnh dùng đầu đội Tôn giả Xá-lợi-phất mà đi trong thế gian, năm này qua năm khác, cũng không báo được ơn này chút nào. Chúng sanh nào đến thăm hỏi, gần gũi Tôn giả, người ấy chóng được lợi lành. Chúng tôi cũng chóng được lợi lành.

Bấy giờ, hai Hiền giả ở vườn ấy cùng nhau luận nghị như thế.

Bấy giờ, hai người, mỗi người nghe nói xong, đều vui vẻ vâng làm.

Ðẳng pháp và trú độ,
Nước và dụ thành quách,
Thức, Quân-đầu, hai luân,
Bà-mật và bảy xe.