Kinh Tăng Nhất A-Hàm

Kinh Tăng Nhất A-Hàm

Trương Văn Chiến 30

XXXXIX.1. Phẩm Chăn trâu (1)

(Phần thứ tư tụng riêng)

1. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Nếu người chăn trâu thành tựu mười một pháp, thì bầy trâu không thể tăng trưởng, cũng không thể giữ được trâu của mình. Thế nào là mười một? Nếu người chăn trâu không phân biệt được hình sắc trâu; không biết tướng mạo trâu; trâu cần cọ xát, tắm rửa mà không biết cọ xát tắm rửa; không biết chăm sóc vết thương trâu; không biết tùy thời un khói; không biết chỗ ruộng tốt cỏ non cho trâu ăn; không biết chỗ an ổn; cũng không biết chỗ lùa trâu qua sông, không biết thời thích hợp; khi vắt sữa không chừa lại mà vắt lấy hết; có những con trâu trâu lớn sử dụng được, không biết tùy thời giữ gìn. Này các Tỳ-kheo! Ðó gọi là người chăn trâu thành tựu mười một pháp, rốt cuộc không thể nuôi lớn đàn trâu, không biết giữ gìn thân chúng.

Nay trong chúng Tỳ-kheo cũng lại như thế, trọn không thể tăng trưởng lợi ích. Thế nào là mười một? Ở đây, Tỳ-kheo không phân biệt sắc kia; không hiểu tướng của nó; cần chăm sóc kỳ cọ mà không biết chăm sóc kỳ cọ; không chăm sóc vết thương; không biết tùy thời un khói; không biết chỗ ruộng tốt cỏ non; không biết bến qua sông; cũng không biết chỗ an ổn; không biết ăn đúng thời; không biết lưu lại những gì còn thừa; không biết kính trọng các Tỳ-kheo trưởng lão.

Thế nào là Tỳ-kheo không biết về sắc? Ở đây, Tỳ-kheo có sắc tứ đại và tứ đại sở tạo, thảy đều không biết. Như thế, Tỳ-kheo không phân biệt về sắc.

Thế nào là Tỳ-kheo không phân biệt về tướng? Ở đây, ‘Tỳ-kheo không biết hành động ngu, cũng không biết hành động trí, không biết như thật. Như thế, Tỳ-kheo không phân biệt tướng.

Thế nào là Tỳ-kheo đáng chăm sóc kỳ cọ mà không chăm sóc kỳ cọ? Ở đây, Tỳ-kheo mắt thấy sắc lần khởi tướng sắc, có các niệm loạn động, lại không giữ gìn nhãn căn. Do không khéo nhiếp niệm nên gây ra các ương lụy, không giữ gìn nhãn căn. Như thế, nếu Tỳ-kheo tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm trơn mịn, ý biết pháp khởi các loạn tưởng, cũng không giữ gìn ý căn, không sửa đổi hành động của mình. Như thế, Tỳ-kheo nên chăm sóc kỳ cọ mà không chăm sóc kỳ cọ.

Thế nào là Tỳ-kheo không trị lành vết thương? Ở đây, Tỳ-kheo khởi dục tưởng mà không lìa bỏ, cũng không trừ ý niệm ấy. nếu khởi tưởng sân hận, tưởng sát hại, khởi lên các tưởng ác, tưởng không lành thì trọn không rời bỏ. Như thế, Tỳ-kheo không trị lành vết thương.

Thế nào là Tỳ-kheo không tùy thời xông khói? Ở đây, Tỳ-kheo đối với pháp đã tụng đọc, không tùy thời dạy lại cho người. Như thế, ‘Tỳ-kheo không tùy thời xông khói.

Thế nào là Tỳ-kheo không biết ruộng tốt cỏ non? Ở đây, Tỳ-kheo không biết ý chỉ (Tứ niệm xứ), không biết như thật. Như thế, Tỳ-kheo không biết chỗ ruộng tốt cỏ non.

Thế nào là Tỳ-kheo không biết bến qua sông? Ở đây, Tỳ-kheo không phân biệt được Tám đạo phẩm Hiền Thánh. Như thế, Tỳ-kheo không biết bến qua sông.

Thế nào là Tỳ-kheo không biết chỗ đáng yêu thích? Ở đây, Tỳ-kheo với mười hai bộ: Khế kinh, Kỳ-dạ, Thọ ký, Kệ, Nhân duyên, Bổn sự, Phương đẳng, Thí dụ, Bổn sanh, Tự thuyết, Luận nghị, Vị tằng hữu. Như thế, Tỳ-kheo không biết chỗ đáng yêu thích.

Thế nào là Tỳ-kheo không biết thời thích hợp? Ở đây, Tỳ-kheo đi đến nhà khinh tiện, nhà vui chơi. Như thế, Tỳ-kheo không biết thời thích hợp.

Thế nào là Tỳ-kheo không lưu lại vật thừa? Ở đây, Tỳ-kheo có các Phạm chí hay Ưu-bà-tắc tín tâm đến thỉnh thọ trai, song các Tỳ-kheo đắm trước vào ăn uống, không biết ngừng đủ. Như thế, Tỳ-kheo không lưu lại vật thừa.

Thế nào là Tỳ-kheo không kính trọng bậc trưởng lão, những Tỳ-kheo cao đức? Ở đây, Tỳ-kheo không phát tâm cung kính đối với các bậc đức độ. Như thế, Tỳ-kheo có nhiều sai phạm. Ðó gọi là Tỳ-kheo không cung kính trưởng lão.

Nếu có Tỳ-kheo thành tựu mười một pháp này, trọn không thể ở trong pháp được nhiều lợi ích.

Nếu người chăn trâu thành tựu mười một pháp, hay giữ gìn đàn trâu của mình thì trọn không mất thời, có các lợi ích. Thế nào là mười một? Ở đây, người chăn trâu biết sắc trâu, phân biệt tướng trâu, cần tắm rửa kỳ cọ thì tắm rửa kỳ cọ, chăm sóc các vết ghẻ lở, tùy thời xông khói, biết chỗ ruộng tốt cỏ ngon, biết bến qua sông cần yếu, thương trâu của mình, phân biệt thời thích hợp với trâu, cũng biết tánh tình trâu, nếu khi vắt sữa trâu thì biết chừa lại, cũng biết tùy thời chăm sóc giữ gìn những con trâu có thể sử dụng. Như thế, người chăn trâu biết giữ gìn trâu. Như thế, này Tỳ-kheo! Nếu người chăn trâu thành tựu mười một pháp không mất thời tiết, trọn không bị bại hoại.

Như thế, Tỳ-kheo nếu thành tựu mười một pháp, nơi hiện pháp này được nhiều lợi ích. Thế nào là mười một pháp? Ở đây, Tỳ-kheo biết sắc, biết tướng, biết cọ rửa, biết chăm sóc vết thương, biết xông khói, biết chỗ ruộng tốt cỏ ngon, biết chỗ đáng yêu thích, biết chọn đường đi, biết chỗ qua sông, biết ăn vừa đủ, biết kính trọng Tỳ-kheo trưởng lão và tùy thời lễ bái.

Thế nào là Tỳ-kheo biết sắc? Ở đây Tỳ-kheo biết sắc tứ đại, cũng biết tứ đại tạo sắc. Ðó gọi là Tỳ-kheo biết sắc.

Thế nào là Tỳ-kheo biết tướng? Ở đây Tỳ-kheo biết tướng ngu, biết tướng trí, biết như thật. Như thế, Tỳ-kheo biết tướng.

Thế nào là Tỳ-kheo biết cọ rửa? Ở đây, nếu Tỳ-kheo khởi tưởng dục liền biết xa lìa, cũng không tha thiết, vĩnh viễn không dục tưởng. Nếu tưởng sân, tưởng hại, và các tưởng ác bất thiện khơi lên thì đều biết xa lìa, cũng không tha thiết, vĩnh viễn không tưởng sân. Như thế, Tỳ-kheo biết cọ rửa.

Thế nào là Tỳ-kheo biết chăm sóc vết thương? Ở đây, Tỳ-kheo nếu mắt thấy sắc không khởi tưởng sắc thì cũng không nhiễm trước, mà làm trong sạch nhãn căn, trừ bỏ lo buồn và pháp ác bất thiện, tâm không tham vui trong ấy, giữ gìn nhãn căn. Như thế, Tỳ-kheo nếu tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý biết pháp thì không khởi thức tưởng, cũng không nhiễm trước, mà thanh tịnh ý căn. Như thế, Tỳ-kheo biết chăm sóc vết thương.

Thế nào là Tỳ-kheo biết xông khói? Ở đây, Tỳ-kheo từ pháp được nghe, vì người giảng nói rộng. Như thế là Tỳ-kheo biết xông khói.

Thế nào là Tỳ-kheo biết chỗ ruộng tốt, cỏ non? Ở đây, Tỳ-kheo đối với Tám đạo phẩm Hiền Thánh như thật mà biết. Ðó là Tỳ-kheo biết chỗ ruộng tốt cỏ non.

Thế nào là Tỳ-kheo biết chỗ đáng yêu? Ở đây, nếu Tỳ-kheo nghe Như Lai nói pháp báu thì tâm liền vui thích. Như thế, Tỳ-kheo biết chỗ đáng yêu.

Thế nào là Tỳ-kheo biết chọn đường đi? Ở đây, Tỳ-kheo đối với mười hai bộ kinh, chọn mà hành trì. Ðó là Khế kinh, Kỳ-dạ, Thọ ký, Kệ, Nhân duyên, Bổn sự, Phương đẳng, Thí dụ, Bổn sanh, Tự thuyết, Luận nghị, Vị tằng hữu. Như thế là Tỳ-kheo biết chọn đường đi.

Thế nào là Tỳ-kheo biết chỗ qua sông? Ở đây, Tỳ-kheo biết Tứ ý chỉ (Tứ niệm xứ), đó gọi là Tỳ-kheo biết chỗ qua sông.

Thế nào là Tỳ-kheo biết ăn vừa đủ? Ở đây, Tỳ-kheo được Phạm Chí, Ưu-bà-tắc tín tâm đến thỉnh thọ trai, không tham ăn uống, có thể tự biết đủ. Như thế Tỳ-kheo biết vừa đủ.

Thế nào là Tỳ-kheo tùy thời kính vâng Tỳ-kheo trưởng lão? Ở đây, Tỳ-kheo thường dùng thần niệm ý làm lành đối với các Tỳ-kheo trưởng lão. Như thế, Tỳ-kheo tùy thời cung kính Tỳ-kheo trưởng lão.

Như thế, nếu thành tựu mười một pháp, ở trong hiện pháp được nhiều lợi ích.

Thế Tôn bèn nói kệ:

Chăn trâu không lười biếng,
Người ấy được phước báo,
Sáu con trong sáu năm,
Dần dần thành sáu chục.
Tỳ-kheo thành tựu giới,
Với thiền, được tự tại,
Nếu sáu căn vắng lặng,
Sáu năm thành lục thông.

Như thế, Tỳ-kheo! Nếu có người lìa pháp ác này, thành tựu mười một pháp này thì ở trong hiện pháp được nhiều lợi ích. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

2. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Phật bảo các Tỳ-kheo:

– Nếu Tỳ-kheo thành tựu mười một pháp, ắt có thể có sự lớn mạnh. Thế nào là mười một? Ở đây, Tỳ-kheo thành tựu giới, thành tựu chánh định, thành tựu trí tuệ, thành tựu giải thoát, thành tựu giải thoát tri kiến, các căn vắng lặng, ăn uống biết vừa đủ, thường tu hành cọng pháp, biết phương tiện, phân biệt nghĩa thú, không đắm trước lợi dưỡng. Như thế, Tỳ-kheo, có người thành tựu mười một pháp này, liền có chỗ đạt đến.

Nay Ta lại bảo các Thầy, nếu có người trong mười một năm, học pháp này thì người ấy hiện đời thành A-na-hàm, chuyển thân liền thành A-la-hán. Các Tỳ-kheo, thôi không cần mười một năm, hoặc chín, tám, bảy, sáu, năm, bốn, ba, hai, chỉ một năm học pháp này, liền chứng quả thứ hai, hoặc A-na-hàm, hoặc A-la-hán. Hoặc không cần mười hai tháng, chỉ trong một tháng tu hành này, Tỳ-kheo ấy chắc chắn thành hai quả, hoặc A-na-hàm, hoặc A-la-hán.

Vì sao như vậy? Mười hai nhân duyên đều phải xuất từ mười một pháp này. Ðó là sanh, lão, bịnh, tử, lo buồn khổ não … Tuy Ta dạy các Tỳ-kheo nên giống như Tỳ-kheo Ca-diếp. Nếu như có người thực hành pháp khiêm tốn khổ hạnh thì khổ có gì sánh kịp hạnh này? Vì sao? Tỳ-kheo Ca-diếp thành tựu mười một pháp này. Nên biết chư Phật đời quá khứ thành Ðẳng Chánh Giác cũng thành tựu mười một pháp khổ hạnh này. Nay Tỳ-kheo Ca-diếp vì thương xót tất cả chúng sanh. Nếu cúng dường các Thanh văn đời quá khứ thân sau sẽ được phước báu. Nếu cúng dường Ca-diếp, thân hiện đời được phước báu. Nếu như Ta không thành Ðẳng Chánh Giác, sau sẽ do Ca-diếp thành Ðẳng Chánh Giác. Do nhân duyên này nên Tỳ-kheo Ca-diếp hơn các Thanh văn đời quá khứ. Ai có thể làm như Ca-diếp, đây ắt là hạnh trên hết.

Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

3. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn vì vô số chúng sanh vây quanh trước sau, mà nói pháp. Lúc ấy Tôn giả Xá-lợi-phất dắt nhiều chúng Tỳ-kheo đi kinh hành. Các Tỳ-kheo Ðại Mục-kiền-liên, Ðại Ca-diếp, A-na-luật, Ly-bà-da, Ca-chiên-diện, Mãn-tù-tử, Ưu-ba-ly, Tu-bồ-đề, La-vân, A-nan v.v. mỗi người đều dắt một số Tỳ-kheo tự vui cùng nhau. Ðề-bà-đạt-đa cũng dắt nhiều chúng Tỳ-kheo tự đi kinh hành.

Thế Tôn thấy các đệ tử thần túc mỗi người đều dẫn chúng của mình đi kinh hành. Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Người đời, về thân căn và tánh tình mỗi mỗi tự thích hợp với nhau. Người hiền cùng làm bạn với người hiền, người ác cùng làm bạn với người ác. Cũng như sữa tương ưng với sữa, bơ tương ưng với bơ, phần uế cùng tương ưng với phần uế. Ðây cũng như vật, căn tánh, hành động, pháp tắc của chúng sanh mỗi tự tương ưng. Người hiền tương ưng với người hiền, người ác tương ưng với người ác. Các Thầy có thấy Tỳ-kheo Xá-lợi-phất dắt các Tỳ-kheo đi kinh hành kia chăng?

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

– Thưa vâng, thấy.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

– Những người ấy đều là hàng có trí tuệ.

Phật lại hỏi các Tỳ-kheo:

– Các Thầy có thấy Tỳ-kheo Mục-kiền-liên dắt các Tỳ-kheo đi kinh hành không?

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

– Thưa vâng, thấy.

Phật bảo:

– Những Tỳ-kheo ấy đều là hàng có thần túc.

Phật lại hỏi:

– Các Thầy thấy Tỳ-kheo Ca-diếp dắt các Tỳ-kheo đi kinh hành chăng?

Các Tỳ-kheo thưa:

– Thưa vâng, thấy.

Phật bảo:

– Các Thượng sĩ ấy đều là những người thật hành mười một pháp đầu đà.

Phật lại hỏi:

– Các Thầy thấy Tỳ-kheo A-nan-luật chăng?

Các Tỳ-kheo thưa:

– Thưa vâng, thấy.

Phật bảo:

– Những Hiền sĩ ấy đều là hàng Thiên nhãn đệ nhất.

Phật lại hỏi:

– Có thấy Tỳ-kheo Ly-việt chăng?

Các Tỳ-kheo thưa:

– Thưa vâng, thấy.

Phật bảo:

– Những người ấy đều là hành nhập định.

Phật lại hỏi:

– Các Thầy có thấy Tỳ-kheo Ca-chiên-diên chăng?

Các Tỳ-kheo thưa:

– Thưa vâng, thấy.

Phật bảo:

– Những Thượng sĩ ấy đều là người phân biệt nghĩa lý.

Phật lại hỏi:

– Các Thầy có thấy Tỳ-kheo Mãn-từ-tử chăng?

Các Tỳ-kheo thưa:

– Thưa vâng, thấy.

Phật bảo:

– Những Hiền sĩ ấy đều là người thuyết pháp.

Phật lại hỏi:

– Các Thầy có thấy Ưu-ba-ly dẫn các Tỳ-kheo đi kinh hành chăng?

Các Tỳ-kheo thưa:

– Thưa vâng, thấy.

Phật bảo:

– Những người ấy đều là người giữ gìn giới cấm.

Phật lại hỏi:

Các Thầy thấy Tỳ-kheo Tu-bồ-đề chăng?

Các Tỳ-kheo thưa:

– Thưa vâng, thấy.

Phật bảo:

– Những Thượng nhơn ấy đều là bậc Giải không đệ nhất.

Phật lại hỏi:

– Các Thầy có thấy Tỳ-kheo La-vân chăng?

Các Tỳ-kheo thưa:

– Thưa vâng, thấy.

Phật bảo:

– Những Hiền sĩ ấy đều là người đầy đủ giới.

Phật lại hỏi:

– Các Thầy có thấy Tỳ-kheo A-nan chăng?

Các Tỳ-kheo thưa:

– Thưa vâng, thấy.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

– Những Hiền sĩ ấy đều là người đa văn đệ nhất, nghe rồi không quên.

Phật lại hỏi:

– Các Thầy có thấy Tỳ-kheo Ðề-bà-đạt-đa dắt các người đi kinh hành chăng?

Các Tỳ-kheo thưa:

– Thưa vâng, thấy.

Phật bảo:

– Những người ấy lấy việc ác làm đầu, không có gốc lành.

Thế Tôn bèn nói kệ:

Chớ cùng Ác tri thức,
Cùng người ngu làm việc,
Nên cùng Thiện tri thức,
Giao thiệp với người trí,
Nếu người vốn không ác,
Gần gũi với người ác,
Sau ắt thành nhân ác,
Tiếng ác đồn khắp nơi.

Bấy giờ, hơn ba mươi đệ tử của Ðề-bà-đạt-đa nghe Thế Tôn nói bài kệ ấy rồi, bèn bỏ Ðề-bà-đạt-đa đi đến chỗ Phật, cúi đầu lễ chân Phật, xin sửa đổi tội nặng.

Các vị ấy lại bạch Thế Tôn:

– Chúng con ngu si mê lầm, không biết chơn ngụy, bỏ Thiện tri thức mà gần Ác tri thức. Cúi xin Thế Tôn tha thứ, về sau không dám phạm.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

– Cho phép các Thầy sám hối lỗi lầm, sửa điều đã làm, chỉnh đốn điều sắp làm, đừng phạm lại.

Bấy giờ, đệ tử của Ðề-bà-đạt-đa, vâng lời Thế Tôn dạy, ở chỗ vắng suy nghĩ nghĩa lý vi diệu, tự khắc phục hành động của mình. Vốn là hàng quý tộc, cạo bỏ râu tóc xuất gia học đạo, vì muốn tu Phạm hạnh vô thượng, các Tỳ-kheo đều đắc quả A-la-hán.

Tỳ-kheo nên biết! Cội nguồn của chúng sanh đều tự theo loại với nhau. Người ác đi theo người ác, người hiền đi theo người hiền. Cội nguồn của chúng sanh thời quá khứ và tương lai cũng lại như thế, cùng theo loại với nhau. Cũng như tịnh tương ưng với tịnh, bất tịnh tương ưng với bất tịnh. Cho nên, Tỳ-kheo nên học tương ưng với tịnh, xả bỏ bất tịnh. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng lời.

*

4. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại thành Câu-lưu-sa Pháp Hành, cùng với chúng đại Tỳ-kheo năm trăm người câu hội.

Bấy giờ, Tôn giả Tượng Xá-lợi-phất xả bỏ pháp y, tập theo hạnh cư sĩ. Khi ấy, Tôn giả A-nan đắp y mang bát vào thành khất thực, đi dần dần đến nhà Tượng Xá-lợi-phất. Tượng Xá-lợi-phất đang kề vai hai thiếu nữ. A-nan thấy như vậy, bèn khởi ý lo buồn không vui. Tượng Xá-lợi-phất thấy A-nan rồi, rất hổ thẹn, bèn ngồi riêng một mình.

Bấy giờ, A-nan khất thực xong, ra khỏi thành, đến chỗ Phật, cúi đầu lễ chân Phật, lui ngồi một bên.

A-nan bạch Phật:

– Vừa rồi con vào thành khất thực, đi dần đến nhà Tượng Xá-lợi-phất, thấy đang kề vai hai cô vợ. Con thấy rất lo buồn.

Phật hỏi:

– Thầy thấy rồi khởi ý niệm gì?

A-nan bạch Phật:

– Con nhớ Tượng Xá-lợi-phất là người tinh tấn đa văn, tánh hạnh nhu hòa, vì các người Phạm hạnh nói pháp không chán. Vì sao hôm nay lại xả bỏ pháp phục, tập hạnh cư sĩ? Con thấy rồi rất lo buồn. Bởi vì Tượng Xá-lợi-phất, có sức oai thần lớn, oai đức vô lượng. Tự nghĩ xưa con từng thấy vị ấy bàn luận với Thích-đề-hoàn-nhân, tại sao ngày nay lại tập theo dục lạc làm ác?

Phật bảo:

– Như thế, A-nan! Như lời Thầy nói. Chỉ vì vị ấy không phải là A-la-hán. Phàm là A-la-hán mới không bỏ pháp phục, tập hạnh cư sĩ. Nhưng này A-la-nan, chớ lo buồn! Sau bảy ngày, Tượng Xá-lợi-phất sẽ đến đây, chấm dứt hữu lậu thành vô lậu. Chỉ vì Tượng Xá-lợi-phất do nghiệp cũ lôi kéo nên như thế. Hạnh nghiệp đời này đầy đủ sẽ dứt hữu lậu.

Bấy giờ, Tượng Xá-lợi-phất sau bảy ngày đi đến chỗ Phật, cúi đầu lễ chân Phật, lui ngồi một bên, giây lát đứng dậy bạch Phật:

– Cúi xin Thế Tôn cho phép con lần cuối tu hạnh Sa-môn.

Bấy giờ, Tỳ-kheo Tượng Xá-lợi-phất liền được làm Sa-môn ngay tại chỗ ngồi đắc A-la-hán.

Tượng Xá-lợi-phất đắp y mang bát vào thành khất thực, lúc ấy có một Phạm chí sanh ý niệm rằng: “Các Sa-môn dòng Thích này, chỗ nào cũng có, hiện diện khắp nơi, lại dứt tuyệt cả việc thi hành chú thuật của chúng ta. Nay ta sẽ nói với người trong thành vết xấu của Sa-môn này”. Bấy giờ Phạm chí ấy nói mọi người trong thành rằng:

– Các Người có thấy Tượng Xá-lợi-phất chăng? Ngày trước tự xưng là A-la-hán, nửa chừng bỏ pháp phục, tập hạnh thế gian, vui chơi trong ngũ dục. Nay lại làm Sa-môn, đi khất thực từng nhà ra vẻ trong sạch, thấy phụ nữ khởi lên dục tính, trở về tinh xá nhớ nghĩ nữ sắc không quên. Như con lừa mệt mỏi không kham chở đồ, nằm mẹp không nhúc nhích; đệ tử dòng Thích này cũng như vậy, ngoài hiện vẻ khất thực mà thấy người nữ thì suy nghĩ toan tính.

Tượng Xá-lợi-phất nghe Phạm chí ấy gieo rắc tiếng tăm ác, bèn khởi nghĩ: “Người này rất ngu si, sanh tâm tật đố, thấy người khác được lợi dưỡng sanh lòng bỏn sẻn, ganh ghét. Nếu mình được lợi dưỡng thì bèn vui mừng, đến nhà cư sĩ phỉ báng. Nay ta phải chế ngự không cho làm ác, không khiến cho người này chịu tội vô lượng”.

Tượng Xá-lợi-phất bay lên hư không, bảo Phạm chí rằng:

Không mắt, không cách khéo,
Khởi tâm chê Phạm hạnh,
Tự làm việc vô ích,
Chịu khổ địa ngục lâu.

Tượng Xá-lợi-phất nói kệ ấy rồi, bèn trở về chỗ của mình. Khi ấy, dân chúng trong thành nghe Phạm chí phỉ báng, lại nghe Tượng Xá-lợi-phất nói kệ, đều khởi nghĩ rằng: “Nếu đúng như lời Phạm chí, sao lại hiện thần túc khó bì, chúng ta lại thấy Sa-môn ấy xả bỏ pháp phục, tập hạnh cư sĩ”. Khi ấy, phần đông dân chúng, mỗi mỗi đến chỗ Tượng Xá-lợi-phất, cúi đầu lễ dưới chân, lui ngồi một bên. Mọi người hỏi Tượng Xá-lợi-phất rằng:

– Có vị A-la-hán nào xả bỏ pháp phục, tập hạnh thế gian chăng?

Tượng Xá-lợi-phất đáp:

– Không có A-la-hán xả bỏ pháp phục, tập hạnh cư sĩ.

Mọi người bạch Tượng Xá-lợi-phất:

– A-la-hán có vì duyên cũ mà phạm giới chăng?

Tượng Xá-lợi-phất đáp:

– Ðã đắc quả A-la-hán, trọn không phạm giới.

Dân chúng lại hỏi:

– Người ở địa vị học đạo có vì duyên cũ mà phạm giới chăng?

Tượng Xá-lợi-phất đáp:

– Có, nếu người còn ở vị học đạo, do duyên xưa nên phạm giới.

Mọi người lại hỏi:

– Tôn giả trước đây là A-la-hán, lại bỏ pháp phục, tập theo hạnh thế gian, vui chơi trong ngũ dục, nay lại xuất gia học đạo. Trước vốn có thần túc, nay vì sao như thế.

Tượng Xá-lợi-phất bèn nói kệ:

Ðược Thiền định thế gian,
Rốt ráo không giải thoát,
Chưa được vết diệt tận,
Lại tập theo ngũ dục.
Không củi, lửa không cháy,
Không gốc, cành không sanh,
Gái đá không mang thai,
La-hán không bị rơi.

Bấy giờ dân chúng lại hỏi Tượng Xá-lợi-phất:

– Tôn giả trước đây không phải A-la-hán chăng?

Tượng Xá-lợi-phất đáp:

– Trước đây tôi không phải là A-la-hán. Các cư sĩ nên biết, ngũ thông và lục thông mỗi thứ sai khác nhau. Nay tôi sẽ nói về mười một thông ấy. Phàm hạng tiên nhơn được ngũ thông đã dứt sạch dục ái, nếu sanh về cõi trên lại rơi xuống dục giới. Hàng A-la-hán lục thông đệ tử của Phật, được lậu tận thông tức ngay nơi cảnh giới Niết-bàn Vô dư, mà vào Niết-bàn.

Dân chúng lại thưa rằng:

– Chúng tôi quán sát lời nói của Tôn giả, thời ở thế gian không có A-la-hán xả bỏ pháp phục, tập theo hạnh cư sĩ.

Tượng Xá-lợi-phất đáp:

– Như thế, như lời các ông nói, không có A-la-hán nào xả bỏ pháp phục, tập hạnh cư sĩ. Có mười một pháp, A-la-hán không tập theo.

Thế nào là mười một? A-la-hán lậu tận trọn không xả bỏ pháp phục, tập theo hạnh cư sĩ; A-la-hán lậu tận trọn không tập hạnh bất tịnh; A-la-hán lậu tận trọn không sát sanh; A-la-hán lậu tận trọn không trộm cắp; A-la-hán lậu tận không lưu lại vật thừa; A-la-hán lậu tận trọn không nói dối; A-la-hán lậu tận trọn không khiến đôi bên gây gổ. A-la-hán lậu tận trọn không còn hồ nghi; A-la-hán lậu tận trọn không sợ sệt; A-la-hán lậu tận trọn không theo học thầy khác, lại cũng không thọ bào thai. Ðó gọi là các Hiền sĩ A-la-hán lậu tận trọn không làm theo mười một hạnh.

Bấy giờ, dân chúng bạch với Tượng Xá-lợi-phất:

– Chúng con nghe Tôn giả nói, thấy hàng ngoại đạo dị học như bình rỗng không có gì. Nay thấy nội pháp như bình đựng mật ngọt. Chánh pháp Như Lai cũng lại như thế. Nay Phạm chí ấy chịu tội vô lượng.

Tượng Xá-lợi-phất bay lên hư không, ngồi kiết-già nói kệ:

Không hiểu việc đây, kia,
Tập theo thuật ngoại đạo,
Gây đấu tranh đôi bên,
Người trí không làm thế.

Dân chúng thành Câu-lưu-sa thưa Tượng Xá-lợi-phất rằng:

– Lời nói của Tôn giả hơn nhiều, thật khó sánh kịp, cũng như người mù được sáng mắt, người điếc được nghe. Nay lời nói của Tôn giả cũng thế, dùng vô số phương tiện nói giáo pháp. Ngày nay chúng con tự quy y Phật, Pháp, Tỳ-kheo Tăng. Cúi xin Tôn giả nhận chúng con làm Ưu-bà-tắc, trọn đời giữ năm giới, không sát sanh…

Bấy giờ, Tôn giả Tượng Xá-lợi-phất vì dân chúng nói pháp vi diệu, khiến họ phát tâm hoan hỷ, họ đều từ chỗ đứng dậy, làm lễ mà lui.

Bấy giờ Tôn giả A-nan nghe Phạm chí phỉ báng Tượng Xá-lợi-phất song không đến đâu, còn không dám nhìn Tượng Xá-lợi-phất, huống gì cùng bàn luận, liền đến chỗ Phật, đem tất cả nhân duyên ấy thưa với Phật.

Phật bảo A-nan rằng:

– Phàm luận về A-la-hán bình đẳng, nên nói chính là Tượng Xá-lợi-phất. Vì sao? Nay Tượng Xá-lợi-phất đã thành A-la-hán. Xưa kia nghe đồn về danh tiếng A-la-hán, nay mới đạt được. Hàng thế tục được ngũ thông, không phải là hạnh chơn thật, sau ắt bị mất. Hàng lục thông là hạnh chơn thật. Vì sao? Tượng Xá-lợi-phất trước có ngũ thông, sau được lục thông. Thầy cũng nên học như Tượng Xá-lợi-phất. Ðây là nghĩa ấy nên ghi nhớ vâng làm.

Bấy giờ, A-nan nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

5. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Nay Ta sẽ nói về pháp nhân duyên, nên khéo suy nghĩ ghi nhớ, tu tập hạnh ấy.

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, Thế Tôn bảo:

– Thế nào là pháp nhân duyên?

Nghĩa là vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão tử, ưu bi khổ não không thể tính kể. Như thế thành thân năm ấm này.

Thế nào gọi là vô minh? Nghĩa là không biết Khổ, không biết Tập, không biết Diệt, không biết Ðạo. Ðây là vô minh.

Thế nào gọi là hành? Hành có ba loại, thế nào là ba? Là thân hành, khẩu hành, ý hành. Ðó là hành.

Thế nào gọi là thức? Ðó là sáu thức thân. Thế nào là sáu? Là nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức. Ðó là thức.

Thế nào gọi là danh? Là thọ, tưởng, hành, thức. Ðó là danh.

Thế nào gọi là sắc? Là thân tứ đại và sắc thân do tứ đại tạo nên. Ðó là sắc. Sắc khác danh khác, nên gọi là danh sắc.

Thế nào gọi là lục nhập? Là nhãn nhập, nhĩ nhập, tỷ nhập, thiệt nhập, thân nhập, ý nhập. Ðó là lục nhập.

Thế nào gọi là xúc? Là sáu xúc thân. Thế nào là sáu? Là nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc, ý xúc. Ðó là xúc.

Thế nào gọi là thọ? Là ba thọ. Thế nào là ba? Là thọ khổ, thọ vui, thọ không khổ không vui. Ðó gọi là thọ.

Thế nào gọi là ái? Là ba ái: dục ái, hữu ái, vô hữu ái.

Thế nào gọi là thủ? Là bốn thủ. Thế nào là bốn? Là dục thủ, kiến thủ, giới thủ, ngã thủ. Ðó gọi là thủ.

Thế nào gọi là hữu? Là ba hữu. Thế nào là ba? Là dục hữu, sắc hữu, vô sắc hữu. Ðó gọi là hữu.

Thế nào gọi là sanh? Là khi đầy đủ ngày tháng, ra khỏi bụng mẹ, nhận sự hiện hữu, được thân năm ấm, thọ lãnh các nhập. Ðó gọi là sanh.

Thế nào gọi là lão? Là chúng sanh kia, nơi thân phần này răng rụng, tóc bạc, khí lực yếu mòn, các căn rã rời, thọ mạng ngày càng suy, không còn tình thức như xưa. Ðó gọi là lão.

Thế nào gọi là tử? Là khi chúng sanh kia, lần lượt thân thể không còn ấm, vô thường biến đổi, các căn phân tán, bỏ thân năm ấm, mạng sống chấm dứt. Ðó gọi là tử.

Tỳ-kheo nên biết! Như thế gọi là lão, bệnh, tử. Ðây gọi là nhân duyên. Ta đã phân biệt rộng nghĩa ấy. Ðiều cần làm của các đức Phật Như Lai, khởi lòng thương xót lớn, nay Ta đã làm xong. Các Thầy nên ghi nhớ, khi ngồi dưới gốc cây, nơi đất trống, hoặc ở gò mả, nên suy nghĩ tọa thiền, chớ sợ hãi. Ngày nay không siêng năng, sau ân hận vô ích.

Bấy giờ, A-nan bạch Phật:

– Thế Tôn vì các Tỳ-kheo nói pháp nhân duyên sâu xa. Nhưng con thấy không có nghĩa sâu xa gì cả.

Ðức Phật bảo:

– Thôi, thôi, A-nan! chớ khởi ý nghĩ ấy. Vì sao? Pháp Mười hai nhân duyên rất sâu xa, không phải là chỗ hiểu của người thường.

Xưa, khi Ta chưa giác ngộ pháp nhân duyên này, bị trôi lăn trong sanh tử không có ngày ra khỏi. Lại, này A-nan! Không phải ngày nay, Thầy mới nói pháp nhân duyên không sâu xa, từ trước đến nay đã nói không sâu xa. Vì sao?

Thời quá khứ, có vị vua A-tu-la tên Tu-diệm, khởi ý nghĩ nầy: “Muốn nắm chặt mặt trời, mặt trăng ra khỏi biển lớn”. Bèn hóa thân to lớn, nước biển chỉ tới ngang lưng. Bấy giờ, vua A-tu-la ấy có con trai tên Câu-na-la, tự nói với cha rằng:

– “Nay con muốn tắm trong biển”.

Tu-diệm bảo:

– “Con đừng thích tắm trong biển. Vì sao? Nước biển rất sâu và rộng, con không thể tắm trong đó”.

Câu-na-la tự nói:

– “Con thấy nước biển chỉ đến ngang lưng cha, vì sao lại nói là sâu rộng?”

Khi đó, vua A-tu-la nắm lấy con dìm vào trong biển lớn, con trai A-tu-la chân không chấm đáy bể rất là sợ hãi.

Vua Tu-diệm bảo con rằng:

– “Ta đã nói trước với con rằng biển rất sâu, con nói không khổ chỉ có ta mới có thể tắm trong biển lớn, không phải con có thể tắm được”.

A-tu-la Tu-diệm lúc ấy há phải người nào lạ? Chớ nghĩ như thế, Vì sao? Tu-diệm tức là thân Ta, con trai của A-tu-la lúc ấy chính là thân Thầy. Khi ấy nước biển rất sâu, Thầy nói không khổ. Nay Ta nói pháp Mười hai nhân duyên rất sâu xa, Thầy lại nói không sâu xa.

Chúng sanh không hiểu pháp Mười hai nhân duyên, lưu chuyển trong sanh tử không có ngày ra khỏi, thảy đều mê lầm không biết khổ hạnh. Từ đời này đến đời sau, từ đời sau đến đời này, vĩnh viễn ở trong năm thứ phiền não, muốn ra rất khó. Ta ban đầu mới thành đạo, suy nghĩ về Mười hai nhân duyên, hàng phục ma quân, quyến thuộc của ma. Do trừ vô minh mà được tuệ minh, vĩnh viễn trừ diệt các tối tăm, không còn trần cấu. A-nan! Khi Ta ba phen chuyển, mười hai lần nói pháp nhân duyên này, liền được thành đạo. Do phương tiện này nên biết , pháp Mười hai nhân duyên rất sâu xa, không phải người thường có thể tuyên nói.

Như thế, này A-nan, nên ghi nhớ phụng trì pháp Mười hai nhân duyên sâu xa này, nên học điều này!

Bấy giờ, A-nan nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

6. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại thành La-duyệt, vườn trúc Ca-lan-đà, cùng với chúng đại Tỳ-kheo năm trăm người câu hội.

Bấy giờ, trong thành La-duyệt có một Phạm chí tên Thí-la, biết đủ các kỹ thuật, tất cả các kinh điển của ngoại đạo dị học, thiên văn địa lý, thảy đều quán triệt. Phạm chí là thầy dạy học cho năm trăm đồng tử Phạm chí.

Trong thành ấy lại có một Phạm chí dị học tên Sí-ninh, hiểu biết rộng, là người được vua Tần-bà-sa-la kính mến, thường tùy thời cung cấp cho đồ cần dùng.

Khi ấy, danh tiếng Như Lai lan rộng khắp nơi. Như Lai Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện thệ, Thế gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, độ người vô lượng, xuất hiện ở đời. Khi đó, Phạm chí Sí-ninh khởi ý nghĩ rằng: “Danh hiệu Như Lai rất khó được nghe đến, nay Ta muốn đến gần gũi, lễ bái, thăm hỏi Ngài”. Phạm chí Sí-ninh liền đến chỗ Phật, cúi đầu lễ chân Phật, lui ngồi một bên.

Phạm chí bạch Phật:

– Sa-môn Cù-đàm thuộc chủng tộc nào?

Phật đáp:

– Ta thuộc chủng tộc Sát-lợi.

Phạm chí hỏi:

– Các Bà-la-môn có luận thuyết này: Chủng tộc của ta rất tôn quý, không ai hơn,hoạc nói là dòng họ trắng, hoặc nói dòng họ đen. Bà-la-môn tự xưng rằng: ta từ Phạm thiên sanh ra. Nay Sa-môn Cù-đàm có những thuyết gì?

Phật bảo:

– Phạm chí nên biết, nếu có cưới xin, giá thú mới tìm dòng hào quý. Còn trong Chánh pháp của Ta, không có vấn đề danh tánh cao thấp, phải quấy.

Phạm chí lại hỏi:

– Cù-đàm! Thế nào là nơi sanh thanh tịnh, sau mới được pháp thanh tịnh?

Phật bảo Phạm chí:

– Ông dùng vấn đề nơi thanh tịnh, pháp thanh tịnh để làm gì?

Phạm chí lại nói:

– Các Bà-la-môn đều bàn luận thế này: Dòng họ ta rất tôn quý không ai hơn, hoặc nói là dòng trắng, hoặc nói dòng đen. Bà-la-môn tự xưng là do Phạm thiên sanh ra.

Phật bảo Phạm chí:

– Nếu có cô gái dòng Sát-lợi về làm vợ gia đình Bà-la-môn, giả sử sanh con trai sẽ theo họ gì?

Phạm chí đáp:

– Nó sẽ thuộc dòng Bà-la-môn. Vì sao? Do người cha mới có đứa bé ấy.

Phật bảo:

– Nếu cô gái dòng Bà-la-môn kết hôn với dòng Sát-lợi, sanh con trai sẽ theo họ ai?

Phạm chí đáp:

– Ðứa bé sẽ thuộc về dòng Sát-lợi. Vì sao? Do người cha mới có đứa con ấy.

Phật bảo Phạm chí:

– Ông nên suy nghĩ kỹ, sau hãy đáp lời Ta. Hôm nay lời của Ông trước sau không hợp nhau. Thế nào, này Phạm chí, giả sử có lừa cái theo ngựa, sau sanh con, sẽ gọi là ngựa, là lừa?

Phạm chí đáp:

– Loại đó nên gọi là lừa ngựa. Vì sao? Do di thể của lừa nên có con vật ấy.

Phật bảo Phạm chí:

– Ông nên suy nghĩ kỹ, sau hãy trả lời Ta. Nay lời của Ông, trước sau không tương ưng. Trước Ông nói con gái dòng Sát-lợi kết hôn dòng Bà-la-môn, nếu sanh con bèn mang dòng Bà-la-môn. Nay lừa cái theo ngựa sanh con, mà gọi là lừa ngựa, không phải trái với lời nói trước sao? Lại, nầy Phạm chí! Nếu ngựa theo lừa, sanh con sẽ gọi là gì?

Phạm chí đáp:

– Nên gọi là ngựa lừa.

Phật bảo:

– Thế nào, Phạm chí, ngựa lừa và lừa ngựa có khác gì? Nếu có người nói “châu báu một hộc”, và người nói “một hộc châu báu”, hai nghĩa ấy có khác nhau chăng?

Phạm chí đáp:

– Ðó là một nghĩa. Vì sao? Một hộc châu báu và châu báu một hộc, ý nghĩa không khác.

Phật bảo Phạm chí:

– Tại sao ngựa lừa và lừa ngựa lại không phải một nghĩa?

Phạm chí đáp:

– Nay Sa-môn Cù-đàm tuy nói như thế, song Bà-la-môn tự khen rằng: “Dòng họ ta rất tôn quý không ai hơn”.

Phật bảo Phạm chí:

– Trước Ông khen ngợi người mẹ, sau lại khen ngợi người cha. Nếu cha cũng dòng Bà-la-môn, mẹ cũng dòng Bà-la-môn, sau sanh hai người con, Một người giỏi nhiều kỹ thuật, không việc gì không biết, người thứ hai lại không biết gì cả. Khi đó cha mẹ thương mến người nào? Thương mến người con có trí tuệ, hay thương mến người con không biết gì?

Phạm chí đáp:

– Cha mẹ ấy nên thương mến người thông minh cao đức, không nên thương mến người không có trí. Vì sao vậy? Nay người con việc gì cũng biết, việc gì cũng giỏi, nên thương người đó, không nên thương người con vô trí.

Phật bảo Phạm chí:

– Nếu hai người con ấy, người thông minh lại khởi tâm làm mười việc sát sanh, trộm cắp, tà dâm v.v.. người con không thông minh kia lại giữ gìn thân, miệng, ý, trong mười việc thiện đều giữ đủ, thì cha mẹ người ấy nên thương mến ai?

Phạm chí đáp:

– Cha mẹ người ấy nên thương đứa con làm theo mười việc thiện. Người làm việc bất thiện, thương mến làm gì?

Phật bảo Phạm chí:

– Trước đây Ông khen ngợi người đa văn, sau lại khen ngợi về giới đức. Thế nào, Phạm chí, nếu lại có hai người con, một người có cha chuyên chánh, mẹ không chuyên chánh, một người thì cha không chuyên chánh, mẹ chuyên chánh; người con có mẹ chuyên chánh, cha không chuyên chánh ấy, hiểu biết nhiều, hiểu rộng các kinh thuật; người thứ hai cha chuyên chánh, mẹ không chuyên chánh, không học rộng chỉ giữ mười điều lành; vậy nên kính trọng người có cha mẹ nào? Kính trọng người có mẹ thanh tịnh, cha không thanh tịnh? Hay kính trọng người có cha thanh tịnh, mẹ không thanh tịnh.

Phạm chí đáp:

– Nên kính trọng người con có mẹ thanh tịnh. Vì sao? Vì người ấy biết các kinh sách, giỏi rộng về kỹ thuật. Còn người thứ hai, cha thanh tịnh, mẹ không thanh tịnh, tuy giữ giới mà không trí tuệ, không đi đến đâu. Vì có đa văn ắt có giữ giới.

Phật bảo Phạm chí:

– Trước Ông khen ngợi cha thanh tịnh, không khen ngợi mẹ thanh tịnh. Nay lại khen ngợi mẹ thanh tịnh, không khen ngợi cha thanh tịnh. Trước Ông khen ngợi đức đa văn, sau khen giữ giới. Ông lại khen về giới, sau mới nói đến đa văn.

Thế nào Phạm chí, nếu hai người con dòng Phạm chí ấy, người thứ nhất đa văn bác học lại thêm giữ thập thiện; người thứ hai không trí tuệ và làm mười điều ác; vậy nên kính trọng người có cha mẹ thế nào?

Phạm chí đáp:

– Nên kính trọng người có cha thanh tịnh, mẹ không thanh tịnh. Vì sao? Vì người ấy đọc nhiều kinh sách, hiểu biết các kỹ thuật, do cha thanh tịnh mà sanh con như thế, thêm giữ mười điều lành không trái phạm, đầy đủ tất cả giới đức vậy.

Phật bảo:

– Ông vốn nói về dòng họ, sau lại nói về sự đa văn, không nói đến dòng họ. Ông nói về giự giới không nói về đa văn, rồi lại nói về đa văn không nói về giới. Nay ông khen ngợi về cha mẹ, về văn và giới, há không trái với lời nói trước ư?

Phạm chí bạch Phật:

– Sa-môn Cù-đàm tuy nói lời như thế, nhưng dòng Bà-la-môn tự xưng rằng: “Dòng học của ta rất tôn quý không ai hơn”.

Phật bảo:

– Những nơi cần kết hôn, ắt bàn luận về dòng họ. Song trong pháp Ta không có nghĩa này, Ông có nghe nói về những người ở biên giới, các nơi xa và biên địa khác không?

Phạm chí đáp:

– Vâng, tôi có nghe những người như thế.

Phật bảo:

– Nhân dân ở các nơi ấy có hai hạng. Thế nào là hai? Một là người, hai là tôi tớ. Hai hạng này cũng không nhất định.

Lại hỏi:

– Như thế nào là không nhất định?

Phật bảo:

– Hoặc khi làm người, sau lại làm tôi tớ. Hoặc làm tôi tớ, sau lại làm người. Song loài chúng sanh, thảy đồng một loại, không có nhiều hạng.

Lại thế nầy, Phạm chí! Khi trời đất bị hủy hoại, thế gian đều trống rỗng, lúc ấy núi sông, đất đá, cỏ cây đều bị thiêu hủy hết thảy, người cũng chết.

Khi trời đất sắp thành lập, chưa có phân chia ngày giờ năm tháng. Bấy giờ, chư Thiên ở cõi trời Quang Âm đến chỗ này. Lúc đó, chư Thiên trời Quang Âm phước đức tiêu hết, không còn ánh sáng, dần dần nhìn nhau, khởi lên dục tưởng. Dục ý nhiều bèn thành người nữ, dục ý ít thành người nam, họ dần dần giao hợp bèn có bào thai. Do nhân duyên ấy nên có người ban đầu, chuyển sanh bốn dòng họ khắp trong thiên hạ. Do việc ấy nên biết, mọi người đều phát xuất từ dòng Sát-lợi.

Bấy giờ, Phạm chí bạch Phật:

– Hãy thôi, thưa Cù-đàm! Như người gù được thẳng lưng, người mù được sáng mắt, người đui tối được thấy ánh sáng; Sa-môn Cù-đàm cũng lại như vậy, dùng vô số phương tiện vì tôi thuyết pháp. Nay tôi tự quy y với Sa-môn Cù-đàm, xin vì tôi nói pháp, cho phép được làm Ưu-bà-tắc.

Phạm chí lại bạch Phật:

– Cúi xin Như Lai, nhận lời thỉnh của con, cùng chúng Tỳ-kheo đến nhà con.

Thế Tôn im lặng nhận lời, Phám chí thấy Phật im lặng nhận lời thỉnh, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cúi đầu lễ chân Phật rồi lui ra. Phạm chí về nhà, sắm sửa các thức ăn uống đầy đủ, trải các sàng tọa, rưới nước thơm trên đất và tự nói rằng: “Ðức Như Lai sẽ ngồi chỗ này”.

Bấy giờ Phạm chí Thí-la dẫn năm trăm đồng tử đến nhà Phạm chí Sí-ninh, xa thấy nhà ấy trải nệm ghế tốt, thấy rồi bèn hỏi Phạm chí Sí-ninh:

– Hôm nay Ông định làm lễ cưới gả cho con hay mời vua Tần-bà-la-sa đến nhà?

Phạm chí Sí-ninh đáp:

– Tôi không mời vua Tần-bà-sa-la cũng không có việc cưới gả. Hôm nay tôi muốn làm phước nghiệp lớn.

Phạm chí Thí-la hỏi:

– Xin được nghe ý ấy. Ðịnh làm phước nghiệp gì?

Bấy giờ, Phạm chí Sí-ninh trịch bày vai phải, quỳ gối chấp tay bạch Thế Tôn, tự xưng tên họ.

Phạm chí Sí-ninh bảo Phạm chí Thí-la rằng:

– Thí-la nên biết, có người dòng họ Thích xuất gia học đạo, thành bậc Ðẳng Chánh Giác Chí Chơn Vô Thượng. Nay tôi thỉnh Phật và Tỳ-kheo Tăng, cho nên sửa soạn đầy đủ chỗ ngồi như vầy.

Phạm chí Thí-la nói:

– Ông nói về Phật đấy ư?

– Nay tôi nói về Phật.

Thí-la lại nói:

– Thật lạ kỳ! Thật đặc biệt! Hôm nay tôi mới nghe đến âm thanh Phật. Như Lai hiện giờ ở đâu? Tôi muốn được gặp.

Sí-ninh đáp:

– Hiện ở ngoài thành La-duyệt, trong vườn trúc, cùng với năm trăm đệ tử. Nếu Ông muốn gặp, nên biết đúng thời.

Lúc ấy, Phạm chí Thí-la bền dẫn năm trăm đồng tử đi đến chỗ Phật, đến rồi nói lời chàoi hỏi lui ngồi một bên. Phạm chí Thí-la bèn khởi nghĩ: “Sa-môn Cù-đàm rất đoan chánh, thân tướng sắc vàng. Trong kinh điển của chúng ta cũng có ghi rằng: Như Lai ra đời thật rất khó gặp, như hoa Ưu-đàm-bát đúng thời mới xuất hiện. Nếu thành tựu ba mươi hai tướng, và tám mươi vẻ đẹp, sẽ có hai trường hợp. Nếu ở nhà sẽ là bậc Chuyển luân thánh vương, đầy đủ bảy thứ báu. Nếu xuất gia sẽ thành đạo Vô thượng, là bậc cứu giúp ba cõi”. Nay ta muốn nhìn thấy ba mươi hai tướng của Phật.

Bấy giờ, Phạm chí chỉ thấy được ba mươi tướng, còn hai tướng nữa không thấy, liền sanh nghi ngờ, do dự, vì không thấy được tướng lưỡi rộng dài và tướng mã âm tàng của Phật.

Phạm chí bèn dùng kệ hỏi:

Tôi nghe có ba hai,
Tướng tốt bậc Ðại nhân,
Nay không thấy hai tướng,
Rốt cuộc ở chỗ nào?
Mã âm tàng trong sạch,
Tướng ấy khó thí dụ,
Có tướng lưỡi rộng dài,
Trùm khắp tai, mặt chăng?
Xin hiện tướng lưỡi dài,
Khiến tôi không nghi ngờ.
Lại khiến tôi được thấy,
Trọn không kết lưới nghi.

XXXXIX.2. Phẩm Chăn trâu (2)

Bấy giờ, Thế Tôn bèn đưa lưỡi liếm lỗ tai bên mặt và bên trái rồi thâu vào. Và Ngài liền nhập chánh định, khiến Phạm chí ấy thấy được tướng mã âm tàng. Khi Phạm chí thấy Phật đủ ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp thì vui mừng phấn khởi không thể tự kềm. Phạm chí Thí-la bạch Phật:

– Nay tôi là Bà-la-môn, Sa-môn dòng Sát-lợi, song Sa-môn hay Bà-la-môn đều một đạo, cầu một giải thoát. Sa-môn chấp nhận chúng ta đồng một đạo chăng?

Phật bảo Phạm chí:

– Ông có kiến chấp này.

Phạm chí thưa:

– Tôi có kiến chấp ấy.

Phật bảo Phạm chí:

– Ông nên khởi ý hướng về một giải thoát. Ðó là chánh kiến.

Phạm chí bạch Phật:

– Chánh kiến tức là một giải thoát, lại có giải thoát chăng?

Thế Tôn bảo:

– Phạm chí! Có giải thoát được Niết-bàn. Việc ấy có tám. Ðó là chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh phương tiện, chánh niệm, chánh định. Này Phạm chí, đó là Tám đạo phẩm đưa đến Niết-bàn.

Phạm chí bạch Phật:

– Có chúng sanh nào biết được Tám đạo phẩm nầy chăng?

Phật bảo:

– Chẳng phải một, trăm, nghìn. Phạm chí nên biết! Có vô số trăm nghìn chúng sanh được biết Tám đạo phẩm này.

Phạm chí bạch Phật:

– Lại có chúng sanh nào không hiểu được Tám đạo phẩm này chăng?

Phật bảo:

– Chúng sanh không hiểu điều này chẳng phải một người.

Phạm chí bạch Phật:

– Có chúng sanh nào không được pháp này chăng?

Phật bảo:

– Có chúng sanh không được đạo này gồm mười một hạng người như thế này. Thế nào là mười một? Ðó là những người gian ngụy, ác ngữ, khó can gián, không biết ơn, tánh ưa ganh ghét, giết hại cha mẹ, giết A-la-hán, đoạn dứt căn lành, việc lành trở lại làm ác, chấp ngã, khởi ý ác đối với Như Lai. Phạm chí! Ðó là mười một hạng người không thể đạt được Tám đạo phẩm này.

Khi đức Phật đang nói Tám đạo phẩm, Phạm chí ấy dứt sạch các trần cấu, đắc pháp nhãn tịnh.

Bấy giờ Phạm chí Thí-la bảo năm trăm đệ tử:

– Các Ông đều học được điều tốt, mỗi người tự tụng tập. Ta muốn ở chỗ Phật tu Phạm hạnh.

Các đệ tử thưa:

– Chúng con cũng muốn xuất gia học đạo.

Bấy giờ, Phạm chí và năm trăm đệ tử mỗi mỗi quỳ xuống bạch Phật:

– Cúi xin Thế Tôn cho chúng con xuất gia học đạo.

Phật bảo các Phạm chí:

– Thiện lai Tỳ-kheo! Ở nơi Như Lai khéo tu Phạm hạnh thì dần dần sẽ chấm dứt gốc khổ.

Khi Phật nói lời ấy, năm trăm Phạm chí liền thành Sa-môn. Thế Tôn dần dần vì năm trăm người giảng dạy về luận vi diệu. Ðó là luận bố thí, trì giới, sanh thiên, dục tưởng bất tịnh, xuất yếu là an vui. Như các pháp mà chư Phật Thế Tôn thường dạy Khổ, Tập, Diệt, Ðạo, Thế Tôn cũng vì các Thầy ấy giảng nói rộng. Khi ấy, năm trăm Sa-môn vĩnh viễn dứt sạch các lậu hoặc, được pháp hơn người.

Bấy giờ, Phạm chí Sí-ninh lại bạch:

– Ðến thời, xin Thế Tôn quang lâm.

Phật bảo Thí-la và năm trăm Tỳ-kheo.

– Các Ông hãy đắp y mang dĩa.

Một nghìn vị Tỳ-kheo vây quanh, đi vào thành đến nhà Phạm chí, lên tòa ngồi.

Phạm chí Sí-ninh thấy năm trăm Bà-la-môn đều làm Sa-môn liền bảo rằng:

– Lành thay các Vị! Ðiều cần yếu hướng về đạo không gì hơn việc này.

Tỳ-kheo Thí-la vì Sí-ninh nói kệ:

Ngoài đây không có pháp
Hay hơn điều cần ấy,
So sánh như thế ấy,
Ðiều lành không gì hơn.

Phạm chí Sí-ninh bạch Phật:

– Cúi xin Thế Tôn đợi giây lát, chính lúc này lại dọn thêm thức ăn.

Phật bảo:

– Các thức ăn đã xong, đúng giờ cứ đem đến, đừng sợ không đủ.

Phạm chí Sí-ninh vui mừng vô lượng, đích thân tự san sớt thức ăn cúng dường Phật và Tỳ-kheo Tăng. Khi Thế Tôn thọ trai xong, Ông dọn rửa bát, đem bao nhiêu thứ hoa rải lên Phật và Tỳ-kheo Tăng, và đến trước bạch Phật:

– Xin thưa Thế Tôn! Hết thảy người lớn nhỏ, nam nữ trong nhà con đều xin làm Ưu-bà-tắc.

Bấy giờ, phu nhân của Phạm chí đang có thai, bèn bạch Phật:

– Con đang mang thai, không biết là nam hay nữ, cũng xin tự quy y, xin Như Lai nhận cho làm Ưu-bà-di.

Phật vì đại chúng nói pháp vi diệu, liền ngồi trên tòa, nói kệ này:

Lành thay phước báo này,
Sở nguyện ắt được quả,
Dần lên chỗ an lạc,
Trọn không lo nguy tai,
Chết được sanh lên trời,
Cũng không thể khiến cho
Người làm phước bị tội.
Họ cũng tìm phương tiện,
Ðược trí tuệ Hiền Thánh,
Sẽ dứt sạch gốc khổ,
Xa bỏ hẳn tám nạn.

Thế Tôn nói kệ ấy rồi, rời tòa mà đi.

Bấy giờ, Phạm chí Sí-ninh nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

7. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Ta thường ngồi ăn một bữa, thân thể nhẹ nhàng, khí lực mạnh mẽ. Tỳ-kheo các Thầy cũng nên ăn một bữa, thân thể nhẹ nhàng khí lực mạnh mẽ, dễ tu Phạm hạnh.

Bấy giờ, Bạt-đề-bà-la bạch Phật:

– Con không thể ăn một bữa. Vì sao? Vì khí lực yếu kém.

Phật bảo:

– Cho phép Thầy đến nhà đàn-việt, ăn một phần, đem về một phần.

Bạt-đề-bà-la bạch Phật:

– Con cũng không thể làm pháp này.

Phật bảo:

– Cho phép Thầy bỏ ngọ trai, ăn trong ngày.

Bạt-đề-bà-la thưa:

– Con cũng không thể làm theo pháp này.

Thế Tôn im lặng không nói nữa.

Bấy giờ, Ca-lưu-đà-di vào buổi chiều mặt trời lặn, đắp y mang bát vào thành khất thực. Khi đó, trời rất tối, Ca-lưu-đà-di dần dần đi đến nhà một trưởng giả. Phu nhân của trưởng giả ấy đang mang thai, nghe Sa-môn khất thực ngoài cửa, liền tự đem cơm ra cho. Song Thầy Ca-lưu-đà-di sắc mặt rất đen, lại khi ấy trời sắp mưa, sấm chớp giăng đầy; phu nhân của trưởng giả ra cửa, thấy sa-môn mặt đen thui, bèn kinh hoàng kêu là quỷ, và tự hô hoán lên:

– Chao ôi! Ta gặp quỷ.

Liền khi đó đọa thai mà chết. Khi ấy, Ca-lưu-đà-di trở về tinh xá, lo buồn không vui, ngồi tư duy hối hận không kịp.

Khi ấy, trong thành Xá-vệ có tiếng ác này: “Sa-môn Thích tử trù rủa làm đọa thai con của người”. Nam nữ trong thành đều bảo nhau rằng: “Hiện nay Sa-môn hành động không tiết độ, ăn chẳng đúng thời, như hàng cư sĩ tại gia chẳng khác”. Bấy giờ, phần đông các Tỳ-kheo đều nghe dân chúng bàn luận điều này: “Sa-môn dòng Thích không biết tiết độ, đi đứng không kiêng dè”. Trong đó, các Tỳ-kheo giữ giới, những người đầy đủ giới luật cũng tự oán trách: “Thật chẳng phải là oai nghi của chúng ta, ăn không chừng mực, đi không đúng thời, thật là điều quấy của chúng ta”. Các vị ấy dẫn nhau đến chỗ đức Phật, cúi đầu lễ chân Phật, đem hết mọi chuyện bạch Phật.

Phật bảo một Tỳ-kheo:

– Thầy đi kêu Ca-lưu-đà-di đến đây.

Tỳ-kheo vâng lời Phật dạy, liền đi kêu Ca-lưu-đà-di. Ca-lưu-đà-di nghe Phật gọi, liền đến chỗ Phật, cúi đầu lễ Phật, lui ngồi một bên.

Thế Tôn hỏi:

– Phải ngày hôm qua, vào buổi chiều Thầy vào thành khất thực, đến nhà trưởng giả khiến vợ trưởng giả đọa thai chăng?

Ca-lưu-đà-di bạch Phật:

– Thưa vâng, Thế Tôn.

Phật bảo:

– Vì sao Thầy không phân biệt thời tiết, lại vào lúc trời sắp mưa vào thành khất thực? Ðó không phải là oai nghi của Thầy. Thầy đã là hàng quý tộc, xuất gia học đạo mà còn tham trước ăn uống.

Ca-lưu-đà-di bèn đứng dậy, bạch Phật:

– Từ nay về sau không dám phạm lại. Cúi xin Thế Tôn nhận cho con sám hối.

Phật bảo Tôn giả A-nan mau đánh kiền chùy, nhóm các Tỳ-kheo tại giảng đường Phổ Hội, A-nan vâng lời Phật dạy, liền nhóm các Tỳ-kheo tại giảng đường, rồi đến trước Phật, bạch rằng:

– Các Tỳ-kheo đã nhóm, xin Thế Tôn biết đúng thời.

Thế Tôn liền đến giảng đường ngồi vào tòa chính giữa, bảo các Tỳ-kheo:

– Các đức Phật ở đời quá khứ lâu xa đều ăn một bữa. Các hàng Thanh văn cũng ăn một bữa. Các đức Phật tương lai và chúng đệ tử cũng sẽ chỉ ăn một bữa. Vì sao thế? Ðó là pháp yếu để hành đạo, nên ăn một bữa. Nếu có thể ăn một bữa, thân thể nhẹ nhàng, tâm được khai mở. Tâm đã mở bèn được các căn lành. Ðã được căn lành liền được chánh định. Ðã được chánh định thì biết đúng như thật. Thế nào gọi là biết đúng như thật? Nghĩa là Khổ đế, biết như thật là Khổ đế; Khổ tập đế, biết như thật là Khổ tập đế; Khổ tận đế biết như thật là Khổ tận đế; Khổ xuất yếu đế (đạo đế) biết như thật là Khổ xuất yếu đế.

Các Thầy là dòng hào quý, đã xuất gia học đạo, bỏ tám nghiệp ở thế gian mà không biết thời tiết thì khác gì người tham dục kia? Phạm chí có pháp riêng của Phạm chí, ngoại đạo có pháp riêng của ngoại đạo.

Khi ấy, Tôn giả Ưu-ba-ly bạch Phật:

– Chư Phật ở quá khứ và tương lại đều ăn một bữa. Cúi xin Thế Tôn nên vì các Tỳ-kheo hạn chế thời gian ăn uống.

Thế Tôn bảo:

– Như Lai cũng biết như thế, nhưng chưa có người phạm trước mắt. Có phạm tội mới chế giới cấm.

Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Ta chỉ ăn một bữa, các Thầy cũng nên ăn một bữa. Nay các Thầy ăn vào giờ ngọ, không được quá thời.

Các Thầy cũng phải học pháp khất thực. Thế nào là Tỳ-kheo học pháp khất thực? Khi Tỳ-kheo chỉ vì mạng sống thì xin được thức ăn cũng không vui, không được cũng không lo. Nếu khi được thức ăn, tư duy quán tưởng mà ăn, không có tâm tham đắm, chỉ muốn thân này được sống, trừ được bệnh cũ lại không tạo mới, khiến cho khí lực đầy đủ. Như thế, này các Tỳ-kheo, gọi là khất thực.

Tỳ-kheo các Thầy nên ngồi ăn một bữa. Thế nào là Tỳ-kheo ngồi ăn một bữa? Nếu đứng lên thì phạm, ăn rồi không nên ăn nữa. Như thế gọi là Tỳ-kheo ngồi ăn một bữa.

Tỳ-kheo các Thầy cũng nên được thức ăn mà ăn. Thế nào là Tỳ-kheo được thức ăn mà ăn? Khi Tỳ-kheo đã được thức ăn, lại có trai chủ cúng thêm lần nữa, do thức ăn nầy là được lại, không nên ăn. Như thế, Tỳ-kheo được thức ăn chỉ một lần.

Tỳ-kheo các Thầy cũng nên mặc ba y, ngồi dưới cội cây, ngồi chỗ vắng, nên khổ hạnh ngồi nơi đất trống, nên mặc y cũ vá, nên ở chỗ gò mả, nên mặc áo cũ xấu. Vì sao thế? Vì khen ngợi người thiểu dục.

Nay Ta dạy các Thầy nên như Tỳ-kheo Ca-diếp. Vì sao thế? Tỳ-kheo Ca-diếp tự hành mười một pháp đầu đà, cũng dạy người làm theo pháp yếu này.

Nay Ta dạy các Thầy nên như Tỳ-kheo Diện Vương. Vì sao? Tỳ-kheo Diện Vương mặc y cũ xấu không mặc y đẹp.

Tỳ-kheo! Ðây là lời dạy của Ta, nên ghi nhớ tu tập. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!

Bấy giờ, Tỳ-kheo Bạt-đề-bà-la suốt ba tháng không đến chỗ thế Tôn. A-nan vừa hết ba tháng an cư, đến chỗ Tỳ-kheo Bạt-đề-bà-la nói rằng:

– Nay chúng Tăng đều may vá y áo, như thế Thế Tôn sẽ đi du hóa nhân gian. Bây giờ Thầy không đến, sau hối hận vô ích.

Khi ấy, A-nan dẫn Bạt-đề-bà-la đến chỗ đức Thế Tôn, Bạt-đề-bà-la lễ Phật và bạch Phật:

– Cúi xin Thế Tôn cho con sám hối, từ nay về sau không dám phạm lại. Như Lai chế cấm giới mà con không thọ trì. Cúi xin rũ lòng tha thứ.

Thưa như thế ba lần. Phật bảo:

– Cho phép Thầy hối lỗi, sau chớ phạm lại. Vì sao? Ta tự suy nghĩ trong vô số kiếp sanh tử, hoặc có khi làm thân lừa, la, lạc đà, voi, ngựa, heo, dê, ăn cỏ để nuôi thân; hoặc ở trong địa ngục nuốt hoàn sắt nóng; hoặc làm ngạ quỷ thường ăn máu mủ; hoặc làm thân người ăn ngũ cốc; hoặc làm thân trời ăn những vị cam lồ tự nhiên; trong vô số kiếp thân mạng cùng tranh không biết chán.

Bạt-đề-bà-la! Như lửa cháy củi không đủ, như biển lớn nuốt các dòng không đủ, nay người phạm cũng như vậy, tham ăn không biết chán đủ.

Thế Tôn bèn nói kệ này:

Sanh tử không đoạn dứt,
Ðều do từ tham dục,
Oán ghét nuôi ác ấy,
Người ngu tập theo đó.

Thế nên, này Bạt-đề-bà-la nên ghi nhớ ít muốn, biết đủ, chớ khởi tưởng tham, dấy các niệm tán loạn. Như thế, Bạt-đề-bà-la, nên học điều này.

Bấy giờ, Bạt-đề-bà-la nghe Phật giáo giới, đã ở chỗ vắng tự khắc trách mình. “Vốn dòng hào tộc, xuất gia học đạo, tu Phạm hạnh vô thượng, sanh tử đã hết, Phạm hạnh đã lập, việc phải làm đã làm xong, không thọ thân sau, như thật mà biết”. Bạt-đề-bà-la liền thành A-la-hán.

Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Trong hàng đệ tử Ta, người ăn uống nhiều đệ nhất trong số Thanh văn là Tỳ-kheo Cát-Hộ.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

8. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở thôn Ương Nghệ, cùng với chúng đại Tỳ-kheo năm trăm người câu hội.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Dân chúng đều gọi các Thầy là Sa-môn, giả sử có ai hỏi các Thầy có phải Sa-môn chăng thì các thầy cũng đáp là Sa-môn. Nay Ta bảo càc Thầy về hạnh Sa-môn, sau ắt thành quả như thật không khác. Vì sao thế? Có hai hạng Sa-môn: tập hạnh Sa-môn, thệ nguyện Sa-môn.

Thế nào gọi là tập hạnh Sa-môn? Là Tỳ-kheo tới lui, đi đứng, nhìn ngó, dung mạo, đắp y mang bát, thảy đều đúng như pháp, không đắm trước vào tham dục, sân nhuế, ngu si, chỉ trì giới tinh tấn không phạm phi pháp, học tập các giới. Ðó là tập hạnh Sa-môn.

Thế nào gọi là thệ nguyện Sa-môn? Ở đây, hoặc có Tỳ-kheo oai nghi giới luật, đi đứng ra vào, dung mạo, nhìn ngó, cử động thảy đều như pháp, chấm dứt hữu lậu thành tựu vô lậu, ở trong hiện pháp tự thân chứng đắc và đi du hóa, sanh tử đã tận, Phạm hạnh đã lập, việc phải làm đã làm xong, không thọ thân sau, mà biết như thật. Ðó là thệ nguyện Sa-môn.

Tỳ-kheo, đó là hai hạng Sa-môn.

Tôn giả A-nan bạch Phật:

– Thế nào gọi là pháp hạnh Sa-môn, pháp hạnh Bà-la-môn?

Phật bảo A-nan:

– Ở đây, Tỳ-kheo ăn uống biết vừa đủ, ngày đêm đi kinh hành, tu tập các đạo phẩm không để mất thời tiết. Thế nào gọi là Tỳ-kheo các căn vắng lặng? Ở đây, Tỳ-kheo mắt thấy sắc không khởi tưởng đắm trước, không dấy các loạn niệm, trong ấy mà nhãn căn được thanh tịnh, trừ các niệm ác, không nghĩ nhớ pháp bất thiện, hoặc khi tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân biết cảm giác, ý biết pháp không khởi tưởng đắm trước, không dấy các loạn niệm, nơi ý căn được thanh tịnh. Như thế gọi là Tỳ-kheo sáu căn được thanh tịnh.

Thế nào là Tỳ-kheo ăn uống biết vừa đủ? Ở đây, Tỳ-kheo ăn uống vừa đủ lượng, không cầu mập, trắng, chỉ muốn thân này sống mà thôi, trừ bệnh cũ, bệnh mới không sanh, chỉ muốn thân này sống mà thôi, trừ bệnh cũ, bệnh mới không sanh, được tu Phạm hạnh. Cũng như người nam nữ, thân sanh ghẻ, tùy thời dùng thuốc thoa xức điều trị, vì muốn vết thương lành. Nay Tỳ-kheo cũng lại như thế, lượng vào sức mà ăn. Sở dĩ dùng dầu bôi vào xe vì muốn đi xa, Tỳ-kheo ăn vừa đủ lượng là muốn duy trì mạng sống. Như thế gọi là Tỳ-kheo ăn uống biết vừa đủ.

Thế nào là Tỳ-kheo thường biết tỉnh thức? Ở đây, Tỳ-kheo vào đầu đêm, giữa đêm, cuối đêm biết tỉnh thức, tư duy Ba mươi bảy đạo phẩm; ngày thời kinh hành trừ bỏ niệm ác, các tưởng kiết sử, lại vào đầu đêm, cuối đêm kinh hành trừ bỏ kiết sử, các tưởng bất thiện, vào giữa đêm nằm nghiêng hông bên mặt, hai chân duỗi xếp lên nhau, chỉ tưởng về ánh sáng, rồi vào cuối đêm kinh hành tới lui, trừ bỏ niệm bất thiện. Như thế là Tỳ-kheo biết thời tỉnh thức.

Như thế, này A-nan! Ðây là hạnh cần yếu của Sa-môn.

Thế nào gọi là hạnh cần yếu của Bà-la-môn? Ở đây, Tỳ-kheo Khổ đế biết như thật là Khổ đế; Khổ tập, Khổ tận, Khổ xuất yếu, như thật biết như thế. Sau do mở được tâm dục lậu, tâm hữu lậu, tâm vô minh lậu nầy mà được giải thoát. Ðã được giải thoát liền được giải thoát tri kiến, sanh tử đã tận, Phạm hạnh đã lập, việc phải làm đã xong, không thọ thân lại, mà biết như thật. Ðây là hạnh cần yếu của Bà-la-môn. A-nan nên biết! Ðây là ý nghĩa của hạnh cần yếu.

Bấy giờ, Thế Tôn bèn nói kệ:

Sa-môn tên tâm dứt,
Các ác vĩnh viễn tận,
Phạm chí tên thanh tịnh,
Trừ bỏ các loạn tưởng.

Thế nên A-nan! Nên ghi nhớ tu hành pháp hạnh của Sa-môn, pháp hạnh của Bà-la-môn. Chúng sanh nào làm các pháp này, sau mới xưng là Sa-môn.

Lại vì có gì gọi là Sa-môn? Vì các kết vĩnh viễn chấm dứt nên gọi là Sa-môn. Lại vì có gì gọi là Bà-la-môn? Trừ sạch các ngu hoặc nên gọi là Phạm chí, cũng gọi là Sát-lợi. Lại vì cớ gì gọi là Sát-lợi? Do đoạn trừ dâm, nộ, si nên gọi là Sát-lợi; cũng gọi là tắm gội. Thế nào gọi là tắm gội? Do tẩy sạch hai mươi mốt kết nên gọi là tắm gội; cũng gọi là giác. Vì cớ gì gọi là giác? Do biết rõ pháp ngu, pháp tuệ nên gọi là giác; cũng gọi là bỉ ngạn. Vì cớ gì gọi là bỉ ngạn? Do từ bờ này đến bờ kia nên gọi là bỉ ngạn.

Này A-nan! Hãy hành trì pháp này, sau mới gọi là Sa-môn, Bà-la-môn. Ðây là nghĩa như thế, nên ghi nhớ vâng làm.

Bấy giờ, A-nan nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

9. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại thành Thích-si Ca-tỳ-la việt vườn Ni-câu-lưu, cùng với chúng đại Tỳ-kheo năm trăm người câu hội.

Bấy giờ, vương tử Ðề-bà-đạt-đa đến chỗ Phật, cúi đầu lễ chân Phật, lui ngồi một bên, Ðề-bà-đạt-đa bạch Phật:

– Cúi xin Thế Tôn cho con được làm Sa-môn.

Phật bảo Ðề-bà-đạt-đa:

– Ông nên ở tại gia làm việc bố thí, làm Sa-môn thật chẳng dễ.

Khi ấy, Ðề-bạt-đạt-đa lại ba phen bạch Phật:

– Cúi xin Thế Tôn cho phép con theo Ngài.

Phật lại bảo:

– Ông nên ở nhà, không nên xuất gia tu hạnh Sa-môn.

Ðề-bà-đạt-đa khởi nghĩ rằng: “Sa-môn này có lòng tật đố, nay ta có thể tự cạo tóc, tu Phạm hạnh, đâu cần Sa-môn ấy làm gì?” Ðề-bà-đạt-đa liền lui về, tự cạo bỏ râu tóc, mặc cà sa, tự xưng: “Ta là hàng Thích tử”.

Bấy giờ, có một Tỳ-kheo tên Tu-la-đà, hành hạnh đầu đà, khất thực, mặc y vá, thông suốt ngũ thông. Ðề-bà-đạt-đa liền đến chỗ Tỳ-kheo ấy, cúi đầu lễ dưới chân, bạch rằng:

– Cúi xin Tôn giả nói giáo pháp cho tôi khiến cho được an ổn lâu dài.

Tỳ-kheo Tu-la-đà liền nói pháp cho, các oai nghi lễ độ, suy nghĩ về pháp này, bỏ điều này được điều này. Khi ấy, Ðề-bà-đạt-đa như lời Tỳ-kheo ấy dạy không để sai sót. Ðề-bà-đạt-đa lại bạch với Tỳ-kheo ấy rằng:

– Cúi xin Tôn giả dạy cho tôi về pháp thần túc, tôi có thể tu hành theo pháp ấy.

Bấy giờ, Tỳ-kheo lại dạy pháp thần túc cho ông:

– Nay Ông nên học về tâm ý khinh trọng, đã biết tam ý khinh trọng, lại nên phân biệt về tứ đại địa, thủy, hỏa, phong khinh trọng. Ðã biết được tứ đại khinh trọng, lại nên tu hành về chánh định tự tại. Ðã thực hành chánh định tự tại, lại nên tu chánh định dũng mãnh. Ðã thực hành chánh định dũng mãnh, lại nên tu về chánh định tâm ý. Ðã thực hành chánh định tâm ý, lại nên hành chánh định tự giới, đã tu hành chánh định tự giới, như thế không bao lâu sẽ thành tựu thần túc.

Ðề-bà-đạt-đa vâng lời Tỳ-kheo ấy dạy, tự biết về tâm ý khinh trọng, lại biết về tứ đại khinh trọng, tu hết các chánh định không sai sót; không bao lâu liền thành tựu được thần túc. Như thế, Ðề-bà-đạt-đa có vô số phương tiện tiến hóa vô lượng. Bấy giờ danh tiếng Ðề-bà-đạt-đa lưu truyền lan xa bốn phương.

Khi ấy, Ðề-bà-đạt-đa dùng sức thần túc bay lên cõi trời Ba mươi ba, hái các thứ hoa như hoa sen ưu-bát-la, hoa câu-mâu-đầu, đem về dâng thái tử A-xà-thế, và bảo:

– Hoa này từ cõi trời Ba mươi ba, Thích-đề-hoàn-nhân đem đến tặng Thái tử.

Thái tử thấy Ðề-bà-đạt-đa có thần túc như thế, liền tùy thời cúng dường, cung cấp vật cần dùng. Thái tử lại khởi nghĩ: “Ðề-bà-đạt-đa lại tự ẩn thân, biến thành đứa bé ngồi trên đùi gối thái tử. Các thể nữ đều khởi nghĩ: “Ðây là người gì? Là Quỷ ư? Là Trời ư?”. Bàn tán chưa xong, Ðề-bà lại hóa thân trở lại như cũ. Khi đó, thái tử và các cung nhân đều khen rằng: “Ðây là Ðề-bà-đạt-đa”, liền cung cấp vật cần dùng, lại truyền tụng lời này: “Ðề-bà-đạt-đa danh đức không thể nói hết được”.

Bấy giờ, nhiều Tỳ-kheo nghe điều này, đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu lễ Phật, bạch:

– Ðề-bà-đạt-đa có thần túc rất lớn, thường nhận được y phục, thức ăn uống, giường nệm, thuốc men.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

– Các Thầy chớ khởi ý niệm này, tham đắm lợi dưỡng của Ðề-bà-đạt-đa; lại cũng đừng khen ngợi sức thần túc của ông ấy. Ông ấy do thần túc này rơi trong ba đường ác. Lợi dưỡng của Ðề-bà-đạt-đa, và thần túc của ông ấy sẽ chấm dứt. Vì sao thế? Ðề-bà sẽ tự tạo nghiệp thân, khẩu, ý.

Khi đó, Ðề-bà-đạt-đa lại khởi nghĩ rằng: “Sa-môn Cù-đàm có thần túc, ta cũng có thần túc; Sa-môn Cù-đàm có tri thức, ta cũng có tri thức; Sa-môn Cù-đàm dòng họ cao quý, ta cũng dòng họ cao quý. Nếu Sa-môn Cù-đàm hiện một thần túc, ta sẽ hiện hai; Sa-môn Cù-đàm hiện hai, ta sẽ hiện bốn, kia hiện tám, ta hiện mười sáu; kia hiện mười sáu, ta hiện ba mươi hai; tùy theo sức hóa hiện của Sa-môn ấy, ta sẽ tăng gấp đôi”.

Bấy giờ, nhiều Tỳ-kheo nghe Ðề-bà-đạt-đa nói như vậy, hơn năm trăm Tỳ-kheo đến chỗ Ðề-bà-đạt-đa và năm trăm Tỳ-kheo nhận sự cúng dường của thái tử A-xá-thế.

Khi ấy, hai Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên nói với nhau rằng: “Chúng ta cùng đi đến chỗ Ðề-bà-đạt-đa, nghe ông ấy nói pháp, xem là luận thuyết gì”, liền cùng đi đến chỗ Ðề-bà-đạt-đa. Bấy giờ, Ðề-bà-đạt-đa xa thấy Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên đi đến, liền bảo các Tỳ-kheo.

– Hai người này là đệ tử của Tất-đạt, rất được khen ngợi.

Hai Tôn giả đến rồi, cùng hỏi thăm, ngồi một bên. Bấy giờ các Tỳ-kheo đều khởi nghĩ rằng: “Ðệ tử của Phật Thích-ca, nay hướng hết về Ðề-bà-đạt-đa”. Ðề-bà-đạt-đa bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

– Nay Thầy có thể thuyết pháp cho các Tỳ-kheo chăng? Tôi đau lưng muốn nghỉ một chút.

Ðề-bà-đạt-đa bèn nằm nghiêng hông mặt, hai chân xếp lên nhau, do lòng vui mừng nên ngủ luôn. Bấy giờ, Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên thấy Ðề-bà-đạt-đa ngủ, liền dùng thần túc đem các vị Tỳ-kheo bay lên hư không mà đi.

Khi Ðề-bà-đạt-đa thức dậy, không thấy các Tỳ-kheo, rất giận dữ nói:

– Nếu ta không trả được thù này thì không gọi là Ðề-bà-đạt-đa.

Ðây là lần đầu Ðề-bà-đạt-đa phạm tôi ngũ nghịch. Ðề-bà-đạt-đa vừa khởi ý ấy, liền bị mất thần túc.

Bấy giờ, nhiều Tỳ-kheo bạch Phật:

– Tỳ-kheo Ðề-bà-đạt-đa có thần túc lớn mới có thể phá hoại Thánh chúng.

Phật bảo:

– Không phải chỉ hôm nay Ðề-bà-đạt-đa mới phá hoại Thánh chúng. Ðời quá khứ ông ta cũng thường phá hoại Thánh chúng. Vì sao thế? Về đời quá khứ ông ta cũng phá hoại Thánh chúng.

Ðề-bà-đạt-đa lại khởi ý ác: “Ta sẽ giết Sa-môn Cù-đàm để làm Phật độc tôn trong ba cõi”. Khi ấy, Ðề-bà-đạt-đa nói với thái tử A-xà-thế:

– Người xưa thọ mạng rất dài, ngày nay đã ngắn ngủi. Nếu như Thái tử chết, chắc lại sanh trong dân gian. Sao không giết phụ vương, rồi lên ngôi vua? Tôi sẽ giết Như Lai và sẽ làm Phật. Vua mới, Phật mới, cũng chẳng thích ư?

Bấy giờ, A-xà-thế bèn sai quân thị vệ bắt phụ vương giam vào ngục, tự lên làm vua cai trị nhân dân. Khi đó, quần thần đều nói với nhau: “Người này khi sanh ắt là oan gia”. Nhân đó đặt tên là A-xà-thế.

Ðề-bà-đạt-đa thấy A-xà-thế đã hại phụ vương xong, lại khởi nghĩ: “Ta sẽ hại Sa-môn Cù-đàm”.

Bấy giờ, Thế Tôn đang ở tại một ngọn núi nhỏ cạnh núi Kỳ-xà-quật, Ðề-bà-đạt-đa leo lên núi Kỳ-xà-quật, tay vác một tảng đá lớn dài ba mươi khuỷu tay, rộng năm mươi khuỷu tay, ném vào Thế Tôn. Khi đó, sơn thần, quỷ Kim-tỳ-la thường ở tại núi ấy, thấy Ðề-bà-đạt-đa vác đá ném Phật, liền đưa tay đỡ lấy đến chỗ khác. Tảng đá bể văng ra một mảnh nhỏ trúng chân Như Lai chảy máu. Thế Tôn thấy vậy nói với Ðề-bà-đạt-đa:

– Nay Ông khởi ý muốn hại Như Lai, đây là tội ngũ nghịch thứ hai.

Ðề-bà-đạt-đa tự nghĩ: “Nay ta không hại được Sa-môn Cù-đàm”. Liền bỏ đi, đến chỗ A-xà-thế, tâu nhà vua rằng:

– Nên cho con voi uống rượu say, khiến hại Sa-môn. Vì sao? Con voi ấy hung dữ chắc có thể hại được Sa-môn Cù-đàm. Nếu Sa-môn có Nhất thiết trí, ngày mai sẽ không vào thành khất thực; nếu không có Nhất thiết trí, ngày mai vào thành khất thực, ắt sẽ bị voi dữ này làm hại.

Khi ấy, vua A-xà-thế liền đem rượu mạnh cho voi uống say, ra lệnh cho dân chúng: “Ai muốn an ổn, thương mạng mình, ngày mai đừng đi lại trong thành”.

Bấy giờ, Thế Tôn đúng thời đắp y mang bát vào thành La-duyệt khất thực. Hàng tứ chúng nam nữ già trẻ trong nước nghe tin vua A-xà-thế cho voi uống rượu say muốn hại Thế Tôn, đều cùng nhau đi đến chỗ Phật, làm lễ dưới chân, và bạch Phật:

– Cúi xin Thế Tôn, chớ vào thành La-duyệt khất thực. Vì vua A-xà-thế phục rượu voi say muốn hại Thế Tôn.

Phật bảo các Ưu-bà-tắc:

– Phàm là bậc Ðẳng Chánh Giác trọn không bị người khác làm hại.

Thế Tôn tuy nghe như thế vẫn đi vào thành. Voi dữ xa thấy Thế Tôn đến, sân giận bừng bừng chạy về phía Phật, muốn làm hại. Song, Phật thấy voi chạy đến liền nói kệ:

Voi chớ hại đến rồng,
Voi, rồng khó xuất,
Do không hại đến rồng,
Ðược sanh vào cõi lành,

Voi kia nghe Như Lai nói kệ xong, liền đến trước quỳ mọp, liếm chân Như Lai. Voi kia vì tâm hối quá không an, liền chết, sanh lên cõi trời Ba mươi ba. Vua A-xà-thế và Ðề-bà-đạt-đa thấy voi đã chết, buồn rầu không vui. Ðề-bà-đạt-đa nói với vua:

– Sa-môn Cù-đàm đã giết voi chết.

Vua đáp:

– Sa-môn Cù-đàm này có sức thần lớn, có nhiều kỹ thuật, mới có thể trù rủa voi chết.

Vua A-xà-thế lại nói:

– Sa-môn này chắc đầy đủ oai đức mới không bị voi dữ làm hại.

Ðề-bà-đạt-đa đáp:

– Sa-môn Cù-đàm có chú thuật huyễn hoặc, có thể khiến ngoại đạo dị học thảy đều hàng phục, huống chi loài súc sanh.

Khi ấy, Ðề-bà-đạt-đa bèn suy nghĩ: “Ta thấy vua A-xà-thế ý muốn thay đổi”. Ðề-bà-đạt-đa lo buồn không vui, ra khỏi thành La-duyệt. Bấy giờ Tỳ-kheo-ni Pháp Thí xa thấy Ðề-bà-đạt-đa đến, nói với Ðề-bà-đạt-đa:

– Nay điều Ông làm rất sai quấy, hiện tại hối lỗi còn dễ, sợ sau khó.

Ðề-bà-đạt-đa nghe nói, lại thêm sân giận hỏi:

– Con ngốc! Ta có lỗi gì mà nay dễ, sau khó?

Tỳ-kheo-ni Pháp Thí đáp:

– Nay Ông đi chung với ác và tạo các điều chẳng lành.

Bấy giờ, Ðề-bà-đạt-đa sân giận bừng bừng, lấy tay đánh Tỳ-kheo-ni chết.

Ðề-bà-đạt-đa đã hại bậc Chân nhân, về đến phòng mình bảo các đệ tử:

– Các Ông nên biết! Nay ta khởi ý đối với Sa-môn Cù-đàm, song việc ấy không nên. Vì A-la-hán lại khởi ý ác đối với A-la-hán. Nay ta có thể hướng về Cù-đàm sám hối.

Do đây Ðề-bà-đạt-đa lo buồn, bị bệnh nặng. Ðề-bà-đạt-đa bảo các đệ tử:

– Ta không đủ sức đến gặp Sa-môn Cù-đàm. Các Ông nên giúp ta đến chỗ Sa-môn.

Ðề-bà-đạt-đa bôi thuốc độc vào mười đầu ngón tay, bảo các đệ tử:

– Các Ông khiêng ta đến chỗ Sa-môn ấy.

Bấy giờ, các đệ tử liền khiêng Ðề-bà-đạt-đa đến chỗ Thế Tôn. Tôn giả A-nan xa thấy Ðề-bà-đạt-đa đến liền bạch Phật.

– Nay Ðề-bà-đạt-đa đến, chắc có tâm hối hận muốn hướng về Thế Tôn cầu xin cải hối.

Phật bảo A-nan:

– Ðề-bà-đạt-đa trọn không thể đến chỗ Thế Tôn.

A-nan ba phen bạch Phật:

– Nay Ðề-bà-đạt-đa đã muốn đến xin hối lỗi.

Phật baỏ A-nan:

– Người ác ấy trọn không thể đến chỗ Như Lai. Ngày nay mạng ông ấy đã hết.

Bấy giờ, Ðề-bà-đạt-đa đến chỗ Thế Tôn, bảo các đệ tử:

– Nay ta không nên nằm ra mắt Như Lai, nên xuống võng mới đến gặp.

Ðề-bà-đạt-đa vừa bước chân xuống đất, bấy giờ tại nơi ấy nổi lên gió lửa mạnh, đốt chân Ðề-bà-đạt-đa. Ðề-bà-đạt-đa bị lửa đốt, liền khởi tâm hối hận, ở chỗ Phật chính muốn xưng “Nam-mô Phật”, song rốt cuộc không xưng được “Nam-mô Phật”, bèn vào địa ngục.

A-nan thấy Ðề-bà-đạt-đa rơi vào địa ngục, bạch Phật:

– Nay Ðề-bà-đạt-đa đã chết, rơi trong địa ngục chăng?

Phật bảo:

– Ðề-bà-đạt-đa không được diệt tận đến chỗ cứu cánh. Nay ông ấy khởi tâm ác đối với thân Như Lai, khi chết đọa địa ngục A-tỳ.

A-nan buồn khóc rơi lệ không ngừng, Phật bảo A-nan:

– Vì sao Thầy buồn khóc như thế?

A-nan bạch Phật:

– Tâm dục ái của con chưa dứt, chưa thể đoạn kết sử nên buồn khóc vậy.

Thế Tôn liền nói kệ:

Như người tự gây tạo,
Tự xem lại gốc ngọn,
Người lành thọ báo lành,
Kẻ ác chịu ương lụy.
Người đời làm hạnh ác,
Chết bị khổ địa ngục,
Nếu lại làm hạnh lành,
Chuyển thân thọ phước trời.
Kia tự gây hạnh ác,
Tự rơi vào địa ngục,
Không phải lỗi của Phật.
Nay vì sao Thầy buồn?

A-nan bạch Phật:

– Ðề-bà-đạt-đa chết, thân sanh chỗ nào?

Phật bảo A-nan:

– Nay Ðề-bà-đạt-đa chết, thân rơi vào địa ngục A-tỳ. Vì sao? Do kia tạo tội ngũ nghịch nên cảm báo này.

A-nan lại bạch Phật:

– Ðúng thế, thưa Thế Tôn! Như lời dạy của Thế Tôn, tự thân làm ác hiện thân vào địa ngục. Vì thế con buồn khóc vậy. Do Ðề-bà-đạt-đa không quý tiếc danh xưng, dòng họ, cũng không nể cha mẹ tôn trưởng, làm nhục dòng họ Thích, hủy hoại gia thế chúng ta.

Ðề-ba-đạt-đa hiện thân vào địa ngục thực không đúng. Vì sao? Dòng họ chúng ta phát xuất từ địa vị Chuyển luân Thánh vương, Ðề-bà-đạt-đa cũng xuất phát từ dòng vua, không nên hiện thân vào địa ngục như thế. Ðề-bà-đạt-đa nên hiện thân chấm dứt hữu lậu thành vô lậu, tâm giải thoát, tuệ giải thoát, nơi hiện thân này được chứng quả Sanh tử đã tận, Phạm hạnh đã lập, việc phải làm đã làm xong, không thọ thân sau, như thật mà biết. Tập theo dấu của chân nhân, đắc A-la-hán, nơi Vô dư Niết-bàn mà nhập Niết-bàn; vì sao mang thân này vào địa ngục? Ðề-bà-đạt-đa khi còn sống có oai thần lớn, rất có thần đức, có thể lên cõi trời Ba mươi ba biến hóa tự do. Người như thế lại rơi vào địa ngục ư? Bạch Thế Tôn! Chẳng biết Ðề-bà-đạt-đa ở địa ngục trải qua bao nhiêu năm?

Phật bảo A-nan:

– Ông ấy ở địa ngục một kiếp.

A-nan lại bạch Phật:

– Kiếp có hai loại, đại kiếp và tiểu kiếp. Ông ấy ở kiếp nào?

Phật bảo:

– Kiếp của ông ấy sẽ trải qua một đại kiếp. Nói đại kiếp tức hết số kiếp của Hiền kiếp này. Hết nghiệp, mạng chung trở lại thân người.

A-nan bạch Phật:

– Ðề-bà-đạt-đa mất thân Người mới trở lại. Vì sao? Kiếp số dài lâu, đại kiếp không quá Hiền kiếp.

A-nan càng thêm buồn khóc than thở không vui, lại bạch Phật:

– Ðề-bà-đạt-đa từ địa ngục ra, sẽ sanh về chỗ nào?

Phật bảo A-nan:

– Ðề-bà-đạt-da mạng chung nơi ấy, sẽ sanh lên cõi Tứ thiên vương.

A-nan lại hỏi:

– Ở đó mạng chung sẽ sanh về đâu?

Phật bảo:

– Ở đó mạng chung, lần lượt sẽ sanh lên trời Ba mươi ba, trời Diệm-ma, trời Ðâu-suất, trời Hóa tự tại, trời Tha hóa tự tại.

A-nan lại hỏi:

– Ở nơi ấy mạng chung, sẽ sanh về đâu?

Phật bảo:

– Khi Ðề-bà-đạt-đa từ địa ngục mạng chung, sanh lên các cõi Trời lành trải qua trong sáu mươi kiếp không rơi vào ba đường ác, qua lại trong cõi Trời, Người. Thân rốt sau, ông ta sẽ cạo râu tóc, mặc ba pháp y, do lòng tin kiên cố xuất gia học đạo, thành vị Bích-chi Phật hiệu là Nam-mô.

Bấy giờ, A-nan đến trước bạch Phật:

– Như thế, bạch Thế Tôn! Ðề-bà-đạt-đa do ác báo nên chịu tội ở địa ngục, lại tạo đức gì mà trong sáu mươi kiếp trải qua sanh tử, không bị khổ não, sau lại thành vị Bích-chi Phật, hiệu là Nam-mô.

Phật bảo A-nan:

– Phước sanh ý lành trong khoảng giây lát, phước ấy khó thí dụ. Hà huống Ðề-bà-đạt-đa thông suốt cổ kim, tụng tập nhiều, giữ gìn các pháp, điều đã nghe không quên. Xưa Ðề-bà-đạt-đa do oán thù mà khởi tâm sát hại đối với Như Lai. Lại do duyên báo xưa nên ông ta có tâm vui vẻ với Như Lai, do nhân duyên này trong sáu mươi kiếp không rơi trong ba đường ác. Lại do Ðề-bà-đạt-đa, vào lúc cuối khi mạng chung, khởi tâm hòa vui xưng Nam-mô, nên sau làm vị Phật Bích-chi hiệu Nam-mô.

Bấy giờ, A-nan liền đến trước lễ Phật, thưa rằng:

– Thưa vâng, bạch thế tôn! Như lời dạy của Phật.

Khi ấy, Tôn giả Ðại-mục-kiền-liên đến trước Phật bạch:

– Bây giờ con muốn xuống địa ngục A-tỳ, nói về yếu hạnh nhẫn nhục, hoan hỷ cho Ðề-bà-đạt-đa.

Phật bảo Mục-liên:

– Thầy nên biết, chớ vội vàng hung bạo, chuyên tâm chánh ý chớ khởi loạn tưởng. Vì sao? Hạng chúng sanh cực ác khó điều phục, khó thành tựu, vậy sau mới đọa vào địa ngục A-tỳ. Lại, tội nhơn kia không hiểu âm thanh đối đáp qua lại của cõi Người.

Mục-liên bạch Phật:

– Nay con hiểu được sáu mươi bốn âm thanh, thông suốt ngôn ngữ, con sẽ dùng âm thanh ấy nói với ông ấy.

Phật bảo Mục-liên:

– Thầy nên biết đúng thời.

Khi ấy, A-nan nghe như vầy, vui mừng phấn khởi không thể tự kềm. Đại-mục-kiền-liên lễ chân Phật, nhiễu quanh ba vòng, liền ở trước chỗ Phật, sang địa ngục A-tỳ nhanh như trong khoảng lực sĩ duỗi tay. Bấy giờ, Ðại Mục-liên đang ở địa ngục A-tỳ đứng trên không khảy móng tay kêu:

– Ðề-bà-đạt-đa!

Ðề-bà-đạt-đa im lặng không đáp. Các ngục tốt hỏi Mục-liên:

– Nay Tôn giả gọi Ðề-bà-đạt-đa nào?

Ngục tốt lại bảo:

– Trong đây cũng có Ðề-bà-đạt-đa thời Phật Câu-lưu-tôn, Ðề-bà-đạt-đa thời Phật Câu-na-hàm-mâu-ni, Ðề-bà-đạt-đa thời Phật Ca-diếp, cũng có Ðề-bà-đạt-đa cư sĩ, Ðề-bà-đạt-đa xuất gia. Nay Tôn giả muốn gọi Ðề-bà-đạt-đa nào?

Mục-liên đáp:

– Nay ta muốn mời Ðề-bà-đạt-đa em con nhà chú của Phật Thích-ca Văn, nên cần được gặp.

Khi đó, ngục tốt tay cầm xích sắt, đốt lửa đổ chích vào thân Ðề-bà-đạt-đa để tỉnh giấc. Thân thế Ðề-bà-đạt-đa bị lửa đốt cháy cao ba mươi khuỷu tay. Các ngục tốt bảo:

– Ông là kẻ ngu, ngủ gì như thế!

Ðề-bà-đạt-đa bị các khổ bức bách, thưa rằng:

– Nay các Ông dạy bảo tôi điều gì?

Ngục tốt lại bảo:

– Ông hãy nhìn lên không trung!

Ðề-bà-đạt-đa theo lời ngước nhìn hư không, thấy Ðạ Mục-kiền-liên ngồi kiết-già trên hoa sen báu, rực rỡ như mặt trời vén mây, Ðề-bà-đạt-đa thấy rồi bèn nói kệ:

Ai hiện hào quang trời,
Như mặt trời vén mây,
Cũng như núi vàng chói.
Không có bụi nhơ nhớp?

Tôn giả Mục-liên dùng kệ đáp:

Ta, đệ tử Thích-ca,
Thuộc dòng dõi Cù-đàm,
Là Thanh văn trong ấy,
Tên là Ðại Mục-liên.

Ðề-bà-đạt-đa thưa với Mục-liên:

– Tôn giả Mục-liên! Cớ gì hạ cố đến nơi này? Nơi đây chúng sanh tạo ác, sau khi mệnh chung sanh vào nơi này.

Mục-liên đáp:

– Tôi do Phật sai nên đến đây, muốn thương xót nhổ sạch gốc khổ cho Ông.

Bấy giờ, Ðề-ba-đạt-đa nghe âm hưởng Phật, vui mừng phấn khởi không thể tự kềm, nói rằng:

– Cúi xin Tôn giả, đúng thời diễn nói. Ðức Thế Tôn có lời dạy gì? Lại nói đến đường ác chăng?

Mục-liên đáp:

– Ðề-bà-đạt-đa chớ lo sợ, địa ngục khổ nhất không hơn chốn này. Ðức Phật Thích-ca Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác, thương xót tất cả các loài cho đến côn trùng nhỏ nhít, như mẹ thương con, tâm không sai biệt, tùy thời điểm nói trọn không để mất, cũng không trái với điều đã nói.

Nay chính từ miệng Phật dự ký. Ông vốn khởi niệm ác muốn hại Thế Tôn, lại đem việc ấy dạy người khiến hướng về đường ác; do nhân duyên tội báo ấy đọa vào địa ngục A-tỳ, sẽ trải qua một kiếp trọn không ra khỏi. Kiếp số ấy hết nghiệp tận mạng chung, sẽ sanh lên cõi trời Tứ thiên vương, lần lượt sanh lên cõi trời Ba mươi ba, trời Diệm-ma, trời Ðâu-suất, trời Hóa tự tại, trời Tha hóa tự tại trong sáu mươi kiếp không ở trong con đường ác, lưu chuyển chốn Trời, Người. Thân cuối cùng được làm người, cạo bỏ râu tóc mặc ba pháp y, do lòng tin kiên cố xuất gia học đạo, sẽ thành Bích-chi Phật hiệu Nam-mô. Vì sao thế? Do khi Ông sắp chết, xưng “Nam-mô” nên được danh hiệu ấy. Nay đức Như Lai quán sát lời nói lành “Nam-mô” nên Ông được danh hiệu đó, trong sáu mươi kiếp làm Bích-chi Phật.

Bấy giờ, Ðề-bà-đạt-đa nghe xong vui mừng hớn hở, tâm lành phát sanh, lại bạch với Mục-liên:

– Lời nói của Như Lai quả nhiên không nghi, thương xót chúng sanh mà cứu tế vô lượng, đại từ đại bi hóa độ kẻ ngu. Dù cho ngày nay tôi nghiêng hông bên mặt trong địa ngục A-tỳ trải qua một kiếp, tâm ý vẫn chuyên nhất, trọn không mệt nhọc.

Tôn giả Mục-liên lại bảo Ðề-bà-đạt-đa:

– Thế nào, sự đau đớn của Ông nay có tăng giảm gì không?

Ðề-bà-đạt-đa nói:

– Thân tôi chịu khổ chỉ tăng chớ không giảm, nay được nghe Như Lai thọ ký danh hiệu, nỗi khổ giảm bớt không thể nói hết.

Mục-liên hỏi:

– Nay hoạn nạn của Ông, nguyên lai đau khổ giống như thế nào?

Ðề-bà-đạt-đa đáp:

– Bánh xe sắt nóng nghiền nát thân hình, lại có chày sắt đập nát thân thể, có voi đen dữ dày đạp thân tôi, lại có núi lửa đến dằn trên mặt tôi, Cà-sa ngày trước hóa làm lá đồng nóng quấn thân, nguyên lai đau khổ tình trạng như thế.

Mục-liên bảo:

– Ông có tự biết cội gốc tội báo, khiến chịu đau khổ chăng? Nay tôi phân biệt từng tội một, Ông muốn nghe chăng?

Ðề-bà-đạt-đa thưa:

– Xin vâng, đúng thời xin nói.

Tôn giả Mục-liên bèn nói kệ:

Xưa Ông ở chỗ Phật,
Phá hoại Tỳ-kheo Tăng,
Nay có chày sắt nóng,
Ðập quết trên thân Ông.
Vì hàng đại chúng kia,
Là Thanh văn bậc nhất,
Gây rối chúng Tỳ-kheo,
Nay có xe nóng nghiền.
Xưa Ông bảo vua thả,
Voi đen uống rượu say,
Nay có bầy voi đen,
Chà đạp trên thân mình.
Xưa ông vác đá lớn,
Xa ném đến Như Lai,
Nay quả báo núi lửa,
Ðốt Ông không chừa sót,
Xưa Ông dùng nắm tay,
Giết chết Tỳ-kheo-ni,
Nay bị lá đồng nóng,
Cuốn cháy không duỗi được.
Hành báo trọn không mất,
Cũng chẳng phải rỗng không,
Cho nên phải siêng năng,
Lìa các nguồn ác này.

Ðề-bà-đạt-đa! Ông vốn tạo cội gốc chính là các điều này, nên nhất tâm hướng về Phật, được phước lâu dài.

Bấy giờ, Ðề-bà-đạt-đa lại bạch với Mục-liên:

– Nay xin nhờ Tôn giả Mục-liên cúi đầu lễ chân Thế Tôn, kính thăm Thế Tôn ngồi đứng khinh an, dạo đi mạnh mẽ tôi cũng lại lễ bái Tôn giả A-nan.

Tôn già Ðại-mục-kiền-liên phóng đại thần túc, khiến các khổ não trong địa ngục A-tỳ dừng lại, lại nói kệ này:

Ðều xưng Nam-mô Phật,
Bậc họ Thích tối thắng,
Vị ấy ban an ổn,
Dẹp trừ các khổ não.

Bấy giờ, chúng sanh trong địa ngục A-tỳ nghe Tôn giả Mục-liên nói kệ này rồi, hơn sáu vạn người được dứt quả báo khổ, liền mạng chung nơi ấy, sanh lên trời Tứ Thiên vương.

Tôn giả Mục-liên liền thâu thần túc, trở về tinh xá đến chỗ Thế Tôn, lễ chân Phật, đứng một bên Tôn giả bạch Phật rằng:

– Ðề-bà-đạt-đa cung kính vô lượng, thăm hỏi Thế Tôn ngồi đứng khinh an, dạo đi mạnh mẽ. Cũng lại hỏi thăm A-nan, và nói thế này: “Như Lai thọ ký cho trong sáu mươi kiếp, thành Bích-chi Phật hiệu Nam-mô, dù cho tôi nằm nghiêng hông mặt trong địa ngục A-tỳ, vẫn trọn không mệt nhọc.”

Bấy giờ Phật nói:

– Lành thay,lành thay! Mục-liên, Thầy làm nhiều lợi ích, nhiều sự thấm nhuần, thương tưởng loài ngu tối, Trời Người được an lạc, khiến cho hàng Thanh văn của Như Lai dần đến Niết-bàn.

Thế nên! Mục-liên! Nên siêng năng thành tựu ba pháp. Vì sao thế? Nếu Ðề-bà-đạt-đa tu pháp lành về thân ba, miệng bốn, ý ba, ông ấy trọn đời không tham lợi dưỡng, cũng không tạo tội ngũ nghịch mà bị vào địa ngục A-tỳ. Vì sao? Phàm người tham lợi dưỡng, cũng không có tâm cung kính đối với Tam bảo, cũng không vâng giữ giới cấm, không đầy đủ về thân, khẩu, ý hành. Nên chuyên chú nhớ nghĩ về thân, khẩu, ý hành. Như thế, Mục-liên, nên học điều này!

Bấy giờ, Tôn giả Mục-liên nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

10. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Nếu có chúng sanh tu hành tâm từ giải thoát, lưu truyền rộng nghĩa ấy, vì người diễn nói, sẽ được mười một quả báo. Thế nào là mười một? Ngủ an ổn, thức an ổn, không chiêm bao dữ, Trời ủng hộ, Người thương mến, không có độc hại, không bị binh đao, nước, lửa, đạo tặc không xâm tổn, khi chết sanh lên trời Phạm thiên. Ðó gọi là Tỳ-kheo hay thực hành tâm từ được mười một phước này.

Thế Tôn liền nói kệ này:

Nếu người hành lòng từ,
Không có hạnh phóng dật,
Các kết dần dần mỏng,
Dần thấy dấu vết đạo.
Do hay hành lòng từ,
Sẽ sanh lên Phạm thiên,
Ðược diệt độ mau chóng,
Hằng đến chỗ vô vi.
Không sát, không tâm hại,
Cũng không ý hơn thua,
Lòng từ trùm tất cả,
Trọn không tâm oán hận.

Thế nên, Tỳ-kheo nên tìm phương tiện thực hành lòng từ, lưu truyền rộng nghĩa ấy. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

L. Phẩm Lễ Tam bảo

1. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn muốn lễ bái chùa tháp Như Lai, nên thực hành mười một pháp lễ chùa Phật. Thế nào là mười một? Hưng khởi tâm dõng mãnh vì có thể kham; ý không tán loạn vì thường nhất tâm; … vì ghi nhớ chuyên tâm các pháp Chỉ quán; các niệm hằng dứt vì nhập chánh định; ý biết vô lượng vì có trí tuệ; ý khó quán sát do hình tướng Như Lai; ý vắng lặng trạm nhiên vì oai nghi Như Lai; ý không chạy nhảy vì danh xưng Như Lai; ý không tưởng tượng do sắc tướng Như Lai; Phạm âm khó bì kịp do âm hưởng nhu nhuyến.

Các Tỳ-kheo! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn muốn lễ bái chùa tháp Như Lai, đầy đủ mười một pháp này. Lễ chùa tháp của Như Lai thì được phước lâu dài vô lượng. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

2. Tôi nghe như vầy:

Một thời Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn muốn làm lễ pháp thì nên ghi nhớ mười một việc sau hãy lễ pháp. Thế nào là mười một pháp? Có kiêu mạn nên trừ kiêu mạn; Chánh pháp ở cõi dục mà trừ tưởng khát ái; Chánh pháp ở cõi dục mà trừ dục; Chánh pháp hay đoạn dứt dòng sanh tử thâm sâu; hành Chánh pháp được pháp bình đẳng; Chánh pháp đoạn dứt các đường ác; theo Chánh pháp này được đến chỗ lành; Chánh pháp hay đoạn dứt lưới ái; người hành Chánh pháp từ hữu vi đến vô vi; người hành Chánh pháp chiếu sáng khắp nơi; người hành Chánh pháp đến Niết-bàn.

Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn muốn làm lễ pháp, nên tư duy về mười một pháp này, sau được phước vô lượng, phước không hạn lượng mãi mãi. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

3. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn tu hành lễ chúng Tăng, nên suy nghĩ mười một pháp, sau mới lễ chúng Tăng. Thế nào là mười một? Chúng của Như Lai thành tựu Chánh pháp; Thánh chúng của Như Lai trên dưới hòa hợp; Thánh chúng của Như Lai thành tựu các pháp; Thánh chúng của Như Lai thành tựu giới; thành tựu chánh định; thành tựu trí tuệ; thành tựu tuệ giải thoát; thành tựu giải thoát tri kiến; Thánh chúng của Như Lai hay hộ trì Tam Bảo; Thánh chúng của Như Lai hay hàng phục ngoại đạo dị học; Thánh chúng của Như Lai là bạn tốt, ruộng phước cho tất cả chúng sanh.

Thiện nam tử, thiện nữ nhơn muốn lễ chúng Tăng, nên tư duy về mười một pháp này, được phước lâu dài vô lượng. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!

Bấy giờ các hàng Tỳ-kheo, Trời, Rồng, Quỷ Thần, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩu-na-la, Ma-hầu-la-già, Trời Ma-hưu-lặc và Người nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

4. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Ma-kiệt, thành Mật-đề-la cư ngụ phía Ðông vườn Ðại thiên, cùng với chúng đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi người câu hội.

Khi ấy, Thế Tôn sau khi thọ thực cùng với Tôn-giả A-nan đi kinh hành trong vườn. Phật mỉm cười, A-nan nghĩ thầm: “Như Lai Vô Sở Trước Ðẳng Chánh Giác không cười suông. Nay cớ gì cười? Ắt phải có ý, Ta sẽ hỏi điều này”. A-nan chỉnh đốn y phục, quỳ gối mặt chấm đất, chắp tay hỏi Phật:

– Như Lai Vô sở Trước Ðẳng Chánh Giác không cười suông. Nay cớ gì cười? Ắt phải có ý, xin được nghe ý đó.

Phật bảo A-nan:

– Ta sẽ vì Thầy nói. Về Hiền kiếp đã qua, ban đầu ở đây có một vị Chuyển luân Thánh vương làm chủ bốn châu thiên hạ tên là Ðại thiên, sống lâu không bệnh, đoan chánh dõng mãnh, dùng Chánh pháp cai trị, không ép uổng nhân dân, có bảy báu tự nhiên xuất hiện. Những gì là bảy? Một là xe báu, hai là voi báu, ba là ngựa báu, bốn là châu báu, năm là ngọc nữ báu, sáu là chủ tạng báu, bảy là điển binh báu.

Phật bảo A-nan:

– Khi vua Ðại Thiên còn thơ ấu, thời gian ấy tám vạn bốn ngàn năm, làm Thái tử tám vạn bốn ngàn năm, lên ngôi Thánh vương tám vạn bốn ngàn năm, lên ngôi Thánh vương tám vạn bốn ngàn năm.

A-nan bạch Phật:

– Thế nào là xe báu?

Phật bảo A-nan:

– Vào ngày rằm trăng tròn, vua tắm gội sạch sẽ, cùng thể nữ lên lầu phía Ðông, nhìn hướng Ðông. Có xe nghìn căm vàng, xe cao bảy đa-la, bảy nhẫn là một đa-la. Ða-la là cây độc diên, dùng cây này làm hạn lượng, toàn bằng vàng tử ma. Vua thấy xe rồi, nghĩ rằng: “Xe này là xe quý, xin nguyện bắt được”. Nghĩ xong, xe liền đến bên tay trái vua, rồi chuyển qua tay mặt. Vua bảo xe ấy:

– “Những nước chưa từng hành phục, hãy vì ta hành phục, chẳng phải đất của ta, hãy vì ta thâu nhận, hãy đúng pháp không nên phi pháp”.

Nói xong, xe trở lên hư không, trục xe xoay về hướng Ðông.

Nhà vua sai tả hữu chuẩn bị đủ bốn binh chúng, binh đã đủ liền đưa binh chúng theo xe trên không. Xe dẫn sang phương Ðông, qua hết các cõi nước phía Ðông. Ban đêm, vua và binh chúng ngủ dưới xe báu. Các tiểu vương nước phía Ðông đều đến triều kiến, dùng bát vàng đựng thóc bạc tiến dâng vua, thưa rằng:

– “Kính chào Ðại vương! Bờ cõi Ðông này, tất cả đất đai, trân bảo, nhân dân đều là của Ðại vương. Xin dừng xa giá tại đây, chúng tôi sẽ vâng theo Ðại vương dạy”.

Vua Ðại Thiên bảo các tiểu vương:

– “Các Ông muốn theo lời dạy của ta thì mỗi người nên trở về nước mình dùng Thập thiện dạy dân, chớ làm ngang bướng.”

Vua khuyên dạy xong, xe báu liền ở trên biển, quay lại nương hư không mà đi. Trong biển tự nhiên mở đường rộng một do-diên, vua và bốn bộ binh chủng theo xe báu như trước, đi qua cõi phương Nam. Các tiểu vương phương Nam cũng đến triều kiến, đều dùng bát vàng đựng thóc bạc, bát bạc đựng thóc vàng, dâng lên nhà vua, thưa rằng:

– “Kính chào Ðại vương! Cõi nước phương Nam này cùng trân bảo, nhân dân đều là của Ðại vương. Xin dừng xa giá ở đây, chúng tôi sẽ vâng theo lệnh Ðại vương”.

Vua Ðại Thiên bảo các tiểu vương:

– “Các Ông muốn theo lệnh ta thì mỗi người nên trở về nước mình, đem Thập thiện dạy dân, chớ làm việc phi pháp”.

Vua khuyên dạy xong, xe báu quay sang hướng Tây, dẫn đi về cõi phía Tây. Các vua nước phía Tây cống hiến, thỉnh mời như ở phương Nam. Xong, xe báu quay sang hướng Bắc, dẫn đi qua bờ cõi phía Bắc. Các vua phía Bắc cũng đến triều kiến, nạp cống và cầu thỉnh như các pháp trước.

Ði bốn ngày hết bốn biển Diêm-phù-đề, trở về thành Mật-để-la, xe dừng trước cửa cung, ở trên hư không cao bảy cây đa-la, vành xe hướng về phía Ðông, vua liền vào cung.

Phật bảo A-nan:

– Vua Ðại thiên được xe báu như thế.

A-nan lại hỏi đức Phật:

– Vua Ðại Thiên được voi báu như thế nào?

Phật đáp:

– Sau đó, vua Ðại Thiên lại đến ngày rằm trăng tròn, tắm gội sạch sẽ, cùng các thể nữ lên lầu phía Ðông, nhìn về hướng Ðông, thấy trong hư không có một voi chúa màu trắng tên Mãn Hô, từ hư không đến, thân hình đều đặn, miệng có sáu ngà, mũ vàng đội đầu, dây vàng, anh lạc, chơn châu kết vòng quanh thân, hai bên hông đeo chuông vàng. Voi có sức thần, biến hình tự tại. Vua Ðại thiên thấy rồi, tự nghĩ rằng: “Ta có thể được voi bàu này chăng? Ta sẽ khiến voi làm việc”. Nghĩ xong, voi liền đứng trên hư không trước vua. Vua bèn sai làm năm việc, lại nghĩ: “Nên thử xem voi này có thể làm được chăng?” Ngày mai, mặt trời lên, vua cỡi voi dạo khắp bốn biển, trong khoảnh khắc về lại chỗ cũ, đứng trước cửa cung, hướng về phía Ðông.

A-nan! Vua Ðại thiên được voi báu như thế.

A-nan hỏi Phật:

– Vua Ðại thiên được ngựa báu như thế nào?

Phật bảo:

– Sau đó, đến ngày rằm trăng tròn, vua Ðại Thiên tắm gội sạch sẽ, cùng các thể nữ lên lầu Tây, nhìn về phía Tây, thấy có một ngựa chúa màu xanh tên là Bà-la-xá từ hư không bay đến, đi không động thân, đầu đội mão vàng, các báu anh lạc, chơn châu kết quanh thân, hai bên hông đeo chuông vàng. Ngựa chúa có sức thần, biến hình tự tại. Vua Ðại Thiên thấy rồi, tự nghĩ: “Ta có thể được ngựa này cỡi rất tốt”. Vua nghĩ xong, ngựa đến trước nhà vua, vua liền cỡi ngựa muốn thử tài đó. Ngày mai, mặt trời lên, vua cỡi ngựa đi về phía Ðông, trong khoảnh khắc dạo khắp bốn bể, rồi trở về nước. Ngựa đứng ở cửa cung phía Tây, hướng về Tây.

A-nan! Vua Ðại Thiên được ngựa báu như thế.

A-nan hỏi Phật:

– Vua Ðại thiên được châu báu như thế nào?

Phật đáp:

– Sau đó, đến ngày rằm trăng tròn, vua Ðại Thiên tắm gội sạch sẽ, cùng các thể nữ lên lầu phía Ðông, nhìn về phương Ðông, thấy có hạt thần châu. Thần châu to tròn một thước sáu tấc, có tám mặt, màu xanh lưu ly, từ hư không bay đến, cao bảy cây đa-la. Vua thấy rồi, tự nghĩ: “Ðược thần châu này để ngắm”. Vua như ý nghĩ mà được thần châu. Vua muốn thử, vào nửa đêm tập hợp bốn binh chủng, đem thần châu treo ở đầu cột phướn, ra khỏi thành dạo đi. Hạt thần châu chiếu sáng các nơi mười hai do-diên, binh chủng thấy nhau như ban ngày, ánh sáng của thần châu chiếu đến đâu, nhân dân kinh ngạc thức dậy, đều nói trời sáng. Nhà vua về cung, dựng cây phướn trong cung, trong ngoài đều sáng như ban ngày.

A-nan! Vua Ðại thiên được châu báu như thế.

A-nan bạch Phật:

– Vua Ðại thiên được ngọc nữ báu như thế nào?

Phật bảo A-nan:

– Nhà vua đến ngày rằm trăng tròn, tắm gội sạch sẽ, cùng các thể nữ lên lầu Ðông, nhìn về hướng Ðông, thấy bảo nữ không ai bì, nghiêm trang thù diệu, không cao không thấp, không mập không ốm, không trắng không đen, mùa đông thân ấm, mùa hạ thân mát, từ lỗ chân lông tiết ra mùi hương chiên-đàn, miệng có mùi thơm hoa sen xanh, cũng không có các trạng thái xấu ác của người nữ, tánh tình ôn hòa, ý tùy thuận trước, từ hư không đến chỗ vua.

A-nan! Vua Ðại Thiên được ngọc nữ báu như thế.

A-nan bạch Phật:

– Vua Ðại Thiên được chủ tạng báu như thế nào?

Phật đáp:

– Vua Ðại thiên đến ngày rằm trăng tròn, tắm gội sạch sẽ, cùng các thể nữ lên lầu phía Bắc, nhìn về hướng Bắc, thấy đại thần chủ tạng tên A-la-tra-chi, tướng đoan chánh thù diệu, không cao không thấp, không mập không gầy, thân sắc vàng, tóc màu xanh, mắt đen trắng phân minh. Chủ tạng lại có thể thấy được các kho bảy báu nằm dưới đất, có chủ thì giữ gìn, không chủ trì đem dâng vua sử dụng, thông minh trí tuệ, giỏi các mưu lược. Đại thần từ hư không bay đến trước vua, tâu rằng:

– “Từ này về sau, nhà vua có thể tự vui thích chớ lo buồn. Tôi sẽ cung cấp tài bảo cho Ðại vương không để thiếu”.

Vua muốn thử đại thần chủ tạng, bèn cùng dong thuyền ra biển. Vua bảo:

– “Ta muốn được vàng bạc châu báu”.

Tạng thần tâu:

– “Xin trở lại bờ, hạ thần sẽ dâng tài bảo”.

Vua nói:

– “Ta muốn được chân báu dưới nước, không cần trên bờ”.

Thần chủ tạng bèn đứng dậy sửa y phục, quỳ gối hữu, chắp tay làm lễ nước, trong nước liền tự nhiên xuất hiện vàng khối to như bánh xe, chốc lát đầy thuyền. Vua bảo:

– “Hãy dừng! Chớ chất thêm vàng, thuyền sắp đắm”.

A-nan! Vua Ðại Thiên được đại thần chủ tạng như thế.

A-nan bạch Phật:

– Vua Ðại thiên được điển binh báu như thế nào?

Phật bảo:

– Nhà vua đến ngày rằm trăng tròn, lại tắm gội sạch sẽ, cùng các thể nữ lên lầu phía Nam, thấy có đại tướng quân tên Tỷ-tỳ-na, đoan chánh tướng hảo, tóc màu trân châu, thân thể màu lục, không cao không thấp, không mập không gầy, mắt có thể nhìn thấu tâm niệm người khác, biết việc quân binh, quyền biến, mưu chước, tiến lui đúng thời. Ðại tướng nương hư không bay đến trước vua, tâu rằng:

– Cúi xin Ðại vương tự ý vui thích, chớ lo thiên hạ, việc chinh phạt bốn phương thần tự điều khiển.

Nhà vua muốn thử tài, vào giữa đêm suy nghĩ muốn tập họp bốn bộ binh chủng, nghĩ vừa dứt bốn binh đã tập họp. Nhà vua lại nghĩ tiến binh về phía Ðông, quân liền tiến về Ðông. Nhà vua ở giữa, đại tướng đi đầu, bốn binh vây quanh. Vua nghĩ muốn tiến thì quân tiến, muốn lùi thì quân lùi.

A-nan! Vua Ðại Thiên được điển binh báu như thế.

Phật bảo A-nan:

– Vua Ðại Thiên được bảy báu như thế.

Phật lại bảo A-nan:

– Vua Ðại Thiên cai trị rất lâu, bèn bảo thợ hớt tóc tên Kiếp-tỷ rằng: “Nếu ta có tóc bạc, nên nhổ và báo cho ta biết”. Kiếp-tỷ chăm sóc tóc cho vua; lâu sau, thấy có một sợi tóc bạc, bèn tâu:

– “Trước Ðại vương có lệnh, nay thấy tóc bạc!”

Vua bảo:

– “Nhổ đưa ta xem”.

Kiếp-tỷ dùng nhíp vàng nhổ tóc bạc, để vào tay vua. Vua cầm tóc bạc, bèn nói kệ:

Trên đầu của ta,
Sinh tóc bạc này,
Sứ thần đến gọi,
Ðến thời vào đạo.

Vua suy nghĩ: “Ta đã hưởng ngũ dục tột độ trong loài Người, nay nên xuất gia, cạo bộ râu tóc, mặc pháp phục”. Bèn gọi thái tử Trường Sanh đến, bảo:

– “Này Con! Ðầu ta đã sanh tóc bạc. Ta đã chán ngủ dục thế gian, muốn tìm vui cõi Trời. Nay ta muốn cạo bỏ râu tóc, mặc pháp phục xuất gia học đạo. Con nên lãnh việc nước, lập con lớn làm thái tử; nên cấp dưỡng cho Kiếp-tỷ coi việc tóc bạc, khi tóc bạc xuất hiện, trao nước cho Thái tử rồi như ta cạo râu tóc xuất gia, mặc pháp phục”.

Nhà vua bảo thái tử:

– “Nay ta đem ngôi vua ân cần trao cho con, nên làm cho Thánh vị tiếp nối đời đời chớ để dứt mất; nếu dứt đoạn sẽ bị làm người ở biên địa; nếu đoạn mất hạnh lành, liền sanh chỗ không có pháp”.

Vua Ðại thiên dạy xong, liền trao nước cho thái tử Trường Sanh, ban cho Kiếp-tỷ ruộng đất.

Phật bảo A-nan:

– Vua Ðại Thiên ở thành này, nước này, đất này, cạo bỏ râu tóc, mặc pháp phục vào đạo, ở cõi này thực hành bốn Phạm hạnh Từ, Bi, Hỷ, Xả, trải qua tám vạn bốn ngàn năm, ở đây mạng chung sanh về Phạm thiên.

Vua Ðại thiên xuất gia, bảy ngày sau ngọc nữ báu mệnh chung. Trường Sanh lên ngôi, đến ngày rằm trăng tròn, tắm gội sạch sẽ, đem các thể nữ lên lầu phía Ðông, nhìn về phương Ðông, thấy ngọc nữ đoan chánh như trước, từ hư không đến. Vua Trường Sanh lại được bảy thứ báu. Vua trị vì nước, cai quản thiên hạ, sau lại bảo Kiếp-tỷ:

– “Từ nay về sau chăm sóc trên đầu, thấy tóc bạc thì đem báo cho ta”.

Nhà vua lên ngôi trải qua tám vạn bốn ngàn năm. Tóc vua bạc, thợ hớt tóc Kiếp-tỷ tâu vua:

– “Ðã có tóc bạc”.

Vua bảo:

– “Nhổ đem đến để trên tay ta”.

Thợ hớt tóc Kiếp-tỷ dùng nhíp vàng nhổ tóc bạc để lên tay vua. Vua cầm tóc bạc nói kệ:

Trên đầu của ta,

Sinh tóc bạc này,

Sứ thần đến gọi,

Ðến thời vào đạo.

Vua tự nghĩ: “Ta đã hưởng ngũ dục tột đỉnh. Nay nên xuất gia, cạo râu tóc, mặc pháp phục.” Vua liền gọi thái tử Quán Cát bảo:

– Này Con, đầu ta đã có tóc bạc. Ta sã chán ngũ dục thế gian, muốn cầu thú vui cõi Trời. Nay ta muốn xuất gia hành đạo, cạo bỏ râu tóc mặc pháp phục. Con nên lãnh việc nước, lập con trưởng làm thái tử, chu cấp cho Kiếp-tỷ khiến coi việc tóc bạc. Khi tóc xuất hiện, Con nên giao việc nước cho thái tử, xuất gia như ta, cạo bỏ râu tóc mặc pháp phục.

Vua bảo thái tử:

– “Nay ta đem ngôi vị ân cần trao cho con. Nên làm cho ngôi Thánh vương đời đời tiếp nối, chớ để đoạn dứt; nếu đoạn dứt sẽ bị làm người ở biên địa; nếu dứt hạnh lành phải sanh nơi không có pháp”.

Vua Trường Sanh cũng ở thành này, nước này, đất này, cạo bỏ râu tóc mặc pháp y nhập đạo. Ở đây trải qua tám vạn bốn ngàn năm, vua thực hành bốn Phạm hạnh Từ, Bi, Hỷ, Xả. Ở đây mệnh chung, vua sanh lên Phạm thiên.

Phật bảo A-nan:

– Vua Trường Sanh xuất gia, bảy ngày sau, bảy báu tự nhiên biến mất. Vua Quán Cát lo buồn không vui, các đại thần thấy vua chẳng vui, bèn hỏi thăm:

– “Ðại vương vì sao không vui?”

Vua đáp:

– “Vì bảy báu biến mất”.

Các đại thần tâu:

– “Xin Ðại vương chớ lo”.

Vua hỏi:

– “Vì sao không lo?”

Vua hỏi:

– “Vì sao không lo?”

Các đại thần tâu:

– “Tiên vương đang tu Phạm hạnh trong vườn gần đây, có thể đến đó thỉnh vấn, chắc ngài sẽ dạy Ðại vương pháp được bảy báu”.

Nhà vua ra lệnh trang hoàng xa giá, các đại thần chuẩn bị bị xong, liền tâu vua. Vua cùng quần thần cỡi xe thất bảo, mang năm vật: cờ lọng, mũ vua, kiếm, quạt, giày cùng các đại thần tả hửu tùy tùng đến vườn. Ðến nơi, vua xuống xe, bỏ năm vật nghiêm sức, đi bộ vào cửa vườn, đến trước phụ vương, cúi lạy lui ngồi một bên, chấp tay thưa:

– “Phụ vương có bảy báu, nay đều đã biến mất”.

Vua cha trước đã ngồi yên, nghe thưa, ngẩng đầu đáp:

– “Này con! Phàm pháp của Thánh vương không ỷ lại vào vật của cha. Con tự thực hành cách để cầu được các món ấy”.

Vua lại hỏi:

– “Chuyển luân Thánh vương dùng pháp hóa gì?”

Vua cha đáp:

– “Pháp kỉnh, pháp trọng, pháp nghĩ nhớ, pháp nuôi dưỡng, pháp làm tăng trưởng, pháp làm giàu mạnh, pháp làm lớn rộng. Làm theo bảy pháp này chính là cách trị dân của Thánh vương, có thể được bảy báu”.

Vua lại hỏi:

– “Thế nào là pháp kỉnh? … cho đến pháp lớn?”

Phụ vương đáp:

– “Nên chu cấp cho người bần cùng, dạy dân chúng hiếu dưỡng song thân, bốn mùa tám tiết tùy thời tế lễ, dạy dân nhẫn nhục, trừ bỏ hạnh dâm dục, ngu si v.v… Bảy pháp này chính là pháp của Thánh vương”.

Vua liền nghe lời dạy, lễ bái xin lui, nhiễu quanh bảy vòng rồi dẫn chúng trở về. Khi ấy vua vâng lệnh phụ vương làm theo bảy pháp, khiến cho xa gần đều tôn trọng lời vua dạy. Vua mở kho cấp dưỡng người nghèo, nuôi kẻ cô độc, già nua. Dân chúng bốn phương đều vâng làm theo. Khi ấy, vào ngày rằm trăng tròn, vua tắm gội sạch sẽ, cùng các thể nữ lên lầu phía Ðông, nhìn về hướng Ðông, thấy có xe báu ngàn căm vàng, xe cao bảy đa-la, cách đất cũng bảy đa-la, từ hư không bay đến dừng trên hư không. Vua tự nghĩ: “Nguyện được xe báu này chăng?” Xe báu liền hạ xuống bên tay trái vua, lại chuyển sang tay mặt. Vua bảo xe báu ấy:

– “Các nơi không hàng phục, hãy vì ta hàng phục; nơi chẳng phải đất ta, hãy vì ta giữ lấy. Nên đúng pháp, không nên phi pháp”.

Vua liền dùng tay ném xe lên hư không trước cửa cung phía Ðông. Xe trụ trên hư không hướng về phía Ðông. Sau xe báu, kế đến là voi trắng, tiếp theo có ngựa xanh, thần châu, ngọc nữ, chủ tạng báu, điển binh báu, bảy vật báu xuất hiện như thời vua Ðại thiên, thử thách cũng thế. Trải qua tám vạn bốn ngàn năm, vua cũng lập thái tử, tặng thưởng cho Kiếp-tỷ, giao nước cho thái tử, xuất gia học đạo đều như pháp của vua trước.

Phật bảo A-nan:

– Vua Quán Sát ấy ở tại thành này, vườn này, cạo tóc, pháp phục, trải qua tám vạn bốn ngàn năm tu bốn Phạm hạnh Từ, Bi, Hỷ, Xả. Ở đây mạng chung, vua cũng sanh lên Phạm thiên.

Phật bảo A-nan:

– Vua Ðại thiên và con cháu nối tiếp nhau cho đến tám vạn bốn ngàn triều đại làm chuyển luân Thánh vương, dòng dõi lành không dứt đoạn. Vị Thánh vương sau cùng tên Nhâm, dùng Chánh pháp cai trị, là người thông minh, nhớ kỹ không quên, có ba mươi hai tướng tốt, sắc như hoa sen hồng, ưa thích bố thí, cúng dường Sa-môn, Bà-la-môn, săn sóc nuôi dưỡng người già, cô độc, chu cấp người nghèo. Ở bốn cửa thành và trung tâm thành, vua đều dựng kho lẫm, chứa vàng bạc, châu báu, voi ngựa, xe cộ, y phục, giường chiếu, hương hoa, thức ăn uống, thuốc men, người cô độc thì cấp cho thê thiếp, bố thí các thứ tùy ý người muốn.

Trong những ngày lục trai, vua ra lệnh nội cung, ngoại cung đều giữ giới Bát quan trai. Vào ngày ấy, chư Tiên cõi trời Tịnh Cư đều cùng xuống thọ giới. Trời đế Thích, Ba mươi ba cũng khen ngợi nhân dân nước ấy: “Vui thay! Lợi lành mới gặp bậc Pháp vương như thế, bố thí các thứ theo nhu cầu nhân dân, lại hay trai giới thanh khiết không thiếu sót”.

Trời Đế Thích bảo chư Thiên tử:

– “Muốn được gặp vua Nhâm chăng?”

Chư Thiên đều nói: “Muốn gặp, có thể mời lên đây”. Thích-đề-hoàn-nhân liền sai thiên nữ Cùng-tỷ-ni:

– “Ngươi đến thành Mật-để-la báo Nhâm vương rằng: “Ðại vương được lợi ích lớn! Chư Thiên ở đây đều khen ngợi công đức cao tột của Ðại vương, bảo tôi đến thăm hỏi khuyên mời. Chư Thiên đều muốn được gặp, xin vui lòng đến đó”.

Thiên nữ Cùng-tỷ-ni vâng lời bay xuống, trong khoảng co duỗi tay, hốt nhiên hiện trên hư không trước cung vua. Lúc ấy nhà vua đang ngồi tư duy trong điện, có một thể nữ hầu. Vua suy nghĩ: “Thế gian đều muốn gọi an ổn, không có khổ hoạn”. Cùng-tỷ-ni ở trên hư không búng ngón tay để kêu, vua ngẩng đầu lên, thấy trên cung điện có ánh sáng, nghe tiếng bảo rằng:

– “Ta là thị giả của Thích-đề-hoàn-nhân. Thiên đế sai ta đến chỗ Ðại vương”.

Vua đáp:

– “Không biết Thiên đế có điều gì dạy bảo?”

Thiên nữ nói:

– “Ý của Thiên đế ân cần, chư thiên khen ngợi công đức của nhà vua, muốn được gặp. Ðại vương có vui lòng?”

Vua im lặng hứa nhận. Thiên nữ liền trở về thưa Thiên đế:

– “Ðã truyền lệnh xong, vua hứa sẽ đến”.

Thiên đế liền ra lệnh cho người đánh xe, trang nghiêm xe thất bảo, cỡi xe ngựa bay xuống thành Mật-để-la đón vua Nhâm. Người đánh xe vâng lệnh, liền cho xe ngựa hốt nhiên bay xuống thành. Vua đang ngồi họp cùng quần thần, xe dừng trước điện vua, trụ trên hư không. Người đánh xe kêu:

– “Nay Thiên đế đưa xe xuống đón, các Thiên tử cũng đang đợi, Ðại vương nên lên xe, chớ lưu luyến”.

Các quan lớn nhỏ nghe vua sắp đi, tỏ vẻ không vui, đều đứng dậy chấp tay thưa:

– “Sau khi Ðại vương đi, chúng hạ thần vâng lệnh ai?”

Vua đáp:

– “Các khanh chớ lo, sau khi ta đi nên bố thí, trai giới, cấp dưỡng dân chúng, trị quốc như lúc ta đang thời. Ta sẽ về không lâu”.

Vua ra lệnh xong, xe liền hạ xuống đất. Vua lên xe, người đánh xe hỏi:

– “Vua sẽ đi theo đường nào?”

Vua hỏi:

– “Lời này là thế nào?”

Người đánh xe đáp:

– “Có hai đường đi, một là đường ác, hai là đường lành. Người làm ác từ đường ác đến chỗ khổ, người làm lành dạo chơi đường lành đến chỗ vui”.

Vua nói:

– “Nay tôi muốn đi cả hai đường ác và lành”.

Người đánh xe nghe hồi lâu mới hiểu nói:

– “Rất lành! Ðại vương”.

Người đánh xe bèn đưa vua đi cà hai đường, thấy đủ thiện ác, đến trời Ba mươi ba. Thiên đế và chư Thiên xa thấy vua đến, Thích-đề-hoàn-nhân nói:

– “Kính chào Ðại vương! Mời cùng ngồi”.

Phật bảo A-nan:

– Vua bèn ngồi trên tòa Thiên đế. Vua cùng Thiên đế dung mạo tương tợ, y phục tiếng nói như nhau. Các Thiên tử nghĩ thầm: “Ai là Thiên đế? Ai là vua?” Lại nghĩ: “Người và pháp phải tuân theo mà đều chẳng tuân theo”. Chư Thiên đều ngạc nhiên không phân biệt được. Thiên đế thấy chư Thiên có tâm nghi, bèn nghĩ: “Ta sẽ mời nhà vua ở lại, sau mới làm sáng tỏ”. Thiên đế bảo chư Thiên:

– “Các Ông có muốn ta lưu nhà vua ở lại đây chăng?”

Chư Thiên thưa:

– “Thật muốn mời ở lại”.

Thiên đế bảo vua Nhâm:

– “Ðại vương! Có thể ở đây chăng? Tôi sẽ cung cấp ngũ dục”.

Nhân đó chư Thiên mới biết. Vua thưa Thiên đế:

– Thưa, tôi không thể!

Thiên đế bèn cấp tặng, xong vua thưa:

– “Nguyện cho chư Thiên thọ mạng vô tận”.

Chủ khách thỉnh nhượng như thế ba lần.

Thiên đế hỏi vua:

– “Sao không ở lại?”

Vua thưa:

– “Tôi phải xuất gia tu đạo, nay ở cõi Trời không có duyên học đạo”.

Thiên đế hỏi:

– “Tại sao lại học đạo?”

Vua đáp:

– “Phụ vương tôi dặn dò, nếu có tóc bạc nên xuất gia”.

Ðế thích nghe nói lời di mệnh nhập đạo, im lặng không đáp. Vua ở cõi Trời, trong khoảng khắc ngũ dục tự vui, mà ở thế gian đã trải qua mười hai năm. Vua muốn cáo biệt, bèn cùng các Thiên tử nói pháp chân thật. Thiên đế dạy người đánh xe:

– “Ông đưa vua Nhâm trở về nước”.

Người đánh xe vâng lời liền trang hoàng xe, chuẩn bị xong, thưa nhà vua:

– “Ðại vương có thể lên xe”.

Nhà vua bèn từ biệt Thiên đế và chư Thiên rồi lên xe, theo đường cũ mà về. Ðến thành Mật-để-la, người đánh xe liền trở về Trời. Vua trở về vài hôm, vua bảo Kiếp-tỷ:

– Nếu thấy có tóc bạc, nên báo cho ta.

Trong vài ngày, trên đầu vua có tóc bạc, Kiếp-tỷ dùng nhíp vàng nhổ tóc bạc, để trên tay vua, vua thấy rồi bèn nói kệ:

Trên đầu của ta,
Sinh tóc bạc này,
Sứ thần đến gọi,
Ðến thời vào đạo.

Vua nghĩ: “Ta đã hưởng ngũ dục tột đỉnh, nay nên xuất gia, cạo tóc, mặc pháp phục”. Vua bèn gọi thái tử Thiện Tận bảo:

– Ta đã có tóc bạc, ta đã chán ngũ dục thế gian, nên tìm vui cõi Trời, nên cạo bỏ tâu tóc, mặc pháp phục, xuất gia học đạo. Nay ta đem việc nước giao cho con, chu cấp cho Kiếp-tỷ. Nếu khi có tóc bạc, Con nên đem việc nước giao cho thái tử rồi xuất gia học đạo. Này Con! Nay ta đem ngôi vị Thánh vương trao cho con, chớ để đoạn dứt; nếu đoạn dứt thì sẽ bị làm người ở biên địa”.

Phật bảo A-nan:

– Vua Nhâm bèn đem việc nước trao cho thái tử, chu cấp ruộng đất cho Kiếp-tỷ, rồi ở nơi thành này xuống tóc, mặc pháp phục, xuất gia tu đạo. Sau khi vua tu đạo, trong bảy ngày xe báu, châu báu biến mất, voi, ngựa, ngọc nữ, điển binh, chủ tạng thảy đều không còn. Nhà vua ở trong vườn tám vạn bốn ngàn năm, hành bốn Phạm hạnh Từ, Bi, Hỷ, Xả, sau khi mệnh chung, sanh lên Phạm thiên.

Sau đó vua Thiện Tận không theo nghiệp cha, bỏ phế Chánh pháp. Do đó bảy món báu không ứng hiện lại, không tiếp tục hạnh lành nên có năm điều tổn giảm: tuổi thọ dân chúng ngắn, sắc suy, lực kém, nhiều bệnh, không trí tuệ. Năm điều tổn giảm này đã có lại rồi chuyển thêm sang bần khốn. Do cùng khổ nên trộm cướp lẫn nhau, người ta đến vua thưa kiện:

– “Người này trộm cắp!”

Vua liền ra lệnh hành hình người trong nước. Nghe tội trộm cắp, vua liền đem giết, vì chứa điều ác nên có đao bén. Ðao gươm từ đó bắt đầu chế tạo, do đây sát sanh khởi lên, đó là hai điều ác (trộm, sát) xuất hiện.

Kế lại dâm phạm vợ người, tranh cải với chồng người ấy, tự nói: “Tôi không có!” bèn thành ra bốn điều ác (đạo, sát, dâm, vọng). Nói đôi chiều gây nên đấu tranh là năm điều ác. Do gây gổ nên có chửi bới là sáu điều ác. Lời nói không thật là bảy điều ác. Ganh ghét sự hòa hợp của người là tám điều ác. Giận hờn đổi sắc là chín điều ác. Lòng nghi loạn là mười điều ác. Mười điều ác đã đủ thì sự tổn giảm càng tăng.

Phật bảo A-nan:

– Muốn biết vua Ðại thiên lúc đó ở vào Hiền kiếp ban đầu là ai chăng? Chính là Ta vậy! A-nan Vua sau cùng của tám vạn bốn ngàn triều vua tên là Nhâm, trị nước đoan chánh, chính là Thầy vậy. Vua sau chót tên Thiện Tận bạo nghịch vô đạo, làm đoạn dứt dòng Thánh vương ấy, chính là Ðiều Ðạt.

A-nan! Thầy ở thời quá khứ, kế thừa sự nghiệp lành của Chuyển luân Thánh vương Ðại Thiên, khiến ngôi vị lưu truyền không dứt, là công đức của Thầy, đúng pháp chẳng phi pháp. A-nan! Nay Ta là Pháp vương vô thượng, đem pháp lành vô thượng ân cần trao phó cho Thầy. Thầy là con dòng Thích, chớ làm người biên địa, chớ làm hạnh đoạn chủng.

A-nan bạch Phật:

– Vì cớ gì làm hạnh đoạn chủng?

Phật bảo A-nan:

– Vua Ðại Thiên tuy làm pháp lành nhưng chưa được lậu tận xuất thế gian, chưa được độ, chưa được đoạn dục, chưa phá hai mươi mốt kiết sử, sáu mươi kiến chưa trừ, ba cấu chưa sạch, chưa được thần thông, chưa được chơn đạo giải thoát, chưa được Niết-bàn. Vua Ðại Thiên làm pháp lành, bất quá chỉ sanh lên Phạm thiên.

A-nan! Nay Ta nói pháp vô vi là pháp Ta được đến bờ chân thật trên cõi Trời, Người. Pháp Ta vô lậu, vô dục, diệt độ, thần thông, giải thoát, Sa-môn chơn thật đến Niết-bàn. A-nan! Nay Ta đem đạo pháp Vô thượng ân cần trao phó cho Thầy, chớ làm giảm pháp của Ta, chớ làm người biên địa. A-nan! Nếu có hiện hạnh Thanh văn; nếu có người đoạn dứt pháp này thì đó là người biên địa. Nếu người hay làm hưng thạnh pháp này là trưởng tử Phật, tức là thành tựu quyến thuộc, chớ làm hạnh diệt dòng tộc. A-nan! Pháp của Ta đã nói ra trước sau đều giao phó cho Thầy. Thầy nên học điều này!

A-nan nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

5. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Có bốn tội nhân lớn ở trong địa ngục. Thế nào là bốn? Mạt-khư-lê là đại tội nhân. Tỳ-kheo Ðế-xá là đại tội nhân, Ðề-bà-đạt-đa là đại tội nhân, Tỳ-kheo Cù-ba-ly là đại tội nhân.

Tội nhân Mạt-khư-lê thân phát ra lửa dài sáu mươi khuỷu tay. Tội nhân Ðế-xá thân phát lửa dài bốn mươi khuỷu tay. Tội nhân Ðề-bà-đạt-đa thân phát lửa dài ba mươi khuỷu tay. Tội nhân Cù-ba-ly thân phát lửa dài hai mươi khuỷu tay.

Này Tỳ-kheo! Nên biết Mạt-khư-lê dạy vô số chúng sanh khiến làm việc tà kiến điên đảo, chấp có chấp không. Kẻ ngu Đế-xá làm đoạn dứt hạt giống Thánh không còn sót. Kẻ ngu Ðề-bà-đạt-đa gây rối loạn chúng Tăng, giết Tỳ-kheo-ni đắc A-la-hán. Tội nhân Cù-ba-ly phỉ báng Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên.

Lại nữa, tội nhân Mạt-khư-lê dạy vô số chúng sanh làm tà kiến, thân hoại mạng chung đọa vào địa ngục Diệm Quang. Tội nhân Ðế-xá làm đoạn dứt hạt giống Thánh không còn sót, thân hoại mạng chung rơi vào địa ngục Ðẳng Hại. Tội nhân Ðề-bà-đạt-đa khởi tâm mưu hại đối với Như Lai, thân hoại mạng chung rơi vào địa ngục A-tỳ. Tội nhân Cù-ba-ly do phỉ báng Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, thân hoại mạng chung rơi vào địa ngục Bát-đầu-ma.

Khi ấy tội nhân Mạt-khư-lê bị ngục tốt rút lưỡi, vặn cổ ra sau. Vì sao thế? Do ngày trước dạy vô số chúng sanh khiến làm tà kiến. Ðại tội nhân Ðế-xá bị ngục tốt mổ xẻ thân hình, đổ nước sông nóng bắt nuốt. Vì sao cháy tiêu bụng, đem hoàn sắt nóng bắt nuốt.Vì sao thế? Do ông ấy đoạn dứt hạt giống Thánh chúng. Tội nhân Ðề-bà-đạt-đa bị bánh xe sắt nóng nghiền nát thân thể, lại có chày sắt đập trên thân, bầy voi dữ chà đạp trên thân, lại có núi sắt nóng lớn đè trên mặt, toàn thân bị lá đồng nóng quấn chặt. Vì sao thế? Do ngày trước ông ấy gây rối trong chúng, phá hòa hợp Tăng, nên phải bị bánh xe sắt nghiến đứt đầu. Lại, kẻ ngu Ðề-bà-đạt-đa xúi thái tử làm hại phụ vương do quả báo ấy nên bị chày sắt đập nát thân thể. Lại, kẻ ngu Ðề-bà-đạt-đa cho voi uống rượu say đến hại Như Lai, do quả báo ấy bị bầy voi dữ chà đạp thân thể. Lại, kẻ ngu Ðề-bà-đạt-đa leo lên núi Kỳ-xà-quật vác đá ném Phật, do quả báo ấy nên khiến núi sắt nóng đè trên mặt. Kẻ ngu Ðề-bà-đạt-đa giết Tỳ-kheo-ni đắc A-la-hán, do quả báo ấy nên lá đồng nóng quấn thân. Tỳ-kheo nên biết, tội nhân Cù-ba-ly ở trong địa ngục Liên Hoa, có một ngàn trâu kéo cày trên lưỡi. Vì sao thế? Vì đã phỉ báng Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, do quả báo này có một ngàn trâu kéo cày nát lưỡi.

Lại tội nhân Mạt-khư-lê, thân phát ra lửa dài sáu mươi khuỷu tay. Nếu có chúng sanh khởi lên ý niệm này: “Ta có thể cứu tế làm lợi ích người này” mà lấy nước bốn biển cao bốn mươi khuỷu tay rưới trên thân người ấy thì sau đó nước biển liền cạn hết mà lửa không giảm. Cũng như một chiếc lá sắc bị thiêu đốt đã bốn ngày, có người dùng bốn giọt nước rưới lên, nước lập tức rút mất. Ðây cũng như thế, nếu có người đem nước bốn biển lớn rưới lên thân tội nhân, muốn cho được an lạc thì rốt cuộc không kết quả. Vì sao thế? Vì tội kẻ ấy quá sâu nặng.

Tội nhân Ðế-xá thân phát ra lửa dài bốn mươi khuỷu tay. Giả sử có chúng sanh thương xót người này, đem nước trong ba biển lớn rưới trên thân thì nước biển liền khô cạn, lửa không tắt, cũng như người rưới ba giọt nước lên sắt nóng, nước liền cạn khô không đọng lại. Ðây cũng lại như vậy, nếu đem nước của ba biển lớn rưới trên thân Ðế-xá, nước liền cạn mất mà lửa vẫn y nhiên.

Tội nhân Ðề-bà-đạt-đa thân phát ra lửa dài ba mươi khủy tay. Nếu có chúng sanh khởi lòng thương xót, muốn làm cho Ðề-bà-đạt-đa được an ổn lâu dài, đem nước của hai biển lớn rưới trên thân ông ta thì nước liền cạn mất, lửa không tắt. Cũng như rưới hai giọt nước trên lá sắt nóng, trọn không kết quả. Với tội nhân Ðề-bà-đạt-đa cũng lại như thế, đem nước của hai biển lớn rưới trên thân, nước liền rút mất còn lửa không giảm. Thân thể của Ðề-bà-đạt-đa khổ đau như thế.

Tội nhân Cù-ba-ly thân phát ra lửa dài hai mươi khuỷu tay. Nếu có chúng sanh thương xót người này, đem nước một biển lớn rưới lên thân thì nước biển kia liền rút mà lửa vẫn cháy. Cũng như rưới một giọt nước lên lá sắt nóng, nược cạn khô không đọng lại. Với tội nhân Cù-ba-ly cũng lại như vậy, do tội báo lôi kéo nên chịu tội như vậy.

Các Tỳ-kheo! Bốn hạng người này thọ tội rất nặng, các Thầy nên hết lòng xa lìa sự khổ hoạn này, tuân theo các bậc Hiền Thánh tu Phạm hạnh. Như thế, này các Tỳ-kheo nên học điều này!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

6. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Nay Ta biết rõ về địa ngục, cũng biết con đường dẫn đến địa ngục, cũng biết cội gốc của chúng sanh trong địa ngục ấy. Nếu có chúng sanh làm các hạnh ác không lành thì thân hoại mệnh chung rơi vào địa ngục. Ta cũng biết điều này.

Lại này các Tỳ-kheo! Ta cũng biết rõ về súc sanh, cũng biết con đường dẫn đến súc sanh, cũng biết cội gốc của súc sanh kẻ làm các hạnh ác sanh trong ấy, Ta cũng đều biết rõ.

Ta cũng biết con đường ngạ quỷ, có người làm các điều ác sanh trong ngạ quỷ, Ta cũng biết điều đó.

Nay Ta cũng biết con đường cõi Người, dẫn đến loài Người. Có chúng sanh được thân Người, Ta cũng biết.

Ta cũng biết con đường dẫn đến cõi Trời, có chúng sanh làm các cội đức lành sanh lên cõi Trời, Ta cũng biết điều đó.

Ta cũng biết đường dẫn đến Niết-bàn. Có chúng sanh chấm dứt hữu lậu, thành tựu vô lậu, tâm giải thoát, trí tuệ giải thoát, ở trong pháp hiện tại được chứng quả, Ta cũng biết điều đó.

Tỳ-kheo nên biết! Ta biết đường dẫn đến địa ngục. Do nhân duyên gì mà Ta nói lời này?

Phật bảo các Tỳ-kheo:

– Nay Ta quán sát tâm ý chúng sanh, biết rằng người này thân hoại mạng chung phải đọa địa ngục. Sau đó, Ta thấy người này đã vào địa ngục, chịu khổ não đau đớn khảo tra vô số, lo buồn khổ não không thể tính kể. Cũng như có một hầm lửa lớn không có bụi khói, giả sử có người đi trên chỗ ấy lại có người có mắt quán sát lối đi của người kia, biết chắc sẽ rơi vào lửa không sai, và sau đó thấy người này rớt vào hầm lửa. Ta nói rằng người này đã rơi vào hầm lửa. Nay Ta quán sát tâm ý nghĩ nhớ của chúng sanh, biết chắc chắn chúng sanh ấy sẽ rơi vào địa ngục không nghi. Sau đó, Ta quán sát người này, nhất định vào địa ngục chịu khổ cay đắng không thể tính kể. Vì sao người ấy rơi vào địa ngục? Ðó là xem xét chúng sanh thú hướng địa ngục, làm các hạnh ác, nghiệp chẳng lành, thân hoại mạng chung rơi vào địa ngục, Ta đều biết rõ. Ðiều Ta nói chính là điều này.

Ta biết con đường súc sanh, cũng biết đường dẫn đến súc sanh. Do cội gốc nhân duyên nào mà nói như thế? Ở đây, này các Tỳ-kheo, Ta quán sát ý niệm trong tâm chúng sanh, biết người này thân hoại mạng chung sanh vào trong lúc sanh. Sau đó, Ta thấy người ấy đã sanh vào đường súc sanh, lo buồn khổ não không thể tính kể. Vì sao người này rơi vào súc sanh? Cũng như làng xóm có một hầm xí đầy phần tiểu, giả sử có người đi qua chỗ đó, người có mắt nhìn thấy người đi qua nơi ấy, biết người này không bao lâu sẽ rơi vào hầm ấy, biết người này không bao lâu sẽ rơi vào hầm xí. Sau đó thấy người ấy đã rơi vào hầm xí. Nay Ta quán sát chúng sanh cũng lại như thế, biết người này mạng chung phải đọa vào súc sanh, sau đó lại thấy đã sanh trong súc sanh chịu khổ vô lượng. Nay Ta quán sát chúng sanh trong súc sanh thảy đều rõ ràng. Ðiều Ta nói chính là điều này.

Ta cũng biết chúng sanh trong đường ngạ quỷ, con đường hướng ngạ quỷ. Ai thân hoại mạng chung sanh vào ngạ quỷ, Ta cũng biết. Có chúng sanh thân hoại mạng chung hướng về đường ngạ quỷ, Ta đều biết rõ. Thời gian sau, Ta cũng thấy chúng sanh ấy đã vào đường ngạ quỷ chịu khổ thọ lạc thọ. Vì sao người này lại rơi vào đường ngạ quỷ? Ví như bên cạnh làng xóm lớn có một đại thọ, ở chỗ nguy hiểm cành nhánh rớt gãy, giả sử có người đi qua nơi đó, người có mắt xa thấy người ấy, biết đi qua nơi đó, người có mắt xa thấy người ấy, biết đi qua chỗ đại thọ không nghi, sau lại thấy người này hoặc ngồi hoặc nằm chỗ gốc ấy, chịu báo khổ vui. Tại sao người này lại đến nằm ngồi dưới cây? Nay Ta quán sát các loài chúng sanh cũng lại như vậy, thân hoại mạng chung ắt đến ngạ quỷ không nghi, thọ báo khổ lạc không thể tính kể. Ta biết ngạ quỷ và con đường dẫn đến ngạ quỷ, Ta đều biết rõ ràng. Ðiều Ta nói chính là điều này.

Ta biết cõi Người, cũng biết con đường dẫn đến cõi Người. Có người hành động thân hoại mạng chung sanh trong cõi Người, Ta cũng biết đó. Ở đây, này Tỳ-kheo! Ta quán sát ý niệm trong tâm chúng sanh. Nguời này chắc chắn khi thân hoại mạng chung sẽ sanh vào loài Người. Sau đó, Ta lại thấy người ấy đã sanh trong loài Người. Vì sao người này sanh trong loài Người? Cũng như bên xóm làng có một cây lớn, ở chỗ bằng phẳng nhiều bóng mát. Có người đi thẳng đến đó. Người có mắt thấy rồi liền biết rằng, hướng đi của người này ắt đến cây lớn không nghi. Sau đó, Ta thấy người này đã đến cây lớn hưởng vui vô lượng. Vì sao người này đến được chỗ ấy? Ðây cũng như thế. Ta quán sát tâm chúng sanh trong loài Người không nghi. Thời gian sau Ta lại thấy người này đã sanh trong loài người được vui vô lượng. Ta biết cõi Người, cũng biết con đường làm người, nay sanh cõi Người Ta cũng biết. Ðiều Ta nói chính là điều này.

Ta cũng biết cõi Trời, biết con đường dẫn đến cõi Trời. Có chúng sanh tạo công đức sanh cõi Trời, Ta cũng biết. Do nhân duyên gì mà nói như thế? Nay Ta quán sát ý niệm trong tâm của các loài chúng sanh. Người này khi thân hoại mạng chung chắc chắn sẽ sanh cõi lành, cõi Trời. Sau đó Ta thấy người ấy thân hoại mạng chung sanh cõi lành trên trời, ở đó hưởng phước tự nhiên vui sướng không thể sánh. Ðó gọi là người ấy đã sanh cõi Trời, ở đó hưởng phước tự nhiên vui sướng không thể bì. Cũng như bên xóm làng có một giảng đường cao rộng đẹp đẽ, chạm trổ hình ảnh, treo các phan lọng, nước thơm rưới đất, trải các tòa ngồi tốt đẹp, đệm gấm, thảm thêu mịn màng. Nếu có người thẳng một đường đi đến, người có mắt thấy hướng đi, biết người này chắc chắn sẽ đến giảng đường cao rộng ấy, không nghi. Sau đó, lại thấy người này đã đến giảng đường, hoặc ngồi hoặc nằm, ở trong đó hưởng phước vui sướng không thể sánh. Đây cũng như thế, nay Ta quán sát các loại chúng sanh thân hoại mạng chung sẽ sanh cõi Trời, ở nơi đó hưởng khoái lạc không thể tính kể. Vì sao người ấy sanh lên cõi Trời, ở nơi đó hưởng khoái lạc không thể tính kể. Vì sao người ấy sanh lên cõi lành trên Trời? Ta biết cõi Trời và con đường dẫn đến cõi Trời. Điều Ta nói chính là điều này.

Nay Ta biết Niết-bàn, cũng biết con đường Niết-bàn, cũng biết chúng sanh sẽ nhập Niết-bàn. Hoặc có chúng sanh chấm dứt hữu lậu, thành tựu vô lậu, tâm giải thoát, trí tuệ giải thoát, hiện thân thủ chứng mà tự du hóa, Ta đều biết rõ. Do nhân duyên gì mà nói như thế? Ở đây, này Tỳ-kheo! Ta quán sát ý niệm trong tâm chúng sanh duyên gì mà nói như thế? Ở đây, này Tỳ-kheo! Ta quán sát ý niệm trong tâm chúng sanh. Người này chấm dứt hữu lậu, thành tựu vô lậu, tâm giải thoát, trí tuệ giải thoát. Ðó gọi là người này đã chấm dứt hữu lậu, thành tựu vô lậu. Cũng như cách làng xóm không xa, có một ao lớn nước trong mát, nếu có người thẳng một đường đến đó. Người có mắt xa thấy người ấy đến, biết người này chắc chắn sẽ đến ao nước không nghi. Lại sau đó, thấy người ấy đã đến ao nước tắm gội, trừ bỏ các thứ dơ bẩn, bụi bặm, ngồi một bên, cũng không tranh cãi với người. Nay Ta quán sát chúng sanh cũng lại như thế, chấm dứt hữu lậu, thành tựu vô lậu, tâm giải thoát, trí tuệ giải thoát, sanh tử đã dứt, Phạm hạnh đã lập, việc phải làm đã làm xong, biết như thật về danh sắc. Ðó gọi là người ấy đã đến nơi. Ta biết con đường Niết-bàn, cũng biết chúng sanh nhập Niết-bàn, thảy đều biết rõ.

Như Lai Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác có trí này, sức vô úy đầy đủ, thảy đều thành tựu đầy đủ. Trí của Như Lai không hạn lượng, Như Lai có thể quán sát sự việc ở quá khứ không hạn lượng, không thể tính, thảy đều biết rõ, việc tương lai, hiện tại không hạn lượng, thảy đều phân biệt.

Cho nên, này Tỳ-kheo! Nên tìm phương tiện để thành tựu đầy đủ mười sức vô úy. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm:

*

7. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Nương nơi núi Tuyết có đại thọ rất to lớn, năm thứ rộng lớn. Thế nào là năm? Gốc rất vững chắc, vỏ rất dày, cành nhánh dài xa, bóng mát che trùm, lá rậm rạp. Các Tỳ-kheo! Ðó là trên núi Tuyết có cây to lớn này rất xanh tốt.

Nay thiện nam tử, thiện nữ nhơn cũng lại như thế, nương nhà hào tộc được năm việc tăng trưởng lợi ích. Thế nào là năm? Là tăng trưởng lợi ích về tín, tăng trưởng lợi ích về giới, tăng trưởng lợi ích về văn, tăng trưởng lợi ích về thí, tăng trưởng lợi ích về tuệ.

Tỳ-kheo! Ðó gọi là thiện nam tử, thiện nữ nhơn nương nơi nhà hào tộc, thành tựu được năm việc này. Cho nên, Tỳ-kheo nên tìm phương tiện thành tựu về tín, giới, văn, thí, tuệ.

Thế Tôn liền nói kệ:

Cũng như cây núi tuyết,
Thành tựu năm công đức,
Gốc, vỏ, nhánh dày rộng,
Bóng mát, lá râm rạp,
Thiện nam tử tín tâm,
Thành tựu năm công đức,
Tín, giới,văn, bố thí,
Trí tuệ cùng tăng trưởng.

Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

8. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Tỳ-kheo Mậu-la-phá-quần cùng các Tỳ-kheo-ni đi dạo chơi, các Tỳ-kheo-ni cũng thích cùng dạo chơi với Thầy. Có dân chúng cơ hiềm về Tỳ-kheo Mậu-la-phá-quần, khi ấy các Tỳ-kheo-ni rất giận tức buồn lo không vui. Nếu lại có người hủy nhục các Tỳ-kheo-ni, lúc ấy, Tỳ-kheo Phá-quần cũng lo buồn không vui. Bấy giờ có nhiều Tỳ-kheo bảo Tỳ-kheo Phá-quần:

– Nay vì sao Thầy lại thân cận với các Tỳ-kheo-ni. Các Tỳ-kheo-ni cũng giao tiếp với Thầy?

Phá-quần đáp:

– Nay tôi hiểu rõ lời dạy của Như Lai, ai phạm giới dâm tội rất ít.

Các Tỳ-kheo lại bảo:

– Thôi, thôi, Tỳ-kheo! Chớ nói lời ấy, chớ phỉ báng lời dạy của Như Lai. Người phỉ báng lời dạy của Như Lai, tội không ít. Lại nữa, Thế Tôn dùng vô số phương tiện nói về sự ô uế của dâm dục. Người nào tập theo dâm dục mà không tội, trọn không có lý. Nay Thầy nên bỏ ác kiến này, sẽ bị khổ lâu dài, vô lượng.

Nhưng tỳ-kheo Phá-quần, cứ giao thiệp với các Tỳ-kheo-ni, không sửa đổi. Bấy giờ, nhiều Tỳ-kheo đi đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy và bạch:

– Trong thành Xá-vệ có một Tỳ-kheo tên Phá-quần, giao tiếp với các Tỳ-kheo-ni. Các Tỳ-kheo-ni cũng giao tiếp qua lại với Tỳ-kheo Phá-quần. Chúng con đến đó khuyên dụ sửa đổi hành động, song hai người ấy còn tăng thêm, không bỏ kiến pháp điên đảo, cũng không thuận theo Chánh pháp.

Bấy giờ, Phật bảo một Tỳ-kheo:

– Thầy hãy đến chỗ Tỳ-kheo Phá-quần nói rằng Như Lai gọi:

Tỳ-kheo vâng lời Phật dạy, liền đến chỗ Tỳ-kheo Phá-quần nói:

– Thầy nên biết Như Lai gọi.

Tỳ-kheo Phá-quần nghe lời Thầy Tỳ-kheo nọ, liền đi đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy lui ngồi một bên.

Thế Tôn hỏi:

– Có thật Thầy thân cận với các Tỳ-kheo-ni không?

Tỳ-kheo Phá-quần thưa:

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Phật bảo:

– Thầy là Tỳ-kheo, vì sao lại giao thiệp với Tỳ-kheo-ni? Thầy này là dòng dõi hào tộc, cạo bỏ râu tóc, mặc ba y, có phải do lòng tin vững chắc xuất gia học đạo chăng?

Phá-quần bạch Phật:

– Thưa vâng, Thế Tôn! Con nhà hào tộc, do lòng tin vững chắc xuất gia học đạo.

Phật bảo:

– Chẳng phải là pháp của Thầy, tại sao lại giao thiệp với Tỳ-kheo-ni?

Phá-quần bạch Phật:

– Con nghe Như Lai dạy rằng người nào làm theo hạnh dâm, tội ấy không đáng kể.

Phật bảo:

– Thầy là người ngu. Vì sao nói Như Lai dạy rằng theo dâm dục không tội? Ta dùng vô số phương tiện nói sự nhơ uế của dâm dục. Nay tại sao Thầy nói lời này: “Như Lai nói dâm dục không tội”. Thầy nên khéo giữ miệng, đừng để mang tội báo lâu dài.

Phật bảo:

– Nay Thầy hãy chờ, Ta sẽ hỏi lại các Tỳ-kheo: Phật bảo các Tỳ-kheo:

– Các Thầy có nghe Ta dạy các Tỳ-kheo rằng dâm dục không tội chăng?

Các Tỳ-kheo thưa:

– Thưa Thế Tôn! Không nghe Như Lai nói dâm dục không tội. Vì sao thế? Như Lai dùng vô số phương tiện nói sự nhơ uế của dâm dục. Nếu nói không tội, việc ấy không đúng.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

– Lành thay, lành thay, các Tỳ-kheo! Như các Thầy nói, Ta dùng vô số phương tiện nói sự nhơ uế của dâm dục.

Phật lại bảo các Tỳ-kheo:

– Các Thầy nên biết! Nếu có người ngu tụng tập theo pháp hành như là Khế kinh, Kỳ-dạ, Thọ ký, Kệ, Nhân duyên, Bổn sự, Thí dụ, Bốn sanh, Phương đẳng, Vị Tằng hữu, Tự thuyết, Luận nghị. Tuy tụng tập pháp ấy mà không hiểu nghĩa lý. Do không quán sát nghĩa lý cũng không thuận theo pháp ấy nên pháp đáng tuân theo lại không theo. Sở dĩ tụng pháp ấy chỉ buông lung muốn cạnh tranh cùng người, ý toan tính hơn thua, cũng không tự mình được lợi ích. Người ấy tụng pháp rồi ắt phạm cấm chế. Cũng như có người ra khỏi làng, muốn tìm bắt rắn độc. Khi thấy rắn to lớn đến nơi người ấy dùng tay trái nắm đuôi rắn, rắn bèn quay đầu mổ vào tay, do nhân duyên này mà người ấy mạng chung. Ðây cũng như thế, có người ngu tụng tập kinh pháp, mười hai bộ kinh đều biết, lại không quán sát nghĩa lý các kinh. Vì sao thế? Vì không biết rốt ráo nghĩa của Chánh pháp.

Có thiện nam tử, giữ gìn tụng tập kinh pháp như Khế kinh, Kỳ-dạ, Thọ ký, Kệ, Nhân duyên, Bổn sự, Thí dụ, Bốn sanh, Phương đẳng, Vị tằng hữu, Tự thuyết, Luận nghị. Người ấy tụng đọc rồi, lại hiểu sâu ý nghĩa; do hiểu sâu ý nghĩa kinh pháp, thuận theo lời dạy không sai trái. Sở dĩ tụng đọc thì không đem tâm hơn thua, cạnh tranh với người khác mà tụng đọc kinh pháp là muốn tự mình tu có lợi ích. Sở dĩ tụng đọc kinh pháp muốn đạt kết quả bổn nguyện. Do nhân duyên này, dần dần đến Niết-bàn. Cũng như có người ra khỏi làng xóm kia, muốn bắt rắn độc. Người ấy thấy rằn rồi, tay cầm kềm sắt trước tiên kẹp đầu rắn, sau mới nắm chắc cổ rắn, không cho nhúc nhích. Nếu như rắn độc quay đuôi muốn hại người ấy thì trọn không thể được. Vì sao thế? Tỳ-kheo! Vì do người ấy nắm cổ rắn. Thiện nam tử này cũng lại như vậy, tụng đọc khắp các kinh pháp, quán sát ý nghĩa, thuận theo kinh pháp, trọn không sai trái, do nhân duyên này, dần dần được Niết-bàn. Vì sao thế? Do người kia giữ gìn Chánh pháp vậy.

Cho nên, này các Tỳ-kheo! Người nào hiểu ý nghĩa của Ta nói, nên ghi nhớ vâng làm, ai không hiểu nên trở lại hỏi Ta. Như Lai còn đang hiện tiền, để sau hối hận vô ích.

Bấy giờ Phật bảo các Tỳ-kheo:

– Nếu có Tỳ-kheo ở trong đại chúng nói lời thế này: “Giới cấm Như Lai đã nói ra, tôi thảy đều biết rõ, ai tập theo dâm dục tội không đáng kể”. Các Tỳ-kheo nên nói với Tỳ-kheo ấy rằng: “Thôi, thôi! Chớ nói lời ấy. Chớ phỉ báng Như Lai mà nói năng như thế này. Như Lai trọn không nói lời ấy”. Nếu Tỳ-kheo ấy sửa đổi thì tốt, nếu không sửa đổi sẽ bị đọa. Nếu có Tỳ-kheo che giấu việc này không phát lộ ra, mọi người đều đọa.

Này các Tỳ-kheo! Ðó là cấm giới của Ta.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

9. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Phạm chí Sanh Lậu đến chỗ Thế Tôn, cùng hỏi thăm và lui ngồi một bên. Phạm chí Sanh Lậu bạch Phật:

– Có bao nhiêu kiếp quá khứ?

Phật bảo Phạm chí:

– Các kiếp ở quá khứ không thể tính kể.

Phạm chí bạch Phật:

– Có thể tính kể số ấy chăng? Sa-môn Cù-đàm thường nói về ba đời. Thế nào là ba? Là quá khứ, hiện tại, tương lai. Sa-môn Cù-đàm cũng biết về các đời quá khứ, tương lai, hiện tại. Cúi xin Sa-môn diễn nói về ý nghĩa kiếp số.

Phật bảo Phạm chí:

– Nếu Ta nói về kiếp này, lại tiếp theo kiếp này thì Ta diệt độ. Ông cũng mạng chung mà vẫn không biết ý nghĩa của kiếp số. Vì sao thế? Ngày nay thọ mạng của người ngắn ngủi, sống lâu tột cùng không hơn trăm tuổi. Tính số kiếp trong trăm năm ấy, thì Ta diệt độ, Ông đã mạng chung, trọn không biết được nghĩa của kiếp số.

Phạm chí nên biết! Như Lai cũng có trí này, biết hết, phân biệt đầy đủ về kiếp số, thọ mạng chúng sanh dài ngắn, hưởng sự khổ vui, thảy đều rành rẽ. Nay Ta sẽ nêu thí dụ cho Ông, người có trí do thí dụ mà hiểu. Cũng như số cát sông Hằng, cũng không giới hạn, không lường, không thể tính toán; số của kiếp quá khứ như thế, không thể tính kể, không hạn lượng.

Phạm chí bạch Phật:

– Có bao nhiêu kiếp số về tương lai?

Phật bảo Phạm chí:

– Cũng như số cát sông Hằng không có bờ mé, không thể tính kể, chẳng toán số nào theo kịp

Phạm chí lại hỏi Phật:

– Có kiếp hiện tại, kiếp thành, kiếp hoại chăng?

Phật bảo Phạm chí:

– Có kiếp thành, kiếp hoại, chẳng phải là một kiếp, trăm kiếp. Cũng như cái chén để ở chỗ gập ghềnh không an toàn, nếu có đứng yên cũng bị chao động. Các thế giới phương vức cũng bị chao động, hoặc có kiếp thành, hoặc có kiếp hoại, Số ấy cũng không thể tính kể là bao nhiêu kiếp thành, là bao nhiêu kiếp hoại. Vì sao như thế? Vì sanh tử dài xa không có giới hạn, chúng sanh do vô minh đan kết ngăn che, trôi nổi từ đời này sang đời sau, từ đời trước đến đời này, chịu khổ não lâu dài. Nên chán ngán hoạn này, xa lìa khổ não này. Cho nên, Phạm chí, nên học như thế.

Phạm chí Sanh Lậu bạch Phật:

– Sa-môn Cù-đàm thật kỳ đặc, biết ý nghĩa của số kiếp quá khứ, hiện tại, tương lai. Nay con tự quy y Sa-môn Cù-đàm, cúi xin Sa-môn Cù-đàm nhận con làm Ưu-bà-tắc, suốt đời không sát sanh … không uống rượu.

Bấy giờ Phạm chí Sanh Lậu nghe lời Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

10. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ờ Thành La-duyệt, núi Kỳ-xà-quật, cùng chúng đại Tỳ-kheo năm trăm người câu hội.

Khi ấy, có một Tỳ-kheo bạch Phật:

– Kiếp số có bờ mé chăng?

Phật bảo Tỳ-kheo:

– Có phương tiện dẫn dụ, nhưng kiếp số không cùng tận. Về quá khứ lâu xa trong Hiền kiếp này, có đức Phật ra đời hiệu Câu-lưu-tôn, Chí Chơn Ðẳng Chánh giác. Bấy giờ núi Kỳ-xà-quật này có tánh hiệu, lúc đó nhân dân trong thành La-duyệt, leo lên núi Kỳ-xà-quật này, bốn ngày bốn đêm mới tới đỉnh.

Lại nữa, này Tỳ-kheo! Vào thời đức Phật Câu-na-hàm-nâu-ni, núi Kỳ-xà-quật này cũng có tánh hiệu. Khi ấy, nhân dân trong thành La-duyệt leo ba ngày ba đêm tới đỉnh núi.

Ðức Như Lai Ca-diếp xuất hiện ở đời, núi Kỳ-xà-quật này cũng có tánh hiệu. Khi ấy nhân dân trong thành La-duyệt leo hai ngày hai đêm tới đỉnh.

Như Ta ngày nay, Phật Thích-ca Văn xuất hiện ở đời, núi này tên Kỳ-xà-quật, trong khoảnh khắc lên tới đỉnh núi.

Nếu Phật Di-lặc ra đời, núi này cũng tên là Kỳ-xà-quật. Vì sao thế? Vì thần lực của chư Phật khiến núi này tồn tại.

Tỳ-kheo, nên do phương tiện này biết, kiếp số suy tận không thể tính kể. Kiếp có hai thứ, đại kiếp và tiểu kiếp. Nếu trong kiếp ấy không có Phật ra đời, bấy giờ có Bích-chi Phật ra đời, đó là tiểu kiếp. Nếu Như Lai xuất hiện ở kiếp nào, kiếp đó không có Bích-chi Phật xuất hiện, đây gọi là đại kiếp.

Tỳ-kheo! Do phương tiện này biết là kiếp số lâu dài không thể tính kể. Cho nên, này các Tỳ-kheo, nên nhớ ý nghĩa của kiếp số này!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.