Mi Tiên Vấn Ðáp

Mi Tiên Vấn Ðáp

Trương Văn Chiến 12

Mi Tiên Vấn Ðáp
(Milinda Panha)

Dịch giả: Hòa thượng Giới Nghiêm
(Maha Thera Thita Silo)

Tỳ kheo Giới Ðức hiệu đính, ấn bản 2003

157. Cái gì không do nhân, nghiệp, thời tiết sanh?

– Thưa Đại đức! Tất cả những gì được sanh ra trong thế gian này đều do nhân, nghiệp hay thời tiết. Đấy là điều mà trẫm được học hỏi. Vậy thì có cái gì được sanh ra mà không do nghiệp, nhân hay thời tiết không?

– Có chứ, tâu đại vương! Hư không và Niết bàn không sanh ra bởi nhân, nghiệp hay thời tiết.

– Cái gì biết thì đại đức nói biết, cái gì không biết thì đại đức nên nói là không biết, chứ đừng nói những điều phản lại lời dạy của Đức Tôn sư!

– Tại sao đại vương nói nặng lời với bần tăng như thế?

– Thưa, vì Đức Toàn Giác dạy rằng: “Đạo này là nhân sẽ làm cho thấu rõ Niết bàn“. Như thế, Niết bàn là có nhân sanh hẳn hòi, còn ngài lại bảo Niết bàn không do nhân sanh!

Đại đức Na tiên nói:

– Nhân làm cho thấu rõ Niết bàn và nhân sanh Niết bàn hoàn toàn khác nhau. Về nhân làm cho thấu rõ Niết bàn thì Đức Thế Tôn từng nói đến hằng trăm nhân, hằng ngàn nhân; nhưng nhân sanh Niết bàn thì Đức Thế Tôn chưa bao giờ thuyết. Xin đại vương hiểu cho như thế!

Đức vua Mi-lan-đà không đồng ý:

– Đại đức lý giải thật lạ lùng. Thế gian này là chỗ mê, tối. Niết bàn là nơi giải thoát, quang minh, xán lạn. Nếu không thể tạo nhân chỗ mê tối để đi đến chỗ sáng thì chúng ta tu hành để làm gì? Chúng ta muốn thoát khỏi chỗ tối này để lại rơi vào chỗ tối khác chăng? Chúng ta muốn lìa khỏi rừng gai rậm bít bùng này để rồi đâm đầu vào rừng gai rậm bít bùng khác sao? Cách của ngài nói như là xác định không thể tạo nhân để đi đến Niết bàn vậy!

Đại đức Na tiên mỉm cười:

– Chính ví dụ của đại vương đã phản bác lý luận của đại vương rồi. Niết bàn nếu được sanh ra bởi nhân và do nhân, chính là chỗ tối mà tìm về chỗ tối, là rừng rậm bít bùng để đi đến rừng rậm bít bùng khác. Tại sao vậy? Tại vì gây nhân thì phải gặt quả. Và thế là dù khổ dù vui, dù phước dù tội… đã gây nhân là chúng ta phải sanh lại để thọ quả ấy; cứ thế, chìm nổi mãi giữa luân hồi sinh tử, vào ra mãi nơi ba cõi sáu đường, không bao giờ thoát khổ được. Nếu ông nội sinh ra cha, cha sinh ra con, con sanh ra cháu, cháu sinh ra chắt v.v… thì cứ sinh mãi cho đến vô cùng tận. Nếu hột mầm sinh ra cây, cây sinh hạt, hạt nảy mầm… thì nhân quả kia muôn đời còn tương tục mãi.

Đại vương nên hiểu rằng, Đạo là con đường, Đạo là Bát chánh đạo, tức là con đường có tám chi. Đức Phật dạy rằng, Đạo là nhân làm cho thấu rõ Niết bàn, lộ trình ấy, sẽ thấy rõ Niết bàn, sẽ giác ngộ Niết bàn ấy ở trong tâm! Chứ không phải Đạo là nhân để sanh quả là Niết bàn. Bát chánh đạo, tự nó, là Bát chánh đạo, tự nó không sanh ra cái gì cả; phải có người thực hành, thực nghiệm, kiên trì tinh tấn lên đường. Bát chánh đạo chỉ là bản đồ, là con đường, quan trọng là phải theo bản đồ ấy để lên đường, tâu đại vương!

– Trẫm đã lãnh hội lờ mờ, chưa rõ lắm, mong đại đức giải thích thêm cho.

– Tâu, vâng! Trước khi ví dụ, đại vương nên hiểu cho: Niết bàn không do nhân sanh, không phải là điều kiện kết hợp. Nó là nơi vắng lặng ái dục và chấp thủ, nơi vượt ngoài lý luận và ngôn ngữ chế định của thế gian, là pháp siêu thế không thể nghĩ bàn.

– Vâng, điều ấy thì trẫm cũng đã có học.

– Bây giờ trở lại ví dụ. Có người muốn đi đến Hy-mã-lạp-sơn mà không biết đường, đại vương đưa cho người ấy một bản đồ rồi chỉ bày cặn kẽ. Người kia nghiên cứu bản đồ ấy rất kỹ: đi như thế nào, đường bộ, qua sông, núi lớn, núi nhỏ, thời gian… như thế nào y đều kể vanh vách. Tuy thế, người ấy không đi, không lên đường… thì có bao giờ người ấy thấy Hy-mã-lạp-sơn không, đại vương?

– Thật không thể.

– Đúng vậy. Có bản đồ trong tay, có Đạo trong tay, nghiên cứu Đạo rất kỹ – những không thể thấy rõ Niết bàn được – vì Đạo ấy không phải là nhân sanh Niết bàn!

– Ồ! Hay lắm!

– Có người khác, cũng thế, nhưng sau khi đại vương trao cho bản đồ, y nghiên cứu rất kỹ rồi với hành lý, vật thực, y lên đường. Sau những ngày vất vả, y lên được Hy-mã-lạp-sơn, thấy rõ Hy-mã-lạp-sơn. Trường hợp ấy có thể nói: con đường là nhân sanh Hy-mã-lạp-sơn được chăng, đại vương?

– Dường như không ổn. Con đường chỉ là con đường thôi, như trường hợp thứ nhất ở trên. Trường hợp thứ hai, còn biết bao nhiêu là nhân khác: hành lý, vật thực, sự gian lao vất vả, trải qua ngày đêm v.v… Thiếu tất cả chúng đều không thể đến Hy-mã-lạp-sơn được!

– Thế ra đại vương cũng đồng ý có rất nhiều nhân?

– Vâng! Đại đức nói đúng. Có rất nhiều nhân làm cho thấu rõ Niết bàn nhưng không có nhân sanh Niết bàn.

– Nhưng cọng tất cả nhân ấy có sanh Niết bàn không hở đại vương?

– Chắc được chứ!

– Không, Đại vương lầm rồi. Cọng tất cả nhân ấy lại, chúng ta có thể thấy rõ Hy-mã-lạp-sơn, chứ không thể sanh ra Hy-mã-lạp-sơn được, phải thế không?

– Ồ!

– Lại nữa, ví như có người bơi thuyền để sang bờ sông bên kia, người ấy bỏ thuyền lại, lên bờ, thấy rõ bờ kia; chứ đâu phải chiếc thuyền sanh ra bờ kia, phải không đại vương?

– Chắc hẳn thế rồi!

– Đạo là nhân sanh làm cho thấy rõ Niết bàn chứ không phải nhân sanh Niết bàn – đại vương cũng nên hiểu như thế!

– Tâu vâng!

– Niết bàn là vô vi pháp, không có điều kiện, không có nhân sanh, không có tạo tác, đại vương nên hiểu như thế!

– Thế không thể nào ví dụ hay nói năng gì về Niết bàn cả sao, đại đức!

– Tâu, có thể ví dụ, có thể nói năng để gợi ý, mở phơi, khái niệm về Niết bàn chứ không thể ví dụ, nói năng làm cho người ta thấy Niết bàn, đại vương!

– Tại sao lại như thế?

– Tâu, Niết bàn ở ngoài văn tự, ngôn ngữ; nó không thuộc quá khứ, hiện tại hay vị lai. Chúng ta không thể thấy Niết bàn bằng con mắt, nghe Niết bàn bằng lỗ tai, ngửi Niết bàn bằng lỗ mũi, nếm Niết bàn bằng cái lưỡi, sờ Niết bàn bằng cái thân, biết Niết bàn bằng cái ý, đại vương!

– Trời đất! Niết bàn không phải do nhân sanh, không phải tự sanh, ở ngoài ngôn ngữ văn tự, nó không thuộc quá khứ, hiện tại, vị lai; chúng ta không thể biết Niết bàn qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý được! Thế rõ là Niết bàn không có rồi!

– Đại vương khẳng định như thế là không được. Tại sao thế? Ví dụ như đại vương ngồi đây nghiêm cứu rất kỹ con đường đến Hy-mã-lạp-sơn, nhưng đại vương không lên đường, chỉ lý luận về con đường, giảng nói về con đường, lại còn nói rất rõ về Hy-mã-lạp-sơn nữa. Việc làm ấy có giúp đại vương thấy rõ Hy-mã-lạp-sơn chăng?

– Không đúng, phải đến tận nơi mới biết được.

– Giả dụ đại vương đến rồi, đã thấy rồi, trở về, đại vương có thể nói cho mọi người nghe để mọi người có thể thấy rõ Hy-mã-lạp-sơn như đại vương đã từng thấy rõ chăng?

– Thưa, chính họ cũng phải đến tận nơi thôi! Nói cách chi cũng không diễn tả hết được.

– Hy-mã-lạp-sơn hiện hữu sờ sờ ra đấy mà phải đến tận nơi mới thấy rõ được, huống hồ Niết bàn là pháp siêu thế, làm sao có thể biết được qua văn tự ngữ ngôn, qua mắt tai mũi lưỡi thân ý được đại vương!

– Tâu, vâng!

– Niết bàn phải được chứng nghiệm bằng tâm, phải trải qua con đường thực hành chân chánh, lìa xa chướng ngại, ràng buộc, giới định kiên trì, thanh tịnh; khi nào không còn nhiễm ô, cấu uế, chấp trước, khi ấy ta sẽ thấy rõ Niết bàn, tâu đại vương!

– Đồng ý thế rồi! Nhưng đại đức đưa ra ví dụ Hy-mã-lạp sơn là không tương hợp rồi. Mặc dù không thấy rõ Hy-mã-lạp sơn nhưng ta cũng có thể nói sơ sơ về dài, ngắn, rộng, hẹp, to nhỏ, cây cối ở Hy-mã-lạp sơn được kia mà!

– Thì ví dụ khác. Là gió. Gió trong thế gian này có lẽ không có, đại vương nhỉ?

– Gió tại sao lại không có được?

– Thế đại vương có thể chỉ rõ cho bần tăng thấy: gió có màu sắc, hình dáng gì, nó to nhỏ, dài ngắn, rộng hẹp ra sao chăng?

– Không thể được!

– Có thể sờ đụng, bắt bằng tay, được chăng?

– Cũng không thể..

– Vậy thì rõ ràng, gió không có rồi!

– Gió có chứ. Đây này, trẫm đang hít thở và cảm giác rõ ràng gió đi vô đi ra nơi buồng phổi, cuống phổi, lỗ mũi của trẫm; nhưng tiếc thay, trẫm không diễn tả cho đại đức hiểu được.

– Cũng thế, tâu đại vương! Niết bàn cần phải được chứng nghiệm ở trong tâm, chẳng thể thấy nó bằng màu sắc hay hình dáng, chẳng thể diễn tả bằng ngôn ngữ hay văn tự được!

– Thế là rõ lắm rồi! Cảm ơn đại đức đã có quá nhiều ví dụ thiện xảo cho trẫm và người đời sau dễ lãnh hội.

* * *

158. (Trùng với câu hỏi 157)

* * *

159. Sao không thấy tử thi của dạ xoa?

– Thưa đại đức! Dạ xoa cũng là một loại chúng sanh hiện sống trong thế gian này chứ?

– Tâu, vâng!

– Dạ xoa cũng sanh, cũng già, cũng chết như chúng ta chứ?

– Tâu, vâng!

– Dạ xoa cũng sanh, cũng chết, sao sau khi chúng chết, không ai thấy tử thi của chúng, hở đại đức! Tất cả chúng sanh như người, trâu, bò, gà, vịt, chim, rắn, khi chết thì tử thi sình thối, hôi hám…; còn xác tử thi của dạ xoa đâu mà không ai nhận biết, hay xác tử thi của dạ xoa không bốc mùi xú uế?

– Tâu đại vương! Dạ xoa có ba loại là, chư thiên dạ xoa, quỉ dạ xoa và có loại dạ xoa khi làm quỉ, lúc làm chư thiên tùy theo nghiệp của chúng. Tất cả dạ xoa đều thuộc loại hóa sanh – tức là biến hóa thân mà sanh – chứ không phải thuộc loại noãn, thai hoặc thấp sanh. Chúng sanh thuộc noãn, thai và thấp sanh thì mang thân xác tứ đại thô nên sự sanh, sự chết của chúng, mắt thường chúng ta cảm nhận được, thấy được. Còn loại hóa sanh thì thân xác tứ đại vi tế, mắt chúng ta không thấy được. Dạ xoa thuộc hóa sanh thì khi chúng chết, chúng ta không thấy tử thi và không cảm nghe mùi hôi cũng đúng thôi.

Sanh thú dạ xoa cũng tùy theo nghiệp của chúng đã tạo. Dạ xoa có thể sanh lại làm người, làm chư thiên, cũng có thể sanh lại làm cào cào, châu chấu, giòi bọ, chim rắn v..v..

– Thế những khi chúng ta cảm nhận có mùi thơm rất lạ phảng phất mà không phải có từ bông hoa, trái cây hay hương trầm? Lại có khi chúng ta cảm nghe mùi hôi thối… mà không phải từ xác chết sinh vật hay phân của thú, chim hay cóc nhái các loại, là tại sao?

– Thỉnh thoảng những lúc tâm an tịnh thế nào đó, chúng ta bắt được mùi thơm hay thối từ những chúng sanh có thân xác tứ đại vi tế ấy. Vậy mùi thơm, có thể là của chư thiên hay thọ thần; mùi thối có thể là mùi của sự chết hay xú uế dơ dáy của các loại quỉ, loại ma hay dạ xoa ở chung quanh, tâu đại vương!

– Vi diệu thay.

– Thật ra còn nhiều vi diệu hơn thế nữa mà vì thân tâm ta bị bít bùng vây hãm trong thế giới uế trược, cho nên những cảm giác tinh tế, nhạy bén lần hồi mất đi, tâu đại vương

– Cảm ơn đại đức!

* * *

160. Tại sao Đức Thế Tôn không cấm chế giới luật một lần?

– Thưa đại đức! Theo lịch sử y học thì từ xưa đến nay, có bảy vị đại lương y, làm nghề thầy thuốc giỏi. Đó là các vị Nàrada, Dhamma Tarika, Angì Rasa, Kapilà, Kanda Ratti Kàma, Atula, Pubbà Kacchayana. Cả bảy vị ấy, nghe đồn rằng, họ hiểu rõ nguyên nhân phát sanh của bệnh, biết sự biến chuyển đổi khác hay tăng trưởng của bệnh; biết thể trạng của bệnh qua các thời kỳ, biết rõ nhiều phương pháp chữa trị, biết bệnh này bao lâu thì lành, bệnh kia sẽ không lành v..v.. Ngoài ra, các vị ấy đoán bệnh, xem bệnh chỉ một lần, không đợi phải xem lần thứ hai. Các vị đại lương y ấy, tài giỏi cho đến nổi, chẩn bệnh mà như nhìn cuốn chỉ quay quanh cái trục, chỉ cần nắm cái đầu mối, là có thể phanh ra cả cuộn chỉ!

Thưa đại đức! Cả bảy vị thầy thuốc kia không phải là Đức Phật Toàn Giác, chỉ nhìn xem bệnh nhân một lần là có thể biết nguyên nhân bệnh, sự biến chuyển bệnh qua các thời kỳ, biết chữa lành hay không chữa lành! Còn Đức Thế Tôn thì sao nhỉ? Là Đấng Toàn Giác mà ngài không biết rõ những căn bệnh nào xẩy ra trong giáo hội? Không biết rõ bệnh gì phát sanh và bệnh gì không phát sanh? Không biết rõ những căn bệnh sẽ biến chuyển qua các thời kỳ như thế nào? Lại càng không biết rõ bệnh nào sẽ chữa lành, bệnh nào không chữa lành?

Nói rõ hơn, Đức Toàn Giác của chúng ta, khi trong tăng chúng xảy ra điều xấu ác nào thì ngài chế ra điều luật để ngăn ngừa, hay ngăn cấm điều xấu ác ấy. Một vài vị tỳ khưu nào đó có lời nói hay việc làm quá thô bỉ, trược hạnh, bị mọi người mỉa mai, chê trách… thì lúc ấy Đức Thế Tôn mới chế ra điều học, đưa ra cấm giới. Điều đó chứng tỏ gì? Chứng tỏ Đức Tôn Sư không biết rõ căn bệnh nào sẽ phát sanh, không biết rõ các căn bệnh biến chuyển ra sao qua các thời kỳ. Làm các việc xấu ác là bệnh, giới cấm là thuốc, phải thế chăng? Thuốc của Đức Thế Tôn cho uống, có chắc bệnh nào lành và bệnh nào không lành? Bất khả, chẳng thể biết được, có phải vậy chăng?

Đại đức Na tiên mỉm cười:

– Đức Thế Tôn quả là Đấng Toàn Giác đấy, tâu đại vương! Mười ngàn, trăm ngàn bậc lương y ấy đoán bệnh, chữa bệnh… cũng không thể so sánh với sự hiểu biết thâm sâu, vô lượng của Đức Đạo Sư. Ngài biết rõ tất cả, biết rõ, biết nhiều hơn tất cả sự khôn ngoan, minh triết của tất thảy nhân loại từ xưa đến nay. Vì biết quá rõ tất cả những căn bệnh nên ngài đã có cách chữa trị riêng của ngài, mà trí óc phàm phu không hiểu nổi, tâu đại vương!

– Thưa, nếu biết rõ, thế tại sao Đức Toàn Giác không nêu ra tất cả căn bệnh rồi kê toa, cho phương thuốc trị liệu một lần? Ví dụ có hai trăm căn bệnh thì Đức Phật đưa ra hai trăm phương thuốc. Sau này, ai mắc bệnh nào thì y cứ vào phương thuốc ấy mà trị liệu. Có tiện hơn không? Là Đấng Toàn Giác, ngài thiết lập, chế phạm, tùy theo nặng nhẹ mà xử phạt. Nếu làm được như vậy thì tất cả bệnh đều được ngăn ngừa từ trong trứng nước, thì làm gì có chuyện bị thế gian cười chê, đàm tiếu; mọi người khinh bỉ, mỉa mai do một số tỳ khưu xấu ác, thô bỉ đã ăn nói bậy bạ hoặc hành động càn rỡ?

– Xin đại vương hãy nhẫn nại. Sở dĩ Đức Thế Tôn thấy phát sanh điều xấu xa nào mới đưa ra giới điều để đối trị; chứ không cấm chế tất cả bằng một bộ luật một trăm giới hoặc một trăm năm mươi giới – là vì có hai lý do quan trọng sau đây. Nếu đại vương biết rõ hai lý do ấy, thì chắc đại vương phải tán thán, chấp hai tay lên đỉnh đầu để thốt lên: “Ồ! Đúng là trí tuệ của bậc Toàn Giác, bậc thấy rõ thế gian và thông suốt thế gian!

Đức vua Mi-lan-đà rất hoan hỷ:

– Vậy thì đại đức cho nghe!

– Thứ nhất, tâu đại vương! Ví như có một người sơ tu, căn cơ thấp thỏi, hiểu biết nông cạn, phàm tính còn nhiều, bản chất yếu đuối – khi đến xin xuất gia vào trong giáo hội; vị thầy A-xà-lê bèn đưa ra bộ luật một trăm năm mươi điều, hai trăm điều rồi nói rằng “Đây là mười giới, đây là ba mươi giới, đây là bảy mươi lăm giới. Còn nữa, còn hơn một trăm giới dành riêng cho tỳ khưu nữa. Ngươi hãy cố gắng thọ trì.” Nếu điều ấy xảy ra, thì kẻ xin tu kia sẽ có thái độ ra sao?

– Thưa, y chắc không dám tu đâu. Nghe giới nhiều như thế chắc tóc y sẽ dựng ngược lên, hốt hoảng bỏ về ngay tức khắc.

– Đúng thế. Và đây là lý do thứ nhất, tâu đại vương. Chính giới quá nhiều sẽ làm cho kẻ sơ tu sợ hãi. Và có lẽ còn hằng trăm, hằng ngàn người thấy vậy cũng đâm ra ớn, chẳng dám gia nhập vào một giáo hội nghiêm khắc như thế. Vô hình trung, không biết bao nhiêu là nguy hại, đau khổ cho chúng sanh!

– Cái gì là nguy hại, đau khổ ở đây, thưa đại đức?

– Tâu, giới luật nhiều, người ta sợ hãi không vào tu. Có nghĩa là giáo hội ấy không chịu mở cửa cho chúng sanh đi vào các cõi trời và người. Tại sao lại như thế? Vì trong số xin xuất gia ấy, chưa nói đến chuyện chứng đạt những đạo quả cao siêu – thì họ cũng gieo được duyên lành với Phật đạo, có đức tin, có ít giới luật, có thắng phước do phẩm mạo sa môn – đấy là nhân lành cho họ thọ hưởng phước báu trời, người trong mai hậu.

Còn nữa, trong số xin xuất gia ấy, nếu không được tu, không được gieo duyên lành; họ trở về nếp sống cũ, theo thói quen tạo những nghiệp ác về thân, về khẩu, về ý. Thế là cửa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a tu la sẽ được mở ra!

Vì lý do ấy, giới luật nhiều, đã được soạn thảo sẵn, chế định trước, do nguyên nhân gần và xa: đã mở cửa bốn đường ác và đóng cửa trời và người đấy, tâu đại vương!

Đức vua Mi-lan-đà thốt lên:

– Thật là kinh khiếp! Ôi! Đức Thế Tôn nhìn xa thấy rộng xiết bao!

– Thế đại vương không chê nữa sao?

– Thật không dám thế. Xin đại đức cho nghe tiếp lý do thứ hai?

– Tâu, vâng! Cái mà đại vương chê là khi một tỳ khưu có hành động càn rỡ, thô tháo, xấu ác, bị Tăng lữ cười chê, người đời mỉa mai; Đức Thế Tôn mới chế ra học giới, chính là dụng tâm rất là sáng suốt của Đấng Toàn Giác. Không phải là Bậc Giác Ngộ thì không thể minh triết được vậy! Tại sao? Vì khi ấy, Đức Thế Tôn mới gọi vị tỳ khưu ấy đến, hỏi rằng: “Ông làm việc ấy ai cũng cười chê đấy, ông biết không?” Vị tỳ khưu sẽ trả lời:”Dạ, con biết, vì làm vậy là xấu, không nên“. Đức Thế Tôn sẽ hỏi tiếp:”Ông biết là xấu, vậy hành động ấy nên được tiệp tục hay phải chừa bỏ?” Vị tỳ khưu sẽ trả lời:”Đã xấu thì không nên làm xấu nữa, bạch Đức Thế Tôn.

Cuộc đàm thoại sẽ xảy ra tương tự thế, đại vương có cảm nhận gì không?

– Trẫm là vua một nước, chẳng bao giờ nói chuyện mang tinh thần tự do, dân chủ với tội nhân như thế bao giờ! Đức Thế Tôn quả là biết tôn trọng nhân cách của con người. Trẫm phục lắm!

– Tâu, cảm nhận của đại vương là đúng, nhưng chưa phải là cái cốt tử, cái tinh yếu của vấn đề. Khi vị tỳ khưu thấy rõ hành động của mình là xấu, y sẽ tự nguyện không làm xấu nữa! Quan trọng là ở chổ ấy. Vị tỳ khưu vì thấy rõ tội nên sẽ không làm tội nữa. Tinh thần ấy là tinh thần “thấy rõ điều xấu xa, giác ngộ điều xấu xa; từ ấy sẽ không còn mê muội tạo nên những hành động xấu xa, sai lầm nữa.” Chính Đức Phật đã tạo cơ hội cho vị tỳ khưu tự giác ngộ bài học, tâu đại vương.

– Cảm ơn đại đức! Ngài đã khai mở con mắt tối tăm cho trẫm. Đức Thế Tôn quả là bậc Toàn Giác. Trẫm sẽ không còn dám nói gì về vấn đề này nữa

– Cái nhân quả của vấn đề, đôi khi rất thâm sâu đấy, đại vương!

– Thưa vâng!

* * *

161. Mặt trời có bệnh chăng?

– Thưa đại đức! Mặt trời có bị bệnh chăng?

– Tại sao đại vương lại hỏi thế?

– Bởi vì trẫm thấy rằng, mặt trời đôi khi chiếu sáng chói chang, tỏ ra sức lực rất mạnh mẽ; nhưng cũng có những khi tia sáng của nó rất yếu ớt, dường như không có hơi sức. Vậy không phải khi ấy mặt trời bị bệnh sao?

– À, nếu đại vương gọi đấy là bệnh thì mặt trời có bệnh thật. Bệnh của mặt trời làm cho có những khi nó chiếu sáng yếu ớt – là do mây, khói, mưa và nguyệt thực đấy, đại vương!

– Nghĩa là do, mây, khói, mưa, nguyệt thực che ám, lấn hiếp nên mặt trời mới bị bệnh?

– Tâu, vâng!

Đức vua Mi-lan-đà tán thán:

– Ôi! Mặt trời oai lực như thế, phi thường như thế mà cũng bị bệnh, huống hồ là chúng sanh, đại đức nhỉ!

– Vâng, chúng sanh bị tham che ám, lấn hiếp, sân che ám, lấn hiếp… nên phát sanh lên không biết bao nhiêu là căn bệnh đấy, đại vương!

– Trẫm hiểu rồi.

* * *

162. Lại bệnh của mặt trời nữa!

– Đại đức đã giảng về bệnh của mặt trời thì giảng cho hết luôn! Có phải là mùa lạnh, mặt trời vô bệnh, còn mùa nắng, mặt trời hữu bệnh chăng?

– Tại sao đại vương lại suy ra thế?

– Thưa, vì thường mùa lạnh, tia nắng của mặt trời rất gắt, rất mạnh; còn về mùa nắng, tuy cảm nghe rất nóng nhưng tia nắng không gắt, không mạnh bằng mùa lạnh?

– À ra thế! Có hai lý do, đại vương! Vì hai lý do này mà mùa nắng, tia nắng không mạnh. Thứ nhất là do nắng nóng nên sông, biển, ao, hồ, mặt đất… hơi nước bốc lên, vì hơi nước bốc lên giữa hư không, tia nắng bị cản lại, bị giảm cường độ, nên tia nắng trở nên yếu. Thứ hai vì nóng nên không khí giản nở tạo nên gió, gió thổi những đám mây rời ra, bay tản mạn giữa hư không. Chính những đám mây tản mạn này che bớt tia nắng mặt trời đấy đại vương!

– Hay lắm! Vậy còn mùa lạnh, tại sao nắng lại gắt?

– Tâu cũng tương tự như lý giải trên. Vì lạnh nên sông, biển, ao hồ, mặt đất… nước không bốc hơi hoặc bốc hơi rất ít; do vậy, hoặc không hoặc có rất ít hơi nước bốc lên hư không, tia nắng không bị lực cản, bị che ám nên nó rất gắt, rất mạnh là đúng thôi. Còn nữa, những đám mây trên bầu trời vì lạnh nên nó đóng thành cụm lớn, không bị gió thổi lang thang, rời rạc giữa hư không. Đây là lý do thứ hai khiến tia nắng không bị che ám, tâu đại vương!

– Thưa, thế thủ phạm, kẻ nghịch chính là hơi nước và những đám mây lang thang – làm cho mặt trời bệnh. Hèn gì!

– Hay lắm! Đại vương đã tìm ra thủ phạm tạo nên căn bệnh cho mặt trời, thế còn thủ phạm tạo nên mọi căn bệnh của chúng sanh thì sao nhỉ?

Đức vua Mi-lan-đà mỉm cười:

– Đại đức lái câu chuyện hay thật đấy! Hẳn thủ phạm chính là vô minh và ái dục rồi!

– Không sai!

* * *

163. Về chuyện Bồ tát Vessantara bố thí vợ con.

– Thưa đại đức tất cả bồ tát thuở trước đều phải trải qua hoàn cảnh bố thí vợ con, hay chỉ riêng bồ tát Vessantara của chúng ta thôi?

– Tâu, tất cả. Vị bồ tát nào hành ba-la-mật cũng đều bố thí vợ con như nhau cả thảy.

– Thế vợ con có hoan hỷ làm vật thí cho bồ tát Vessantara bố thí chăng?

– Tâu đại vương! Vợ thì hoan hỷ nhưng con thì không. Nếu trường hợp người con ấy lớn, hiểu biết về nhân quả, phước báu, hiểu rõ tâm nguyện của cha thì nó sẽ hoan hỷ; còn nếu nó nhỏ quá, chưa biết gì thường thì khóc than rất bi lụy.

Vua Mi-lan-đà trầm ngâm giây lâu rồi nói:

– Câu chuyện Bồ tát Vessantara bố thí vợ con, trẫm nghĩ ngợi rất nhiều. Nếu nói đấy là việc khó thì đúng là việc khó làm, thế gian không ai làm nổi, ngoại trừ bồ tát Vessantara! Nếu bảo đấy là sự nhẫn tâm, trái tim đã biến thành gỗ đá – thì chẳng ai có thể biện hộ dùm cho bồ tát Vessantara được, thưa đại đức!

– Đại vương xin cứ thẳng thắn cho. Lý do nào mà đại vương ghép tội bồ tát Vessantara như thế?

– Không dám. Trẫm đâu dám kết tội, nhưng rõ là trẫm có bảy điều muốn đem ra vấn nạn đại đức đây!

– Bần tăng xin rửa tai lắng nghe.

– Vâng! Đại đức hãy nghe đây:

Điều thứ nhất: Tại sao bồ tát lại đang tâm bố thí hai đứa con yêu của mình vốn là lá ngọc cành vàng – đến người bà-la-môn để làm tôi tớ cho gia đình hắn?

Điều thứ hai: Tại sao khi hai trẻ vùng khỏi sợi giây buộc của lão bà-la-môn, chạy đến bên bồ tát; khẩn cầu, van xin bồ tát giúp đỡ, hầu thoát khỏi bàn tay độc ác của lão ấy, bồ tát lại nguội lạnh, dửng dưng đến như thế?

Điều thứ ba: Trước đó, khi lão bà-la-môn cột trói hai trẻ, vừa lôi bừa đi, vừa đánh đập chúng trước mặt bồ tát, thế mà ngài chẳng động lòng? Chẳng động lòng, tim trơ trơ như gỗ đá thế kia, hay bảo đấy là ngài trú trong pháp xả ba-la-mật?

Điều thứ tư: Khi hai trẻ khóc than thống thiết rằng: “Cha ơi! Lão già bà-la-môn xấu xí kia đúng là quỷ dạ xoa! Con quỷ ấy xin hai con về là để ăn thịt. Vậy xin cha hãy cứu hai con!” Ôi! Con mình đau khổ như thế, van xin với nước mắt thống lụy như thế – mà bồ tát của chúng ta chỉ an ủi sơ sơ: Không có đâu, hai con, không có đâu, đừng sợ. Nói thế thì có được ích gì, chỉ như một nhát dao đâm sâu vào tình phụ tử đấy thôi.

Điều thứ năm: Khi đứa trẻ trai Jàli lăn lộn, vùng vẫy, ngã quỵ, gần bên chân bồ tát, ngước đôi mắt hoen đỏ, bi thảm, nưc nở tâu xin rằng: “Thưa cha, xin cho em gái Kanhà của con được ở lại, nó còn nhỏ dại quá, nó không chịu nổi sự đau khổ này đâu. Con xin gánh chịu tất cả, con sẵn sàng để cho quỷ dạ xoa kia ăn gan, uống máu, ăn thịt con! Phải cứu em gái tội nghiệp của con, cha ơi!” Ôi! Trước sự thống thiết của con trai như thế mà bồ tát chẳng xúc động, chẳng nói năng gì, thì kể cũng lạ đời!

Điều thứ sáu: Khi bị lão bà-la-môn đánh đập, cột trói rất chặt, kéo bừa hai trẻ lê trên đất như hai con heo; trẻ Jàli chồm lên, lấy thân đỡ roi cho em, không ngớt chửi mắng lão bà-la-môn hèn hạ; thế mà bồ tát lại giả vờ quay mặt đi, chẳng rầy trách lão bà-la-môn một tiếng là cớ làm sao?

Điều thứ bảy: Lão bà-la-môn lôi hai trẻ đi xa dần, vấp phải đá, đụng phải cây, thân thể chúng bầm dập, rách nát, tươm máu, tiếng khóc la thảm thiết từ núi rừng hoang vắng vọng lại! Thế đó. Làm cha, làm mẹ có chút thương con thì trái tim chắc cũng vỡ ra làm trăm mảnh; thế mà bồ tát cũng dường như không, bước vào cốc, đưa tay khép cửa lại!

Thưa đại đức! Dù bồ tát Vessantara phát đại nguyện bổ túc ba-la-mật đi nữa, muốn thành tựu vô thượng bồ đề tuệ đi nữa, ngài cũng phải có trái tim biết thương xót con mình chứ? Ai nỡ nào đang tâm để cho con mình kêu gào, la khóc như vậy chứ? Thật trẫm không hiểu nổi.

– Đại vương nên nhớ rằng, việc bố thí vợ con của bồ tát, nhất là bố thí con, mà đại vương bảo là đang tâm, nhẫn tâm, không có trái tim ấy – đã chấn động mười ngàn thế giới trong cõi sa bà này! Chấn động khắp các cõi trời, người, Đế thích, a tu la, long vương, phạm thiên, dạ xoa, ma vương v..v… Tất thảy, ai cũng nổi gai ốc, dựng tóc gáy; và ai cũng tán dương, khen ngợi không hết lời! Thế thì việc làm ấy là tốt hay xấu hở đại vương! Tốt hay xấu mà đại vương lại nghiêm khắc luận tội, trong lúc mười ngàn thế giới lại tán thán không hết lời?

– Trẫm hoài nghi về điều ấy!

– Vâng! Tốt hay xấu còn tùy thuộc cách nhìn cùng quan niệm riêng tư. Nhưng sự bố thí ba-la-mật của bồ tát có mười đức tính cao thượng, đại vương cũng nên biết, để từ đó rút ra kết luận cho mình.

– Xin cho nghe.

– Tâu, vâng. Mười đức tính ấy như sau:

Một là, sự bố thí siêu việt.
Hai là, dứt trừ sự thương yêu (bởi tâm ái luyến).
Ba là, thái độ dứt bỏ.
Bốn là, không ăn năn, hối hận.
Năm là, sự bố thí vi tế.

Sáu là, sự đoạn tuyệt.
Bảy là, sự bố thí to lớn.
Tám là, sự bố thí thế gian khó hiểu.
Chín là, sự bố thí khó khăn.
Mười là, sự bố thí chẳng ai so sánh được.

Sở dĩ mười ngàn thế giới rung động là do sức mạnh của mười đức tính ấy, tâu đại vương!

Đức vua Mi-lan-đà vẫn lắc đầu:

– Thưa, bao nhiêu đức tính cũng vậy thôi! Bao nhiêu sức mạnh cũng vậy thôi. Sự dứt bỏ, bố thí một cách cao thượng, siêu việt, được mười ngàn thế giới tán dương mặc dầu – trẫm vẫn nghi ngờ như thường! Sự bố thí mà không hề nghĩ đến sự đau khổ của kẻ khác, làm cho kẻ khác khóc than, la hét… mà có phước báu được sao? Đấy là con đường đi về cõi trời hay con đường đi vào địa ngục, đại đức?

– Tâu đại vương! Có thể điều ấy đúng khi ta chưa hiểu rõ lý nhân quả. Nhưng nếu ta hiểu rõ lý nhân quả rồi, đồng thời, thấy được cái đại nguyện và dụng tâm sâu kín của đức Bồ tát thì ta sẽ không nghi ngờ gì nữa.

– Đại đức cứ tiếp tục.

– Tâu, vâng. Ví như có một đạo sĩ tu tập trong rừng sâu, hằng ngày trú tâm từ vô lượng, toát ra một năng lực mát mẻ bao phủ cả một vùng. Thế rồi, các loài hươu, nai… đến gần đạo sĩ mà chúng không hề sợ hãi. Bất chợt, sáng hôm kia, đạo sĩ tỏ vẻ hung dữ cầm cây đánh đuổi hươu, nai đi chỗ khác. Đại vương thấy thế nào,vị đạo sĩ đánh đập chúng sanh, vậy là độc ác, vậy là không có lòng từ sao?

– Thưa, đánh đập như vậy là không được rồi!

– Tâu đại vương! Chính đánh đuổi như thế, vị đạo sĩ đích thực mới có tình thương đối với hươu, nai! Vì sao vậy? Vị đạo sĩ nghĩ rằng, nếu chúng tưởng mọi người ai cũng đều hiền lành, vô hại, tìm đến chơi một cách vô tư như thế – thì có lúc, sẽ bị bọn thợ săn làm hại! Điều này chứng tỏ gì? Chứng tỏ hiện tại dường như đau khổ nhưng tương lai, sẽ lợi ích cho nó, an vui cho nó hơn. Câu chuyện bố thí hai con của bồ tát, chúng ta nên suy xét theo chiều hướng này thì may ra ánh sáng mới được lộ ra, tâu đại vương!

– Thưa, chưa được thuyết phục lắm, nhưng đại đức cứ cho xin ví dụ nữa đi.

– Tâu, vâng. Ví như có một sa môn tu hành rất tinh tấn, có giới hạnh, bị té xuống hố gãy chân, gãy tay, máu ra rất nhiều. Có người thợ săn đi ngang, thấy vậy, khởi mối thiện tâm, muốn xuống cứu vị sa môn ấy. Vị sa môn nói rằng: “Tôi đau lắm, cứ để tôi chết ở đây!” Người thợ săn nói: “Ở đây tôi không có thuốc chữa, ngài hãy chịu khó, ráng chịu đau để tôi cõng về làng“. Sau ba lần thuyết phục, vị sa môn không chịu. Người thợ săn quyết giữ ý mình, quyết cứu sa môn cho bằng được, bèn xuống hố cõng lên. Phàm tay gãy, chân gãy để yên thì ít đau, nhưng khi di chuyển, động cựa, các khớp xương sai lệch, đau đến tận xương tủy. Người thợ săn biết vậy, nhưng vì muốn cứu bậc tu hành, chẳng ngại đường xa vất vả, chẳng ngại tiếng rên la đau đớn của vị sa môn, lúc đi bộ, lúc đặt lên xe kéo, chuyển được về làng. Lúc sắp xếp lại các khớp xương, bó giẻ để cột lại, vị sa môn đau đớn bất tỉnh… Mấy ngày hôm sau, vị sa môn ngỏ lời cảm ơn. Người thợ săn nói: “Ngài chịu khó tịnh dưỡng ở đây vài tháng, tôi nuôi ngài được. Khi nào lành, chân tay hồi phục, tha hồ lên núi mà tu!“.

Tâu đại vương! Câu chuyện xảy ra như thế, ta biết rõ đâu nhân đâu quả, đại vương không lên án nghiêm khắc người thợ săn bất nhẫn trước sự đau đớn quằn quại của vị sa môn chứ?

– Dĩ nhiên là không rồi. Chính nhờ chịu đựng được đau đớn ấy, vị sa môn mới được lành bệnh an vui!

– Việc làm của người thợ săn – dường như lạnh lùng trước sự đau đớn của vị sa môn – có được quả báo như thế nào? Y sẽ mở cửa thiên đường hay y mở cửa địa ngục?

– Khách quan mà luận nhân quả, có lẽ người thợ săn được phước báu rất lớn, rất vĩ đại thưa đại đức!

– Sự khổ sở, đau đớn của hai trẻ, và cái tâm dường như lạnh lùng của bồ tát, cũng tương tự như vị sa môn và người thợ săn vậy, tâu đại vương!

– Qua hai câu chuyện kể của đại đức, trẫm thấy nó có lý được một vài phần.

– Còn nữa, tâu đại vương! Ví như đại vương làm vua một nước, hôm nọ, đại vương muốn làm một công trình dẫn thủy nhập điền vĩ đại; sẽ có lợi ích rất lớn cho nông nghiệp, có thể đem đến hạnh phúc ấm no cho cả nước. Đại vương bèn ra một thông cáo rộng rãi là muôn dân phải đóng thuế bằng tiền, bằng lúa gạo hoặc bằng nhân công. Nếu ai không nộp sẽ bị trói, đánh đập hoặc bị giam cầm v.v… lệnh ban ra, mọi người rất sợ hãi, ai cũng than khổ, than không có tiền, than không có lúa gạo! Người không nộp thì bị đánh đập, bị bắt, bị trói, bị giam cầm… lời ta thán của muôn dân kể sao cho xiết!

Tuy nhiên, đại vương vẫn lạnh lùng, cương quyết làm công trình thủy lợi, dẫu trải qua biết bao gian lao, vất vả; lại còn bị hàm oan, bị nhân dân lên án là khắc nghiệt, là bạo chúa v.v…

Sau khi công trình làm xong, muôn dân hoan hỷ, sung sướng; từ rày về sau, ruộng đồng khỏi lo thiếu nước, lúa ngập khỏi lo úng nước v.v… Nông dân được mùa, mở hội ăn mừng!

Tâu, đại vương! Ví như đại vương làm việc ấy, đại vương quả thật là người không có trái tim, không xúc động trước sự ta thán của muôn dân, bá tánh nhỉ?

Đức vua Mi-lan-đà mỉm cười:

– Chính cái kết quả sau cùng đã biện hộ giùm cho trái tim của trẫm rồi!

– Hay lắm – Đại đức Na tiên cũng mỉm cười. Chính kết quả sau cùng sẽ biện hộ giùm cho trái tim của bồ tát Vessantara, tâu đại vương!

– Thú thật với đại đức, câu chuyện kể của đại đức, mặc dầu là ví dụ, nhưng sao nó giống với vài công việc lớn mà trẫm thường làm cho quốc độ này. Ban đầu, vì không hiểu nên bá tánh rất ta thán, nhưng sau đó họ ca tụng không hết lời. Còn riêng phần trẫm, trẫm rất mãn nguyện. Kết quả mai sau, kiếp sau ra sao, trẫm cũng không biết nữa.

– Đều là phước báu trời, người rất vi diệu đấy, tâu đại vương!

– Thế giả dụ nhân dân đóng thuế rất sung mãn, trẫm lấy số tiền ấy mua vải cóc, lương thực, thực phẩm – để cúng dường, bố thí đến cho thập phương sa môn, bà-la-môn, đạo sĩ, những người bần cùng đói khổ – thì có được phước báu không đại đức?

– Vẫn được rất nhiều phước báu, tâu đại vương! Thế đại vương còn hoài nghi gì về việc bố thí hai trẻ của bồ-tát Vessantara nữa chăng?

-Vẫn còn hoài nghi, đại đức! Việc làm của trẫm về dẫn thuỷ nhập điền, bố thí, cúng dường mà lấy tiền thuế – mới nghe thì từa tựa như chuyện bồ-tát bố thí hai trẻ: một bên thì bá tánh kêu than, một bên thì hai trẻ la khóc. Nhưng dù sao hai trẻ là con ruột của mình, đem cho đi thì hơi quá. Bố thí hai trẻ là việc làm quá trớn, quá đà, như quả cân nghiêng hẳn về một bên! Một bên là khối đá trơ lì, nặng nề, bên kia là trái tim nhẹ hẫng. Phước báu sau này thế nào không ai biết, nhưng chắc chắn thế gian thường tình không ai khen ngợi đâu, họ chê trách thậm tệ là dĩ nhiên vậy.

– Đại vương cứ nói nữa đi!

– Vâng! Đại đức hãy xem! Cái gì quá trớn, quá đà đều không tốt cả.

Cái xe chở nặng quá sức mình, trục, căm sẽ gãy.
Ăn vật thực quá nhiều, trúng thực mà chết!
Thuốc bổ quá liều, thành độc dược.
Mưa quá nhiều, lúa ngập chết.

Người bố thí với hằng tâm, hằng sản… nhưng thỉnh thoảng cũng phải biết tính toán, xem lại sự chi tiêu, xem lại gia sản – nếu không, sẽ khánh tận.

Nắng quá gắt, quá nhiều, quả đất sẽ nứt nẻ.
Người có lòng tham ái, tham dục qúa nhiều, có thể đưa đến điên loạn.
Tham lam của cải, bạc tiền nhiều sẽ dẫn đến trộm cắp, cướp của, giết người.
Người ham nói, nói nhiều, dễ bị lỗi lầm.
Lũ lớn quá sẽ vỡ bờ.
Người học nhiều quá dễ loạn tâm, loạn trí.
Người dũng cảm quá thì yểu thọ v.v…

Thưa đại đức! Quá trớn, quá đà… đều đưa đến kết quả xấu, bố thí hai trẻ cũng là cái gì nằm trong định luật tất yếu ấy.

– Tâu đại vương! Cái gì quá trớn, quá đà, quá nhiều như đại vương kể thì chẳng đem đến kết quả tốt đẹp. Nhưng cũng có những cái quá nhiều, quá mạnh, quá to lớn… chúng không nằm trong “định luật tất yếu” của đại vương thì sao?

– Xin cho nghe!

– Tâu, vâng! Ví dụ như:

Người thắng cuộc cuối cùng qua các trận đô vật, được mọi người tán thưởng, chắn hẳn là tay đô vật mạnh nhất.
Quả đất to lớn, vĩ đại – nhờ vậy, nó là nơi nương tựa, che chở, nơi sinh sống cho con người, muôn thú, cỏ cây!
Hư không vĩ đại quá, nhờ vậy, nó mới bao dung được quả đất, trăng sao!
Sư tử uy dũng quá nó mới làm chúa sơn lâm!
Ngọc ma ni quý báu quá nó mới đứng đầu trân châu thất bảo, thành tựu được ước muốn của con người.
Đức vua cao sang và thắng phước nên đứng đầu cả trăm họ, muôn dân!
Kim cương cứng rắn quá, vật gì nó cũng cứa đứt được.
Tỳ khưu giới đức cao thượng quá nên dạ xoa a-tu-la đều phải quỳ mọp dưới chân.
Đức Phật tối thượng quá nên tam giới không có ai sánh bằng…

Đại vương, tương tự như thế, việc bố thí hai trẻ là việc khó làm, là chuyện quá hy hữu, quá vĩ đại, tạo nên năng lực quá lớn, quá mạnh – nên sẽ có phước đức rất thù thắng, rất vi diệu, chấn động cả mười ngàn thế giới, làm cho người, trời, Đế thích, phạm thiên, a-tu-la, long vương, dạ xoa v.v… không hết lời tán dương khen ngợi. Và việc bồ tát bố thí đặc thù, vô thượng ấy – quá đà, quá trớn ấy, chính là nhân duyên thành tựu quả vị Chánh Đẳng Giác đấy, tâu đại vương!

Đức vua Mi-lan-đà vô cùng thán phục:

– Trí tuệ của đại đức quả là vô biên, vô lượng. Những ví dụ của trẫm đưa ra dường như là đẩy đại đức đến chân tường; thế mà, cũng những ví dụ tương tự, đại đức lại tạo sức bật trở lại, làm cho trẫm không còn chỗ mà thối lui. Thật là khâm phục vậy.

Đại đức Mi-lan-đà khiêm tốn:

– Đại vương đừng làm cho bần tăng thêm hổ thẹn. Chính nhờ đại vương đã gợi ý cho bần tăng đấy thôi. Còn nữa, ý đại vương còn muốn xác định là bố thí không được quá trớn, quá trớn kết quả sẽ xấu. Bần tăng không nghĩ thế, tuy nhiên, vẫn có những giới hạn nhất định. Có những bố thí mà kết quả của nó sẽ là bốn đường ác đấy, tâu đại vương!

– Xin cho nghe.

– Tâu, vâng. Có mười trường hợp không nên bố thí như sau:

Một, cho người nữ đến người nam để thỏa mãn dâm dục.
Hai, cho bò cái đến bò đực.
Ba, cho rượu hoặc chất say.
Bốn, cho hình ảnh, hình vẽ khiêu dâm.
Năm, cho khí giới.

Sáu, cho thuốc độc.
Bảy, cho xiềng xích để người ta trói, giam cầm kẻ khác.

Tám, cho gà mái đến gà trống.
Chín, cho heo cái đến heo đực.
Mười, cho bàn tính sai, cân đo lường sai, để người ta lường gạt nhau!

Đấy là mười loại bố thí mà người trí thức không làm vì nó là chìa khóa mở cửa đi vào ác đạo. Còn các loại bố thí khác thì tùy sức, tùy nghi, phải thế không đại vương?

– Có lẽ vậy.

– Thế thì có ấn định một ranh giới nào nữa trong việc bố thí không đại vương?

– Trẫm không rõ lắm.

– Ví dụ như cơm nước, y phục, chỗ ở, chiếu đệm, gường ghế, vườn ruộng, tôi trai, tớ gái, trâu bò, gà, vịt… đều có thể bố thí được chứ?

– Thưa, vâng.

– Ví dụ cho tài sản, của cải, bạc tiền, một trăm đồng tiền vàng, một ngàn đồng tiền vàng v.v… hẳn là được chứ?

– Thưa, vâng. Có quyền bố thí cả tay, chân, tim, óc… và luôn cả sanh mạng mình nữa, thưa đại đức – nếu biết trú tâm vô lượng!

Đại đức Na-tiên nói:

– Đại vương bảo bố thí cả tay, chân, tim, óc và luôn cả sanh mạng đều được – thì sao bồ tát Vessantara bố thí vợ, con – Đại vương lại bảo là quá đà, quá trớn, không được?

– Đại đức cứ nói.

– Một người cha nợ nần, vì quá nghèo khổ túng bấn, bèn cho con đi ở thuê hoặc bán con cho người khác – là chuyện thế gian cũng thường lắm mà!

– Vâng!

– Thế có ai chê trách họ không?

– Có chứ! Nhưng rồi người ta cũng thông cảm họ hoàn cảnh quá đói nghèo.

– Cũng thế, tâu đại vương. Đức bồ tát tầm cầu vô thượng bồ đề tuệ, vì đói ba-la-mật, vì nghèo phước báu – nên phải bố thí vợ, con, đại vương cũng phải biết “thông cảm hoàn cảnh” của ngài chứ?

– Thưa, có lẽ vậy. Nhưng theo ý trẫm, bố thí cá nhân mình vẫn tốt hơn. Bố thí mình thì khỏi làm đau khổ vợ con, vẫn là biện pháp hay nhất.

Đại đức Na tiên giải thích:

– Người ta xin vợ, xin con mà mình lại đem cho mình là việc không hợp lẽ. Xin vật này mà đem cho vật khác là không hợp lẽ. Nhưng nếu có người xin chính mình thì ngài cũng không tiếc đâu. Giả sử không phải người mà là sư tử, cọp, beo, chó rừng… muốn xin ngài để ăn thịt, thì ngài cũng cho ngay, không hề tiếc sanh mạng. Đại vương nên nhớ rằng, đức bồ tát là miếng thịt chung cho tất cả chúng sanh đó sao?

Ví như trăm loài cây trong rừng đến mùa thì đơm hoa trổ trái, rồi xanh, rồi chín vàng. Trái cây chín vàng ngon ngọt ấy hằng để tự do cho muông thú, muôn chim, người đến đấy hái ăn tha hồ. Cũng như thế ấy là tâm của đức bồ tát khi phát nguyện ba-la-mật, tâu đại vương!

Trải qua hai mươi bốn vị Phật tổ, trải qua bốn a-tăng -kỳ và gần một ức kiếp như thế, bồ tát tu tập ba-la-mật vô lượng như thế; đã từng xả ly, dứt bỏ vô lượng ngai vàng, công danh, phú quý, tài sản, lúa gạo, xe cộ ruộng vườn, tôi trai, tớ gái, vàng ngọc… đến cho tất cả chúng sanh. Ngài lại bố thí tay, chân, tim, gan, mắt… và luôn cả sanh mạng mình nữa. Ngài cương quyết dứt bỏ, bố thí vật ngoại thân, cho đến nội thể, sanh mạng… cũng chỉ vì một mục đích vô thượng, đánh đổi bồ đề tuệ, Chánh Đẳng Giác, tâu đại vương!

Ví như một vị quan tốt, thanh liêm, chánh trực, có tâm thương yêu dân. Vị ấy ở trong một triều đình có ông vua tàn bạo, sống đời xa hoa, phù phiếm. Dân chúng bị sưu cao, thuế nặng, đói khổ nhưng của cải, lương thực, vàng bạc của cung điện chất đầy như núi.

Cũng vì mục đích cứu khổ cho bao người, vị quan tốt kia bèn bán tất cả ruộng vườn, gia sản, tôi trai, tớ gái… để mua vải vóc, lương thực, vật thực… để chẩn bần, cứu đói cho chỗ này chỗ kia. Tiếng lành đồn xa, nhân dân ái mộ; họ lật đổ triều đình và suy cử vị quan tốt kia lên làm vua. Sau khi lên ngôi, vị tân quốc vương kia không tiếc của kho, đem phân phát hết cho dân, nhờ vậy, đời sống trong quốc độ thoát khỏi đói nghèo, dần dần cường thịnh.

Tâu đại vương! Việc làm của vị quan tốt kia cũng tương tự như việc làm của bồ tát Vessantara. Muốn cầu ngôi vị Chánh Đẳng Giác để cứu khổ cho chúng sanh ba cõi bốn loài thì ngài đâu có tiếc thứ gì? Đâu phải vì không thương vợ, xót con mà ngài bố thí vợ con? Chính Đức Thế Tôn, sau khi giác ngộ, ngài đã có nói một câu kệ với đại ý rằng:

Này các thầy tỳ kheo! Chính khi bố thí vợ con, không phải Như Lai không thương yêu vợ con. Hai trẻ Jàli và Kanhà thông minh và ngoan ngoãn hết mực, công chúa Maddì hiền thục, đức hạnh nhất trên trần hoàn. Có con như thế, có vợ như thế mà đem bố thí, ruột Như Lai cũng đứt từng khúc. Nhưng Như Lai phải hướng đến cái cao xa, cái rộng lớn hơn: đấy là ngôi vị Chánh Đẳng Giác, đấy là tình thương không bến bờ đối với tất cả chúng sanh!

Đại vương nên nhìn xa, thấy rộng, lặn vào chiều sâu thăm thẳm của câu chuyện hơn thế nữa!

– Vâng, vâng! Trẫm đang suy nghiệm đây, đại đức cứ tiếp tục câu chuyện đi!

– Tâu, vâng! Đại vương chớ nên lên án bồ tát dửng dưng, lạnh lùng. Đức bồ tát trước cảnh tượng đứt ruột ấy, đã âm thầm chiến đấu với chính mình. Ngài nuốt sự nhẫn nại ấy, sự chịu đựng ấy, lửa đốt ấy vào bên trong, nên sóng lòng trào sôi dữ dội – Đại vương đâu có biết. Chính khi bồ tát bước vào thảo am, khép cửa lại, là nhằm ngăn bớt tiếng kêu khóc của hai con từ núi rừng xa xôi vọng đến. Ngài đã không chịu nổi, muốn bịt hai tai lại. Nỗi ‘căm hận” lão bà-la-môn ác độc làm cho toàn thân ngài run lên, máu dồn dập, ngài phải thở bằng miệng, nước mắt tuôn tràn. Ồ! Không phải là nước mắt nữa mà chính là lệ máu rỉ ra vì xót thương hai con. Ngay khi ấy, một niệm sân khởi lên, một niệm sát khởi lên đối với lão bà-la-môn; nhưng bồ tát đã kịp thời xả ly, niệm tâm từ mát mẻ, một hồi lâu sau mới trấn tỉnh lại được!

Đại vương thấy đó. Đại vương thấy rằng, lòng xót thương hai trẻ của bồ tát đâu khác gì thế gian, đồng thời còn hơn cả thế gian nữa. Tại sao vậy? Vì khi bố thí dứt được hai trẻ thì chí nguyện của ngài sẽ thành tựu, đồng thời hai trẻ sẽ được sung sướng và hạnh phúc hơn. Một việc làm mà thành tựu hai lợi ích, đại vương có biết chăng?

– Đại đức hãy giảng giải thêm. Cái lợi ích thứ nhất, tức là thành tựu bố thí ba-la-mật thì trẫm rõ rồi; nhưng còn lợi ích thứ hai: sự sung sướng và hạnh phúc của hai trẻ, trẫm hồ nghi lắm! Cho con để làm tôi tớ mà gọi là sung sướng, hạnh phúc ư?

– Tâu đại vương! Hai trẻ vốn là cành vàng lá ngọc, ở trên nhung lụa thế mà phải sống đời ăn trái chua, củ sống, hẳn là rất khổ sở vậy. Do có thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, bồ tát biết rõ số phận tương lai của hai đứa trẻ. Thứ nhất là hai trẻ không thể làm tôi đòi hầu hạ ai. Thứ hai, rồi hai trẻ sẽ được gặp lại thái thượng phụ ở kinh thành, sẽ thóat khỏi cảnh đói khổ ở rừng sâu!

– Có thật thế không, đại đức?

– Thật ra, bồ tát còn biết nhiều hơn thế nữa. Ngài biết rằng rồi “ông nội” sẽ chuộc lại hai trẻ. Ngài biết rằng, vì lý do hai trẻ về kinh đô nên vua cha sẽ thỉnh ngài về để kế vị ngôi vương. Đó là cơ hội tốt để ngài lo cho hạnh phúc muôn dân, đồng thời bổ túc ba-la-mật cho mình. Ngài còn biết rằng, lão bà-la-môn tuổi thọ không còn được bao lăm, phước duyên ít, kiếp phận hèn hạ chẳng thể nào bắt hai trẻ làm tôi tớ, dù chỉ một ngày, tâu đại vương!

– Thưa, các việc trên là có thể, nhưng việc dưới, việc bồ tát biết lão bà-la-môn vì phước duyên ít, chẳng thể bắt hai trẻ làm tôi tớ dù chỉ một ngày, là sao ạ? Lấy gì làm bằng chứng?

– Tâu đại vương! Bằng chứng về lãnh vực này thì bần tăng đành chịu. Tuy nhiên bần tăng sẽ đưa ra ở đây rất nhiều ví dụ xoay quanh vấn đề ấy. Và có lẽ từ những ví dụ ấy đại vương sẽ tự giải đáp thắc mắc cho mình chăng?

– Trẫm đồng ý!

– Tâu, ví dụ như mặt trời, mặt trăng, nó to lớn, vĩ đại, nhiều oai lực; vậy ai trên thế gian này có khả năng lấy mặt trời, mặt trăng ấy đặt vào rương, vào thùng để làm đèn chiếu sáng không?

– Chẳng thể được đâu, đại đức!

– Lại nữa, ví như viên ngọc ma ni quí báu của đức Chuyển luân Thánh vương, rất to lớn, hào quang chói lọi, chiếu sáng vô ngại cả hằng do tuần; có người khởi tâm muốn ngăn hết hào quang của ngọc ma ni, bèn lấy một tấm vải bọc lại, hy vọng rằng làm như vậy ngọc ma ni sẽ không còn tỏa sáng nữa. Đại vương nghĩ thế nào, người kia có thể đạt được ước nguyện chăng?

– Thật không thể, đại đức! Ngọc ma ni vẫn tỏa sáng hào quang như thường!

– Còn nữa, ví như voi chúa Uposatha có màu trắng như tuyết, thanh khiết, cao sang; được trang điểm châu báu rực rỡ, có thân hình uy nghi to lớn dị thường. Là báu vật chỉ phát sanh đến cho các bậc chân mạng đế vương hoặc cho các vị có phước đức thù thắng. Có người nghèo khổ kia khởi tâm muốn bắt bạch tượng ấy về nuôi ở nhà mình. Kẻ kia có làm được việc ấy không, đại vương!

– Thật là một ý nghĩ cuồng vọng, được sao mà được, đại đức!

– Còn nữa, ví như rồng chúa Nandopananda có oai lực lớn, sức mạnh lớn, nó to lớn cho đến đổi có thể quấn bảy vòng quanh núi Sineru. Có người sắm một cái đãy, định bắt nhốt rồng chúa kia. Việc làm ấy là thế nào hả đại vương?

– Thưa, có lẽ hắn ta là người điên!

– Tâu, đại vương! Lão bà-la-môn đến xin hai trẻ để về làm tôi tớ cho mình là việc làm của người ngu, kẻ cuồng vọng, là người điên… Tương tự như muốn lấy mặt trời mặt trăng đặt vào thùng, lấy vải bọc ngọc ma ni mong ngăn ánh sáng, bắt voi chúa Uposatha, về nhà nuôi, bắt rồng chúa Nandopananda nhốt vào đãy! Đấy là những việc làm không thể. Lão bà-la-môn ngu hèn, thiếu phước kia chẳng thể bắt hai trẻ làm tôi tớ dù chỉ một ngày, tâu đại vương!

– Thưa, các ví dụ kia nêu bật là những việc làm bất khả, nhưng ý nghĩa cuối cùng trẫm vẫn chưa lãnh hội.

– Tâu, vâng! Dĩ nhiên Hy-mã-lạp-sơn là vua của muôn núi, cao năm trăm do tuần, dài rộng ba trăm do tuần, tổng cộng có tám vạn bốn ngàn đỉnh cao. Nó cao đến chót vót tầng mây, là nơi rót đầy năm con sông lớn, hằng trăm ngàn, hàng ức triệu cây cối, thảo mộc, muôn thú… nương tựa để sinh sống…! Đại vương! đại vương nghĩ như thế nào, nếu phước đức của hai trẻ được tu tạo ba-la-mật từ vô lượng kiếp, khả dĩ làm con của vị đại bồ tát có thể được ví như Hy-mã-lạp-sơn kia?

– Điều này thì có thể hình dung được. Phước đức của hai trẻ, nếu chất chồng lại thì Hy-mã-lạp-sơn nọ còn nhỏ bé lắm, thưa đại đức?

– Vậy là rõ. Phước đức của hai trẻ vĩ đại như thế thì có thể nào làm thân tội mọi cho lão bà-la-môn nghèo hèn, hạ liệt, ít phước kia chứ?

– Nghe thì hữu lý nhưng vẫn chưa thuyết phục được trẫm, thưa đại đức.

– Thật ra, những ví dụ của bần tăng đại vương đã hiểu. Đại vương đã hiểu rằng, người hạ liệt, thiếu phước chẳng thể nào sử dụng những báu vật chỉ để dành cho người có phước đức thù thắng. Tuy nhiên, đại vương cố ý hỏi là hỏi cho phần đông – thì bần tăng nào dám không tuân!

Tâu đại vương! Từ khi bồ tát Vessantara bố thí bạc vàng, của cải, vải vóc, lương thực, voi thần, xe ngựa, tôi trai, tớ gái… thì danh tiếng và uy đức của ngài đã lan xa nhiều quốc độ. Chẳng những lan xa nhiều quốc độ mà còn vang động đến cõi trời Đế thích, phạm thiên, lan tỏa đến các cõi a -tu-la, càn-thát-bà, dạ xoa, long vương, cẩn-đà-la v.v… Tất thảy trời người và chúng sanh hữu tình ba cõi không ai là không biết. Vợ và hai con của bồ tát đi theo sống giữa rừng thiêng nước độc làm đau xót cả hằng vạn trái tim cũng không ai là không biết.

Lửa cháy trên một ngọn núi cao trong một đêm tối trời, người ở rất xa vẫn nhìn thấy thì hai trẻ đi theo cha cũng như thế.

Cây Long Hoa ở núi Hy-mã-lạp mỗi lần trổ hoa, hương thơm lan xa xung quanh, các hướng, xa đến mười hai do tuần – hương thơm và danh tiếng của hai trẻ cũng y như thế.

Cọng với phước đức hai trẻ là con vua cháu chúa, với danh tiếng lững lẫy như thế, lão bà-la-môn bắt hai trẻ làm tôi tớ cho mình được chăng?

Lại nữa, đây là quyết định, là lời giải đáp sau cùng, có tính thuyết phục nhất, đấy là bồ tát biết rõ là “ông nội” sẽ chuộc cháu cưng của mình, nên trước khi đi, bồ tát đã căn dặn trẻ Jàli: “Này con, về thành, cha biết là ông nội sẽ chuộc hai con. Khi ông nội hỏi giá cả tiền chuộc, chính con phải trả lời; con trai là một ngàn lượng vàng, con gái không những một ngàn lượng vàng – mà còn tôi trai, tớ gái ngựa xe, trâu, bò… mỗi thứ mỗi một trăm nữa“.

Và sự việc sau đó xảy ra y như thế. Lão bà-la-môn dẫn hai trẻ về nhà, khi nghe đến thân thế hai trẻ, cô vợ trẻ của lão bà-la-môn hoảng sợ, bắt lão dẫn hai trẻ trả lại cho triều đình.

Lão bà-la-môn được phần thưởng trọng hậu, ở trong một tòa lâu đài bảy tầng với tôi trai, tớ gái, ngựa, xe, trâu, bò, mỗi thứ một trăm. Nhưng y sống được bao lâu? Tâu đại vương, chỉ ngày đầu tiên thôi, y ăn một bụng no, trúng thực và chết. Tài sản được niêm phong, triều đình gọi quyến thuộc đến nhận, nhưng chẳng có một ai. Người vợ của lão ta, sau đó cũng không tìm thấy. Rốt laị, tài sản được sung vào quốc khố!

Điều ấy chứng tỏ gì, đại vương?

Chứng tỏ người thiếu phước không thể sử dụng phần phước quá với phước đức của mình!

Tóm lại, bố thí vợ và hai trẻ là giọt nước cuối cùng làm thành tựu công hạnh ba-la-mật; chấm dứt cuộc lưu đày mười hai năm, vợ và hai con trở lại đoàn tụ trong một quốc độ thịnh trị, hùng cường; bồ tát tiếp tục sứ mạng bồ đề vô thượng. Nhân là vậy, sau trước viên dung! Đại vương còn mối nghi ngờ nào về chuyện bố thí vợ và hai con của bồ tát Vessantara nữa chăng?

– Hoàn toàn không! Tuyệt đối không! Cảm ơn đại đức vô cùng. Đại đức đừng có để tâm đến những câu hỏi khúc mắc của trẫm nhé. Trẫm cũng chỉ vì mình và mọi người đấy thôi!

– Tâu, vâng. Bần tăng hiểu.

* * *

164. Chư Phật quá khứ có tu khổ hạnh không?

– Thưa đại đức! Đức Phật Thích Ca hành khổ hạnh sáu năm, thế các vị Phật quá khứ có trải qua giai đoạn khổ hạnh như vậy chăng?

– Có vị có, có vị không – tâu đại vương!

– Sao kỳ vậy? Hay chư Phật có ý kiến bất đồng, tâm và tuệ bất đồng?

– Tâu, quả có sự giống nhau và có sự khác nhau, nhưng cái đồng, cái dị ấy không như đại vương nghĩ đâu!

– Xin cho trẫm nghe điều đó.

– Tâu, đây là năm điểm khác nhau:

Điểm thứ nhất, khác do chọn dòng họ giáng sanh: vị thì sanh vào dòng bà-la-môn, vị thì sanh vào dòng vua chúa.

Điểm thứ hai, khác do thời gian hành ba-la-mật: vị hành ba-la-mật mười sáu a-tăng-kỳ cọng một ức kiếp; có vị thì tám a-tăng-kỳ cọng một ức kiếp; có vị bốn a-tăng-kỳ cọng một ức kiếp.

Điểm thứ ba, khác do tuổi thọ: có vị tuổi thọ ít, giống như Đức Phật Thích Ca; có vị tuổi thọ hơn thế nhiều.

Điểm thứ tư, khác do hình thể: có vị sắc thân nhỏ, có vị sắc thân rất cao lớn.

Điểm thứ năm, khác nhau do khổ hạnh: có vị hành, có vị không hành.

Tâu đại vương, đấy là năm điểm khác nhau của tất cả chư Phật; nhưng khi giác ngộ thành bậc Chánh Biến Tri rồi thì quí ngài lại có những điểm giống nhau như: giác ngộ, thiền chứng, giới định tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, thập lực tuệ, mười bốn Phật tuệ, mười tám Phật pháp v.v…

– Đại đức giảng điều giống, điều khác của chư Phật như thế là rất hay, nhưng để làm gì? Có giải thích được tại sao đức Bổn Sư của chúng ta phải hành khổ hạnh đâu?

– Tâu đại vương! Có vị Phật, ba-la-mật già dặn rồi mới xuất gia còn Bồ-tát Gotama của chúng ta, khi xuất gia, ba-la-mật chưa viên dung, phải cần khổ hạnh sáu năm thì ba-la-mật và trí tuệ mới đầy đủ.

– Tại sao ba-la-mật chưa viên dung và trí tuệ chưa đầy đủ, mong đại đức giảng cho nghe điều ấy.

– Tâu, vâng. Sở dĩ như vậy là vì “tuệ nhàm chán” chưa chín muồi, phải vượt qua sự cám dỗ của ma vương, và biết dựa theo truyền thống tín ngưỡng đương thời.

– Xin cho nghe rõ ba lý do ấy?

– Đại vương nên nhớ rằng, bồ tát thành lập gia thất vào năm mười sáu tuổi, đến năm hai mươi chín tuổi mới xuất gia. Suốt mười ba năm sống trong nhung lụa, với vợ đẹp, hầu xinh, món ngon, vật lạ, tiệc tùng, xướng hát… Bồ tát không đắm say sao? Nếu không đắm say thì Bồ tát đã tìm cách thoát khỏi “ngục vàng” lâu rồi! Như thế thì ở trong bồ tát có những loại trí tuệ như “trí tuệ xuất ly“, “trí tuệ nhàm chán” chưa phát sanh. Phải đợi đến khi trẻ Ràhula ra đời, đêm ấy cũng là đêm mà bồ tát mới chợt thấy: “cung nga thể nữ nằm ngủ ngỗn ngang, xiêm y lộ liễu, nước dải, nước miếng chảy ra, người mớ, người ngáy… như phơi bày ra đấy tất cả các sự thật bất tịnh của con người…” Nhờ thấy rõ như thế, “tuệ nhàm chán” mới phát sanh nơi bồ tát. “Tuệ nhàm chán” phát sanh, đồng thời, “tuệ xuất ly” phát sanh… Thế rồi, bồ tát mới cương quyết trốn đi xuất gia. Điều ấy chứng tỏ gì? Chứng tỏ ba-la-mật của bồ tát chưa viên dung và trí tuệ chưa đầy đủ, cần phải bổ sung thêm, tâu đại vương!

– Hay lắm, rõ ràng lắm. Vậy cho trẫm nghe thêm điều thứ hai.

– Tâu, vâng! Thật ra, suốt mười ba năm sống trong đời sống ngũ dục, bồ tát đã bị sự quyến rũ của ngũ dục ma vương rồi. Chí xuất ly, tuệ xuất ly, xuất gia phát sanh thì bồ tát đụng đầu ngay với một loại ma vương khác, ấy là chư thiên ma vương!

– Xin cho nghe.

– Khi bồ tát vừa ra khỏi thành, chư thiên ma vương đã biết rõ; và càng biết rõ là thời gian sau, bồ tát sẽ đắc quả Chánh Giác, sẽ thoát khỏi quyền lực của ma vương; cũng có nghĩa là vô lượng chúng sanh sẽ giác ngộ đạo quả, sẽ cắt đứt lưới nô lệ, buộc ràng mà ma vương đã giăng bẫy cùng khắp. Vì thế, đại ma vương hiện thân lơ lửng trước mặt bồ tát, dụ dỗ rằng: “Này ông Sĩ-đạt-ta! sao ông ngu dại từ bỏ vương vị, vợ đẹp, con thơ? Tại sao lại điên cuồng đâm đầu vào cái khổ, sống đời xuất gia không cửa, không nhà, thiếu cơm, thiếu áo? Ông có biết không? Chỉ bảy ngày nữa thôi, oai đức và uy lực của ông sẽ bao trùm bốn châu thiên hạ. Chỉ bảy ngày nữa thôi, ông sẽ trở thành đức Chuyển luân Thánh vương vĩ đại nhất từ xưa tới nay. Xe báu “thiên ngọc luân” có ngọc thạch mắt mèo, có vành có trục đẹp tựa mặt trăng, từ giữa hư không hiện ra, đón ông lên vương vị chí tôn. Ông sẽ cai trị một vương quốc mênh mông gồm cả bốn châu lớn, mỗi châu như thế gồm có hai ngàn châu nhỏ. Con ông cũng có sắc thân xinh đẹp, tướng mạo khôi vĩ, trí tuệ tuyệt vời; có khả năng thay ông mà coi sóc vương quốc. Ông còn đòi gì nữa. Chỉ bảy ngày nữa là mọi phước báu vinh quang thù thắng sẽ đến với ông. Xuất gia gì cho khổ!

– Đúng là lời quyến rũ khó chối từ! Thế rồi bồ tát của chúng ta trả lời ra sao?

– Tâu đại vương! Lúc ấy trí tuệ xuất ly đã phát sanh nơi bồ tát rồi thì có sự quyến rũ nào lọt vào tai được đâu? Trái lại, lời quyến rũ ấy giống như người cầm mũi

giáo bằng sắt cháy đỏ bị nó nung đốt suốt ngày đêm. Thế mà đã thôi đâu, lại còn có hai người đứng hai bên, cầm hai mũi giáo đâm vào hai bên lỗ tai trái và phải nữa. Chính bồ tát đã cảm nhận tương tợ thế khi lời quyến rũ của chư thiên ma vương lọt vào lỗ tai. Bằng không vậy thì như đống lửa lớn cháy đỏ rực đang thiêu đốt thân tâm, lại còn có kẻ dồn thêm từng đống, từng núi rác khô, bổi khô vào đấy nữa. Tâm bồ tát quả thật là đã chán ngấy, không còn chịu nỗi lời đường mật trở lại thế gian này, dù là vương vị chí tôn.

Còn nữa, thân tâm bồ tát lúc ấy tựa như mặt đất nhàm chán những trận mưa lấm láp dơ bẩn; lại còn chịu thêm một cơn mưa lớn liên miên đổ xuống bùn dơ, xú uế nữa. Trí tuệ nhàm chán và trí tuệ xuất ly nhờ vậy mà được củng cố thêm, tăng trưởng thêm.

Đức vua Mi-lan-đà gật đầu, sau đó chợt hỏi:

– Tuy nhiên, chỉ còn bảy ngày nữa thôi mà! Chỉ bảy ngày sau là “thiên ngọc luân” ngọc thạch mắt mèo, có vành có trục đẹp tựa mặt trăng, từ hư không hiện đến, thỉnh bồ tát lên làm Thánh vương! Sao Bồ tát không nán lại bảy hôm, chỉ bảy hôm thôi, xem thử thế nào cũng không muộn mà!

– Tâu đại vương! Mũi tên đã bật khỏi dây cung rồi, không thể quay trở lại, tương tự thế, trí tuệ nhàm chán và trí tuệ xuất ly đã phát sanh rồi thì bồ tát cũng sẽ không bao giờ quay lại thế gian. Chính sự quay lại mới là chuyện ngược đời!

– Xin cho nghe?

– Ví như nước tràn hồ, chảy ra sông, xuống biển. Vậy có khi nào nước từ biển cả chảy về sông rồi đổ lại vào hồ không, đại vương?

– Thật không thể.

– Bồ tát về lại cuộc đời cũng không thể như thế, tâu đại vương!

Đức vua Mi-lan-đà lắc đầu:

– Đại đức lấy một ví dụ không thể có để so sánh với tâm cương quyết, bất thổi chuyển của bồ tát, có vẻ áp đặt, kết luận, thật không thuyết phục chút nào!

– Không áp đặt kết luận đâu, đại vương! Tại sao vậy? Vì bồ tát tu tập công hạnh ba-la-mật suốt bốn a tăng kỳ và gần một trăm ngàn kiếp rồi. Ba-la-mật ấy dẫu chưa viên dung tròn đủ – nhưng sức mạnh ẩn tiềm của nó mang một năng lực thật khủng khiếp. Kiếp sống chuyển tiếp của bồ tát từ cung trời Tusita, qua kiếp sống làm thái tử Sĩ-đạt-ta, đến năm hăm chín tuổi, là giai đoạn mà ba-la-mật ấy đang ẩn tiềm, chưa mở cửa để lộ diện. Hình ảnh cung nga diêm dúa, hở hang, nước dải, nước nhớt, mồ hôi nồng nặc… lồ lộ phơi bày bất tịnh… làm rung động kho tàng năng lực cũ, tạo ra một ba động đánh thức năng lực ba-la-mật ngủ ngầm kia! Đại vương, đại vương nghĩ thế nào, khi năng lực ba-la-mật được tích tụ từ bốn a-tăng-kỳ và gần một trăm ngàn kiếp ấy đột nhiên được mở tung?

– Dĩ nhiên sẽ tạo nên một sức bật khủng khiếp.

– Nó có thể dừng lại được chăng?

– Không thể.

– Trí tuệ nhàm chán và trí tuệ xuất ly, được tiếp sức bởi năng lực ba-la-mật được tích tụ bốn a-tăng-kỳ và một trăm ngàn kiếp ấy, đã tạo cho bồ tát một sức bật khủng khiếp, một chí nguyện bất thối chẳng thể nào dừng lại được, dù là quả vị Chuyển luân Thánh vương, tâu đại vương!

– Cách diễn đạt có hình tượng, cụ thể ấy thật là quá hay!

– Với tâm bồ đề bất thối chuyển ấy – thì quả đất này dẫu có sụp đổ, trí tuệ xuất ly của bồ tát có vì vậy mà lung lay không đại vương?

– Không có nghĩa lý gì!

– Hằng trăm ngọn núi chớn chở cao tít tận mây xanh, đổ ập xuống, có đè bẹp được chí nguyện kiên cường do trí tuệ xuất ly mà có, của bồ tát , được không, đại vương?

– Nhằm nhò gì!

– Biển cả chứa vô lượng nước, bị một mặt trời, hai mặt trời, ba mặt trời… thiêu đốt, bốc hơi, khô cạn… khô cạn cho đến khi đọng được trên dấu chân con bò;… thử hỏi, có đốt cháy khô cạn trí tuệ xuất ly của bồ tát không đại vương?

– Chẳng thể nào!

– Ví như núi chúa Tu-di bị bể tan thành từng triệu triệu mảnh vụn, tâm xuất gia của bồ tát có bị bể được không, đại vương?

– Cái tâm lúc ấy của bồ tát làm vỡ kim cương thì có!

– Ví như hư không kia bị thu nhỏ lại bằng bàn tay, cái chí vô thượng bồ đề tuệ của bồ tát có thu nhỏ lại được như thế không, đại vương?

– Không thể!

– Ví như mặt trời, mặt trăng và cả hằng vạn tinh tú trên bầu trời kia trong một lúc đều bị rụng hết, tuệ xuất trần của bồ tát có vì vậy mà bị rơi theo không, đại vương?

– Thưa đại đức! Thế là đã rõ rồi! Tuệ xuất ly ấy là bất thối, bất khả chiến bại!

– Tâu, vâng! khi thoát ra khỏi “ngục vàng“, tìm đường xuất gia, do năng lực xuất ly đã được tạo trữ từ bốn a-tăng-kỳ và gần một trăm ngàn kiếp; bồ tát biết rằng sẽ còn vượt qua từng giai đoạn… cam go, gian nan, thử thách. Còn sáu năm nữa mới đạt thành quả vị Chánh Đẳng Giác, thì sáu năm ấy phải cắt đứt trọn vẹn tất cả mối buộc ràng từ vô thỉ, đã giam giữ bồ tát giữa cõi tử sanh luân hồi thống khổ.

– Những ràng buộc ấy là gì, đại đức?

– Tâu, ràng buộc ấy có mười, đó là: mẹ, cha, vợ, con, thân quyến, bạn, tài sản, lợi lộc, chức quyền và ngũ dục; mười ràng buộc ấy thuộc về lưu luyến, ái luyến, quyến niệm, dục niệm… hằng giam giữ chúng sanh không chịu buông tha đâu, đại vương!

– Thưa, trẫm đã thông rồi. Tất cả những cái gọi là ba-la-mật chưa viên dung, trí tuệ chưa đủ đầy, trẫm đã tỏ tường. Tuy nhiên, đại đức có nói rằng, sáu năm nữa bồ tát sẽ đạt thành Phật quả. Con số sáu năm ấy – sáu năm – là thời gian tất yếu để chín muồi công hạnh. Thế sao bồ tát không chờ sáu năm nữa hẳn ra đi?

Nếu sáu năm nữa mới xuất gia, sẽ có hai điều lợi: Thứ nhất là, trước sau gì thì trí tuệ vẫn đầy đủ; thứ hai là, khỏi mất công thời gian khổ hạnh sáu năm, mà sau này Đức Thế Tôn bảo là sáu năm lầm lạc!

Đại đức Na-tiên thấy câu hỏi hay, bèn tán thán:

– Hay lắm! ngón tay của đại vương đã chỉ thẳng vào cốt lõi của vấn đề. Bần tăng rất thú vị để cùng với đại vương đi nốt đoạn đường nạn vấn này!

– Rất vui lòng!

– Có những lý do mà ở tại vương vị không thể làm cho trí tuệ chín muồi được, tâu đại vương! Và chính nhờ sáu năm khổ hạnh lầm lạc ấy, bồ tát của chúng ta mới kiện toàn, viên dung được công hạnh, tâu đại vương!

– Xin cho nghe!

– Ở tại vương vị sáu năm là ở yên trong cạm bẫy của ma vương, là lý do thứ nhất. Không đi xuất gia ngay khi trí tuệ xuất ly đã khởi – thì sẽ bị thế gian chê bai, khinh miệt; họ sẽ ghép bồ tát vào một trong mười hạng người vô tích sự, thiếu phước… mà ai cũng khinh nhờn, thiếu tôn trọng…

– Cho trẫm nghe mười hạng người ấy?

– Tâu, vâng! Đó là:

Đàn bà góa…;
Người kém sức, mất sức, yếu đuối;
Người cô độc không có bạn bè, thân quyến;
Người ham ăn;
Người bệnh hoạn nặng;
Người có bạn ác;
Người nghèo hèn;
Người đói;
Người vô nghề nghiệp;
Người già nua.

– Tại sao thế gian này gán ghép đức bồ tát vào mười hạng người ấy?

– Thật ra, bồ tát tự phản vấn chính mình, tự ghép mình vào mười hạng người ấy nếu thiếu quyết tâm lên đường xuất gia. Tại sao vậy? Vì bồ tát nghĩ rằng, sống đời hưởng thụ ngũ dục năm này sang năm nọ thì tránh sao khỏi sự lười biếng dễ duôi? Sơn hào hải vị lúc nào cũng đầy đủ, thừa mứa… không sinh ham ăn mê ngủ cũng sinh bệnh tật, ốm đau! Cứ mãi hoài bên vợ đẹp, hầu xinh, tiệc tùng, đờn ca, xướng hát… thì có khác gì kẻ vô công rỗi nghề, ăn bám tài sản, vật thực của muôn dân bá tánh nghèo khổ? Nếu không dứt khoát con đường thì quyết tâm, nỗ lực, tinh cần… sẽ càng ngày càng bị thui chột, sẽ trở nên hèn nhược yếu đuối ngay!

Tâu đại vương! Những điều suy nghĩ của bồ tát như thế có tương ứng phần nào mười hạng người kể trên không?

– Rõ là cùng một “giuộc”!

– Chính thị!

Đức vua Mi-lan-đà chậm rãi:

– Thôi được rồi! Coi như cho qua chuyện ở lại vương vị đi, sang chuyện sáu năm khổ hạnh lầm lạc. Sao biết lầm lạc mà bồ tát cũng tình nguyện bước vào? Sao sáu năm khổ hạnh ấy là nhân cho trí tuệ chín muồi? Điều ấy khó đấy, đại đức có cần khất lại câu trả lời, đợi ngày hôm sau chăng?

– Không cần thiết, cảm ơn đại vương đã tỏ dạ quan hoài, bần tăng sẽ trả lời ngay đây!

– Tâu đại vương! Đại vương còn nhớ lý do khổ hạnh là phải biết “dựa vào truyền thống của tín ngưỡng đương thời mà chúng ta có đề cập ở phần trước không?

– Có nhớ!

– Và đại vương có biết rằng từ trí tuệ phàm nhân đã chín muồi, đã đầy đủ, đã viên dung, để bước sang Thánh tuệ, cần có bao nhiêu giai đoạn nữa không?

– Trẫm không rõ lắm đâu!

– Vậy thì đại vương hãy chú tâm nghe một lượt về tất cả những điều ấy.

– Thưa, vâng!

– Bồ tát phải hành khổ hạnh là vì truyền thống tín ngưỡng đương thời xem khổ hạnh là con đường tối thượng; khổ hạnh là phương pháp tu tập được thế gian tôn trọng, kính ngưỡng. Ai mà chưa tu khổ hạnh thì chưa được gọi là tu. Buổi đầu tiên xuất gia, bồ tát phải lựa chọn khổ hạnh, thứ nhất là vì muốn thử chí nguyện kiên cường, bất khuất của mình. Thứ hai, Đạo Phật có xuất hiện là cũng cho con người, là vì cuộc đời – nên không có lý do gì ngài lại phải đi ngược lại niềm tin và sự trọng vọng của thế gian! Vậy, đi theo con đường tinh tấn khổ hạnh như là cái gì tất yếu, phải chứng nghiệm, phải vượt qua!

– Có lý lắm, đại đức. Sau này khi hoằng pháp độ sanh, những kẻ ngoại đạo đã từng tu tập khổ hạnh đệ nhất, đệ nhị… tất phải khâm phục Đức Thế Tôn đã từng trải khổ hạnh tối thượng, đệ nhất cổ kim nữa kìa!

– Đúng thế!

– Vậy là thông suốt, thông suốt. Xin đại đức cho nghe thêm về chuyện sáu năm khổ hạnh là nguyên nhân cho trí tuệ chín muồi, cùng các giai đoạn từ phàm tuệ bước qua Thánh tuệ?

– Tâu, vâng!

Đại vương có biết rằng, ngay chính thiền định, định tâm, là cái mốc, là cái cơ bản, từ đó quán chiếu để phát sanh Thánh tuệ, phải chế ngự bao nhiêu trạng thái tâm trần luân, cấu uế chăng?

– Có biết, trẫm có biết nhưng không cách chi mà biết hết đâu.

– Vậy thì bần tăng xin làm con vẹt, đọc hầu cho đại vương nghe! Nó có hai mươi lăm pháp trầm luân, trở ngại sau đây:

Một, nóng giận, nóng nảy.
Hai, cừu oán, hận thù.
Ba, quên ơn, bạc nghĩa.
Bốn, tự cao, tự đại.
Năm, ganh tỵ, tật đố .

Sáu, bỏn xẻn, rít róng.
Bảy, xảo trá, phỉnh gạt.
Tám, khoe khoang, điệu bộ.
Chín, cứng đầu, ương ngạnh.
Mười, tranh tài, hiếu thắng.

Mười một, say đắm, sa ngã.
Mười hai, khinh người.
Mười ba, ngã chấp.
Mười bốn, dễ duôi, buông thả.
Mười lăm, hôn trầm, giải đãi.

Mười sáu, uể oải, lừ đừ.
Mười bảy, lười biếng, nhác nhớm.

Mười tám, yếu đuối, khiếp nhược.
Mười chín, thân cận bạn ác, bạn xấu.
Hai mươi, mê sắc, háo sắc.

Hai mươi mốt, đắm thanh.
Hai mươi hai, đắm hương.
Hai mươi ba, đắm vị.
Hai mươi bốn, đắm xúc.
Hai mươi lăm, đói cơm, khát nước.

Nếu có một trong hai mươi lăm trạng thái tâm trầm luân, cấu uế này thì khó mà trú định được, huống hồ là được Thánh tuệ, đắc được tuệ lậu tận.

– Vâng, trẫm nghe rõ rồi, giờ đại vương giải tỏa cho sự nghi nan sau cùng: tại sao lại nhờ sự khổ hạnh?

– Tâu đại vương! Trong sáu năm lầm lạc ấy, với sự đại tinh tấn khổ hạnh, Thánh tuệ vẫn không thấy phát sanh. Tất cả mười pháp ràng buộc dường như ngài đã cắt đứt hết rồi. Tất cả mọi loại thiền định ngài cũng đã tu tập hết rồi. Rà soát lại mười ba-la-mật thì không có ba-la-mật nào mà ngài còn khiếm khuyết!

Dường như càng nhịn thở, nhịn ăn, cho đến tuyệt thực, chấm dứt cả hơi thở thì cơ thể ngài càng suy yếu, có thể đưa đến chấm dứt mạng sống chứ không phải phát sanh tuệ giác!

Sau ngài nhớ lại, thuở còn ấu thơ, lúc bảy tuổi được bà nhủ mẫu ẵm bồng theo vua cha đi xem lễ hạ điền. Lúc ở dưới cội cây trâm, ngài đã dễ dàng trú định sơ thiền, quả thật không phải gắng sức quá lắm.

Chính nhờ tất cả những điều ấy, từng trải qua sáu năm, chiêm nghiệm tự thân, thực hành mọi phương pháp tu tập khó khăn; phàm tuệ nơi ngài mới quãng bác, thâm sâu, vi tế; nhờ vậy, khi ăn uống trở lại bình thường; ngài dễ dàng chứng quả vô lậu tận, tựu thành Thánh tuê, thấy rõ Tứ diệu đế, Vô sanh Niết bàn, tâu đại vương!

Đức vua xoa tay hoan hỷ nói:

– Làm phiền đại đức quá nhiều!

– Không có chi, tâu đại vương!