Kinh A Di Đà Yếu Giải

Kinh A Di Đà Yếu Giải

Trương Văn Chiến 18

Một pháp môn Tín, Nguyện, Trì danh này hoàn toàn thu được tất cả, và vượt lên trên tất cả các pháp môn. Về bề dọc thì giống với hết thảy các pháp môn, về bề ngang thì khác hẳn với các pháp môn.

Về bề dọc là đoạn trừ mê hoặc.

Về bề ngang là tùy theo người tu đoạn trừ được mê hoặc nhiều hay ít, mà chứng được quả vị nào, thì ở Tịnh độ, ở một cõi Đồng cư mà thấy được 3 cõi trên.

Kinh này là kinh “Không ai hỏi mà Phật tự nói ra” thì chẳng có ai có thể truyền bá được. Chỉ có Phật với Phật mơi thấu hết được Thực Tướng của mọi pháp, vậy kinh này chỉ có ở cảnh giới Phật, và chỉ có chư Phật mới có thể cùng nhau mà lưu thông cho nhau được mà thôi.

Đoạn văn kinh này chia làm 2 phần lớn

I- Phổ khuyến (khuyên tất cả nên tu)

II- Kết khuyến (kết lại khuyên tu)

I – PHỔ KHUYẾN:

Trong phần phổ khuyến có 3 đoạn:

1) Khuyến Tín lưu thông

2) Khuyến Nguyện lưu thông

3) Khuyến Hạnh lưu thông

1) KHUYẾN TÍN LƯU THÔNG

Trong đoạn khuyến Tín lưu thông, trước là chư Phật nêu cái tên kinh lên, sau là Phật Thích Ca thích nghĩa tên kinh (kinh này, theo bản dịch đời Đường thì có 10 phương. Nưng bản dịch này rút bớt đi, chỉ còn 6 đoạn nói về 6 phương thôi). Dưới đây là chư Phật trong 6 phương nêu tên bộ kinh này. 

KINH VĂN

Phương Đông:

Xá Lợi Phất, như ngã kim giả, tán thán A Di Đà Phật, bất khả tư nghị công đức chi lợi. Đông phương diệt hữu A Súc Bệ Phật, Tu Di Tướng Phật. Đại Tu Di Phật, Tu Di Quang Phật, Diệu Âm Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế giới, thuyết thành thật ngôn, nhữ đẳng chúng sinh, đương tín thị: Xưng tán bất khả tư nghị công đức, nhất thiết chư Phật sở hộ niệm kinh” 

NGHĨA
Xá Lợi Phất ơi, như ta ngày nay khen sự lợi ích về công đức của Phật A Di Đà chẳng xiết nghĩ bàn, thì bên phương Đông cũng có chư Phật: Phật A Súc Bệ, Phật Tu Di Tướng, Phật Đại Tu Di, Phật Tu Di Quang và Phật Diệu Âm, còn nhiều Phật khác như cát sông Hằng cũng như thế nữa, đều ở nước mình, và đều hiện ra, tướng lưỡi rộng dài, che khắp ba nghìn đại thiên thế giới, nói lời thành thật rằng: Chúng sinh, ngươi nên tin kinh này là một bản kinh “tán thán công đức, chẳng xiết nghĩ bàn, và được hết thảy chư Phật hộ niệm”.

Bốn chữ “Bất khả tư nghị” là chẳng khá nghĩ bàn. Giải thích lược qua có 5 ý nghĩa:

1) Người niệm Phật có thể vượt tắt ra ngoài tam giới ngay, chẳng phải đợi đến ngày đoạn trừ hết mê hoặc.

2) Cứ sinh sang Tây phương rồi là đã được lên đủ cả 4 cõi Tịnh độ, chẳng phải ngoi lên dần từng cõi một. (Ý này nghĩa là một người sinh sang Tây Phương là được thành Bồ Tát Bất Thối, và Nhất sinh Bổ Xứ ngay)

3) Cứ chuyên trì niệm danh hiệu Phật thôi, chẳng cần đến các pháp phương tiện nào khác, như là Thiền định và quán tưởng (ý nghĩa này có công đức lớn lao trong phép tu Tịnh độ)

4) Trong một tuần 7 ngày có thể thành công, chẳng cần đến nhiều kiếp, nhiều đời, nhiều năm, nhiều tháng.

5) Cứ trì niệm một danh hiệu Phật A Di Đà, tức là được chư Phật hộ niệm, chẳng khác gì người trì niệm danh hiệu của hết thảy chư Phật.

Năm ý nghĩa trên đều nhờ ở Nguyện lớn và Hạnh lớn của thầy ta mới được thành tựu như thế. Cho nên Phật Thích Ca nói rằng “Sự lợi ích về công đức của Phật A Di Đà chẳng khá nghĩ bàn”.

Lại còn ý nghĩa nữa là: Người tu hành cứ việc Tín, Nguyện. Trì danh sẽ thu nhiếp được hoàn toàn công đức của Phật A Di Đà làm thành công đức của mình. Cho nên cũng nói rằng “Đây là sự lợi ích về công đức của Phật A Di Đà chẳng khá nghĩ bàn” (Chỉ cậy sức mình mà tu hành được thì hiếm lắm)

Lại ở bài dưới Phật Thích Ca còn nói rằng “…công đức chẳng khá nghĩ bàn của chư Phật kia…và công đức của ta chẳng khá nghĩ bàn…” Thế là Phật kia và Phật Thích Ca cũng đều lấy công đức của Phật A Di Đà làm của mình vậy.

Chữ A Súc Bệ là tiếng Ấn Độ, dịch ra là Bất Động. nghĩa là không chuyển động.Mỗi vị Phật đều có vô lượng công đức, cho nên tùy cơ mà lập ra vô lượng danh hiệu. Có khi lấy nghĩa về nhân hoặc về quả, về tính, về tướng, về hạnh, về nguyện v.v…Tuy nói một phần mà trong vẫn đủ 4 phần lợi ích Tất đàn. Cứ tùy theo mỗi danh hiệu, là hiểu rõ ra một công đức, nhiều lắm, nói đến cả kiếp cũng không nói hết được.

Quãng hư không về phương đông, chẳng thể đi đến đâu là hết được, thì những thế giới ở đấy nhiều lắm, chẳng thể nói hết được. Những thế giới ở đấy chẳng thể nói hết được, thì chư Phật ở những thế giới ấy nhiều lắm, cũng chẳng thể kể ra hết được, mà phải tạm nói là nhiều như số cát sông Hằng mà thôi.

Các vị Phật nhiều như thế, vị nào cũng hiện ra tướng lưỡi rộng dài khuyên nên tin kinh này mà tu hạnh niệm Phật, thế mà chúng sanh vẫn chẳng chịu tin, vậy thì ngoan cố, u mê lắm lắm.

Người thường giữ được giới bất vọng ngữ trong 3 đời, khi sinh ra có tướng lưỡi rộng, dài, lè ra uốn lên tới mũi. Đức Phật của Tạng giáo giữ giới Bất vọng ngữ trong 3 đại a tăng kỳ kiếp, cho nên khi sanh ra lưỡi mỏng và rộng, dài, lè ra che kín mặt. Nay đức Phật đã triệt để chứng được pháp môn Tịnh độ này, cho nên lưỡi che khắp đại thiên thế giới để nêu rõ chánh lý pháp thân thực xứng hợp với chân thân là một sự “thực có” vậy.

Trong 6 đoạn văn nói về 6 phương, đoạn nào chư Phật cũng nêu ra cái tên kinh này, gọi là kinh “Xưng tán bất khả tư nghị công đức, nhất thiết chư Phật sở hộ niệm”, chính là cơ sở lưu thông truyền bá kinh này. Ngài pháp sư Cưu Ma La Thập thuận theo người ở đây ưa nói vắn tắt mà dịch tên kinh này là “ Kinh A Di Đà”, thật là khéo dịch, hợp với hạnh tu trì danh (kinh niệm Phật A Di Đà). Ngài pháp sư Trần Huyền Trang lại dịch là kinh “ Xưng tán Tịnh độ nhiếp thụ”. Lời văn tuy có tường tận hay sơ lược khác nhau, nhưng nghĩa chánh vẫn không thêm, bớt.

KINH VĂN

Phương Nam

Xá Lợi Phất, Nam phương thế giới, hữu Nhật Nguyệt Đăng Phật, Danh Văn Quang Phật, Đại Diệm Kiên Phật, Tu Di Đăng Phật, Vô Lượng Tinh Tiến Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên, đại thiên thế giới, thuyết thành thực ngôn: Nhữ đẳng chúng sinh đương tín thị:”Xưng tán bất khả tư ngị công đức, nhất thiết chư Phật, sở hộ niệm kinh”. 

NGHĨA
Xá Lợi Phất ơi, Thế giới phương Nam, cũng có chư Phật: Phật Nhật Nguyệt Đăng, Phật Danh Văn Quang, Phật Đại Diệm Kiên, Phật Tu Di Đăng, Phật Vô Lương Tinh Tiến, còn nhiều Phật khác, như cát sông Hằng, cũng như thế nữa. đều ở nước mình, và đều hiện ra, tướng lưỡi rộng dài, che khắp ba nghìn, đại thiên thế giới, nói lời thành thật, rằng chúng sinh, ngươi nên tin kinh này, là một bản kinh “tán thán công đức, chẳng thể nghĩ bàn, và được hết thảy, chư Phật hộ niệm”.

KINH VĂN

Phương Tây

Xá Lợi Phất, Tây phương thế giới, hữu Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Tướng Phật, Vô Lượng Tràng Phật, Đại Quang Phật, Đại Minh Phật, Bảo Tướng Phật, Tịnh Quang Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên, đại thiên thế giới, thuyết thành thực ngôn: Nhữ đẳng chúng sinh đương tín thị:”Xưng tán bất khả tư ngị công đức, nhất thiết chư Phật, sở hộ niệm kinh”.

NGHĨA
Xá Lợi Phất ơi, Thế giới phương Tây, cũng có chư Phật: Phật Vô Lượng Thọ, Phật Vô Lượng Tướng, Phật Vô Lượng Tràng, Phật Đại Quang, Phật Đại Minh, Phật Bảo Tướng, Phật Tịnh Quang, còn nhiều Phật khác, như cát sông Hằng, cũng như thế nữa. đều ở nước mình, và đều hiện ra, tướng lưỡi rộng dài, che khắp ba nghìn, đại thiên thế giới, nói lời thành thật, rằng chúng sinh, ngươi nên tin kinh này, là một bản kinh “tán thán công đức, chẳng thể nghĩ bàn, và được hết thảy, chư Phật hộ niệm”.

Đoạn này có Phật Vô Lượng Thọ là đồng danh với Phật A Di Đà. Trong mười phương, phương nào cũng có vô số chư Phật đồng danh với nhau. Như nếu muốn nói là Phật Vô Lượng Thọ đây chính là Phật A Di Đà cũng được, không sao. Vì ngài muốn độ chúng sanh mà ngài quay lại tán thán lời của đức Phật Thích Ca cũng được.

KINH VĂN

Phương Bắc

Xá Lợi Phất, Bắc phương thế giới, hữu Diệm Kiên Phật, Tối Thắng Âm Phật, Nam Trở Phật, Nhật Sinh Phật, Võng Minh Phật, Vô Lượng Tinh Tiến Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên, đại thiên thế giới, thuyết thành thực ngôn: Nhữ đẳng chúng sinh đương tín thị:”Xưng tán bất khả tư nghị công đức, nhất thiết chư Phật, sở hộ niệm kinh”.

NGHĨA

Xá Lợi Phất ơi, Thế giới phương Bắc, cũng có chư Phật: Phật Diệm Kiên, Phật Tối Thắng Âm, Phật Nam Trở, Phật Nhật Sinh, Phật Võng Minh, còn nhiều Phật khác, như cát sông Hằng, cũng như thế nữa. đều ở nước mình, và đều hiện ra, tướng lưỡi rộng dài, che khắp ba nghìn, đại thiên thế giới, nói lời thành thật, rằng chúng sinh, ngươi nên tin kinh này, là một bản kinh “tán thán công đức, chẳng thể nghĩ bàn, và được hết thảy, chư Phật hộ niệm”.

KINH VĂN

Phương Hạ

Xá Lợi Phất, Hạ phương thế giới, hữu Sư Tử Phật, Danh Văn Phật, Danh Quang Phật, Đạt Ma Phật, Pháp Tràng Phật, Trì Pháp Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên, đại thiên thế giới, thuyết thành thực ngôn: Nhữ đẳng chúng sinh đương tín thị:”Xưng tán bất khả tư ngị công đức, nhất thiết chư Phật, sở hộ niệm kinh”.

NGHĨA
Xá Lợi Phất ơi, Thế giới phương Hạ, cũng có chư Phật: Phật Sư Tử, Phật Danh Văn, Phật Danh Quang, Phật Đạt Ma, Phật Pháp Tràng, Phật Trì Pháp, còn nhiều Phật khác, như cát sông Hằng, cũng như thế nữa. đều ở nước mình, và đều hiện ra, tướng lưỡi rộng dài, che khắp ba nghìn, đại thiên thế giới, nói lời thành thật, rằng chúng sinh, ngươi nên tin kinh này, là một bản kinh “tán thán công đức, chẳng thể nghĩ bàn, và được hết thảy, chư Phật hộ niệm”.

Thế nào là hạ phương? Là cái phương ở bên dưới cõi đất của chúng ta đây, ngĩa là dưới cái vòng phong luân, thủy luân, kim luân của cõi đất này lại có các tầng trời cao nhất, như là cõi trời Phi phi tưởng v.v… và xuống mãi, xuống mãi còn có trùng trùng, điệp điệp vô cùng tận hằng hà sa số thế giới nữa. (thế là bên dưới cõi đất của chúng ta lại có vô số các ông trời ở đấy. Bên dưới cõi đất lại có ông trời, thật là một sự lạ. Chỉ kinh Phật mới nói thế, xưa nay chưa có đạo nào, kinh sách nào nói thế. Ý tưởng đó, người không có học Phật tin sao được. Thật là một sự khó tin trong muôn ngàn sự khó tin)

(Chúng ta nên nhớ kinh này đã có từ cách đây hàng ngàn năm. Lúc đó khoa học chưa khám phá ra vũ trụ, chưa biết rằng ngoài thế giới của chúng ta còn có vô số thế giới khác nữa.)

KINH VĂN
Phương Thượng

Xá Lợi Phất, Thượng phương thế giới, hữu Phạm Âm Phật, Tú Vương Phật, Hương Thượng Phật, Hương Quang Phật, Đại Diệm Kiên Phật, Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân Phật, Sa La Thụ Vương Phật, Bảo Hoa Đức Phật, Kiến Nhất Thiết Nghĩa Phật, Như Tu Di Sơn Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên, đại thiên thế giới, thuyết thành thực ngôn: Nhữ đẳng chúng sinh đương tín thị:”Xưng tán bất khả tư ngị công đức, nhất thiết chư Phật, sở hộ niệm kinh”.

NGHĨA
Xá Lợi Phất ơi, Thế giới phương Thượng, cũng có chư Phật: Phật Phạm Âm, Phật Tú Vương, Phật Hương Thượng, Phật Hương Quang, Phật Đại Diệm Kiên, Phật Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân, Phật Sa La Thụ Vương, Phật Bảo Hoa Đức, Phật Kiến Nhất Thiết Nghĩa, Phật Như Tu Di Sơn, còn nhiều Phật khác, như cát sông Hằng, cũng như thế nữa. đều ở nước mình, và đều hiện ra, tướng lưỡi rộng dài, che khắp ba nghìn, đại thiên thế giới, nói lời thành thật, rằng chúng sinh, ngươi nên tin kinh này, là một bản kinh “tán thán công đức, chẳng thể nghĩ bàn, và được hết thảy, chư Phật hộ niệm”.

Thế nào là phương thượng? là cái phương ở bên trên cõi đất này. Nghĩa là trên cõi đất chúng ta ở đây đã có các cõi trời cao nhất như là cõi trời Phi tưởng, phi phi tưởng xứ v.v… thế mà ở trên các tầng trời đó lại có các cõi đất khác, cũng có đủ các vòng kim luân, thủy luân, phong luân và tam giới v.v… lên mãi, lên mãi còn có trùng trùng, điệp điệp vô cùng tận hàng hà sa số thế giới nữa. (Thế là ở trên chỗ các ông trời ở lại có vô số cõi đất và người ở, thế có lạ không? Người không học Phật làm sao tin được, hiểu được? Mắt Phật soi thấu triệt đến thế là tuyệt đối, chỉ vì Phật đã dùng được triệt để Tâm Bồ Đề, Vô Thượng của Phật).

***

Hoặc có người hỏi: Trong các phương, phương nào cũng có Tịnh độ, cớ sao chỉ tán thán riêng Tịnh độ ở phương Tây?

Xin thưa: Ngài hỏi thế chẳng phải là câu hỏi không có ý nghĩa sao? Giả sử tôi tán thán Tịnh độ của Phật A Súc Bệ ở phương Đông thì ngài lại hỏi “Cớ gì chỉ tán thán riêng Tịnh Độ ở phương Đông? Câu hỏi thành ra luẩn quẩn, đùa chơi.

Lại có người hỏi: Thế sao không tưởng niệm cả mười phương pháp giới?

Xin thưa: vì có 3 nghĩa:

1) khiến cho người mới vào đạo dễ nhận được Bồ Đề tâm của mình

2) Vì bản nguyện của Phật A Di Đà hơn hết thảy.

3) Vì Phật A Di Đà với chúng sanh ở cõi này có duyên riêng.

Bởi vì phật độ chúng sanh và chúng sanh chịu sự giáo hóa của Phật, giữa quãng ấy có khó, có dễ, có thiển, có thâm tóm lại đều là duyên cả. Tại duyên là phải có nhiều ân đức vừa sâu vừa rộng (tức là bản nguyện hơn hết thảy) và phải có nhiều lối mở dạy cho người ta (là nêu cái tâm Bồ Đề cho người ta thấy rõ). Có thế mới đủ 4 lợi ích bố thí cho người ta:

1) khiến cho người ta vui mừng, tin sâu vào đạo (tức là lợi ích hoan hỷ)

2) Khiến cho người ta phải xúc động vì cái mầm thiện gieo từ kiếp trước (tức lợi ích sinh thiện)

3) Khiến cho ma chướng không thể cản được người ta nữa (tức là lợi ích phá ác)

4) Khiến cho người ta mở rộng được thể tánh Bồ Đề (tức là lợi ích nhập lý)

Chư Phật vốn là từ trong pháp thân của các ngài, hiển hiện ra hình tích lưu lại cho đời, cốt để kết lấy cái mầm duyên với đời, cho cả người thế gian và xuất thế gian hết thảy điều thần diệu chẳng khá nghĩ bàn. Các ngài tôn trọng giáo lý Đại thừa, đem tuyên dương vào hải hội (tức là vì cả thế giới). Các ngài lăn vào bể khổ (tức là vì nhơn loại đối trị tánh ác). Tâm nhân từ của các ngài khế hợp với tâm Thường Tịch Quang (tức đệ nhất nghĩa) vì thế mà vạn đức phải kính vâng các ngài, quần linh phải chầu cả về các ngài.

***

Ta nên biết mầm thành Phật phải nhờ duyên mới khởi lên được, duyên ấy tức là cả pháp giới, vậy thì một niệm tức là hết thảy niệm, một chúng sanh tức là hết thảy mọi chúng sanh, một hương, một hoa, một thanh, một sắc… cho đến một khi chịu sám hối, được thụ ký, được xoa đầu, được dắt tay v.v… khắp cả mười phương, suốt cả ba đời, không một chỗ nào, không một giây phút nào mà không lan tràn, dung hòa khắp cả làm một. Cho nên cái nhân tăng thượng duyên này được gọi là “Pháp giới duyên khởi”.

Đó chính là cái nghĩa “Biến duyên pháp giới” tức là tưởng niệm và kết duyên với cả mười phương pháp giới vậy.

Như thế, người tu ở ngôi thấp kém vẫn có thể quyết chí cầu sinh sống ở Tây phương được. Và người tu ở ngôi cao sâu, thì còn pháp giới nào nữa, mà phải bỏ Tây Phương mà mong cầu lấy một thế giói Hoa Tạng?

Nếu người nào bảo Tây Phương là quyền hóa, Hoa Tạng mới là Thực giáo. Tây phương là Tiểu thừa, Hoa Tạng mới là Đại thừa thì hoàn toàn sa đọa vào hạng chúng sanh mang cái thức tánh “Biến kế chấp”. Bởi vì chẳng hiểu thế nào là quyền, là thực, là Đại, là Tiểu, không hiểu rằng cả 4 giáo môn chỉ là đồng một thể mà không có tự tánh riêng biệt.

KINH VĂN

Xá Lợi Phất, Ư nhữ ý vân hà? hà cố danh vi “Nhất thiết chư Phật chi sở hộ niệm”

Xá Lợi Phất, nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân văn thị kinh thọ trì giả, cập văn chư Phật danh giả thị chư thiện nam tử, thiện nữ nhân giai vi nhất thiết chư Phật chi sở hộ niệm, giai đắc bất thoái chuyển ư A Nâu Đa La Tam Miệu Ta Bồ Đề; thị cố Xá Lợi Phất, nhữ đẳng giai đương tín thọ ngã ngữ cập chư Phật sở thuyết.

NGHĨA
Xá Lợi Phất ơi, ý ông thế nào? Sao gọi kinh này là kinh “Nhất thiết chư Phật hộ niệm”? Xá Lợi Phất này, nếu có thiện nam tử hay thiện nữ nhân nào nghe kinh này rồi, mà chịu nhớ lấy cả những danh hiệu chư Phật sáu phương. Nghe rồi nhớ lấy, thì thiện nam ấy, hay thiện nữ ấy đều được hết thảy chư Phật hộ niệm, và được tới cõi A nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, chẳng hề lui chuyển. Vì thế cho nên, ông Xá Lợi Phất, cùng các ông đây đều nên tin chịu lời ta và lời chư Phật đã nói.

Bộ kinh này chuyên nói về Tâm yếu vô thượng (tức là nói cái tâm trọng yếu hơn hết), những danh hiệu của chư Phật, hết thảy đều hiểu rõ muôn ngàn công đức, đầy đủ rốt ráo trên hết, cho nên người nào được nghe kinh này và danh hiệu chư Phật ở kinh này, đều được chư Phật hộ niệm. Lại người nghe kinh và thụ trì kinh tức là người chấp trì danh hiệu (người niệm Phật), bởi vì danh hiệu Phật A Di Đà bao giờ cũng được chư Phật hộ niệm.

Hoặc có người hỏi:Chỉ nghe danh hiệu của chư Phật mà chưa giữ được nghĩa kinh thì có được chư Phật hộ niệm lên ngôi bất thối chăng?

Thưa: Cái nghĩa nghe ở đây có phần Cuộc và phần Thông.

Về phần Cuộc thì như kinh Chiêm Sát nói: “Kẻ nào mang cái tâm tạp loạn nhơ bẩn, thì tuy có niệm danh hiệu của Ta, mà vẫn chẳng phải là đã được nghe danh hiệu của Ta. Vì tâm người ấy chưa quyết định Tin và Hiểu, thì chỉ được quả báo phúc thiện ở thế gian mà thôi. Chẳng được lợi ích màu nhiệm, sâu xa, rộng lớn.

Nếu người niệm Phật đã được đến chỗ “Nhất hạnh tam muội” (tức niệm Phật tam muội, hay là niệm Phật đến chỗ nhất tâm bất loạn) thì mới thành được cái Tâm có đức hạnh màu nhiệm rộng lớn, và được gọi là đã lên ngôi “Tương tự Vô Sinh Pháp Nhẫn”, có thế mới thật là người đã được nghe danh hiệu của chư Phật ở mười phương.

Vậy thời chữ nghe ở đoạn kinh này, cũng phải có cái nghĩa sâu xa như ở trong kinh Chiêm Sát. Cho nên cần phải nghe rồi, phải niệm Phật đến chỗ “Nhất tâm bất loạn” thì mới đáng là người đã được nghe danh hiệu của chư Phật, được chư Phật hộ niệm. Đó là nghĩa Cuộc.

Còn chữ nghe thuộc về phần Thông là: Tâm từ bi của chư Phật chẳng khá nghĩ bàn, công đức danh hiệu của chư Phật cũng chẳng khá nghĩ bàn. Cho nên người nào một khi nghe một danh hiệu Phật rồi, thì bất luận người ấy hữu tâm hay vô tâm, tin hay chẳng tin, đều đã thành ra cái mầm duyên tốt rồi. Huống chi Phật độ chúng sanh là bình đẳng, coi kẻ oán, người thân như nhau, không hề mỏi mệt. Miễn là được nghe danh hiệu Phật, tất là được Phật hộ niệm, còn nghi gì nữa?

Nhưng theo bộ Kim Cương tam luận nói, thì một vị Bồ Tát có căn đã chín rồi thì mới được Phật hộ niệm, tức là đã ở vào ngôi Địa Bồ Tát về Biệt Giáo, hay là ngôi Trụ Bồ Tát về Viên giáo; Bởi vì người nào cứ đúng sức mình mà tu (tự lực) tất phải tu vào bậc “Đồng sanh tánh” (là Phật Tánh) (tức là đã kiến tánh) rồi mới được Phật hộ niệm.

Còn như tu niệm Phật là lối tu nhờ vào sức người (tha lực) thì mau, cho nên lên ngôi “Tương tự Vô Sanh Pháp Nhẫn” cũng đã được Phật hộ niệm rồi. Và cả đến những người ở dưới ngôi Tương tự ấy cũng đều có cái nghĩa được Phật hộ niệm về phần Thông. Và xuống đến dưới nữa là hạng người chỉ một khi được nghe danh hiệu Phật thôi (Nhất văn Phật danh), Đối với “Đồng Thể Pháp Tánh” (pháp tánh, pháp thân, tâm Bồ Đề) của người ấy đã có một sức mạnh phát ra rồi, thì cũng gây được cái nhân tốt về đời sau này, chẳng bao giờ lui mất.

***

Chữ A Nậu Đa La, nguyên âm Ấn Độ đọc “Anuttara” là Vô Thượng, nghĩa là trên hết.

Chữ Tam miệu tam bồ đề, nguyên âm Ấn đọc Samyak Sambodhi là “Chánh Đẳng Chánh Giác” nghĩa là giác ngộ bìn đẳng, chân chánh hoàn toàn. Vậy “Anuttara Samyak Sambodhi” là cái quả chính, giác ngộ hoàn toàn của bậc Đại thừa.

Chữ “Bất thối” ở đây là “Viên tam bất thối” nghĩa là viên mãn đầy đủ ba ngôi bất thối như trên đã giải thích.

Viên tam bất thối là một danh từ khác, nhưng cùng một nghĩa với danh từ “Nhất sinh thành Phật”. Nghĩa là chỉ một lần sinh chót ấy là thành Phật. Bởi thế, Phật Thích Ca có khuyên bọn ông Thân Tử (tức Xá Lợi Phất) đều nên tin chịu lời kinh này.

Công đức được nghe danh hiệu Phật màu nhiệm như thế, Phật Thích Ca Mâu Ni và chư Phật khắp mười phương đều tuyên truyền, nói ra như thế., mà ta lại không tin ư?

Đoạn thứ nhất “Khuyến Tín lưu thông” đến đây là hết.

2 – KHUYẾN NGUYỆN LƯU THÔNG

KINH VĂN

Xá lợi Phất, nhược hữu nhân dĩ phát nguyện, kim phát nguyện, đương phát nguyện: dục sinh A Di Đà Phật quốc giả, thị chư nhân đẳng, giai đắc bất thối chuyển ư A nậu đa la, Tam miệu tam bồ đề, ư bỉ quốc độ, nhược dĩ sinh, nhược kim sinh, nhược đương sinh: Thị cố Xá Lợi Phất, chư thiện nam tử, thiện nữ nhân, nhược hữu tín giả,ưng đương phát nguyện, sinh bỉ quốc độ.

NGHĨA

Xá Lợi Phất ơi, nếu có những người muốn sinh sang nước Phật A Di Đà, mà đã phát nguyện, hoặc nay mới nguyện, hoặc mai mới nguyện, thì những người ấy đều được tới cõi A nậu đa la, Tam miệu tam bồ để. Chẳng hề lui chuyển, và đều được sinh sang cõi nước kia. Ai đã phát nguyện thì đã sinh rồi, ai nay mới nguyện thì nay được sinh, còn mai mới nguyện, thì mai được sinh; bởi thế cho nên Xá Lợi Phất ơi, các thiện nam tử, các thiện nữ nhân, nếu có ai tin, thì nên phát nguyện, sinh sang nước kia.

Trong đoạn kinh này, có mấy câu “ Ai đã phát nguyện thì đã sinh rồi; ai nay mới nguyện thì nay được sinh; còn mai mới nguyện thì mai được sinh “ Đó chính là lời Phật Thích Ca nói cho ta biết rằng:

“Ai đã căn cứ vào cái tâm Tịnh-Tín của mình mà phát ra lời nguyện cầu sinh Tịnh độ, thì lời nguyện ấy quyết không là hư ảo vậy”

Hễ không có Tín thì chẳng thể nào phát Nguyện được, mà đã chẳng có Nguyện, chẳng có Tín thì chẳng thể nào được sinh. Cho nên Phật Thích Ca nói: “ Nếu có ai Tin thì nên phát Nguyện”.

Lại còn: Nguyện ấy là khoán ước của Tín và là then chốt của Hạnh, thì Nguyện phải là một việc thiết yếu lắm. Phật nói chữ Nguyện, thì phải hiểu: chữ Tin và chữ Hạnh đều ở cả trong chữ Nguyện ấy rồi. Vì thế mà Phật phải ân cần đến ba lần khuyên: Phát Nguyện.

Lại còn câu cuối đoạn kinh này là:

“Nguyện sinh bỉ quốc độ” – (nguyện sinh sang nước kia)

Câu kinh này tức là hai pháp môn: Hân và Yểm.

Hân là hân hoan vui thích. Yếm là yếm ly, chán bỏ.

a) Pháp môn Yếm là yếm ly Ta Bà (chán bỏ cõi Ta Bà vì tệ ác nhiều). Phép tu này cùng với phép tu Y vào Khổ đế và Tập đế mà phát ra hai hoằng nguyện là: “Chúng sinh vô biên thề nguyện độ”, và “phiền não vô tận thệ nguyện đoạn”.

b) Pháp môn Hân là hân hoan cầu Cực Lạc (vui cầu sang Cực Lạc, vì yên tĩnh lắm). Phép tu này cùng với phép tu Y vào Đạo Đế và Diệt đế mà phát ra hai hoằng nguyện là “pháp môn vô lượng thệ nguyện học” và “Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”.

Vì có phát nguyện rộng lớn như vậy, cho nên Phật mới bảo: “thì những người ấy đều được tới cõi A nậu đa la, Tam miệu tam bồ đề, chẳng hề lui chuyển” tức là đắc đạo Bồ đề, lên ngôi bất thoái.
(Đoạn văn này là cả một Bí quyết của tông Tịnh độ, mà người đời phần đông mơ mộng, không thể hiểu được rõ ràng đến nơi, đến chốn, vì thế mà hiện nay, tuy có rất nhiều người niệm Phật mà rất ít người được thành công.

***

Hoặc có người hỏi: Như ai nay phát nguyện, thì chỉ nên nói là rồi mai sẽ được sinh mới phải. Cớ sao lại nói “ai nay phát nguyện thì nay được sinh” là nghĩa làm sao?

Thưa: câu này cũng có 2 nghĩa:

1) Chữ “Nay” ở trong câu này là rút vào một “thời kỳ”. Như nói người nào, giờ phút này phát nguyện niệm danh hiệu Phật, thì đến lúc lâm chung (sắp chết) quyết định được sinh Tịnh độ. (Phải có cái nghĩa này mới khiến người niệm Phật, chỉ tu trong một đời, là nhất định thành công, không thể sai lạc). Nay phát nguyện thì nay được sinh, chính là nghĩa như thế. Chữ nay ở đây có nghĩa là chỉ trong đời này.

2) Chữ “Nay” trong câu này là rút vào “một niệm” mà nói là “Nay”. Nghĩa là cứ mỗi một niệm mà tâm mình ứng hợp với tâm Phật, thì ngay một niệm ấy, mình đã được sinh rồi. Niệm nào, niệm nào cũng ứng hợp như thế, thì niệm nào, niệm nào mình cũng đã được sinh ngay rồi, (Phải có cái nghĩa này mới khiến người niệm Phật thâm nhập vào phép tu “Nhất hạnh tam muội” hay là “Niệm Phật tam muội”). Bởi thế mới nói Nay phát nguyện thì nay được sinh.

Nhân màu nhiệm và quả màu nhiệm của người niệm Phật đều chẳng bao giờ lìa khỏi một tâm. (Một tâm tức Tâm mình và Tâm Phật ứng hợp với nhau làm một) ; Nhân ấy, quả ấy giống như hai đầu cái đòn gánh, hễ lên thì đồng thời lên ngay, hễ xuống thì đồng thời xuống ngay. Vậy thì người niệm Phật cần gì phải đợi đến hết kiếp Ta Bà rồi mới được sinh vào ao thất bảo? Không ! Chỉ ngay giờ phút này, ta có Tín Tâm, ta có phát Nguyện, ta niệm danh hiệu Phật, thì bóng đài sen vàng của ta đã hiện ngay ra rồi. Ta không phải là người trong cõi Ta Bà nữa. (Câu này là một sự thực, đúng với chân lý chứ không phải là lý luận suông đâu). Thực là một phép tu “cực viên đốn, nan tư nghì” (rất đầy đủ, rất mau chóng, khó nghĩ bàn). Chỉ có các bậc Đại Trí Tuệ mới thâm tín, thâm hiểu được.

3 – KHUYẾN HẠNH LƯU THÔNG

Trong đoạn khuyến Hạnh lưu thông, trước hết là lời chư Phật khen ngợi đức Giáo chủ Thích Ca, sau là lời đức giáo củ kết lại mà than thở.

KINH VĂN

Xá Lợi Phất, như ngã kim giả, xưng tán chư Phật, bất khả tư nghị công đức, bỉ chư Phật đẳng, diệt xưng tán ngã, bất khả tư nghị công đức, nhi tác thị ngôn:

“Thích Ca Mâu Ni Phật, năng vi thậm nan, hy hữu chi sự: Năng ư Ta Bà quốc độ, ngũ trược ác thế: kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sinh trược, mệnh trược trung đắc A nậu đa la Tam miệu tam bồ đề, vị chư chúng sinh, thuyết thị nhất thiết thế gian, nan tín chi pháp”.

NGHĨA

Xá Lợi Phất ơi, như ta ngày nay, khen ngợi công đức, chẳng xiết nghĩ bàn của chư Phật kia, thì chư Phật kia, cũng lại khen ngợi, công đức của ta, chẳng xiết nghĩ bàn, mà nói câu này:

“Phật Thích Ca Mâu Ni, làm được những việc, rất khó hiếm có, ở ngay giữa cõi, Ta Bà kham khổ, lại vào cái đời, có năm ác trược: một là kiếp trược, hai là kiến trược, ba là phiền não trược, bốn là chúng sinh trược, năm là mệnh trược, thế mà chứng được, A nậu đa la Tam miệu tam bồ đề, lại vì chúng sinh, nói ra pháp ấy, là pháp hết thảy, thế gian khó tin”

(Câu kinh cuối cùng này hệ trọng ở 2 chữ “Trì danh” cho nên thuộc về khuyến hạnh lưu thông).
Trí tuệ và công đức các đức Phật đều bình đẳng như nhau cả, nhưng mà đem ra bố thí, giáo hóa thì có chỗ dễ, có chỗ khó. Như ở Tịnh độ mà tu thành Bồ Đề thì dễ, mà ở cõi đời Trược thế này thì khó lắm ! Vì chúng sinh ở cõi Tịnh độ mà nói pháp thì dễ, vì chúng sinh ở cõi đời này mà nói pháp thì khó lắm ! Vì chúng sinh ở Trược thế mà nói pháp Tiệm (hiểu dần dần) thì dễ, chứ nói pháp Đốn (hiểu ngay) thì khó nữa ! Vì chúng sinh ở cõi Trược thế nói các pháp đốn khác còn dễ, mà nói cái pháp Đốn vượt tắt ngang sang Tịnh độ thì lại càng khó nữa !

Vì chúng sinh ở cõi Trược thế nói cái pháp “Diệu quán, đốn tu đốn chứng để vượt tắt ngang sang Tịnh độ” đã chẳng dễ gì, thế mà nay lại nói cái pháp “Tu chứng này” chẳng cần cù, khó nhọc gì, chỉ có trì niệm danh hiệu Phật A Di Đà thôi, mà được lên ngay ngôi Bồ tát Bất thối, thì thực là một phương pháp tiện đệ nhất, đặc biệc, lạ lùng, mầu nhiệm hơn hết, vượt hẳn ra ngoài sức tưởng tượng, nghĩ bàn của loài người, đó là một khó khăn trong các khó khăn. Bởi thế mà chư Phật ở khắp mười phương, không vị nào mà không suy tôn đức Phật Thích Ca của ta là một vị Phật dũng mãnh hơn hết.

Ngũ trược ác thế (5 vẩn đục, độc ác ở đời) gồm:

1) Kiếp trược: là thời đại tụ họp toàn những pháp vẩn đục. Không có cái hạnh tu niệm Phật này là một hạnh tu mang cả ác nghiệp mà vượt tắt ra ngoài vòng kiếp trược thì không thể nào độ thoát được chúng sinh trong vòng kiếp trược đó.(Phép tu này như người bị quân cướp bao vậy phải phá vòng vây mà ra).

2) Kiến trược: là 5 loại tà kiến, nó sai khiến con người mau lẹ lắm, thịnh hành lắm. (gọi là Ngũ lợi sử tà kiến hay tăng thịnh). 5 Tà kiến ấy là:

a) Thân kiến: là si mê, laamf tưởng thân ta và những vật của ta là có thực.

b) Biên kiến: là thiên chấp một bên trong 2 chủ nghĩa sau:

 Chấp sau khi chết là hết, tức chấp đoạn diệt, chấp VÔ

 Chấp sau khi chết, ta vẫn thường còn, là chấp HỮU

c) Kiến thủ kiến: là theo những chủ nghĩa tà ngụy, kém cỏi, hẹp hòi của các tà thuyết, tà đạo, cho chúng là mầu nhiệm, hay hơn hết.

d) Giới thủ kiến: là theo những giới luật nhảm nhí của tà ma, ngoại đạo để cầu sinh lên trời, hay sinh vào những nơi thần tiên, ma quỉ v.v… cho rằng thế là chân chánh,

e) Tà kiến: là tin theo những lý luận, những chủ nghĩa, những đạo giáo sai lầm, cho rằng người đời không có nhân quả gì hết, không có thiện báo, ác báo.

5 tà kiến này, nó làm cho chúng sanh và người đời tối tăm mù quáng, đắm chìm, vẩn đục. cho nên gọi là Kiến trược. Không có cái hạnh tu niệm Phật này, là một hạnh tu chẳng cần đến phương tiện nào khác mà cũng khai ngộ được tâm của mình, thì làm sao độ thoát được những chúng sinh trong vòng kiến trược ấy?

(phép tu này quyết định chặt chẽ, không cho một ý kiến nào khác xen lẫn vào).

3) Phiền não trược là 5 phiền não, nó sai khiến ngấm ngầm con người. Nó nguy hiểm lắm và thịnh hành lắm. (gọi là ngũ độn sử phiền não, hay tăng thịnh). 5 phiền não ấy là.

a) Tham lam: yêu thích, ham muốn

b) Sân hận       : giận dữ, thù hằn

c) Si mê            : ngu dốt, mê muội

d) Mạn              : kiêu ngạo, khinh người, trịch thượng

e) Nghi ngờ       : Không có tín tâm chân thật.

5 cái tâm sở xấu xa này luôn luôn ngấm ngầm làm phiền não, rung động, rối loạn, vẩn đục cái tâm tánh yên tĩnh, trong sạch, sáng suốt của con người, cho nên gọi là đời phiền não trược. Không có cái hạnh tu niệm Phật này là một hạnh tu nhận ngay cái tâm phàm là tâm Phật, thì không có phép nào độ thoát được những chúng sinh ở trong vòng phiền não trược ấy ! (Phép tu này bình đẳng, không lấy riêng ai, không bỏ riêng ai)

4) Chúng sinh trược là cái thân thể và cái thế giới của ta đây, do 5 kiến trược và 5 phiền não trược cảm ứng mà hiện ra 5 phần (ngũ ấm) hòa hợp với nhau, nó rất thô bỉ, tệ ác, nó giả tạm mà gọi là thân chúng sanh.

Thân ngũ ấm có một phần sắc (tức là cái thân có 5 căn), và 4 phần tâm (thọ, tưởng, hành, thức). Cả phần sắc và 4 phần tâm đều hủ lậu, đê liệt, vẩn đục cho nên gọi là “chúng sanh trược”. Không có cái hạnh tu niệm Phật này, là một hạnh tu vui cầu Cực Lạc, chán ghét Ta Bà thì lấy gì mà độ thoát được cho những người ở trong vòng chúng sanh trược ấy? (phép tu này là một phép tu rõ ràng lấy thiện, bỏ ác).

5) Mạng trược là phần nhân, phần quả đều kém cỏi, mạng sống ngắn ngủi quá, già lắm cũng chẳng đầy 100 năm, cho nên gọi là đời mạng trược. Không có cái hạnh tu niệm Phật này là một hạnh tu chẳng phí nhiều thì giờ, ngày, tháng, năm, đời kiếp và cũng chẳng phải khó nhọc, cần khổ gì thì không thể nào độ thoát ngay được những chúng sinh ở trong vòng mạng trược ấy. (Phép tu này vừa với sức lượng của từng người, ai tu cũng được thỏa mãn).

Lại còn nữa, là chỉ một tâm Tín Nguyện trang nghiêm như thế mà niệm Phật, thì mỗi tiếng niệm “Nam mô A Di Đà Phật” là

a) Chuyển ngay được kiếp trược thành Thanh Tịnh Hải Hội (Hội tu của các vị Bồ Tát, rất trong lặng và nhiều, rộng như bể khơi)

b) Chuyển ngay được kiến trược thành Vô Lượng Quang (Quang, Trí sáng suốt vô lượng)

c) Chuyển ngay được phiền não trược thành Thường Tịch Quang (Tâm thường trụ, vắng lặng, sáng suốt)

d) Chuyển ngay được chúng sanh trược thành thân liên hoa hóa sinh (thân ở trong hoa sen hóa sinh ra)

e) Chuyển ngay được mạng trược thành Vô Lượng Thọ (sống lâu vô lượng).

Thế cho nên mỗi một tiếng niệm “Nam mô A Di Đà Phật” là một phép tu tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề mà đức bổn sư Thích Ca Mâu ni Phật đã chứng được ở ngay giữa đời ngũ trược ác thế này. (Ý nghĩa câu này thực hiếm có, đó là bí quyết của tông Tịnh Độ từ ngàn xưa, nhất đán mở tung ra cho mọi người thấy rõ). Nay ngài đem toàn thể quả Phật ấy, trao cho các chúng sinh đời ngũ trược ác thế này, theo đấy mà tu hành. Đó là cảnh giới, hành vi của chư Phật. Vậy chỉ có Phật Thích Ca và chư Phật khắp mười phương mới thấu suốt hết được. Ngoài giới Phật, còn 9 giới khác (Bồ Tát, Duyên giác, Thanh văn, thiên, nhân, a tu la, suc sinh, ngạ quỉ, địa ngục) thì tự lực mình chẳng thể hiểu, chẳng thể tin được.

Trong đoạn này có chữ “Chư chúng sinh” là chỉ riêng vào chúng sanh ở đời ngũ trược ác thế.

Chữ “Nhất thiết thế gian” là chỉ suốt cả các khí thế gian trong 4 cõi và các tình thế gian trong 9 cõi (Khí thế gian là trái đất, tình thế gian là thân chúng sinh trên trái đất)

Trong đoạn văn khuyến hạnh lưu thông, lời chư Phật ở khắp mười phương khen ngợi đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni đến đây là hết.

Dưới đây là lời đức Giáo chủ Thích Ca tự kết lại mà than thở với Tôn giả Xá Lợi Phất và giao phó cho Tôn giả.

KINH VĂN

Xá Lợi Phất, đương tri ngã ư ngũ trược ác thế hành thử nan sự, đắc A nậu đa la, Tam miệu tam bồ đề, vị nhất thiết thế gian thuyết thử nan tín chi pháp, thị vi thậm nan.

NGHĨA

Xá Lợi Phất ơi, ông nên biết rằng ở giữa cõi đời có năm trược ác, mà ta đã làm việc rất khó kia, là đã chứng được A nậu đa la, Tam miệu tam bồ đề, và ta đã nói phép khó tin ấy, để cho hết thảy các thế gian nghe, như thế thực là những việc rất khó.

Chỉ có một hạnh tu “Tín, Nguyện, Trì danh”, chẳng xen lẫn vào một việc nào khác nữa, mà chuyển được cả 5 trược ác, đó là một cảnh giới tu hành chẳng thể nào nghĩ bàn được. Chỉ có người có tín tâm mới vào được cảnh giới thần diệu ấy.

Giả sử không có đức bổn sư Thích Ca Mâu Ni giáng sinh vào đời ác thế, không có ngài thị hiện tu đắc đạo Bồ Đề, không có ngài dùng trí huệ lớn lao, và tâm thương xót rộng lớn, để thấy rõ hạnh tu này, để thực hành hạnh tu này, để nói ra hạnh tu này, thì bọn chúng sanh ta nhờ vào đâu mà bẩm thụ được hạnh tu này?

Nhưng loài người chúng ta:

a) Hiện đang ở trong kiếp trược, quyết định là bị cái thời đại vẩn đục này nó vây bọc ta, nó áp bức, làm khổ não ta.

b) Hiện đang ở trong kiến trược, quyết định là ta bị cái trí xảo trá của bọn tà sư trói buộc.

c) Hiện đang ở trong Phiền não trược, quyết định là ta bị cái tâm tham dục nó hãm hại và cái nghiệp đọc ác nó kích thích.

d) Hiện đang ở trong chúng sanh trược, quyết định là ta chịu ở yên trong cái thân bẩn thỉu này mà chẳng biết rõ là bẩn thỉu, cam chịu cái thân hèn kém yếu ớt này mà chẳng tài nào bay cao lên được.

e) Hiện đang ở trong mạng trược, quyết định ta bị cái ma lực vô thường nó nuốt mất đời sống nhanh như tia lửa chớp nhoáng, trở bàn tay không kịp.

(5 đoạn này hợp với 5 đoạn trên nói: Nếu không có phép niệm Phật này thì quyết không độ thoát được ra ngoài 5 vòng trược ác).

Nếu chúng ta không biết đích xác phép tu “Tín, Nguyện, Trì danh” này là một việc rất khó khăn, thì có lẽ ta cứ mơ tưởng một phép tu nào khác có thể cứu ta ra khỏi vòng ngũ trược ! (Ta nên biết cái tôn chỉ thậm nan này, từ xưa dến nay, chưa có ai nói rõ ra được đích xác như thế)
Kiếp người chúng ta, ví như ở trong cái nhà, lửa cháy bốn bên rồi, mà vẫn cứ nô đùa, bàn cãi suông chơi với nhau hoài. Chỉ có ai biết đích thực là một việc rất khó khăn, thì mới chịu giết cho chết hẳn cái tâm tham dục tà ngụy đi, và mới biết quí báu cái phép tu “Nhất hạnh” này. (Tức là phép Niệm Phật Chánh định: Nhất hạnh tam muội, hay Niệm Phật tam muội). Bảo cho người khác biết quí báu phép tu niệm Phật,là công đức đến muôn đời về sau.

Chỉ vì thế mà đức Phật bổn sư phải hết lời nói đi nói lại “Khó lắm! khó lắm! “ Đó là thân tâm ngài muốn phó chúc cho bọn ta cần phải biết.

Phần phổ khuyến đến đây là hết.

KẾT KHUYẾN

KINH VĂN

Phật thuyết thử dĩ kinh. Xá Lợi Phất cập chư tỳ kheo, nhất thiết thế gian, Thiên, Nhân, A tu la đẳng, văn Phật sở thuyết, Hoan hỷ tín thọ, tác lễ nhi khứ.

NGHĨA

Phật nói kinh này, khi đã xong rồi, ngài Xá Lợi Phất, và các tỳ kheo, hết thảy thế gian, cõi Trời, cõi Người, cõi A tu la, và các cõi khác, vui mừng tin chịu, làm lễ mà đi.

Pháp môn niệm Phật này, thực chẳng khá nghĩ bàn, rất khó tin, rất khó hiểu, trong hàng đệ tử Phật, không có một người nào biết đến mà hỏi Phật.

Trí tuệ Phật soi thấy cơ duyên chúng sanh thành Phật đã chín rồi. Mặc dầu không ai hỏi mà tự Phật nói ra phép niệm Phật này, khiến chúng sanh được 4 lợi ích: Hoan hỷ, tín thọ, tác lễ, nhi khứ.
1) Phật nói phép tu niệm Phật này, giống như một trận mưa hợp thời, làm cho nhân vật, cỏ cây mát mẻ, thấm nhuần, nẩy nở, lớn lên, thế gọi là hoan hỷ (vui mừng). Đó là phần lợi ích do pháp Phật bố thí cho toàn thể thế giới.

2) Trong tâm không còn nghi hoặc một tơ hào nào nữa, thì gọi là Tín.

3) Lãnh hội lấy nghĩa Phật nói vào tâm, như thế gọi là Thọ. Đó là hai phần lợi ích, vì tin lời Phật mà làm thiện, vì chịu lời Phật mà bỏ ác.

4) Đem thân mạng quay về với Phật, ứng hợp với toàn thể pháp giới trùng trùng duyên khởi, thế gọi là Tác lễ (làm lễ) Đó là phần lợi ích được hiểu suốt vào “Đệ nghất nghĩa” của Phật.

Nhưng trong mỗi lợi ích, thực ra lợi ích nào cũng đủ cả 4. (Được 1 lợi ích tức là được cả 4 lợi ích), đây chỉ là muốn cho dễ hiểu mà tạm phân biệt ra làm 4 đấy thôi.

Người nghe kinh tự mình đã thực hành, đã được 4 phần lợi ích này rồi, cứ một chiều mà tiến mãi không lui, đem kinh này truyền bá khắp nơi, để báo đền ơn Phật. Thế gọi là Nhi khứ (rồi đi). Đi mãi suốt đời vị lai, giáo hóa cho mọi người được 4 lợi ích vô cùng tận đó.

X
xxx

Kinh Phật nói “Đến đời mạt pháp, ức vạn người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nhờ vào phép tu niệm Phật này mà được độ thoát thôi”.

Than ôi! Đời bây giờ chính là đời mạt pháp rồi, nếu chúng ta bỏ pháp môn niệm Phật này, là một pháp bất khả tư nghị, thì còn có pháp môn nào để cho ta tu học được nữa?

Húc tôi đây, khi mới xuất gia, tự phụ mình là một nhà Thiền tông, khinh thường các giáo điển, dám nói bậy rằng “phép tu trì niệm danh hiệu Phật” chỉ là phương tiện bày ra, riêng cho bọn người trung căn và hạ căn.

Về sau đây, nhân vì tôi ốm nặng, mới chịu phát tâm cầu sanh về Tây Phương rồi tôi lại chịu nghiên cứu 2 bộ sách “Diệu Tôn và Viên Trung” cả bộ “Di Đà sớ sao” của ngài Vân Thê và nhiều sách khác nữa, tôi mới biết phép “Niệm Phật Tam Muội” thực là một viên ngọc châu quí giá vô ngần, tôi mới chịu hết lòng chấp trì danh hiệu Phật với một sức mạnh bằng vạn con trâu cũng không kìm lại được.

Ông Hoắc Khứ Bệnh, bạn thân của tôi, ông tu theo nghiệp Tịnh Độ đã lâu năm, ông muốn cho tôn chỉ rất lớn của bộ kinh “Phật thuyết A Di Đà” này được thật rõ rệt, mà lời nói đừng có phiền phức, ông thỉnh cầu tôi làm ra yếu giải, và ý tôi cũng muốn cùng với tất cả hữu tình trong pháp giới này cùng sinh sống ở cõi Cực Lạc, lý ưng tôi không thể từ chối được. Tôi cầm bút viết vào ngày 27 tháng 9 năm Đinh Hợi, đến mồng 5 tháng 10 vừa xong. Tất cả 9 ngày hoàn thành bộ KINH A DI ĐÀ YẾU GIẢI. Tôi cầu nguyện mỗi một câu, mỗi một chữ trong bộ sách này sẽ là một món tư lương, để người ăn đường, trên đường về Cực Lạc. Và mỗi người được thấy, mỗi người được nghe đều sẽ được lên ngôi Bất thối cả.

Cả người tin và người nghi cũng gieo được mầm đạo, cả người tán thán và người phỉ báng cũng đều được giải thoát về Tịnh độ.

Tôi ngưỡng mong chỉ có chư Phật, chư Bồ Tát nhiếp thọ chứng minh cho. Và các bạn đồng học tùy hỷ gia bị cho.

Kinh Phật thuyết A Di Đà yếu giải đến đây là hết.