Kinh Thủ Lăng Nghiêm Trực Chỉ Đề Cương

Kinh Thủ Lăng Nghiêm Trực Chỉ Đề Cương

Trương Văn Chiến 16

CHƯƠNG III

1. Trong thân thể vô thường sanh diệt còn có cái thường bất sanh diệt.
2. Rằng ngược rằng xuôi chỉ là sự áp đặt chủ quan, một ý thức chấp mắc.
3. Lựa bỏ tâm vướng víu cảnh duyên để chỉ tánh thấy không chổ trả về.
4. Tánh thấy không lớn nhỏ đứt nối chỉ do tiền trần ngăn ngại mà thôi.
5. Tánh thấy và vật bị thấy vốn là tâm tánh Bồ Ðề nhiệm mầu sáng suốt.
6. Bồ Tát Văn Thù cầu Phật thương xót.
7. Tánh thấy rời tất cả tướng, nhưng không ngoài tất cả pháp. Giáo lý nhơn duyên vẫn chưa là đệ nhât nghĩa, thuyết Tự Nhiên là một nhận thức sai lầm chân lý vũ trụ.
8. Tánh thấy ngoài hai nghĩa: Hòa hợp và không hòa hợp.
9. Bốn khoa Bảy đại là hiện tượng biểu hiện từ Như Lai Tàng.
10. Năm ấm là hiện tượng biểu hiện từ Như Lai Tàng.
11. Sáu nhập là hiện tượng biểu hiện từ Như Lai Tàng.
12. Mười hai xứ là hiện tượng biểu hiện từ Như Lai Tàng.
13. Mười tám giới là hiện tượng biểu hiện từ Như Lai Tàng.
14. Bảy đại là hiện tượng biểu hiện từ Như Lai Tàng.
15. Ông A-Nan và đại chúng tán dương Phật, phát nguyện và trình bày những điều tâm đắc của mình.

 

TRONG THÂN THỂ VÔ THƯỜNG SANH DIỆT CÒN CÓ CÁI THƯỜNG, BẤT SANH BẤT DIỆT

Ông A Nan và đại chúng nghe lời Phật dạy, thân tâm thư thái, nghĩ mình vô thỉ đến nay bỏ mất bổn tâm, lầm nhận sự phân biệt bóng dáng tiền trần làm tâm. Ngày nay được Phật khai ngộ, như em bé mất sữa bỗng được gặp mẹ hiền, đồng chấp tay lễ Phật, cầu xin chỉ cho chỗ chân vọng thực hư, ở nơi thân tâm hiện tiền phát minh hai tánh: sanh diệt và không sanh diệt.

Bấy giờ vua Ba Tư Nặc đứng dậy thưa:

– Bạch Thế Tôn: Khi chưa được gặp Phật, tôi nghe bọn Ca Chiên Diên, Tỳ La Chi Tử nói rằng: Thân này chết rồi là mất hẳn, gọi đó là Niết Bàn. Nay tuy được gặp Phật, nghe pháp, nhưng tôi vẫn còn hồ nghi, xin Thế Tôn chỉ dạy, làm thế nào để được nơi thân tâm này cái gì không sanh diệt ?

Phật bảo: Này Đại Vương! Như Đại Vương đã biết: Cái thân vô thường, vận động, sanh diệt chuyển biến theo năm tháng của thời gian, không có một giây phút, một sát na dừng trụ. Từ thời thơ ấu đến tuổi trưởng thành, độ thanh xuân nào rồi cũng đến lúc da mồi tóc bạc… mà Đại Vương biết chắc là nó sẽ tiêu mà hoại diệt. Thưa Đại Vương! Đó là chân lý của cuộc đời; hữu tình vô tình cùng chung một định luật sanh diệt, diệt sanh của vạn pháp hiện tượng.

Nhưng nầy! Thưa Đại Vương! Như Đại Vương vừa nói: Lúc 3 tuổi cùng mẹ đi cúng lễ thần Kỳ Bà Thiên, đó là lần đầu tiên Đại Vương thấy nước sông Hằng, rồi năm 13 tuổi cho đến nay Đại Vương 62 tuổi mà “cái thấy” của Đại Vương thấy nước sông Hằng vẫn y nguyên không sai khác!

Thưa Đại Vương! Dựa trên khái niệm thời gian tương đối mà đánh giá tuổi tác con người. Hiện nay mặt Đại Vương tuy nhăn, nhưng tánh thấy của Đại Vương không nhăn; tóc Đại Vương bạc, mà cái thấy của Đại Vương không bạc. Cái có bị nhăn, bị bạc là những cái có sanh diệt, đổi thay. Cái không nhăn, không bạc, không bị chi phối bởi luật vô thường thì làm chi có thay đổi! Có đổi thay thì có hoại diệt, không thay đổi, đồng nghĩa với bất diệt, bất sanh. Đại Vương còn sợ gì cái thuyết “đoạn kiến” của bọn Mạt Già Lê, bảo rằng: “Thân nầy chết là mất hẳn”?

Nhà vua nghe lời Phật, nhận biết về sau khi bỏ thân nầy không phải mất hẳn. Vua và đại chúng hớn hở vui mừng, được cái chưa từng có.

TRỰC CHỈ

Đọc đoạn kinh trên, tôi chợt liên tưởng đến câu thơ của Tố Như tiên sinh, một thi hào Việt Nam, thế kỷ 18 viết:

“… Rằng: những đấng tài hoa

Thác là thể phách, còn là tinh anh”.

Cái “Tinh anh” mà Tố Như tiên sinh nói, ta có thể hiểu cái từ: “Linh tri”, “Giác Linh”, “Linh hồn” hay “Thần thức” tuyệt đại đa số loài người trên mặt đất đều tin tưởng, rằng sau khi con người chết, còn “một cái” trong những từ đó. Nhưng “cái đó” sẽ ở đâu và sẽ đi về đâu, điều đó tùy tập quán tín ngưỡng và tôn giáo mà người đó tôn thờ.

Ở đoạn kinh nầy, cái “tinh anh” không mất của con người sau khi chết, người đệ tử Phật có thể hiểu đó là: “Bản thể chơn như của hiện tượng vạn hữu”, cũng gọi là “Như Lai Tàng” và ta sẽ thấy Đức Phật dạy rõ ở những đoạn kinh sau: Bởi vì theo giáo lý Phật không có một hiện tượng sanh diệt nào rời ngoài bản thể chơn như của nó; cũng như không có một bản thể chơn như nào không biểu hiện qua hiện tượng vạn hữu. Những đợt sóng sanh diệt, sanh trên mặt nước phẳng lặng vốn dĩ bất sanh. Nếu sóng lặng đi rồi, mặt nước phẳng lặng như tờ hãy còn nguyên đó.

Phật khai thị cho vua Ba Tư Nặc và đại chúng: Sắc thân là một hiện tượng, một dạng vật lý cho nên bị chi phối bởi định luật vô thường sanh diệt của vạn pháp hiện tượng hữu vi. Trong cái vô thường còn có cái thường, đó là cái tánh thấy, tánh thấy cũng là một hiện tượng, nhưng là hiện tượng của một dạng tâm lý của bản thể chơn như, cho nên sự sanh diệt của hiện tượng tâm lý chỉ là sự tùy duyên biểu hiện của bản thể. Do vậy, thân già nhưng tánh thấy không già; tóc bạc mà tánh thấy không bạc… Cái có già có bạc có đổi thay rồi sẽ hoại diệt mất đi. Bản thể chân thường thì không chịu sự chi phối của hiện tượng vật lý hữu vi sanh diệt…

“Xuân đến trăm hoa nở
Xuân đi trăm hoa rụng
Sự vật đổi thay trông trước mắt
Già nua biểu hiện mái tóc nâu
Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Trước sân, xuân nọ cành mai hãy còn”

(Xuân đáo bách hoa khai
Xuân khứ bách hoa lạc
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tùng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai)

MÃN GIÁC THIỀN SƯ

Mai nở mai rụng là hiện tượng sanh diệt của hoa mai trong một thời kỳ 5 đến 7 ngày. Còn cây mai trước sân của đêm xuân hôm ấy, sẽ tiếp nối trưởng thành để rồi xuân tới và xuân tới nữa cứ lại trổ hoa mai…

RẰNG NGƯỢC RẰNG XUÔI CHỈ LÀ SỰ ÁP ĐẶT CHỦ QUAN, MỘT Ý THỨC CHẤP MẮC!

Ông A Nan từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ Phật, chấp tay quỳ gối và thưa:

– Bạch Thế Tôn! Nếu tánh thấy thật không sanh diệt, cớ sao Thế Tôn lại gọi bọn chúng tôi là bỏ mất chơn tánh làm việc trái ngược ? Xin Phật mở lòng thương xót rửa sạch trần cấu cho chúng tôi!

Bấy giờ Phật duỗi cánh tay hướng xuống đất bảo ông A Nan rằng:

– Ông thấy tay tôi như thế này là xuôi hay ngược ?

Ông A Nan thưa: Bạch Thế Tôn! Mọi người thế gian cho như vậy là ngược, còn tôi thì không biết thế nào là ngược, thế nào là xuôi.

Nếu người thế gian cho như vậy là ngược thì họ gọi thế nào là xuôi?

– Như Lai đưa cánh tay hướng lên trên không thì gọi là xuôi.

Bấy giờ Phật đưa cánh tay lên và bảo ông A Nan: Cái trái ngược của các ông là ở chỗ đó chỉ một việc thay đổi lẫn nhau, vậy mà người thế gian gán cho cái thấy một ý niệm Ngược, Xuôi! A Nan! Thân ông và thân Như Lai chẳng khác gì nhau, nhưng thân Như Lai là pháp thân thanh tịnh chánh biến tri giác, còn ông thì gọi là người làm việc trái ngược bỏ mất chân tánh. Vậy ông hãy chín chắn nghĩ suy tìm xem sự trái ngược của thân ông và thân Phật khác ở chỗ nào?

Ông A Nan và đại chúng chăm chăm ngó Phật mắt không lay động chẳng biết thân tâm trái ngược do ở nơi đâu?

Đức Phật khởi lòng thương xót, phát tiếng hải triều, bảo khắp đại chúng: Các thiện nam tử! Tôi thường nói: Sắc, tâm và tâm Sở pháp đều duy tâm hiện. Thân tâm các ông chỉ là vật ở trong chân tâm minh diệu. Tại sao các ông bỏ mất đi cái chân tâm minh diệu quý báu mà nhận lấy cái mê trong ngộ?

A Nan! Do mê muội nhận thấy không. Cái không phải không, nhận cho là sắc. Sắc có xen tưởng thì nhận đó là thân. Cảnh sắc bên ngoài phản ánh tư tưởng bên trong rồi cho cái tác dụng nghĩ ngợi lăng xăng là tâm tánh. Một phen lầm cho đó là tâm thì quyết định cũng lầm cho “tâm ở trong thân”. Do đó, không thể hiểu được rằng: Sắc, tâm, núi, sông, đất liền cho đến cả hư không đều là những vật trong Chân Tâm Minh Diệu. Thật chẳng khác trăm ngàn biển lớn sạch trong chỉ nhận một cái bọt nước rồi cho đó là nước của toàn thể đại dương. Bọn các ông là kẻ mê trong những người mê, chỉ một cánh tay tôi mà nảy sanh quan niệm Ngược xuôi, tranh biện. Như Lai gọi các ông là những người đáng thương xót.

TRỰC CHỈ

Duy thức luận nói:

“Danh sư hổ vi khách
Kỳ tánh ưng tầm tư”

Đứng bên mặt chơn tế, vạn pháp vốn không có tuổi tên. Đặt ra tên tuổi là do biến kế chấp của ý thức con người. Bên mặt tục đế, xã hội loài người không thể không đặt tên sự vật để khái niệm để nhận thức và xưng gọi. Đặt cho sự vật vạn pháp một danh ngôn để xưng gọi mà con người sống phù hợp theo tánh hiện thực khách quan của nó, thì cũng chẳng có gì tội lỗi đáng trách. Trái lại, đó còn là một yêu cầu tự nhiên của quá trình tiến hóa, cho cuộc sống loài người. Tai hại của danh ngôn là do sanh lòng chấp mắc. Chỉ một cánh tay Phật duỗi xuống mà sanh khởi ý niệm ngược xuôi. Mầm mống tranh chấp thị phi dựa trên cơ sở “biến kế” ấy phát sanh. Cái cánh tay hiện thực, thì mọi người đánh mất cái vai trò Như Thị khách quan của nó. Lấy một cánh tay Phật làm ước lệ, để chỉ rõ cho đại chúng cái tánh chất tai hại của “biến kế danh ngôn”. Do “biến kế sở chấp”, con người không nhận thức đúng tự tánh “y tha khởi” của sự vật hiện tượng. Vì vậy, con người không sao biết được tánh “thắng nghĩa” “chơn như” và tánh “thường như viên thành thật” của hiện tượng vạn pháp.

Cùng là thân, mà thân Phật gọi là pháp thân thanh tịnh Chánh biến tri giác. Bởi vì Như Lai làm chủ bản thân, làm chủ vạn pháp, làm chủ tâm tánh mình. Như Lai nhìn hiện tượng vạn pháp với cái Tri kiến Vô kiến. Vì vậy, Như lai là bậc Pháp Vương. Ông A Nan và tất cả chúng sanh nhận thức vạn pháp theo Tri Kiến Lập Tri cho nên Phật gọi là những người làm việc trái ngược bỏ mất chơn tánh.

“Sắc, tâm và tâm Sở pháp đều duy tâm hiện”. Chữ tâm phải được hiểu là đệ bát thức Alaya. Chỉ có đệ bát Alaya mới đủ tiêu chuẩn là “Chân tâm minh diệu”.

Duy thức luận nói:

“Tính duy vô phú, ngũ biến hành
………………………………
Hạo hạo tam tàng bất khả cùng
Uyên thâm thất lảng cảnh vi phong
Thọ huân trì chủng căn thân khí…”

Nếu cho rằng tâm ở trong thân, chẳng khác nhận một cái bong bóng nước cho là nước của toàn thể đại dương. Nên biết rằng sắc, thân, núi, sông, đất liền… cho đến cả hư không, đều là những vật trong Chân Tâm Minh Diệu ấy!

LỰA BỎ TÂM VƯƠNG VÍU CẢNH DUYÊN
ĐỂ CHỈ TÁNH THẤY KHÔNG CHỖ TRẢ VỀ

Ông A Nan nghe lời dạy bảo thâm thiết của Phật, sung sướng rơi nước mắt, vòng tay mà bạch Phật rằng: Tôi nghe diệu âm của Phật, dù nhận rõ chân tâm minh diệu vốn là tâm địa thường trú viên mãn, nhưng chỉ nhận trên pháp âm Phật nói. Tôi đang dùng tâm vương víu cảnh duyên thỏa mãn lòng ái mộ Phật. Tôi cũng chỉ nhận thức được một cách mơ hồ chưa dám nhận đó là tâm địa vốn có của mình. Mong Phật thương xót dùng viên âm dạy bảo, nhổ gốc nghi ngờ cho tôi được về với đường vô thượng giác.

Phật bảo: Bọn ông còn lấy tâm vướng víu cảnh duyên mà nghe pháp, thì pháp đó cũng chỉ là pháp tướng vướng víu tạm thời, chưa phải nhận được pháp tánh. Ví như có người lấy ngón tay chỉ trăng, người trí nương ngón tay để tìm thấy trăng, nhưng nếu cho ngón tay là trăng, thì không bỏ mất mặt trăng mà cũng bỏ mất luôn cả ngón tay nữa; vì ngón tay mà đã tưởng là trăng, thì cũng không biết thế nào là sáng, thế nào là tối! Nay ông lấy sự phân biệt pháp âm của tôi mà cho là tâm, thì lúc không có pháp âm, lẽ ra ông phải còn phân biệt. Ví như người ngủ trọ, hết ngủ thì đi, còn chủ quán trọ thì vĩnh viễn ở luôn không đi đâu nữa. Cũng vậy, nếu thật là tâm của ông thì không đi đâu, tại sao rời âm thanh thuyết pháp của tôi, cái phân biệt của ông không còn? Sự phân biệt về âm thanhđã vậy. Sự phân biệt sắc, hương, vị, xúc, cho đến các phi sắc phi không của pháp trần cũng vậy. Rời đối tượng phân biệt ra cái phân biệt của ông phải thường còn, thì đó mới thật là tâm tánh của ông. Trái lại, hễ đối tượng không có, phân biệt cũng không còn, thế là tâm tánh của ông có chỗ trả về, như khách đến rồi đi, không còn là địa vị chủ nhân ông thường trú.

Ông A Nan thưa: Bạch Thế Tôn! Nếu tâm tánh tôi có chỗ trả về, vậy cái chơn tâm minh diệu Như Lai nói, vì sao lại không có chỗ trả về? Xin Phật thương xót vì chúng tôi dạy bảo.

Phật bảo: A Nan! Cái thấy mà ông thấy tôi, dù không phải là chân tâm minh diệu, nhưng nó là tánh thấy trong sáng chưa nhuốm trần lao. Nó như vành trăng thứ hai chứ không đến nỗi như bóng trăng đáy nước. Ông hãy chín chắn lòng nghe, nay tôi chỉ cho ông cái nghĩa không chỗ trả về.

A Nan! Đại giảng đường này mở rộng, phương đông mặt trời lên thấy sáng suốt. Đêm ba mươi không trăng mây mù, thấy tối đen. Chỗ có cửa mở thấy thông thương. Chỗ có tường thấy ngăn bít. Chỗ có phân biệt được thấy cảnh sắc. Chỗ trống trơn thấy hư không. Chỗ bụi cát tung lên thấy mịt mù. Chỗ mưa tạnh mây tan thấy quang đãng.

A Nan! Ông đã thấy các tướng biến hóa như vậy, nay tôi trả các tướng ấy về chỗ bản nhơn của nó. A Nan! Cái sáng trả về cho mặt trời, vì không mặt trời thì không sáng; bản nhơn cái sáng thuộc về mặt trời, cho nên trả về cho mặt trời. Tối đen trả về cho đêm ba mươi. Thông thương trả về cho cửa. Ngăn bít trả về cho tường. Cảnh sắc trả về cho phân biệt. Hư không trả về cho khoảng trống. Mịt mù trả về cho cát bụi. Quang đãng trả về cho mưa tạnh mây tan. Sự vật thế gian tuy nhiều, nhưng không ngoài các thứ đó. Còn cái thấy mà ông thấy tám thứ đó, ông định trả nó về đâu? Nếu ông trả về cho sáng thì lúc không có sáng lẽ ra ông không thấy được tối. Nhưng trước mắt ông, sáng và tối có sai khác mà cái thấy của ông thì không sai khác. Cái có chỗ trả về hẳn nhiên không phải là ông. Còn cái thấy không thể trả về đâu, nếu không phải ông thì là ai len vô đó?

Vậy nên biết rằng: Tâm ông vốn nhiệm mầu, thanh tịnh sáng suốt mà ông tự mê mờ bỏ mất gốc, nhận chịu luân hồi thường bị chìm đắm trong biển sanh tử. Thế nên Như Lai gọi các ông là những người đáng thương xót!

TRỰC CHỈ

Nghe mà sanh lòng hoan hỷ, sung sướng rơi nước mắt là thành tựu bước đầu: “âm hưởng nhẫn” của người đệ tử Phật. Sanh lòng ái mộ, nhận rõ chân tâm minh diệu qua pháp âm Phật, nhưng chỉ nhận một cách mơ hồ đấy là hiện tượng “nhu thuận nhẫn” được phát sanh. Chưa dám nhận chân tâm diệu minh là tâm địa vốn có của mình, vì ông A Nan bấy giờ chưa thể nhập “vô sanh pháp nhẫn”.

Nghe pháp mà chỉ nghe bằng tâm vướng víu pháp âm, dù là pháp âm Phật, thì cũng chưa lắng nghe được pháp tánh thanh tịnh bản nhiên của vạn pháp vốn có ở lòng mình. Phải tự uống trà mới biết hương vị của trà ngon. Chỉ nghe nói trà ngon thì mới biết hương và vị trà không đời nào hiểu đúng. Nương ngón tay để nhìn trăng, chứ ngón tay không bao giờ là trăng được.

Dùng tâm phân biệt tiếp nhận pháp âm Phật, tâm đó không thể là chơn tâm được, vì nếu pháp âm không còn nữa thì cái tánh “thường trú” cũng đã mất theo. Chả lẽ ông A Nan lúc bấy giờ đã trở thành người gỗ đá vô tri vô giác! Đối với sắc, hương, vị, xúc cũng vậy. Tiền trần lúc có lúc không, nhưng cái tâm thanh tịnh “vô phân biệt” của con người không vì tiền trần mà theo sanh theo diệt. Phát hiện được cái tâm thanh tịnh “vô phân biệt” vốn có của mình, Phật gọi đó là “chơn tâm thường trú”. Cái đó không có chỗ trả về.

Thế gian, hiện tượng tuy nhiều, nhưng tóm thu, không ngoài tám tướng: Sáng, tối, thông, bít, sắc, không, trong, đục. Tám tướng đều có thể trả về chỗ sở nhơn phát sanh ra nó. Nhưng tánh thấy của ông A Nan nhận thấy tám tướng kia, không thể trả về đâu. Rõ ràng cái tánh thấy ấy là của ông A Nan chớ chẳng phải của ai khác. Tiền trần đối tượng có đến có đi, có sanh có diệt, như người “khách” cho nên ví “khách trần”. Nhận thức chủ thể thường xuyên hiện hữu, như “chủ” cho nên gọi: “chơn tâm thường trú”.

Dù vậy, sự thường trú của tánh thấy chỉ là hiện tượng biểu hiện của chơn tâm, chớ chưa phải chơn tâm, nên ví vành trăng thứ hai, chưa phải mặt trăng thật. Nói cách khác đó là chân tâm, bên mặt hiện tượng tùy duyên. Chừng nào nhận thức và thể nhập Bản Thể bất biến của chơn tâm mới gọi là người thấy được mặt trăng thật.

Ô hô! Pháp hải u huyền trần tâm nan hội! Chơn tâm hạo đảng như nguyệt lâm thủy diện, bát khai thủy diện, nguyệt hoàn thâm!

VẬT LÀ ĐỐI TƯỢNG PHÂN BIỆT CỦA TÂM. TÂM BIỂU HIỆN QUA TÁNH THẤY LÀ CHỦ THỂ PHÂN BIỆT VẬT

Ông A Nan thưa: Bạch Thế Tôn: Tuy tôi biết tánh thấy không thể trả về, nhưng làm sao biết được đó là chơn tánh của tôi?

Phật bảo: A Nan! Ông chưa được quả vô lậu, nhờ thần lực Phật mà thấy được cõi Sơ thiền: trong khi, ông A Na Luật thì thấy cõi Diêm phù đề như quả quýt để trên bàn tay. Bồ Tát thấy cùng tột các quốc độ thanh tịnh của mười phương chư Phật. Còn chúng sanh thì thấy chẳng được xa hơn gang tấc.

A Nan! Tôi cùng ông xem cung điện Tứ Thiên Vương, chặng giữa các hiện tượng đất liền biển cả và hư không, tuy có nhiều hình sắc khác nhau, sáng tối không đồng, nhưng không cái gì không phải tiền trần đối tượng phân biệt. Những thứ mà ông thấy, ông hãy lựa xem cái gì là chủ thể, cái nào là đối tượng phân biệt của ông?

A Nan! Cùng tột sức thấy của ông, từ mặt trời, mặt trăng… cho đến thất kim sơn, xem xét khắp cùng, dù có thấp cao lớn nhỏ và màu sắc không đồng nhưng cũng đều là vật chớ chẳng phải ông. Lần xem mây kéo, chim bay, gió động, bụi tung, cây, rừng, sông, núi, cỏ, hoa, súc vật… cho đến con người đều là vật chớ chẳng phải ông.

A Nan! Các vật gần xa đó, tuy khác nhau, nhưng đều do tánh thấy thanh tịnh (hiện lượng, đệ nhất sát na) của ông. Các vật loại kia có sai khác mà tánh thấy của ông thì không sai khác. Tánh thấy sáng suốt nhiệm mầu đó, rõ là chủ thể phân biệt của chính ông, chứ còn ai nữa! Nếu tánh thấy là vật, thì ông đã thấy cái thấy của tôi. Nhưng sự thật thì không như vậy. Điều đó chứng minh rằng: tánh thấy không phải vật, mà là chủ thể phân biệt của chính ông. Sự thể quá rõ ràng, sao ông còn nghi ngờ cái chơn tánh của ông? Chơn tánh của ông, ông không tự nhận, vướng chấp pháp âm của tôi mà cầu thực chứng thì làm sao có được?

TRỰC CHỈ

Tánh thấy tức là nhãn thức. Nhãn thức là một trong tám thức tâm vương. Tánh thấy thanh tịnh, sáng suốt nhiệm mầu, vì tiếp thu trần cảnh, nó chỉ thu nhận “tánh cảnh” và “hiện lượng” cho nên tự tánh của cái thấy vốn không có tội lỗi gì. Nó là hiện tượng biểu hiện của chơn tâm, nó gần với bản chất thanh tịnh của chơn tâm hơn các hiện tượng khác, nên ví nó như vành trăng thứ hai do mắt nhặm mà thấy, chứ nó không hư ảo, đảo điên như bóng trăng in đáy nước.

Nếu một tánh thấy để đơn cử công dụng phát thức của một căn. Kỳ thật tánh cảnh hiện lượng là đặc tánh chung của nhỉ, tỷ, thiệt, thân, năm thức trước. Năm thức trước hoạt động trong một bối cảnh “tùy duyên”. Chỉ có ý thức đối với sự hoạt động của con người, tương đối nó thường trú túc trực hơn năm thức trước. Nó chỉ không hiện hữu ở năm trường hợp: Vô tưởng thiên, vô tưởng định, diệt tận định, ngủ không chiêm bao và chết ngất.

Sáu thức tác động vào sáu căn, biểu hiện ra thành sự nhận thức của con người. Đối tượng nhận thức của năm thức trước là “tánh cảnh” nghĩa là những sự vật có bản chất cụ thể, rờ, mó, cầm, nắm được, gọi đó là Vật. Chủ thể nhận thức thì biểu hiện thông qua sáu giác quan (lục căn), nhưng vì không bản chất chỉ có tác dụng thì gọi đó là TÂM. TÂM và VẬT đều là “hiện tượng” biểu hiện phát xuất từ Thể tánh tịnh minh, Như Lai Tàng bản thể:

Không gian cộng thời gian là bản thể Như Lai tàng vậy.

TÁNH THẤY KHÔNG LỚN NHỎ ĐỨT NỐI CHỈ DO TIỀN TRẦN NGĂN NGẠI MÀ THÔI

Ông A Nan thưa: Bạch Thế Tôn! Nếu tánh thấy là tôi, không phải ai khác, khi Như Lai và tôi xem cung điện Tứ Thiên Vương, mặt trời, mặt trăng cùng lúc thấy khắp cõi Ta bà, khi trở về tịnh xá chỉ thấy khu đất già làm, đến trai đường chỉ còn thấy giới hạn của một căn phòng.

Thưa Thế Tôn! Tánh thấy vốn khắp cùng một cõi, mà nay ở trong nhà chỉ thấy một gian phòng. Vậy tánh thấy lớn rút lại thành nhỏ hay do tường nhà ngăn chặn làm cho đứt đoạn? Điều đó, tôi chưa hiểu, xin Phật từ bi chỉ dạy!

Phật bảo: A Nan! Tất cả các hiện tượng xa gần lớn nhỏ trong ngoài của thế gian đều thuộc tiền trần, ông không nên nói tánh thấy có giãn ra hay rút lại. Tánh thấy vốn khắp trùm phổ biến ví như hư không. Đặt cái đồ vuông thì dung tích hư không vuông, để cái vật tròn thì dung lượng khoảng hư không tròn. Nếu muốn hư không, không vuông, không tròn, chỉ cần bỏ đi những cái đồ khí mảnh ấy mà không cần có ý nghĩa phải loại bỏ tướng vuông tròn của hư không. Như lời ông hỏi: Khi vào phòng cái thấy bị rút lại, hay bị vách nhà ngăn đứt? Nghĩa đó không đúng. Nếu vào phòng nhỏ, cái thấy bị rút lại, vậy khi trông xa phải kéo giãn ra? Nếu vào nhà bị vách cắt đứt, khi xoi một lỗ nhìn ra cái thấy phải có dấu nối?

A Nan! Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay lầm mình là vật, bỏ mất bổn tâm, bị vật xoay chuyển cho nên trong đó thấy lớn thấy nhỏ. Nếu chuyển được vật thì đồng với Như Lai, thân tâm tròn đầy sáng suốt, ngồi ở một chỗ mà đầu mảy không hàm chứa mười phương quốc độ.

TRỰC CHỈ

“Tánh kiến giác minh, Giác tinh minh kiến, thanh tịnh bản nhiên, chu biến pháp giới, tùy chúng sanh tâm ứng sở tri lượng, tuần nghiệp phát hiện”. Đó là ý tứ của một đọan kinh sau, Đức Phật dạy về ý nghĩa công dụng của thất đại. Rằng tánh thấy vốn là “giác minh” nó là cái “tinh kiến”, nghĩa là tánh thấy không trải qua “tỷ lượng” và “phi lượng” sai lầm, mà luôn luôn ở trong phạm vi “hiện lượng”. Nó thanh tịnh bản nhiên, nó khắp cùng pháp giới, đáp ứng yêu cầu tâm tưởng chúng sanh, theo nghiệp của mỗi loài mà biểu hiện. Ví như hư không, tùy đồ vật: Cốc, ly, chum, chóe mà biểu hiện theo hình thể vuông tròn sâu cạn mà thể tánh hư không thanh tịnh bản nhiên, khắp đầy thế giới, không hạn cuộc trong một hình thức khuôn khổ nào.

Chúng sanh dứt sạch mê lầm Ngã Pháp, phản chiếu hồi quang, xoay về Thể tánh tịnh minh, thể nhập Như Lai Tàng vốn có, chuyển vật, làm chủ lấy mình, bấy giờ chợt thấy rằng: Vật tâm bất nhị, chúng sanh Phật không hai. Một là tất cả, tất cả là một. Ngay nơi chỗ ngồi, mỗi đầu mảy lông hàm chứa cõi nước mười phương chư Phật.

TÁNH THẤY VÀ VẬT BỊ THẤY VỐN LÀ TÂM TÁNH BỒ ĐỀ NHIỆM MẦU SÁNG SUỐT

Không có cái nào là tánh thấy.

Ông A Nan thưa: Bạch Thế Tôn! Nếu tánh thấy là tâm tánh nhiệm mầu của tôi, hiện ở trước mắt tôi, thì thân tâm tôi là vật gì, mà thân tâm có phân biệt, tánh thấy kia thì không phân biệt được thân tôi?

Phật bảo: A Nan! Ông nói tánh thấy ở trước mắt ông không đúng. Nay tôi cùng ông ngồi trong rừng Kỳ Đà, trông khắp suối rừng điện đường, trên thì mặt trời mặt trăng, trước có sông Hằng. Ông hãy đưa tay chỉ trong các tướng kia: Chỗ rậm là rừng, phát ra ánh sáng là mặt trời, ngăn ngại là vách, mênh mông bãng lãng là hư không, đến cả cỏ cây mảy mún, lớn nhỏ khác nhau, nhưng đã có hình thì không cái gì không chỉ ra được. Ông bảo rằng tánh thấy hiện ở trước mắt ông, vậy ông hãy chỉ chính xác, gì là tánh thấy?

A Nan! Ông nên suy nghĩ: Nếu hư không là tánh thấy, thì còn cái gì là hư không? Nếu vật là tánh thấy, còn cái gì là vật? Ông hãy chín chắn lựa chọn trong muôn vàn hiện tượng, tách tánh thấy nhiệm mầu thanh tịnh ấy ra và chỉ cho tôi xem cụ thể rõ ràng, như các vật mà không lầm lộn?

A Nan thưa: Bạch Thế Tôn! Nay tôi ở giảng đường, trông xa đến sông Hằng… nhìn cao đến mặt trời, mặt trăng, những cái chỉ được, đều là vật chứ không có cái nào là tánh thấy.

Bạch Thế Tôn! Lời Phật vừa dạy, chẳng những hàng Thanh Văn, sơ học chúng tôi, dù cho các Bồ Tát cũng không thể ở nơi hiện tượng vạn pháp chỉ ra cái nào là tánh thấy rời ngoài mọi vật.

Phật dạy: Đúng vậy! Đúng vậy!

Tất cả cái nào cũng là tánh thấy.

Phật bảo: A Nan! Như lời ông nói: Rời tất cả vật, tánh thấy không có. Trong tất cả vật đã chỉ ra được, không có cái nào là tánh thấy. Giờ đây ông cùng tôi ngồi trong rừng Kỳ Đà nầy, ta hãy nhìn xem vườn rừng cho đến mặt trời, mặt trăng, và vô vàn hình tượng, trong đó không có cái thấy để ông chỉ ra được. Vậy ông hãy phát minh trong các vật đó, cái nào không phải tánh thấy.

Ông A Nan bạch Phật: Rằng, tôi trông khắp rừng Kỳ Đà, tập trung tâm ý, quan sát tư duy, nhưng không tìm ra trong đó cái nào không phải tánh thấy. Vì sao? Nếu cây không phải tánh thấy, sao thấy được cây? Cho đến, nếu hư không, không phải tánh thấy làm sao thấy được hư không? Nhưng nếu hư không là tánh thấy, thì sao lại là hư không. Tôi nay suy nghĩ chín chắn và phát minh trong muôn vàn hiện tượng, không cái nào không là tánh thấy.

Phật bảo: Đúng vậy! Đúng vậy!

TRỰC CHỈ

Đức Phật đã bao lần mở rộng lòng từ đinh ninh dạy dỗ, vậy mà ông A Nan vẫn còn mơ hồ trong nhận thức về cái tánh thấy: Rằng tánh thấy là tâm tánh hay không là tâm tánh của ông.

Sự mê mờ về tâm tánh chưa lóe tí ánh sáng khả quan nào, thì lại chồng lên một sai lầm mới. Rằng tánh thấy hiện ở trước mắt.

Xét cho cùng, ông A Nan chưa nhận rõ cái tánh thấy cũng có lý của ông. Bởi vì muốn nhận thức tinh tường vấn đề nầy, cần phải được học hiểu kỹ về Kiến Đại:

… “Tánh kiến giác minh, kiến tinh minh giác, thanh tịnh bản nhiên, chú biến pháp giới, tùy chúng sanh tâm, ứng sở tri lượng, tuần nghiệp phát hiện”.

Từ trước đến đây, trong nhận thức của ông A Nan chỉ xoay sở quần quanh qua bóng dáng của pháp trần và ý thức. Ông chỉ nghe và tiếp thu mơ hồ về “kiến tinh minh giác”. Thể tánh của kiến tinh là hiện lượng, phát xuất từ Như Lai tàng. Ông A Nan chưa có khái niệm vững vàng về nguồn tư tưởng sâu thẳm của môn pháp tánh học nầy. Vì vậy, ông chỉ tiếp nhận và đề cao vai trò phân biệt của ý thức minh liễu ở trong ông. Ông chưa hiểu cái ý thức minh liễu mà ông có, cũng chỉ là sản phẩm của Như Lai tàng được biểu hiện thông qua “ngũ câu ý thức”. Ông chưa hiểu vấn đề “tánh kiến giác minh” “kiến tinh minh giác”. Từ đó, nảy ra ý niệm hoang mang ngờ vực: Rằng tánh thấy là tâm tánh, hay không là tâm tánh? Tánh thấy ở trước mắt, hay không ở trước mắt…?

Qua cuộc vấn đáp trắc nghiệm giữa hai thầy trò Phật đồng ý với ông A Nan rằng:

“Không có một vật nào là tánh thấy”.

Cuộc trắc nghiệm lại được tiếp theo. Rồi Phật cũng đồng ý và xác định với ông A Nan rằng:

“Không có một vật nào không phải là tánh thấy”.

Sự xác định của Đức Phật đối với ông A Nan rõ là mâu thuẫn lạ kỳ, làm cho ông A Nan và đại chúng dao động hoang mang cao độ. Đại chúng vẫn biết rằng: lời nói của Như Lai là chơn chánh là thành thật, không tráo trở, dối gạt phỉnh phờ. (Như Lai thị chơn ngữ giả, thật ngữ giả, bất dị ngữ giả, bất cuống ngữ giả). Và sự thật, Như Lai khai thị cho ông A Nan và đại chúng về chơn lý “bất tức bất ly” của bản thể và hiện tượng. Là hiện tượng, không có hiện tượng nào không ở trong bản thể. Một bản thể, không bản thể nào không biểu hiện thông qua hiện tượng. Hiện tượng không là bản thể, nhưng bỏ hiện tượng tìm bản thể, như bỏ sóng tìm nước không sao có nước. Bản thể không rời hiện tượng nhưng bảo hiện tượng là bản thể, như trẻ con, ngỡ sóng là nước thì không sao biết được nước là gì. Sóng không là nước, nhưng sóng không rời nước. Nước không là sóng, nhưng nước không rời sóng. Nước và sóng bất tức bất ly”.

Tánh thấy và vật bị thấy vốn là tâm tánh nhiệm mầu cũng “bất tức bất ly” như vậy.

BỒ TÁT VĂN THÙ CẦU PHẬT THƯƠNG XÓT…

PHẬT DẠY: TÁNH THẤY KHÔNG THỂ ĐẶT VẤN ĐỀ: “LÀ” HAY “KHÔNG LÀ

Bấy giờ trong đại chúng, những vị chưa chứng quả vô học, nghe Phật khai thị chân lý thậm thâm ấy, mờ mịt chưa hiểu thế nào, sanh lòng sợ hãi, không giữ được chánh niệm.

Như Lai biết đại chúng tâm ý rối loạn, khởi lòng từ an ủi ông A Nan và đại chúng: Các thiện nam tử! Bậc vô thượng pháp vương, lời nói chân thật, đúng như tánh chân như, không dối gạt và lừa đảo quẩn quanh như bốn thứ nghị luận bất tử của bọn Mạt Già Lê. Các ông hãy suy nghĩ chín chắn, chớ phụ lòng thương xót của tôi.

Bấy giờ Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử, thương xót hàng tứ chúng, liền từ chỗ ngồi, đứng dậy đảnh lễ Phật, chấp tay cung kính thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Đại chúng đây không hiểu được chỗ Như Lai phát minh hai nghĩa: “Là” hay “Không là” đối với cái thấy và sắc không. Bạch Thế Tôn! Nếu những hiện tượng sắc không tiền cảnh là cái thấy thì lẽ ra có chỗ chỉ được. Nếu không là cái thấy thì lẽ ra không thể thấy. Nay đại chúng không hiểu nghĩa ấy do đâu, nên mới kinh sợ, chớ không phải vì thiện căn nhiều đời ít ỏi. Kính mong Như Lai thương xót phát minh chỉ rõ các vật tượng ấy và cái thấy vốn là thứ gì mà rời ngoài các ý nghĩa: “Là” hay “Không là” như vậy?

Phật bảo Bồ Tát Văn Thù và đại chúng:

Thập phương Như Lai và các đại Bồ Tát tự trụ tam ma đề, thì cái “thấy” cái “bị thấy” và các nhớ nghĩ, tưởng tượng đều như hoa đốm trong không chẳng có thật. Bản thể của chúng vốn là tâm tánh Bồ Đề nhiệm mầu, thanh tịnh sáng suốt, cho nên trong đó không có vấn đề: “Là” hay “Không là”.

Văn Thù! Nay tôi hỏi ông: Như ông là Văn Thù, còn có “là Văn Thù” hay “không là Văn Thù” nữa chăng?

Bạch Thế Tôn, Văn Thù thưa. Thật vậy, tôi, thật Văn Thù thì không thể có “là Văn Thù”. Vì sao? Nếu có “Là” hay “Không là” hóa ra đã có hai Văn Thù. Nhưng tôi là Văn Thù không còn có Văn Thù nào khác, cho nên không thể đặt vấn đề “Là” hay “Không là”.

Phật bảo: tánh thấy nhiệm mầu sáng suốt và các thứ sắc không cũng như vậy. Tất cả là biểu hiện của chân tâm thanh tịnh tròn đầy, là Bồ Đề vô thượng, trong sáng nhiệm mầu. Vì mê lầm, nhận là sắc, không, thấy, nghe, ví như mặt trăng thứ hai. Sự thật mặt trăng vốn không thêm bớt, do mắt lòa mà thấy ra như vậy. Trong đó không thể đặt vấn đề: Cái nào “là” trăng, cái nào “không là” trăng. Các ông phát minh ra cái thấy và trần cảnh bị thấy đều là vọng tưởng. Không thể trong đó, nêu ra cái nào “là” cái nào “không là”. Tất cả đều là chân tánh nhiệm mầu, một thể sáng suốt thanh tịnh, cho nên vượt ngoài sự “chỉ” hay “không chỉ” được của các ông.

TRỰC CHỈ

Lục căn của con người, ở mặt trái của nó, người ta chỉ biết qua cái công dụng thấy, nghe… tầm thường của nó. Những cái thấy nghe đó, thường làm cho con người đau đầu, nhức óc căng thẳng thần kinh hơn là làm cho con người hưởng được những phút giây thoải mái. Ít có ai phát hiện phía mặt thật của lục căn mình. Mặt thật của lục căn, thiền gia gọi là “bản lai diện mục” của chúng ta.

Bản lai diện mục của con người, vốn trong trắng hiền lành, an nhiên tự tại, chẳng vướng vô minh, không vương triền phược. Từ vật lý đến tâm lý của con người, thanh tịnh bản nhiên, chu biến pháp giới. Vì vậy, không thể đem thứ ý thức thô phù vọng tưởng để phân biệt đúng đâu là cái thấy và đâu không là cái thấy.

Pháp giới tánh hàm dung bất nhị. Như Lai tàng bản thể nhất chân. Một là tất cả. Tất cả là một. Còn lấy cái nào để chỉ cái nào? Còn gì vô lý bằng khi người ta lấy tay chỉ đây là vàng, kia không là vàng trong toàn thân con sư tử vàng duy nhất.

TÁNH THẤY RỜI TẤT CẢ TƯỚNG, NHƯNG KHÔNG NGOÀI TẤT CẢ PHÁP. GIÁO LÝ NHƠN DUYÊN VẪN CHƯA LÀ ĐỆ NHẤT NGHĨA, THUYẾT TỰ NHIÊN LÀ MỘT NHẬN THỨC SAI LẦM CHƠN LÝ VŨ TRỤ

Ông A Nan thưa: Bạch Thế Tôn! Đúng như lời pháp vương dạy: tâm tánh cùng khắp mười phương thế giới, yên lặng thường trú, không có sanh diệt. Song nếu đem lời dạy nầy, so sánh với thuyết của Phạm Chí Sa Tỳ Ca La về “minh đế” và thuyết của bọn ngoại đạo Đầu Khôi về “chân ngã khắp cùng”, khác nhau chỗ nào?

Hồi ở núi Lăng Già, Thế Tôn dạy cho ông Đại Huệ rằng: Bọn ngoại đạo thường nói “tự nhiên” còn Phật thì nói “nhân duyên”.

Tôi nay suy nghĩ cái tâm tánh vốn “tự nhiên”, vì nó không phải sanh cũng không diệt. Nó xa rời tất cả điên đảo hư vọng. Tôi nghĩ cái “tự nhiên” nầy khác với thuyết “tự nhiên” của bọn ngoại đạo. Xin Thế Tôn khai thị cho chúng tôi để được tâm tánh sáng suốt, khỏi rơi vào tà kiến.

Phật bảo: A Nan! Như Lai đã dùng phương tiện chỉ dạy như vậy mà ông còn chưa tỏ ngộ, lại lầm là “tự nhiên”.

A Nan! Nếu là “tự nhiên” thì ông thử chứng minh cái gì là “tự thể” của cái “tự nhiên” ấy? Ông hãy x ét kỹ tánh thấy nhiệm mầu lấy cái gì làm tự? Lấy sáng làm tự hay lấy tối làm tự? Lấy rỗng không làm tự hay lấy ngăn bít làm tự?

A Nan! Nếu lấy sáng làm tự lẽ ra không thấy được tối. Nếu lấy rỗng không làm tự lẽ ra không thấy được ngăn bít. Bởi vì nếu lấy sáng làm tự, thì đến khi tối tánh thấy đã diệt mất đi rồi làm sao thấy được tối…?

Bạch Thế Tôn! A Nan thưa, tánh thấy nhiệm mầu nầy, chắc không phải tự nhiên. Nay tôi phát minh tánh thấy do “nhân duyên” sanh. Xin Như Lai dạy cho, tôi phải hiểu thế nào cho hợp với tánh “nhân duyên” của Phật?

Phật bảo: Ông nói tánh thấy, do “nhân duyên”. Vậy tôi hỏi ông: Tánh thấy đó, nhân sáng mà thấy hay nhân tối mà thấy? Nhân trống không mà thấy hay nhân ngăn bít mà thấy? Nếu nhân sáng mà thấy thì lẽ ra không thấy được tối. Nhân tối thì cũng như vậy…

Ông bảo rằng cái thấy do “duyên” cũng không đúng. Duyên sáng mà thấy hay duyên tối mà thấy? Duyên rỗng không mà thấy hay duyên ngăn bít mà thấy? Nếu duyên ngăn bít mà thấy, lẽ ra không thấy được rỗng không. Duyên tối… cũng lại như vậy.

A Nan! Ông nên biết: tánh thấy nhiệm mầu, sáng suốt, không phải “thân” không phải “duyên”, không phải tự nhiên, không phải không tự nhiên, không có cái “phải”, hay “không phải”. Không có cái “là” hay “không là”. Nó “rời” tất cả tướng; nhưng nó không ngoài tất cả pháp. Ông đem các danh tướng hí luận thế gian mà nhận thức phân biệt, chẳng khác lấy tay nắm bắt hư không chỉ thêm nhọc sức.

Bạch Thế Tôn! A Nan thưa, cái tâm tánh nhiệm mầu, nếu không phải nhân duyên, cớ sao Ðức Thế Tôn đã từng dạy các Tỳ-kheo, rằng tánh thấy có bốn duyên: Khoảng không, ánh sáng, tâm và mắt?

Phật bảo: Đó là tôi nói về các tướng nhân duyên thế gian, không phải đệ nhất nghĩa.

A Nan! Các người thế gian khi họ nói: “tôi thấy”. Vậy thế nào họ gọi là thấy, thế nào gọi là không thấy?

A Nan thưa: Người đời nhân ánh sáng mặt trời, mặt trăng hoặc đèn mà thấy các sắc tướng, họ gọi đó là thấy. Nếu không có các thứ ánh sáng đó, họ gọi là không thấy.

Phật bảo: Nếu lúc không có ánh sáng mà gọi là không thấy thì lẽ ra lúc đó không thấy tối. Nếu đã thấy tối thì đó chỉ là không sáng, chớ không phải không thấy. Nếu lúc tối, vì không thấy sáng mà gọi là không thấy thì lúc sáng không thấy tối cũng nên gọi là không thấy. Vậy thì sáng tối cả hai đều là không thấy!

A Nan! Thực tế không phải vậy. Tối và sáng tự lấn át nhau, tánh thấy của ông chẳng có lúc tạm không. Do đó, biết rằng tối và sáng đều thấy. Và, khi thấy sáng, tánh thấy không phải sáng. Lúc thấy tối, tánh thấy không phải tối. Lúc thấy không, tánh thấy không phải hư không. Khi thấy bít, tánh thấy không phải tướng bít.

Ông nên biết rằng:

Tánh thấy trong khi thấy, tánh thấy đó không phải là tánh thấy bản thể. Tánh thấy đó còn cự ly đối với tánh thấy bản thể. Tánh thấy đó chưa là tánh thấy bản thể.

Với tầm vóc sâu xa nhiệm mầu của tâm tánh, ông lại đem những thuyết nhân duyên, tự nhiên, hòa hợp, không hòa hợp mà luận đàm, không sao đến được. Các ông là Thanh Văn hẹp hòi, nông cạn, không nhận được thật tướng thanh tịnh. Nay tôi chỉ dạy, ông khéo suy nghĩ, không được biếng trễ trên đường Bồ Đề!

TRỰC CHỈ

Tìm hiểu nguyên nhân của hiện tượng vạn hữu phát xuất từ đâu, thế giới và con người do gì sanh là vấn đề tư tưởng ở vào tầm cỡ trọng đại. Từ thượng cổ hun hút xa xưa, đến nay thế kỷ 20 gần hết mà vẫn chưa có được sự nhất trí nào của con người, dù là người cùng chủng tộc, ngữ ngôn trong một nước!

Đức Phật ra đời này đã tròn 25 thế kỷ. Trước Phật đã có, cùng thời với Phật cũng có nhiều dị phái triết gia, họ cũng đề ra chủ thuyết, cắt nghĩa vấn đề thế giới và con người, tức là vấn đề vũ trụ nhân sanh quan của họ. Chủ thuyết thì nhiều; mỗi mỗi giải thích trình bày theo sở kiến mình, thật đa dạng và phong phú. Có điều không mấy lạc quan là khi đúc kết các dòng tư tư ởng, người ta thấy không có chủ thuyết nào giống với chủ thuyết nào. Nhóm phạm chí Sa tì Ca La chủ trương “minh đế”. Phái ngoại đạo Đầu Khôi chủ trương “thần ngã”. Phái ngoại đạo tự nhiên đề xướng thuyết “tự nhiên”. Phái Đại Phạm tôn sùng Phạm Thiên. Sau này có các phái chủ trương “Thiên chủ tạo vật”, đấng “A La”, “Huyền thiên thượng đế”…

Với Thế Tôn ta, Đức Phật không chủ trương có một đấng “siêu nhiên”, “siêu nhân” như vậy.

Đứng bên mặt hiện tượng vạn hữu, Phật dạy.

Vạn Pháp Nhơn Duyên Sanh.

Đứng bên mặt bản thể chơn như,

Phật dạy:

Phi nhơn duyên; Phi tự nhiên. Phi hòa; Phi hợp. Pháp nhĩ như thị.

Kế thừa truyền thống đó, 600 năm, sau Phật Niết Bàn, thuyết Chơn như duyên khởi được dựng lên, Mã Minh Bồ Tát đường hoàng tuyên bố…

“Nhất thiết chư pháp, tùng bản dĩ lai, ly văn tự tướng, ly ngôn thuyết tướng ly tâm duyên tướng, tất cánh bình đẳng, bất khả phá hoại, duy thị nhất tâm, cố danh chân như”…

DO NHẬN THỨC SAI LẦM KHIẾN CHO CON NGƯỜI BỎ MẤT BẢN TÂM THANH TỊNH BẢN GIÁC THƯỜNG TRÚ CỦA MÌNH

Ông A Nan bạch Phật: Thế Tôn đã vì chúng tôi, chỉ dạy về nhân duyên, tự nhiên, hòa hợp và không hòa hợp. Tâm chúng tôi còn chưa tỏ ngộ. Nay nghe Phật dạy: Tánh thấy trong khi thấy, tánh thấy đó không phải tánh thấy bản thể… làm cho chúng tôi càng thêm mờ mịt. Cúi xin Phật thương xót bố thí tuệ nhãn, khai thị cho chúng tôi về bản tâm thanh tịnh, bản giác thường trú.

Phật bảo: A Nan! Ông được năng khiếu nhớ lâu, nhưng cái đó chỉ giúp cho ông phần học rộng. Đối với pháp Chỉ Quán thẩm sâu mầu nhiệm ông còn chưa rõ. Tôi sẽ vì ông chỉ bày và cũng khiến cho những người hữu lậu tương lai được quả Bồ Đề.

A Nan! Tất cả chúng sanh trong thế gian, luân hồi sanh tử do hai thứ nhận thức sai lầm kết thành nguyên nhơn lưu chuyển.

Một, nhận thức sai lầm biệt nghiệp. Ví như người bệnh mắt hóa lòa, ban đêm trông ngọn đèn thấy có vầng tròn năm màu. Cái vầng tròn năm màu vốn không thực có đối với người không bị bệnh lòa. Nhưngg nó không phải không có đối với người mắc bệnh. Vầng tròn ấy không phải màu sắc của cái thấy hay của đèn. Nó không tự sanh, cũng không phải do đèn hay do mắt đã sanh. Nguyên nhơn của vầng tròn, do mắt bệnh hóa lòa. Cái vầng tròn và cái thấy vầng tròn đều là bệnh lòa. Nhận thấy được bệnh lòa thì tánh thấy đó không bệnh. Do đó, không nên nói cái vầng tròn năm màu là của đèn hay của cái thấy. Cũng không được nói: Rằng không phải của đèn hay không phải của cái thấy. Lại ví như vành trăng thứ hai. Nó không phải trăng mà cũng không phải bóng. Vành trăng đó vốn không có, nên không thể gán cho nó “phải” hay là “không phải” mặt trăng. Mặt trăng thứ hai có là do động tác của ngón tay ấn mắt. Người trí không nên bảo: Đó là hình trăng, hay không phải hình trăng. Đó là cái thấy hay ra ngoài cái thấy. Vầng tròn năm màu cũng vậy. Nó do bệnh lòa thành có. Gọi nó là của đèn hay của cái thấy đều là sai. Ráng sức đấu tranh, rằng không phải của đèn hay không phải của cái thấy càng thêm hí luận.

Hai, nhận thức sai lầm cộng nghiệp. A Nan! Cõi Diêm phù đề, trừ nước biển bao la, trong đó đất bằng có 3.000 châu. Ở giữa có một châu lớn. Chung quanh có đến 2.300 nước. Châu nhỏ chỉ có hai nước thôi. Những chúng sanh trong một nước gặp phải năm thời tiết không thuận hòa thì cùng thấy những hiện tượng bất thường: Hoặc thấy sao phướng, sao sa, và chỉ có những người trong nước đó thấy, chúng sanh trong nước kế cận thì không thấy và cũng không nghe.

A Nan! Nay tôi đem hai việc đó kết hợp so sánh làm thí dụ để chỉ cho ông.

A Nan! Cái nhận thức sai lầm biệt nghiệp của chúng sanh, ví như người bệnh mắt, trông thấy ngọn đèn hiện ra vầng tròn năm màu, tưởng là cảnh thật trước mắt. Sự thật vầng tròn do bệnh lòa của người đau mắt tạo thành. Lòa là bệnh của cái thấy, không phải sắc tướng tạo ra. Cái thấy, thấy được bệnh lòa cái thấy đó vốn không có bệnh. Cũng vậy, hiện nay ông dùng con mắt xem thấy núi sông cảnh giới và các chúng sanh đều do bệnh lòa vô thỉ tạo thành. Cái thấy và cái bị thấy không thể tách rời ra. Do vô minh, chúng sanh vọng kiến thấy tiền cảnh in tuồng là “vật đối lập” với mình. Sự nhận thức sai lầm đó do bệnh lòa NĂNG KIẾN, SỞ KIẾN của tâm tánh giác minh thanh tịnh. Chừng nào nhận thức rằng: Cái thấy, thấy vầng tròn năm màu là bệnh, thì sự nhận thức đó vốn không có bệnh. Đó là ý nghĩa thẩm sâu: “Kiến kiến chi thời, kiến phi thị kiến, kiến du ly kiến, kiến bất năng cập”. Bản chất của tánh thấy là: tánh kiến giác minh, kiến tinh minh giác, thanh tịnh bản nhiên, chu biến pháp giới.

A Nan! Do nhận thức sai lầm nghiệp riêng, người bệnh lòa thấy ngọn đèn có vầng tròn năm màu. Do nhận thức sai lầm nghiệp chung, chúng sanh cùng thấy những hiện tượng bất thường. Do nhận thức sai lầm vô thỉ, tất cả chúng sanh nhận lấy các bệnh: Tham, sân, si… Ta, người, thương ghét… để rồi nhận lấy sanh tử khổ đau của các nguyên nhân đau khổ đó. Nếu xa rời các bệnh duyên “năng”, “sở” thì chúng sanh mười phương đồng chung bản thể cùng một tâm tánh nhiệm mầu. Tất cả đều viên mãn tánh Bồ Đề trong bản giác thường trú của mình.

TRỰC CHỈ

Đoạn kinh nầy Phật nêu ra hai thứ vọng kiến: Biệt nghiệp và Đồng Phận. Biệt nghiệp vọng kiến là vọng kiến của cá nhân. Đồng phận vọng kiến là vọng kiến của xã hội.

Sự thật của biệt nghiệp vọng kiến vốn không có cái vầng tròn năm màu quanh một ngọn đèn.

Sự thật của đồng phận vọng kiến là những hiện tượng bất thường… chỉ có với những người cùng ở trong một nước gặp phải năm thời tiết bất hòa.

Cá nhân vọng kiến chỉ vì bệnh lòa mà vầng tròn năm màu sanh ra.

Xã hội vọng kiến chỉ do cùng ở chung một nước mà những hiện tượng bất thường… được thấy.

Người không bệnh mắt, vầng tròn không có trước đèn.

Chúng sanh nước kế cận không chung quốc độ nên những hiện tượng bất thường không có.

Như Lai Thế Tôn, vì không vọng kiến vô thỉ, nên thấy “pháp giới bất nhị”. Như Lai tàng thanh tịnh “nhất châu”.

Chúng sanh bị nhận thức sai lầm vô thỉ, cái thấy trở thành các bệnh: Ngã, nhân, bỉ, thử, thủ, xả thân, sơ… Đó là trần lao, là vô minh bụi bặm. Chúng che lấp mất cái bản thể vốn thanh tịnh của Chơn tâm thường trú.

Ngày nào chúng sanh xa rời vọng kiến sẽ nhận thức rõ pháp giới nhất chân. Chúng sanh trong mười phương đồng một tâm tánh nhiệm mầu. Hiện tượng vạn hữu chỉ là “vật trang trí” từ thường trú chơn tâm biểu hiện.

Do vậy, Như Lai nói: tánh thấy trong khi thấy, tánh thấy đó không phải tánh thấy bản thể. Tánh thấy đó còn cự ly với tánh thấy bản thể. Tánh thấy đó chưa là tánh thấy bản thể vốn thanh tịnh bản nhiên…

Lời dạy thậm thâm của Phật, nhưng thiết tưởng không có gì vượt quá tâm thiền định tư duy của người hành giả đệ tử Như Lai.

TÁNH THẤY NGOÀI HAI NGHĨA: HÒA HỢP VÀ KHÔNG HÒA HỢP

Phật bảo: A Nan! Dù ông đã ngộ tâm tánh bản giác nhiệm mầu sáng suốt, không phải nhân duyên, không phải tự nhiên, nhưng ông còn chưa rõ tâm tánh sanh ra do hòa hợp hay không hòa hợp.

A Nan! Ông nghĩ kỹ xem, tánh thấy nhiệm mầu thanh tịnh của ông nó hòa với ánh sáng hay hòa với tối? Hòa với thông hay hòa với ngăn bít ? Nếu hòa với sáng, hiện nay ông thấy sáng, tánh thấy hòa chỗ nào: Tánh thấy và tướng sáng có thể nhận được, còn cái hình trạng “hòa” ra sao? Nếu tướng sáng ngoài tánh thấy, làm sao thấy được sáng? Nếu tướng sáng là tánh thấy, hóa ra thấy được tánh thấy, hóa ra thấy được tánh thấy, còn gì vô lý bằng ? Với tướng tối, tướng thông và tướng bít cũng vậy.

Lại nữa, A Nan! Hiện nay tánh thấy nhiệm mầu sáng suốt của ông, nó hợp với sáng hay hợp với tối? Hợp với thông hay hợp với bít ? Nếu hợp với sáng, đến khi tối tướng sáng mất đi rồi, tánh thấy không còn hợp được với tối, làm sao thấy được tối? Nếu không hợp với tối mà thấy được tối, khi hợp với sáng lẽ ra không thấy được sáng! Đã không thấy được sáng, làm sao hợp với sáng và biết được sáng không phải là tối? Với tướng thông, tướng bít cũng vậy.

A Nan thưa: Bạch Thế Tôn! Nay tôi lại nghĩ: Tánh thấy nhiệm mầu đối với trần cảnh và các tưởng niệm nhớ nghĩ không hòa hợp chăng?

Phật bảo: Nay ông lại nghĩ: rằng tánh thấy không hòa hợp với sáng hay không hòa hợp với tối? Không hòa với thông hay không hòa với bít? Nếu không hòa với sáng thì giữa tướng sáng và tánh thấy phải có lằn ranh. Ông hãy xét kỹ: Chỗ nào là tướng sáng, chỗ nào là tánh thấy? Chỗ nào là ranh giới giữa hai thứ kia? A Nan! Nếu trong tướng sáng không có tánh thấy, tướng sáng và tánh thấy không đến nhau, tất nhiên tánh thấy sẽ tối, tướng thông và tướng bít cũng vậy.

TRỰC CHỈ

Tánh thấy là nhân duyên sanh hay tự nhiên sanh đã được Phật hướng dẫn quá rõ ràng. Nêu hai vấn đề: Biệt nghiệp vọng kiến và đồng phận vọng kiến ở đoạn trước, cũng nhằm chỉ rõ tánh chất sai hại của tánh thấy, khi tánh thấy bị nhận thức sai lầm.

… “Tánh kiến giác minh, kiến tinh minh giác, thanh tịnh bản nhiên chu biến pháp giới, tùy chúng sanh tâm, ứng sở tri lượng, tuần nghiệp phát hiện”. Nhận rõ tính chất thanh tịnh bản nhiên, chu biến pháp giới của tánh thấy thì những vấn đề: nhân duyên, tự nhiên hay phi nhân duyên, phi tự nhiên; hòa, hợp hay phi hòa hợp tất cả đều trở thành hí luận!

BỐN KHOA BẢY ĐẠI VỐN LÀ HIỆN TƯỢNG BIỂU HIỆN TỪ NHƯ LAI TÀNG

A Nan! Ông còn chưa rõ, tất cả tướng phù trần hư huyễn đều là vật huyễn sanh huyễn diệt trong bản thể Như Lai tàng. Các huyễn vọng gọi là tướng, tánh thực của tướng là thể giác minh mầu nhiệm (Diệu giác minh thể). Năm ấm, sáu nhập, mười hai xứ, mười tám giới, nhân duyên hòa hợp vọng gọi là sanh, nhân duyên chi ly vọng gọi rằng diệt. Chúng sanh không biết sự sanh diệt đi lại, chỉ là sự vận hành biến dịch mầu nhiệm của Như Lai tàng. Sự vật hiện tượng luôn luôn chuyển hóa lẫn nhau. Trong Như Lai tàng tìm cho ra tử sanh mê ngộ đến đi, không thể được.

NĂM ẤM LÀ HIỆN TƯỢNG BIỂU HIỆN TỪ NHƯ LAI TÀNG

1. Sắc ấm
2. Thọ ấm
3. Tưởng ấm
4. Hành ấm
5. Thức ấm

1. Sắc ấm:

A Nan! Sao gọi năm ấm là tánh chân như mầu nhiệm biểu hiện của Như Lai tàng?

A Nan! Ví như có người dùng mắt trong sáng nhìn hư không thanh tịnh, chỉ thấy hư không trong suốt không có gì khác. Mắt người kia bỗng dưng đờ đẫn mỏi mệt, trông hư không thấy hoa đốm lăng xăng, các tướng huyễn hư rối loạn. Sắc ấm cũng như vậy.

A Nan! Các hoa đốm không phải từ hư không đến, không phải từ con mắt ra. Nếu từ hư không đến, hư không chẳng còn là hư không nữa. Nếu tứ mắt ra, ắt phải có lúc trở vào. Nếu vậy, khi ra thành hoa đốm làm mờ loạn hư không, lúc vào tại sao không thấy con mắt?

Sắc ấm là hư vọng không phải nhân duyên cũng không phải tự nhiên.

2. Thọ ấm

A Nan! Ví như có người tứ chi an ổn, cơ thể điều hòa, không bị vui buồn tác động, tịch tĩnh như quên mình. Bỗng nhiên người kia đưa hai tay lên không xoa nhau, sanh cảm xúc: nóng, lạnh, trơn, rít… Thọ ấm cũng như vậy.

A Nan! Những cảm xúc hư vọng kia, không phải từ hư không đến. Không phải từ bàn tay ra. Nếu từ hư không đến sanh cảm xúc nơi bàn tay, sao không sanh cảm xúc ở thân thể? Không lẽ hư không biết lựa chỗ để sanh cảm xúc?

Thọ ấm là hư vọng không phải nhân duyên cũng không phải tự nhiên.

3. Tưởng ấm

A Nan! Ví như nghe nói quả mơ chua, miệng người kia tươm nước bọt. Nghĩ đứng chỗ chênh vênh, lòng bàn chân cảm nghe ghê rợn. Tưởng ấm cũng như vậy.

A Nan! “Mơ chua”, vốn là một âm thanh, nó không phải từ quả mơ, không phải từ miệng vào. Nếu do mơ ra, quả mơ tự nói, sao phải đợi người ta nói. Nếu do miệng vào, lẽ ra miệng tự nghe, cần chi đến lỗ tai! Nếu riêng lỗ tai nghe, sao nước bọt không chảy lỗ tai lại tươm ra miệng? Nghĩ đứng chỗ chênh vênh cũng vậy.

Tưởng ấm là hư vọng, không phải nhân duyên không phải tự nhiên.

4. Hành ấm

A Nan! Ví như dòng nước dốc cuồn cuộn tương tục tuôn tháo. Dòng nước không nhân hư không sanh, không nhân nước có. Nó không phải tánh nước nhưng không ngoài hư không và nước. A Nan! Nếu nhân hư không sanh, mười phương hư không vô tận, nước vô tận, thế gian này chìm đắm cả rồi sao? Nếu nhân nước có, dòng nước dốc không là nước sữa. Bởi vì, ai cũng có thể chỉ tướng của nước và dòng nước khác nhau.

Hành ấm là hư vọng, không phải nhân duyên cũng không phải tự nhiên.

5. Thức ấm

A Nan! Ví như có người lấy cái độc bình to bịt miệng, trong có đựng đầy hư không, đi xa ngoài nghìn dặm, tặng cho một nước khác. Hư không đó, chẳng phải đến từ bên nước kia, cũng không phải đưa vào nước bên nầy. Vì, nước được tặng, hư không chẳng dôi thêm ra. Nước đem cho không vì vậy, hư không vơi bớt.

Thức ấm là hư vọng, không phải nhân duyên cũng không phải tự nhiên.

TRỰC CHỈ

Bốn khoa bảy đại chỉ là hiện tượng trong Như Lai tàng. Như Lai tàng là bản thể của tất cả chủng tử của hiện tượng vạn hữu.

Vấn đề “Hiện tượng vạn hữu do gì sanh”, cho đến thế kỷ 20 này vẫn còn là một vấn đề chưa ngã ngũ. Một vấn đề mà loài người sẽ nói mãi, có lẽ không bao giờ có sự nhất trí với nhau.

Bảo rằng hiện tượng vạn hữu do “đấng tạo vật sanh”, ở vào thời đại văn minh nầy, người ta cho đó là quan niệm ngây thơ ấu trĩ. Bảo rằng do “tự nhiên sanh” đó là một thứ tri kiến của người không tri kiến tí nào. Bởi vì trước mắt mọi người, không có cái gì “tự nhiên” cả.

Với nền giáo lý Phật, trong những năm dài thuyết giáo, Phật thường dạy cho các đệ tử: rằng “vạn pháp do nhân duyên sanh”… Cái chân lý đó, càng ngày càng rạng rỡ. Thế kỷ 20 nầy, loài người tiến đến đỉnh cao của trí tuệ, của khoa học văn minh người ta đã chứng minh được rằng một nguyên tử, hạt cơ bản của nguyên tử cũng chưa phải là một đơn vị “tự nhiên” mà nó còn kết hợp bởi những tính… và chất… mà người ta chưa tìm ra ngôn từ tương xứng để xưng gọi. Sự gặp gỡ đó, ta có thể tự hào và kết luận rằng: giáo lý “nhân duyên”…. Của Phật giáo là niềm vui hãnh diện của những người đệ tử có lòng tín mộ tôn thờ Đức Phật làm vị “Bổn sư” mình.

Vậy mà ở kinh Thủ Lăng Nghiêm nầy. Đức Phật thẳng thắn nói với ông A Nan: rằng giáo lý “nhơn duyên” mà Như Lai nói chưa phải thứ giáo lý “Liễu nghĩa”. Quả là một tiếng sấm lưng trời! Nói “đấng tạo vật” sanh, bị Phật rầy; nói “thần ngã” sanh, bị Phật trách; nói “Phạm Thiên” sanh, bị Phật chê; nói “tự nhiên” sanh, bị Phật bác; nói “đấng A La” sanh, Phật không chịu; nói “hòa hợp” sanh, bị Phật nạn,; nhớ lời Phật dạy, nói “nhân duyên” sanh, nay cũng không xong! Vậy thì:

A ? Cái gì sanh vũ trụ vạn hữu?

Người học Phật cần tư duy, phải tư duy sâu sắc, nhà Phật gọi là “tham thiền”. Người ta thường thắc mắc, khi tham thiền phải tham những gì? Thì đây chính là “thoại đầu” là một đề tài lớn để cho người đệ tử Phật “tham” và “tọa”:

“Vũ trụ vạn hữu do gì sanh?”

Tham cho đến khi trí tuệ bừng sáng, tháo gỡ hoàn toàn cái gút thắt của vấn đề, chừng đó, hành giả chợt thấy:

“Bát nhã hoa khai vạn pháp, tức tâm, tức Phật”
“Bồ đề quả thục Nhất chân phi sắc phi không”.

SÁU NHẬP LÀ HIỆN TƯỢNG BIỂU HIỆN TỪ NHƯ LAI TÀNG

1. Nhãn nhập
2. Nhĩ nhập
3. Tỷ nhập
4. Thiệt nhập
5. Thân nhập
6. Ý nhập

1. Nhãn nhập

A Nan: Vì sao bản tánh của sáu nhập vốn là hiện tượng biểu hiện từ Như Lai tàng ?

A Nan! Con mắt khi ngó chăm chú… sanh ra sự mỏi mệt. Tánh thấy và sự mỏi mệt đều là hiện tượng phát sanh từ thể tánh Bồ Đề trong sáng. Nhơn hai thứ vọng trần sáng và tối phát sanh tánh thấy bên trong, thu nhập các trần tướng gọi đó là tánh thấy. Tánh thấy rời hai trần sáng và tối không có tự thể. A Nan, ông nên biết, tánh thấy không phải từ sáng hay tối mà đến, không phải từ mắt ra, không phải từ hư không sanh. Nếu từ sáng đến thì lúc tối nó đã theo sáng diệt mất đi rồi, lẽ ra không thấy được tối. Nếu từ tối đến, lúc sáng nó đã theo tối diệt mất đi rồi, lẽ ra không thấy sáng. Nếu do mắt sanh, không cần có sáng tối thời mắt chẳng thấy được gì, đồng như không có thấy. Nếu do hư không ra thì lúc ngó ra thấy các trần tướng, khi xoay vào ắt phải thấy mắt và mặt. Và nếu thật vậy, thì hư không tự thấy nào có tương quan gì với sự thu nạp của ông? Vì vậy, biết rằng nhãn nhập là hư vọng, không phải nhơn duyên cũng không phải tự nhiên.

2. Nhĩ nhập

A Nan! Ví như có người lấy hai ngón tay bịt chặt hai lỗ tai. Do tai mỏi mệt hóa ra có nghe. Tánh nghe và sự mệt mỏi đều là hiện tượng phát sanh từ thể tánh Bồ Đề trong sáng. Nhơn hai thứ vọng trần động và tĩnh sanh tánh nghe bên trong, thu nạp các trần tướng gọi đó là tánh nghe. Tánh nghe rời hai trần động và tĩnh không có tự thể. A Nan! Ông nên biết, tánh nghe đó không phải từ động tĩnh đến, không phải từ tai ra, cũng không phải do hư không có. Vì vậy biết rằng nhĩ nhập là hư vọng, không phải nhơn duyên cũng không phải tự nhiên.

3. Tỷ nhập

A Nan! Nếu bịt hai lỗ mũi, bịt lâu thành mỏi mệt, trong lỗ mũi có cái xúc lành lạnh. Nhơn xúc đó phân biệt được thông và nghẹt, rỗng đặc cho đến các mùi thơm thối… Tánh ngửi và sự mỏi mệt đều là hiện tượng phát sanh từ thể tánh Bồ Đề trong sáng. Nhơn hai vọng trần, thông và nghẹt phát ra tánh ngửi ở trong, thu nạp các trần tướng gọi đó là tánh ngửi. Tánh ngửi rời hai trần thông và nghẹt không tự thể. Tánh ngửi không phải từ thông và nghẹt mà đến, không phải từ lỗ mũi ra cũng không phải do hư không sanh. Vì vậy biết rằng tỷ nhập là hư vọng, vốn không phải nhơn duyên cũng không phải tự nhiên.

4. Thiệt nhập

A Nan! Ví như có người dùng lưỡi liếm mép, liếm mãi sanh mỏi mệt, nếu người đó có bệnh thì có vị đắng, người không bệnh thì có chút vị ngọt. Do những cảm xúc ngọt đắng, mà bày tỏ tánh nếm, khi không động thường có tánh nhạt. Tánh nếm và sự mỏi mệt đều là hiện tượng phát sanh từ thể tánh Bồ Đề trong sáng. Nhơn hai thứ vọng trần nhạt và ngọt phát sanh tánh nếm ở trong, thu nạp các trần tướng gọi đó là tánh biết nếm. Tánh biết nếm rời những trần: ngọt nhạt, đắng cáy… Không có tự thể. A Nan! Sự biết ngọt biết nhạt không phải từ ngọt nhạt đến, không phải từ lưỡi ra cũng không phải do hư không sanh. Vì vậy biết rằng thiệt nhập là hư vọng vốn không phải nhơn duyên cũng không phải tự nhiên.

5. Thân nhập

A Nan! Ví như có người dùng bàn tay lạnh chạm bàn tay nóng. Nếu lực bên lạnh nhiều hơn thì bên nóng trở thành lạnh. Nếu lực bên nóng nhiều hơn thì bên lạnh hóa ra nóng. Do sự cảm nhận trong lúc hợp mà nhận biết lúc rời ra. Giữa thế tương quan đó, phát ra mỏi mệt và cảm xúc. Tánh cảm xúc và mỏi mệt đều là hiện tượng phát sanh từ thể tánh Bồ Đề trong sáng. Nhơn hai vọng trần hợp và ly phát ra sự hiểu biệt ở trong, thu nạp các trần tướng, đó gọi là tánh biết xúc. Tánh biết xúc rời hai trần ly và hợp, trái và thuận không có tự thể. A Nan! Tánh biết xúc không phải từ hợp ly đến, không phải từ trái thuận ra cũng không phải do hư không sanh. Vì vậy biết rằng thân nhập vốn hư vọng, không phải nhơn duyên cũng không phải tự nhiên.

6. Ý nhập

A Nan! Ví như có người mệt nhọc thì ngủ, ngủ chán thức dậy. Nhận biết trần cảnh, thì nhớ, lúc hết nhớ gọi là quên. Các sự việc ấy sanh khởi, tồn tại thay đổi rồi mất đi. Cứ theo cái vòng lẩn quẩn mà hấp thụ không lộn lạo, không chồng chất rối loạn, gọi đó là “ý tri căn”. Ý tri căn và sự mỏi mệt đều là hiện tượng phát sanh từ thể tánh Bồ Đề trong sáng. Nhơn hai thứ vọng trần sanh diệt, nhóm tánh biết ở trong, thu nạp pháp trần, dòng thấy nghe chảy ngược mà không chỗ đến, gọi đó là sự hiểu biết (tức là ý tri căn hay ý nhập). Tánh hiểu biết này rời hai trần tướng: Thức, ngủ, sanh diệt nó không có tự thể. A Nan! Ý căn hay sự hiểu biết đó, không phải từ thức, ngủ đến, không do sanh diệt có, không phải từ ý căn phát ra cũng không phải do hư không sanh. Nếu từ thức đến lúc ngủ nó đã diệt theo thức mất đi rồi còn lấy gì làm ngủ. Nếu cho rằng khi sanh mới có hiểu biết, thì lúc diệt nó đã không còn, làm sao biết được diệt. Nếu do diệt có, lúc sanh không còn diệt thì lấy gì mà biết là sanh. Nếu do hư không sanh thì hư không tự biết nào có dính dáng gì chỗ thu nạp của ông? Vì vậy, biết rằng ý nhập là hư vọng vốn không phải nhơn duyên cũng không phải tự nhiên.

 

MƯỜI HAI XỨ LÀ HIỆN TƯỢNG BIỂU HIỆN TỪ NHƯ LAI TÀNG

1. Sắc và kiến
2. Thanh và thính
3. Hương và khứu
4. Vị và thường
5. Xúc và thân
6. Pháp và ý

1. Sắc và kiến(Sắc trần và tánh thấy)

A Nan! Vì sao 12 xứ là hiện tượng biểu hiện từ Như Lai tàng?

A Nan! Ông hãy xem rừng Kỳ Đà, ao khe cây cảnh, tất cả hiện tượng kia. Ông nghĩ thế nào ? Sắc tướng sanh tánh thấy hay tánh thấy sanh sắc tướng?

A Nan! Nếu tánh thấy sanh sắc tướng thì lúc trông thấy hư không, không có sắc tướng, tánh thấy đã mất rồi, còn lấy gì để nhận biết được tướng hư không? Nếu sắc tướng sanh tánh thấy, vậy khi thấy hư không, không có sắc tướng thì lấy gì để biết được hư không và sắc tướng? Với hư không cũng như vậy.

2. Thanh và thính (thanh trần và tánh nghe)

A Nan! Ông nghe trong trai đường ở rừng Kỳ Đà nầy, dọn đồ ăn xong thì đánh trống, lúc họp chúng đánh chuông. Tiếng chuông trống lần lượt nối nhau.

A Nan! Ông nghĩ thế nào? Tiếng đến chỗ nghe hay tánh nghe đến chỗ tiếng?

A Nan! Nếu tiếng đến chỗ tánh nghe, vậy khi tiếng đến chỗ ông A Nan, khiến cho ông A Nan được nghe, thì ông Mục Kiền Liên, ông Ca Diếp v.v… lẽ ra không thể đồng nghe cùng một lúc. Ví như khi tôi khất thực ở thành Thất La Phiệt thì ở rừng Kỳ Đà nầy có cả 1250 vị sa môn, khi nghe tiếng chuông, đồng đến chỗ thọ trai một lượt. Nếu như tánh nghe của ông đến bên tiếng thì lúc ông nghe tiếng trống, có tiếng chuông lẽ ra ông không thể nghe được. Cũng như khi tôi đã về rừng Kỳ Đà thì không thể có mặt ở thành Thất La Phiệt nữa. Sự thật, không những ông nghe tiếng trống tiếng chuông mà ông còn nghe được cả tiếng voi, ngựa, trâu, dê và nhiều tiếng khác cùng một lúc. Còn nếu trống và tánh nghe không đến nhau thì không có gì để gọi là nghe cả. Vậy nên biết rằng: tánh nghe và tiếng cả hai đều là hư vọng, không phải nhơn duyên cũng không phải tự nhiên.

3. Hương và khứu (Hương trần và tánh ngửi)

A Nan! Ông hãy ngửi hương chiên đàn trong lư đầy, hương nầy nếu đốt một lạng thì cả thành Thất La Phiệt đều được ngửi được mùi thơm. Ông nghĩ thế nào? Mùi thơm sanh do gỗ chiên đàn? Do lỗ mũi? Hay do hư không? Nếu do lỗ mũi sanh thì nó từ lỗ mũi ra. Nhưng lỗ mũi không phải chiên đàn thì sao lại có được mùi thơm chiên đàn? Nếu từ hư không sanh, tánh hư không thường nhiên thì mùi thơm cũng phải thường nhiên, cần chi phải đốt chiên đàn trong lư mùi thơm mới có?

Nếu mùi thơm từ gỗ chiên đàn sanh, cần gì phải đợi đốt thành khói mới có chất thơm loan tỏa trong thành? Vì vậy, biết rằng: Hương trần và tánh ngửi không xứ sở, cả hai đều hư vọng, không phải nhơn duyên cũng không phải tự nhiên.

4. Vị và thường (Vị trần và tánh nếm)

A Nan! Thường thì ông trì bát khất thực ngày hai lần. Có khi được tô, lạc, đề hồ, là những vị ngon. Ông nghĩ thế nào? Vì do hư không sanh? Do lưỡi? Hay do đồ ăn sanh?

A Nan! Nếu vị do lưỡi sanh, trong miệng ông chỉ có một cái lưỡi làm sao biết được các vị: ngọt, chua và đắng? Nếu do đồ ăn sanh, đồ ăn thì vô tri giác làm sao biết được vị? Nếu vị từ hư không sanh, vậy ông hãy nếm xem hư không vị gì? Vì vậy, biết rằng: Vị trần và tánh biết nếm không có xứ sở, cả hai đều hư vọng, không phải nhơn duyên cũng không phải tự nhiên.

5. Xúc và thân (Xúc trần và tánh cảm thụ)

A Nan! Thường buổi sớm mai ông lấy tay xoa đầu. Ông nghĩ thế nào? Trong sự nhận biết xoa đầu, ông thử phân tích cái nào năng xúc cái nào sở xúc? Năng xúc ở tay hay ở đầu? Nếu ở tay, đầu không biết làm sao thành xúc? Nếu ở đầu, tay vô dụng cũng không gọi là xúc được. Nếu tay lẫn đầu đều biết xúc, vậy một mình ông có hai cái xúc. Thế thì trong ông có cả hai con người? Vả lại, nếu đầu và tay đồng một cảm xúc, thế thì cả hai cùng một tự thể. Nếu một tự thể thì không sở không năng, cái nghĩa cảm xúc không thành lập được. Nếu là hai thể thì cảm xúc ở phía nào? Ở bên năng thì không ở bên sở. Ở bên sở, không có bên năng. Không lẽ hư không làm cho ông có xúc? Vì vậy, biết rằng: Xúc và thân không xứ sở, cảm biết xúc cùng xúc trần đều hư vọng, không phải nhơn duyên cũng không phải tự nhiên.

6. Pháp và y (Pháp trần và y)

A Nan! Ý căn thường duyên với ba tánh. Thiện, ác và vô ký mà sanh pháp trần. Pháp trần đó tức tâm sanh hay ly tâm sanh?

A Nan! Nếu tức tâm sanh pháp trần thì pháp trần không còn trần nữa. Vì nó không là pháp sở duyên của tâm, làm sao thành xứ được? Bảo rằng ly tâm riêng có chỗ sanh cũng không được. Thử hỏi: Bản tánh của pháp trần có biết hay không biết? Nếu có biết thì không thể ly tâm. Nếu không biết thì nó ngoài sắc, thanh, hương, vị, xúc, ngoài hợp, ly, nóng, lạnh; ngoài cả hư không. Vậy thì pháp trần ở chỗ nào? Hiện tại trong sắc không v.v… Không thể chỉ cái gì là pháp trần. Chẳng lẽ trong nhơn gian lại có cái… ngoài hư không? Nếu không có đối tượng sở duyên thì ý căn do đâu thành lập xứ? Vì vậy, biết rằng: pháp trần cùng ý căn không có xứ sở, cả hai đều hư vọng, không phải nhơn duyên cũng không phải tự nhiên.

 

MƯỜI TÁM GIỚI LÀ HIỆN TƯỢNG BIỂU HIỆN TỪ NHƯ LAI TÀNG

1.Nhãn thức giới
2.Nhĩ thức giới
3.Tỷ thức giới
4.Thiệt thức giới
5.Thân thức giới
6.Ý thức giới

1. Nhãn thức giới

A Nan! Vì sao 18 giới là hiện tượng biểu hiện từ Như Lai tàng?

A Nan! Như ông đã biết: Nhãn căn và sắc trần làm duyên sanh nhãn thức. Nhãn thức nhơn nhãn căn sanh, lấy nhãn căn làm giới hay nhơn sắc trần sanh, lấy sắc trần làm giới?

A Nan! Nếu bảo rằng nhơn nhãn căn sanh, thử hỏi: Nếu không có sắc và không thì cái thức cũng chẳng dùng vào đâu được. Tánh thấy ngoài hình sắc và hiển sắc ra, không thể biểu hiện. Thế thì dựa vào đâu mà thành lập giới? Bảo rằng nhơn sắc trần sanh. Vậy lúc không có sắc trần, chỉ có hư không lẽ ra cái thức của ông bị diệt mất đi rồi, làm sao ông biết được hư không ? Bảo rằng: Do nhãn căn và sắc trần chung hợp sanh. Vậy, khi hợp lại thì ở giữa ly. Lúc ly ra thì hai bên hợp. Thể tánh xen lộn giữa cái biết và không biết thì cái gọi là giới không thể thành lập. Vì vậy, biết rằng nhãn căn và sắc trần làm duyên (điều kiện) sanh nhãn thức, cả ba đều không. Không phải nhơn duyên cũng không phải tự nhiên.

2. Nhĩ thức giới

A Nan! Như ông đã biết: Nhĩ căn và thanh trần làm duyên sanh nhĩ thức. Nhĩ thức nhơn nhĩ căn sanh, lấy nhĩ căn làm giới hay nhơn thanh trần sanh lấy thanh trần làm giới?

A Nan! Nếu nhơn nhĩ căn sanh mà không có hai tướng động và tĩnh thì cái biết của nhĩ căn không thành. Bởi vì chẳng có gì để biết! Cái biết đã không thì cái gọi là “nhĩ thức” hình mạo ra sao? Nếu bảo: Nhĩ thức nhơn thanh trần sanh. Vậy thì nhĩ thức vốn nhơn thanh trần mà có, nó chẳng tương quan gì với tánh nghe của lỗ tai. Đã không nghe thì cũng không biết gì là thanh trần và thanh trần ở đâu. Vì vậy, biết rằng: Nhĩ căn thanh trần làm duyên sanh nhĩ thức giới, ba chỗ đều không. Không phải nhơn duyên cũng không phải tự nhiên.

3. Tỷ thức giới

A Nan! Như ông đã biết: Tỷ căn và hương trần làm duyên sanh tỷ thức. Tỷ thức nhơn tỷ căn sanh, lấy tỷ căn làm giới hay nhơn hương trần sanh lấy hương trần làm giới?

A Nan! Ông nghĩ thế nào về tỷ căn? Ông lấy cái mũi thịt hình tướng như hai ngón tay dũi xuống hay lấy sự biết ngửi là tỷ căn? Nếu lấy hình tướng cái mũi thịt thì chưa đúng hẳn vì chất thịt thuộc thân căn. Và cái biết của thân căn là xúc. Đã là thân căn thì không phải tỷ căn. Đã gọi xúc trần thì đó là đối tượng của thân căn, không tương quan đến tỷ căn nữa. Vì vậy, tỷ căn còn không đáng gọi, làm sao thành lập tỷ căn giới?

Bảo rằng: Tỷ thức nhơn hương trần sanh càng vô lý. Nếu hương trần sanh tỷ thức thì tỷ thức không thể ngửi biết hương trần. Ví như con mắt, không tự thấy con mắt.

Nếu biết hương trần thì không do hương trần sanh. Nếu không biết hương trần thì không là tỷ thức nữa. Do vậy, biết rằng tỷ căn hương trần làm duyên sanh tỷ thức ba chỗ đều không. Không phải nhơn duyên cũng không phải tự nhiên.

4. Thiệt thức giới

A Nan! Như ông đã biết: Thiệt căn và vị trần làm duyên sanh thiệt thức. Thiệt thức nhơn thiệt căn sanh, lấy thiệt căn làm giới hay nhơn vị trần sanh, lấy vị trần làm giới?

A Nan! Nếu nhơn thiệt căn sanh thì những mía ngọt, mơ chua, ớt cay, hoàng liên đắng đều hóa ra vô vị? Vậy ông hãy tự liếm lưỡi của ông xem, nó ngọt hay đắng? Và ông hãy nghiệm xem, lấy cái gì nếm lưỡi để ông biết lưỡi đắng? Nếu bảo rằng vị trần sanh thiệt thức thì thiệt thức chính là vị trần. Vị trần không thể tự nếm vị trần, làm sao còn biết là có vị hay không có vị? Bảo rằng thiệt căn và vị trần hòa hợp sanh. Không được. Vì, đã là hòa hợp tất không có tự tánh còn lấy cái gì để thành lập thiệt thức giới? Vì vậy, biết rằng: Thiệt căn vị trần làm duyên sanh thiệt thức, ba chỗ đều không. Không phải nhơn duyên cũng không phải tự nhiên.

5. Thân thức giới

A Nan! Như ông đã biết: Thân căn và xúc trần làm duyên sanh thân thức. Thân thức nhơn thân căn sanh, lấy thân căn làm giới hay nhơn xúc trần sanh, lấy xúc trần làm giới?

A Nan! Nếu bảo rằng nhơn thân căn sanh, giả sử không có hai sự kiện hợp ly thì thân căn sẽ không có tác dụng. Bảo rằng nhơn xúc trần sanh. Không ổn. Vì có ai không có thân căn mà biết hợp biết ly?

A Nan! Vật thì không xúc không biết. Thân có biết có xúc. Biết thân là do có xúc. Biết xúc do có thân. Đã là xúc thì không phải thân. Đã là thân thì không phải xúc. Thân căn và xúc trần không có xứ sở. Nếu xúc trần hợp nhất với thân căn thì hóa thành tự thể của thân căn rồi. Nếu xúc trần tách rời thân căn, thì chẳng khác hư không và các tướng, không quan hệ gì nhau. Nội căn ngoại trần đã không thành thì làm sao lập được cái thức ở giữa. Thức đã không lập được thì nội căn ngoại trần bản tánh rỗng không. Ông sẽ dựa vào đâu để mà thành lập thân thức giới? Vì vậy, biết rằng: Thân căn xúc trần làm duyên sanh thân thức ba chỗ đều không. Không phải nhơn duyên cũng không phải tự nhiên.

6. Ý thức giới

A Nan! Như ông đã biết: Ý căn và pháp trần làm duyên sanh ý thức. Ý thức nhơn ý căn sanh, lấy ý căn làm giới hay nhơn pháp trần sanh, lấy pháp trần làm giới.

A Nan! Nếu bảo rằng ý căn sanh, thì trước hết ông phải có suy nghĩ, từ đó mới phát minh được cái ý của ông. Dù ý ông đã có, nhưng nếu không có đối tượng pháp trần thì ý căn của ông cũng không thể sanh được. Rời các pháp trần không thể nương vào đâu nhận thức hình mạo ý căn, thì cái ý thức còn đem dùng vào việc gì?

Lại nữa, ý thức của ông cùng với các thứ tư duy, nghĩ ngợi là đồng hay khác? Nếu đồng với ý căn thì thức là ý căn, duyên cớ gì phải có ý căn để rồi mới sanh ra ý thức? Nếu khác với ý căn, lẽ ra nó sẽ không còn biết được gì! Nếu không được gì, sao lại bảo nó do ý căn sanh ra? Nếu có biết thì cần chi phải gợi ý thức và ý căn cho thêm chuyện? Chỉ có hai tánh đồng hay khác mà còn không ổn định thì làm sao thành lập “giới” của ý thức cho được ?

Nếu bảo rằng nhơn nơi pháp trần sanh, thì các pháp trong thế gian không ngoài năm châu. Ông hãy xét các pháp: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, có tướng rõ ràng chúng là những đối tượng của năm căn, những pháp đó không thuộc phần tiếp thu của ý căn. Nếu bảo rằng ý thức của ông, nương pháp trần. Vậy ông xét kỹ xem cái tướng của pháp trần hình mạo như thế nào? Nên biết: Rời hẳn các tướng: Sắc, không, động, tĩnh, thông, bít, hợp, ly, sanh, diệt, rốt ráo không thành một pháp nào được cả. Các nguyên nhơn đã không thành thì cái thức do nó sanh ra còn có dáng mạo gì! Dáng mạo còn không có, làm sao mà lập được cái “giới” của ý thức? Vậy nên biết rằng: Ý căn pháp trần làm duyên sanh ý thức, cả ba đều không. Không phải nhơn duyên cũng không phải tự nhiên.

 TRỰC CHỈ

Trông ra hiện tượng vạn hữu ta thấy nghìn sai muôn khác, lớn, nhỏ, thấp, cao… khó mà dùng ngôn từ diễn đạt cho rành rọt. Nhưng tìm hiểu nguyên nhân gần của chúng, ta thấy tất cả đều biểu hiện theo cái thế liên hoàn của ba chân vạc, tác động qua lại giữa Căn Trần và Thức, mà hình thành và tồn tại. Cả cái vũ trụ vạn hữu vô thỉ vô chung vô cùng vô cực nầy, nếu tách rời căn trần thức giữa con người và vạn vật ra, thì chẳng còn có gì để luận bàn: Tâm, vật, thực, giả, có, không.

Càng không thể có cái gọi là “một đấng thiêng liêng” nào ở ngoài có đủ tư cách sáng tạo, sắp xếp vấn đề “vũ trụ nhơn sinh” được.

Căn thì có 6 nên gọi lục căn, Đó là: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Sáu căn kết hợp bởi tứ đại tinh hoa. Trong mỗi căn có hai bộ phận: Một là căn phù trần. Hai là căn tịnh sắc. Căn tịnh sắc cũng còn gọi là “Thắng nghĩa căn”. Căn này được kết hợp bằng những yếu tố tứ đại tinh hoa nhất đối với thân thể con người. Do vậy, nó là cơ quan có công năng phát sanh nhận thức, làm chỗ nương gá cho thức.

Trần có nghĩa là nhiễm ô. Vì những thứ nầy có thể làm cho căn bị nhiễm ô, ví như những bụi bặm làm ô nhiễm môi trường sống của xã hội loài người. Trần có 6 thứ, gọi là trần. Đó là: Sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp. Trần mà không có căn thì trần không là trần nữa; ngược lại căn mà không có trần thì căn không còn là căn được.

Thức có 6 nên gọi là lục thức. Đó là: Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức. Thức nương căn trần mà phát sanh. Thức mà không có căn trần thì thức không có lý do hiện hữu. Căn trần mà không có thức thì căn trần không biểu hiện được thể dụng của căn trần. Cho nên căn trần thức là một hiện tượng gắn bó mật thiết tác động hữu cơ. Hiện tượng vạn pháp hình thành và tồn tại trong cái thế “duyên sanh” không thể tách rời giữa căn, trần, thức ấy. Vậy mà từ trước đến đây, và chưa phải ngừng ở đoạn kinh nầy, Đức Phật quở rầy và nhắc nhở về cái thuyết “nhơn duyên sanh” ấy. Vì sao như vậy? Vì rằng: Nếu đứng bên tục đế mà nhìn hiện tượng vạn hữu qua cái lý “nhơn duyên sanh” thì hoàn toàn đúng. Không những nó đúng riêng trong nền giáo lý Phật mà nó đúng sự thật của cuộc đời, đúng với quy luật khách quan của hiện tượng vạn hữu.

Tuy nhiên, nếu đứng bên chơn đế mà nhìn, nhìn bằng tri kiến rộng rãi hơn, quán triệt căn nguyên, xuyên suốt bản thể của hiện tượng vạn hữu thì hiện tượng nào cũng là hiện tượng của bản thể; cũng như sóng mòi nào cũng là sóng mòi của thể nước lặng trong. Vì vậy, cho rằng: Sóng là nước, thì đó là cái hiểu biết của những đứa trẻ ấu trĩ ngây thơ. Bảo rằng: Sóng không phải nước là tri kiến của một em bé khác. Nói rằng: Sóng là hiện tượng “duyên sinh” của nước, ta có thể nói chuyện đạo lý với lứa tuổi 20 nầy.

Khi nào người ta ngắm biển với một nhận thức không băn khoăn với một tri kiến thanh thản hồn nhiên trước cảnh sóng gào gió lộng… thì khỏi nói gì với họ về vấn đề sóng… nước… Vì họ đã biết rõ thể nước phẳng lặng và là H2O. Vì họ đã rõ sóng là “hiện tượng duyên sanh” của nước. Sóng và nước không phải là cái có thể tách rời nhau. Như Lai tàng ở kinh Thủ Lăng Nghiêm nói, ví như cái thể H2O của những đợt sóng kia. Cái vạn hữu duyên sanh, ví như những đợt sóng bởi những cơn gió lộng, bởi những đua thuyền mà tạo nên hiện tượng “duyên sanh” ấy.

Bản thể Như Lai tàng cùng với hiện tượng vạn hữu “bất ly” mà “bất tức”!

 

BẢY ĐẠI LÀ HIỆN TƯỢNG BIỂU HIỆN TỪ NHƯ LAI TÀNG

1.Địa đại hoàn nguyên
2.Thủy đại hoàn nguyên
3.Hỏa đại hoàn nguyên
4.Phong đại hoàn nguyên
5.Không đại hoàn nguyên
6.Kiến đại hoàn nguyên
7.Thức đại hoàn nguyên

Ông A Nan thưa: Bạch Thế Tôn! Như Lai thường nói về nhơn duyên hòa hợp: Rằng tất cả các thứ biến hóa trong thế gian đều nhơn bốn đại hòa hợp mà phát sanh. Thế nào Như Lai ở đây lại bác bỏ cả hai nghĩa “nhơn duyên” và “tự nhiên”. Tôi không biết nghĩa đó thế nào, xin Phật rủ lòng thương xót chỉ dạy cho chúng sanh pháp liễu nghĩa trung đạo ra ngoài hí luận.

Bấy giờ Ðức Thế Tôn bảo ông A Nan: Rằng trước đây, ông nhàm chán pháp tiểu thừa của Thanh Văn, Duyên Giác, phát tâm cầu vô thượng Bồ Đề, nên giờ đây tôi hướng dẫn ông về “đệ nhất nghĩa đế”, sao ông lại còn đem những thuyết nhơn duyên vọng tưởng hí luận thế gian mà ràng buộc lấy mình! Ông dù nghe được nhiều pháp, nhưng cũng như người nói tên thuốc, đến khi gặp thuốc thật trước mắt mà không phân biệt được. Như Lai gọi ông là hạng người rất đáng thương xót! Nay ông hãy nghe cho kỹ, tôi sẽ vì ông phân tách chỉ bày và cũng để cho những người tu học đại thừa sau nầy thông suốt được thật tướng. Ông A Nan yên lặng kính vâng thánh ý của Phật.

A Nan! Như ông đã nói: “Bốn đại hòa hợp phát sanh ra các thứ biến hóa trong thế gian”. A Nan! Nếu tánh của các món đại không hòa hợp thì không thể hòa hợp với các đại khác. Như hư không, không thể hòa hợp với sắc tướng. Nếu tánh của các món đại vốn hòa hợp thì nó hòa đồng với các tướng biến hóa: Thỉ, chung thành tựu cho nhau; sanh diệt nối nhau; diệt sanh, sanh diệt; diệt diệt, sanh sanh như vòng lửa xoay; như nước thành băng, băng lại thành nước, không có đầu mối cũng không có cuối cùng.

1. Địa đại hoàn nguyên

A Nan! Ông hãy xét cái tánh của địa đại, lớn là đất liền, nhỏ là vi trần, thật vi tế là lân hư trần; do chẻ sắc chất cực vi làm bảy phần mà thành. Nếu đem lân hư trần chẻ ra thành hư không thì hư không cũng có thể sanh sắc tướng? Ông hỏi rằng. Do hòa hợp mà sanh các tướng biến hóa ở thế gian, vậy ông hãy xét. Một hạt lân hư trần phải dùng bao nhiêu hư không hòa hợp lại mà thành? Không lẽ lân hư trần hòa hợp thành lân hư trần! Lại nữa, lân hư trần chẻ ra thành hư không. Vậy dùng bao nhiêu sắc tướng hòa hợp lại mới thành cả bầu hư không vô cùng cực nầy? Nhưng nếu sắc tướng hợp thì hợp sắc tướng chứ không thể thành hư không; còn hư không hợp thì hợp hư không, không thể thành sắc tướng. Sắc tướng còn có thể chẻ được, chứ hư không thì làm sao mà hợp được?

Ông vốn không biết thể tánh của các pháp trong Như Lai tàng. Sắc là chơn không. Không là chơn sắc. Nó thanh tịnh bản nhiên; khắp cùng pháp giới, tùy tâm chúng sanh, đáp ứng với lượng sở tri, theo nghiệp mà phát hiện. Thế gian không biết lầm tưởng nhơn dyên, hoặc cho là tự nhiên, đều là những phân biệt so đo của ý thức. Nó chỉ đúng trong ngôn thuyết luận đàm mà hoàn toàn không có thực nghĩa.

2. Thủy Ðại Hoàn Nguyên

A Nan! Tánh nước không cố định, khi tuôn chảy khi đứng lặng không chừng. Trong thành Thất La Phiệt, các ông Tiên Ca Tỳ La. Chiên Ca La và các nhà huyễn thuật Bát đầu na v.v… muốn có thứ nước Thái Âm tinh để hòa làm thuốc huyễn thuật. Họ lựa ngày trăng tròn sáng lộng như ban ngày, tay cầm hạt châu Phương Chư hứng lấy nước dưới trăng vàng. Vậy nước ấy từ hạt châu ra? Từ hư không có? Hay từ mặt trăng mà đến?

A Nan! Nếu nước từ mặt trăng đến, vậy những rừng cây to, bóng cả ở tận những đỉnh núi cao, khi sáng trăng thì tất cả lá cành đều phun ra nước cả? Bởi lẽ những rừng cây đỉnh núi, gần với trăng hơn là ngọc Phương Chư trong tay người hứng nước ở đồng bằng. Nếu bảo rằng: Nước từ hạt châu ra, thì từ hạt châu phải thường rịn chảy ra nước, cần chi phải đợi có ánh sáng? Bảo rằng: Nước từ hư không sanh. Hư không thì vô cùng vô cực. Hư không bao trùm vạn vật. Vậy sao cả loài người chưa bị đắm chìm để cùng chết ngộp cho vui trong một lúc? Thủy, lục, không, hành toàn nước và nước cả hay sao?

Ông nên nghĩ kỹ: Mặt trăng từ trên không đi qua. Hạt châu do tay người cầm. Cái chén bạc hứng nước do con người tạo. Vậy nước kia từ phương nào đến? Mặt trăng và hạt châu xa nhau không phải hòa, không phải hợp. Không lẽ nước kia không do đâu mà tự có ra?

Ông còn chưa biết, thể tánh của các pháp trong Như Lai tàng: Thủy là chơn không. Không là chơn thủy. Nó thanh tịnh bản nhiên, khắp cùng khắp giới, tùy tâm chúng sanh, đáp ứng với lượng sở tri theo nghiệp mà phát hiện. Thế gian không biết lầm tưởng nhơn duyên hoặc cho là tự nhiên đều là những phân biệt so đo của ý thức. Nó chỉ đúng trong ngôn thuyết luận đàm mà hoàn toàn không có thực giả.

3. Hỏa Ðại Hoàn Nguyên

A Nan! Hỏa đại không có tự thể. Nó nương gởi ở các duyên. Ông hãy xem, những nhà trong thành phố, khi người ta muốn có lửa để nấu thức ăn. Tay họ cầm kính dương toại và một nhúm bùi nhùi đưa trước ánh sáng mặt trời mà lấy lửa.

A Nan! Phàm gọi là hòa hợp thì như tôi với ông và 1250 vị tỳ kheo hiện hợp thành một chúng. Chúng thì có một, song gạn xét về cội gốc thì mỗi người đều có thân thể đều có danh tự họ hàng của mình. Như ông Xá Lợi Phất thì dòng Bà La Môn. Ông Ưu Lâu Tần Loa thì dòng Ca Diếp. Còn như A Nan ông, thì thuộc dòng họ Cù Đàm.

A Nan! Nếu lửa đó nhơn hòa hợp mà có, vậy khi người ta cầm kính lấy lửa nơi ánh sáng mặt trời, lửa đó từ kính mà ra? Do hư không mà có? Hay từ mặt trời mà đến? A Nan! Nếu lửa từ mặt trời đến, lửa đã đốt được bùi nhùi trong tay của ông thì những rừng cây mà ánh sáng mặt trời đi ngang qua lẽ ra đều bị cháy cả! Nếu từ kính ra đốt cháy bùi nhùi, sao cái kính không bị chảy? Đến như cái tay ông cầm kính còn không thấy nóng thì làm sao kính chảy được? Còn bảo rằng do bùi nhùi sanh thì cần gì phải có ánh sáng mặt trời và kính trực chiếu vào nhau rồi sau đó lửa mới bén cháy bùi nhùi?

Ông hãy suy nghĩ cho chín chắn: Kính do tay cầm. Mặt trời thì ở trên không trung. Bùi nhùi do con người tạo. Vậy lửa từ phương nào mà xuất hiện đến? Mặt trời và kính xa nhau, không phải hòa không phải hợp, không lẽ lửa kia không do đâu mà tự có ra?

Ông còn chưa biết thể tánh của các pháp trong Như Lai tàng: Hỏa là chơn không. Không là chơn hỏa. Nó thanh tịnh bản nhiên, khắp cùng pháp giới, tùy tâm chúng sanh, đáp ứng với lượng sở tri: Một người cầm kính một chỗ có lửa sanh ra; khắp pháp giới mọi người cầm kính, lửa sẽ phát ra theo yêu cầu của mọi người. Lửa vốn không có chỗ ở, theo nghiệp mà phát hiện. Thế gian không biết lầm tưởng là nhơn duyên hoặc cho là tự nhiên, đều là những phân biệt so đo của ý thức. Nó chỉ đúng trong ngôn ngữ luận đàm mà hoàn toàn không có thực nghĩa.

4. Phong Ðại Hoàn Nguyên

A Nan! Phong đại không hình thể, khi động khi tĩnh bất thường. Lúc vào trong đại chúng, ông sửa áo, vạt áo tăng già lê của ông động thì người ngồi gần ông có gió nhẹ phát qua làm cho người kia cảm nghe mát mặt. Gió từ vạt áo cà sa ra? Do hư không phát khởi? Hay từ mặt người kia sanh?

A Nan! Nếu gió phát ra do vạt áo cà sa thì ông đã mặc cả gió trong người, lẽ ra cái áo phải tung ra khỏi thân ông. Còn tôi, tôi đang thuyết pháp trong hội nầy và tôi rũ áo. Vậy ông xem cái áo tôi, gió núp ở chỗ nào? Không lẽ trong áo tôi lại có chỗ chứa gió?

Bảo rằng: Gió từ hư không sanh, thì tại sao lúc áo ông không động, không có gió phát ra? Vả lại, tánh hư không thường còn, lẽ ra gió phải luôn có không lúc nào gián đoạn. Và nếu khi nào hết gió thì hư không phải tiêu diệt? Gió diệt có thể biết được, chứ hư không diệt thì hình trạng thế nào? Và nếu có diệt có sanh thì không được gọi là hư không, đã là hư không thì làm sao lại phát sanh gió? Bảo rằng: Gió sanh do cái mặt của người bị phát thì lẽ ra gió phải phất lại mặt ông. Cớ sao ông sửa áo mà lại phất vào mặt người kia như vậy?

Ông hãy chín chắn mà tư duy: Sửa áo là do ông. Cái mặt thuộc của người kia. Hư không thì vắng lặng. Vậy gió từ phương nào luồn đến? Gió khác, hư không khác, không phải hòa, không phải hợp. Không lẽ gió không do gì mà tự có?

Ông còn không biết thể tánh của các pháp trong Như Lai tàng: Phong là chơn không. Không là chơn phong. Nó thanh tịnh bản nhiên khắp cùng pháp giới, tùy tâm chúng sanh, đáp ứng lượng sở tri. Một mình ông động áo thì có một ít gió phát ra. Khắp pháp giới nhiều người cùng cầm quạt mà quạt thì khắp pháp giới sanh ra phong đại. Phong đại khắp cùng nhưng không có chỗ ở nhất định, theo nghiệp mà phát hiện. Thế gian không biết lầm tưởng nhơn duyên hoặc cho là tự nhiên, đều là phân biệt so đo của ý thức. Nó chỉ đúng trong ngôn thuyết luận đàm mà hoàn toàn không có thực nghĩa.

5. Không Ðại Hoàn Nguyên

A Nan! Hư không không có hình mạo, nhơn sắc tướng mà hiển bày. Trong thành Thất La Phiệt, chỗ cách sông, người ta dựng nhà ở thì đào giếng để lấy nước dùng. Đào được một thước khối đất thì có một thước khối khoản hư không. Nếu đào sâu 20 thước thì có khoản trống hư không 20 thước. Hư không cạn hay sâu tùy đất đào ra nhiều hay ít. Hư không đó nhơn đất mà ra? Do đào mà có? Hay không nhơn gì tự sanh?

A Nan! Nếu hư không, không nhơn duyên gì mà tự sanh, tại sao khi chưa đào đất, nơi đó không có hư không mà chỉ thấy đất liền? Bảo rằng: Nhơn đất ra, thì lẽ ra khi đất được đào phải lấy từng mảng hư không văng ra, và nếu vậy là đào hư không chứ sao gọi là đào đất? Đã là hư không khi cần chi phải nói đến chuyện đào? Bảo rằng: Hư không do đào mà có thì đào phải ra hư không, cớ sao lại đào ra đất ? Nếu hư không, không phải do đào mà có, thì đào lẽ ra chỉ có đất, cớ sao đào rồi lại thấy hư không?

Ông nên chín chắn mà tư duy. Đào là do tay người, tùy phương mà vận chuyển. Đất thì từ đất liền mà dời đi. Hư không đó do đâu mà có? Đào là cụ thể, bởi sức tác động của con người. Hư không thì rỗng rang không hình mạo, hai yếu tố không tương quan tác dụng gì nhau, không phải hòa, không phải hợp. Không lẽ hư không, không do đâu mà tự sanh như thế?

Hư không thể tánh tròn đầy, bất động. Hiện tiền hư không và địa, thủy, hỏa, phong, gọi chung là năm đại thể tánh viên dung, vốn không sanh diệt. Các đại đó đều là diệu dụng của Như Lai tàng biểu hiện!

A Nan! Ông còn mê muội không biết được thể tánh của các pháp trong Như Lai tàng. Giác là chơn không. Không là chơn giác. Nó thanh tịnh bản nhiên khắp cùng pháp giới tùy chúng sanh tâm, đáp ứng với lượng sở tri: Một giếng trống không, hư không sanh trong một giếng. Mười phương trống không, hư không khắp cả mười phương. Không đại khắp cùng theo nghiệp mà phát hiện. Thế gian không biết lầm tưởng nhơn duyên, hoặc cho là tự nhiên đều là những phân biệt so đo của ý thức. Nó chỉ đúng trong ngôn thuyết luận đàm mà hoàn toàn không có thật nghĩa.

6. Kiến Ðại Hoàn Nguyên

A Nan! Kiến đại có giác chiếu mà không liễu tri phân biệt. Nó nhơn các thứ: Sắc, không, mà có. Như hiện nay ông đang ở trong rừng Kỳ Đà, sớm mai thì sáng, chiều hôm thì tối; đêm trăng tỏ thì sáng, lúc trăng mờ thì tối. Những tướng sáng tối do cái thấy mà phân biệt nhận ra. Vậy cái tánh thấy cùng với sáng tối và hư không là đồng một thể hay là khác thể?

A Nan! Nếu tánh thấy cùng với sáng tối và hư không đồng một thể thì cái sáng tối luôn luôn tiêu diệt lẫn nhau: có sáng thì không tối; có tối thì không sáng. Nếu tánh thấy đồng một thể với tối thì lúc sáng tánh thấy bị tiêu diệt; ngược lại, nếu tánh thấy đồng một thể với sáng thì khi tối đến tánh thấy cũng bị tiêu diệt. Vậy thì tánh thấy làm sao mà thấy được tối sáng? Bảo rằng: Sáng và tối khác nhau còn tánh thấy không sanh, không diệt. Nếu vậy, thì không nên nói là đồng một thể, vì nó đã khác đi rồi.

Và nếu tánh thấy đã khác với tối sáng, khác với hư không, vậy ông phân biệt xem tánh thấy hình tướng ra sao? Ông nên biết: Rời tối sáng và hư không, tánh thấy như lông rùa sừng thỏ, không sao tìm có.

Ông hãy chín chắn mà tư duy: Sáng, do mặt trời. Tối, bởi đêm không trăng. Thông suốt, là hư không. Ngăn bít thuộc đất liền. Còn cái tánh thấy như vậy, nhơn đâu mà có? Tánh thấy có giác chiếu, hư không thì bất động, không phải hòa, không phải hợp. Không lẽ cái tánh thấy không do gì mà tự phát sanh ra? Nên biết: Thể tánh của kiến đại cùng khắp bất động; vô biên hư không cũng cùng khắp bất động. Địa, thủy, hỏa, phong, gọi chung là “lục đại” thể tánh viên dung cùng khắp bất động, không diệt không sanh. Tất cả đều là diệu dụng của Như Lai tàng biểu hiện!

A Nan! Ông còn mê mờ không nhận thức được: Kiến, văn, giác, tri của ông cùng thể tánh của các pháp trong Như Lai tàng. Kiến đại vốn là giác minh. Giác minh tinh kiến (tánh thấy vốn thanh tịnh, hiện lượng và trực giác). Nó thanh tịnh bản nhiên, cùng khắp pháp giới, tùy tâm chúng sanh, đáp ứng với lượng sở tri. Kiến đại thấy khắp pháp giới, tánh nghe, tánh ngửi, tánh nếm, tánh xúc và tánh biết cũng cùng khắp pháp giới nhiệm mầu. Nên biết: Tánh của các đại không có nhất định, theo nghiệp mà phát hiện. Thế gian không biết lầm tưởng nhân duyên hoặc là tự nhiên đều là những phân biệt so đo của ý thức. Nó chỉ đúng trong ngôn thuyết luận đàm mà hoàn toàn không có thực nghĩa.

7. Thức Ðại Hoàn Nguyên

A Nan! Thức đại không có nguồn gốc, nhơn sáu thức căn trần giả tạm mà phát sinh. Nay ông hãy dùng mắt ngó lướt qua khắp hết thánh chúng trong hội nầy xem. Cái tánh thấy của ông như tấm gương, tiếp thu tất cả hình dáng in vào mà không có mảy may phân biệt (hiện lượng tiếp thu tánh cảnh). Rồi ông hãy dùng cái thức của ông, theo thứ lớp mà chỉ ra. Đây là Văn Thù, đây là Phú Lâu Na, đây là Mục Kiền Liên, đây là Tu Bồ Đề và kia là Xá Lợi Phất… Cái thức phân biệt của ông sanh từ mắt? Hay sanh bởi các tướng? Do hư không? Hay không do gì mà thức tự có ra?

A Nan! Nếu bảo rằng: Thức do mắt sanh. Phỏng sử không có các tướng sắc, không tối, sáng, cái tánh thấy của ông còn có cơ sở để tồn tại được không? Cái thấy còn không thể có thì còn y cứ vào đâu để có được cái “thức” phân biệt của ông? Nếu bảo rằng: Thức sanh do các tướng chứ không phải do cái thấy. Thế thì ông lấy gì để thấy được sáng tối? Sáng tối đã không thấy thì cũng không biết được các tướng sắc không! Các tướng còn không có thì “cái thức” do đâu tồn tại! Nếu cho rằng: Thức sanh do hư không, có ngoài cả các tướng và tánh thấy. Nếu quả thật vậy, thì ông không còn biện biệt được gì; vì chẳng có gì để cho ông phân biệt!

Nếu bảo rằng: Thức sanh không có sở nhơn, đột nhiên mà có. Đó là một tri kiến sai lầm. Có ai phân biệt sáng trăng giữa lúc mặt trời đứng bóng?

Ông hãy chín chắn mà tư duy: Cái tánh thấy gá vào mắt ông. Các tướng thuộc tiền trần. Có cái hình tướng là có. Cái không dáng mạo là không. Còn cái thức như vậy nhơn đâu mà ra? Cái thức thì năng động. Cái tánh thấy thì lặng lẽ, không phải hòa, không phải hợp. Nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức cũng vậy. Thế thì không lẽ cái thức phân biệt không do đâu mà tự có?

A Nan! Ông nên biết: Thức vốn không xứ sở. Các tánh: Thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc, biết cũng như vậy. Tánh của kiến đại và thức đại viên mãn trạm nhiên, cùng với địa, thủy, hỏa, phong, không, gọi chung là thất đại, thể tánh viên dung, không sanh không diệt. Tất cả đều là diệu dụng của Như Lai tàng biểu hiện.

A Nan! Tâm ông nông nổi, không nhận biết các việc: Kiến, văn, giác, tri cũng như thể tánh của các pháp trong Như Lai tàng: Tánh của thức minh tri. Giác minh là chơn thức. Diệu giác trạm nhiên, khắp cùng pháp giới, ẩn hiện trong mười phương, không có xứ sở, theo nghiệp mà phát hiện. Thế gian không biết lầm tưởng nhơn duyên hoặc cho là tự nhiên, đều là phân biệt so đo của ý thức. Nó chỉ đúng trong ngôn thuyết luận đàm mà hoàn toàn không có thực nghĩa.

TRỰC CHỈ

Năm ấm, sáu nhập, mười hai xứ, mười tám giới, bảy đại đều là hiện tượng biểu hiện của Như Lai tàng. Nói cách khác, Như Lai tàng là bản thể của 5 ấm, 6 nhập, 12 xứ, 18 giới và 7 đại. Đề cập đến bản thể hiện tượng là một vấn đề lớn, một vấn đề mang tính triết học của Phật giáo, nếu ta nhìn Phật giáo qua lăng kính triết học. Nhưng đối với Phật giáo người ta có cho nó là triết học hay không, là triết học điều đó chẳng có giá trị thêm bớt gì. Sự thuyết pháp của Phật nhằm nói lên chân lý khách quan, nói lên cái nguyên ủy của sự hình thành và sự tồn tại khách quan của vũ trụ vạn hữu. Sự thật như thế nào, Phật nói như thế ấy vậy thôi. Giáo lý của kinh Thủ Lăng Nghiêm, triển khai: Tất cả hiện tượng vạn hữu hình thành từ chất liệu của bốn khoa và bảy đại. Rằng hiện trạng vạn hữu do ngũ uẩn tổ hợp mà thành. Từ ngũ uẩn lập ra 12 thứ sắc pháp. Từ ngũ uẩn lập ra 8 pháp tâm vương. Từ ngũ uẩn triển khai 51 thứ tâm sở. Từ ngũ uẩn diễn biến ra 24 thứ pháp bất tương ứng. Từ ngũ uẩn thành lập 95 pháp hữu vi và cũng từ ngũ uẩn mà an lập 6 thứ vô vi pháp. Tất cả ngần ấy thứ đều là hiện tượng của Như Lai tàng, từ chủng tử trong Như Lai tàng duyên khởi biểu hiện ra:

TÀNG có nghĩa là kho tàng. Ví như cái kho chứa tất cả hạt giống của ngũ cốc, ngũ quả.

NHƯ có nghĩa là bất biến.

LAI có nghĩa là tùy duyên.

NHƯ LAI TÀNG ví như cái kho hàm chứa tất cả chủng tử của hiện tượng vạn hữu. Những chủng tử được chứa trong kho tàng nầy, tùy duyên sanh ra rồi cũng tùy duyên hoại diệt. Diệt mà không mất hẳn, diệt để lại sanh. Sanh mà không trường sanh, sanh để rồi lại diệt. Sanh diệt, diệt sanh; sanh sanh, diệt diệt, vô thỉ vô chung, vô cùng vô cực. Sự sanh diệt, diệt sanh đó, thuật ngữ Phật học gọi là: TÙY DUYÊN BẤT BIẾN; BẤT BIẾN TÙY DUYÊN. Sanh diệt, nhưng sanh diệt trong cái vĩnh cửu. Vĩnh cửu, nhưng vĩnh cửu trong quá trình sanh diệt. Ví như những đợt sóng tùy duyên sanh diệt trên mặt nước bất biến của thể nước H2O của biển cả, của ao hồ, sông rạch…

Ta hãy tư duy để có khái niệm về bản thể Như Lai tàng, qua hình đồ được cụ thể hóa như sau:

NHƯ LAI TÀNG

 

ÔNG A NAN VÀ ĐẠI CHÚNG TÁN DƯƠNG PHẬT, PHÁT NGUYỆN VÀ TRÌNH PHẬT NHỮNG ĐIỀU TÂM ĐẮC CỦA MÌNH

Ông A Nan và đại chúng nhờ Phật chỉ dạy rằng phương tiện dẫn dụ, lời lẽ khéo léo nhiệm mầu. Cả thính chúng thân tâm thanh thoát rỗng rang. Mỗi người tự biết chơn tâm mầu nhiệm của mình vốn khắp cùng pháp giới và thấy mười phương hư không như xem cành hoa lá đang cầm trên cây, tất cả sự vật hiện tượng trên thế gian đều là diệu dụng của tâm Bồ Đề nhiệm mầu, sáng suốt của mình biểu hiện. Tỏ ngộ lẽ sống chết của cái thân cha mẹ sanh ra, như sự diệt sanh của những bong bóng giữa đại dương rồi chìm tụ tán! Chỉ có tâm tánh nhiệm mầu khắp pháp giới mười phương mới thật là tâm tánh bản lai thường trú của chính mình.

Ở trước Phật, ông A Nan thay lời đại chúng, xin được nói lên một bài kệ tán dương Đức Phật, phát nguyện và trình lên Phật điều tâm đắc của tận đáy lòng:

Cao quí thay! Thủ Lăng Nghiêm Vương ít có
Là pháp diệu trạm, bất động tổng trì
Trừ hết tưởng điên đảo ức kiếp của con
Không trải A Tăng Kỳ mà được pháp thân
Tôi nguyện từ nay cho đến khi thành Phật
Độ chúng sanh như số cát sông Hằng.
Đem thâm tâm phụng sự vì trần quốc
Thế mới đủ đáp đền thâm ân Phật.
Cúi xin Thế Tôn chứng minh cho:
Đời trược ác tôi thề vào trước
Còn một chúng sanh chưa thành Phật
Thì tôi không nhận hưởng Niết Bàn
Bạch đấng Đại hùng, Đại lực, Đại từ bi
Tôi hy vọng xét trừ vi tế hoặc
Để sớm lên Vô Thượng Bồ Đề
Tôi sẽ làm Phật sự khắp mười phương
Hư không dù hết, nguyện tôi không cùng
.