Luận Thành Duy Thức

Luận Thành Duy Thức

Hải 15

1. Các thuyết ngoại giáo

Vì sao không thể nắm bắt thực ngã?[1]

Một cách tổng quát, có ba loại chấp ngã: 1. Chủ trương tự thể của ngã thường hằng, châu biến, lượng đồng hư không. Bởi vì, tùy theo môi trường mà nó tạo nghiệp, hay thọ nhận khổ, lạc. [2] 2. Chủ trương tự thể của ngã thì thường hằng nhưng lượng của nó thì bất định; bởi vì nó trải rộng hay thu nhỏ tùy theo sự lớn hay nhỏ của thân.[3] 3. Chủ trương tự thể của ngã là thường hằng, và cực kỳ vi tế như một cực vi, tiềm tàng chuyển vận trong thân để tạo tác sự nghiệp.[4]

1.  Quan điểm thứ nhất là phi lý. Vì sao?

a. Chủ trương rằng tự ngã thường hằng, phổ biến, lượng đồng hư không, thế thì nó không tùy thân lãnh thọ khổ lạc.[5]

b. Thêm nữa, vì là thường hằng phổ biến nên nó không thể chuyển động,[6] vậy làm thế nào nó có thể tùy theo thân tạo tác các nghiệp?[7]

c. Lại nữa, ngã theo quan điểm này là đồng nhất hay dị biệt trong tất cả hữu tình? Nếu là đồng nhất, khi một cá thể tác nghiệp, tất cả cũng tác nghiệp;[8] khi một cá thể lãnh thọ quả, tất cả cũng lãnh thọ; khi một cá thể chứng đắc giải thoát, tất cả cũng giải thoát. Như thế thì hết sức sai lầm. Nếu nói là dị biệt,[9] tự ngã của các hữu tình phổ biến lẫn nhau cho nên tự thể trở thành hỗn tạp.

d. Lại nữa, khi một cá thể tác nghiệp, một cá thể lãnh thọ quả báo, khi ấy cũng nên nói tất cả đều tác nghiệp, đều lãnh thọ, vì xứ sở của tự ngã không dị biệt. Nếu nói, tác nghiệp và lãnh thọ đều có sở thuộc riêng biệt cho nên không phạm sai lầm ấy; điều này cũng không hợp lý. Nghiệp, quả và thân cùng hiệp nhất với ngã, nhưng lại thuộc vể nơi này mà không thuộc về nơi kia, thế thì không hợp lý.

e. Lại nữa, khi một cá thể giải thoát, tất cả cũng đều giải thoát, vì pháp được tu và được chứng cùng hiệp nhất với tất cả tự ngã.

2. Quan điểm thứ hai cũng phi lý.[10] Vì sao?

a. Nếu tự thể của ngã là thường trú, nó không thể trải rộng hay co rút tùy theo thân. Đã có sự trải rộng hay co rút, như gió trong đãy hay ống sáo, không thể là thường trú.

b. Lại nữa, ngã có thể bị chia chẻ tùy theo thân, như thế làm sao có thể cho rằng tự thể của ngã nhất thể?

Cho nên, thuyết của phái này giống như trò đùa của trẻ nít.

3. Thuyết sau cùng cũng phi lý. Vì sao?

Lượng của ngã cực tiểu, chỉ bằng như một cực vi, làm sao có thể khiến cho toàn thân to lớn chuyển động?[11]

ếu nói tự ngã tuy nhỏ nhưng chạy khắp thân nhanh như vòng lửa quay, có vẻ như chuyển động toàn diện; ngã được quan niệm như thế thì không phải là nhất thể, không phải thường hằng. Vì tất cả những gì có di chuyển đều không phải là nhất thể, không phải thường hằng.

2. Uẩn và ngã

Lại nữa, có ba quan điểm về ngã[12]: 1. đồng nhất với uẩn; 2. dị biệt uẩn; 3. phi đồng nhất phi dị biệt đối với uẩn.[13]

1. Thứ nhất, uẩn tức ngã, phi lý.

a. Vì như uẩn, ngã không phải là thường hằng, không phải là nhất thể.

b. Lại nữa, các sắc trong nội thân quyết định không phải là thực ngã, vì có chất ngại,[14] như ngoại sắc.

b. Tâm và tâm sở pháp[15] cũng không phải là thực ngã, vì không hằng tương tục, và vì cần hội đủ duyên.[16]

c. Các hành và các sắc còn lại[17] cũng không phải là thực ngã, như hư không, vì không phải là giác tánh.[18].

Thứ hai, ngã lìa uẩn cũng phi lý, vì như hư không không có tác và thọ.

3. Thứ ba, phi đồng nhất và phi dị biệt đối với uẩn, cũng phi lý.

a.Vì nếu y trên uẩn mà thiết lập ngã nên không phải đồng nhất cũng không phải dị biệt uẩn, thế thì, như bình các thứ, vì không phải là thực ngã.

b. Lại nữa, đã không thể nói là hữu vi hay vô vi,[19] thì cũng không thể nói là ngã hay phi ngã. Do đó, ngã theo quan niệm của thuyết ấy không thành.

3. Tổng hợp phê bình

1. Lại nữa, thể của ngã được quan niệm là thực hữu ấy có tư lự, hay không có tư lự?[20]

a. Nếu có tư lự, tất là vô thường, vì không phải có tư lự trong tất cả mọi thời gian.

b. Nếu không có tư lự, thì như hư không, nó không thể tác nghiệp, cũng không thọ quả.

Do đó, quan niệm về ngã không chứng minh được lý do của nó.

2. Lại nữa, thể của ngã được quan niệm là thực hữu ấy có tác dụng, hay không có tác dụng?

a. Nếu có tác dụng,[21] thì như tay hay chân,[22] phải là vô thường.

b. Nếu không có tác dụng, như sừng thỏ, tất không phải là thực ngã.

Do đó, hai quan niệm về ngã này đều bất thành.

3. Lại nữa, thể của ngã được quan niệm là thực hữu ấy có phải là cảnh sở duyên của ngã kiến không?[23]

a. Nếu không phải là cảnh sở duyên của ngã kiến, làm sao các ngài biết thực có ngã?

b. Nếu ngã là cảnh sở duyên của ngã kiến, thế thì có phạm trù ngã kiến không được bao hàm trong điên đảo, vì là được biết một cách như thực.[24] Nếu vậy, tại sao Chí giáo mà những người theo quan điểm hữu ngã tin theo[25] lại chỉ trích ngã kiến, ca ngợi vô ngã, nói rằng, ai không ngã kiến thì chứng Niết-bàn; ai chấp trước ngã kiến thì chìm đắm sinh tử? Há có trường hợp, người có tà kiến thì chứng Niết-bàn, trái lại chánh kiến khiến cho trầm luân sinh tử?

c. Lại nữa, các ngã kiến đều không duyên thực ngã, vì có sở duyên.[26] Như tâm duyên các pháp khác.[27] Sở duyên của ngã kiến quyết định không phải thực ngã, vì là sở duyên, như các pháp khác.[28]

Do đó, ngã kiến không duyên thực ngã. Nhưng nó lấy các uẩn là những biến hiện của thức làm đối tượng, rồi tùy theo tưởng tượng cá biệt mà diễn dịch thành nhiều hình thái khác nhau.

4. Quá trình diệt ngã

Tổng quát, các quan điểm về ngã có hai loại: 1 câu sinh; 2 phân biệt.[29]

1. Ngã chấp câu sinh, do năng lực của nhân nội tại được huân tập bởi hư vọng kể từ thời vô thủy đến nay, thường hằng tồn tại cùng với thân; không cần chịu ảnh hưởng bởi tà giáo và tà phân biệt, mà chuyển hiện một cách tự nhiên, do đó gọi là câu sinh.

Loại ngã chấp này lại có hai thứ:

a. Thường tương tục, ở tại thức thứ bảy; nó lấy thức thứ tám làm đối tượng khiến sinh khởi hình tướng của tự tâm,[30] rồi chấp đó là thực ngã.

b. Có gián đoạn, tại thức thứ sáu; nó lấy hình tướng năm thủ uẩn, vốn là biến hiện của thức, làm đối tượng, hoặc tổng thể hoặc cá biệt,[31] khiến sinh khởi tướng của tự tâm[32] rồi chấp đó là thực ngã.

Cả hai chấp trước này rất khó đoạn trừ, vì rất vi tế. Về sau, trong tu đạo, thường xuyên tu tập sinh không quán đặc biệt[33] mới có thể diệt trừ.

2. Ngã chấp do phân biệt cũng do năng lực của ngoại duyên hiện tại, không cùng tồn tại với thân, mà cần phải có ảnh hưởng của tà giáo và tà phân biệt mới có thể phát khởi, vì vậy nói là phân biệt.

Nó chỉ tồn tại trong thức thứ sáu là ý. Loại này cũng có hai thứ:

a. Duyên vào tướng của uẩn được thuyết bởi tà giáo khiến sinh khởi tướng của tự tâm, rồi phân biệt suy diễn chấp là thực ngã.

b. Duyên vào tướng của ngã được thuyết bởi tà giáo khiến sinh khởi tướng của tự tâm, rồi phân biệt suy diễn chấp đó là thực ngã.

Hai loại ngã chấp này dễ bị đoạn trừ, vì thô. Khi ở sơ khởi của kiến đạo,[34] quán chân như về sinh không và pháp không của hết thảy các pháp thì có thể đoạn trừ.[35]

5. Tổng thích

Tất cả ngã được quan niệm như vậy, nếu đó là uẩn ngoại tại của tự tâm, hoặc tồn tại hoặc không tồn tại.[36] Nếu đó là uẩn nội tại của tự tâm, nó hoàn toàn tồn tại. Do đó, tất cả ngã chấp đều lấy tướng[37] của năm thủ uẩn vốn vô thường rồi vọng chấp là ngã.

Nhưng, tướng của các uẩn sinh khởi từ duyên,[38] do đó chúng hiện hữu như là huyễn. Ngã được chấp trước sai lầm ấy, vì được suy diễn một cách ngẫu hứng, quyết định không tồn tại.

Cho nên, Khế kinh nói, “Bí-xô nên biết, những gì là ngã kiến của các sa-môn, bà-la-môn trong thế gian, tất cả đều duyên vào năm thủ uẩn mà sinh khởi.”[39]

6. Phản vấn

1. Nếu không tồn tại thực ngã, làm sao có thể có các sự việc như ký ức, nhận thức, đọc tụng, ôn tập, ân, oán?[40]

Ngã được quan niệm như vậy đã là thường hằng, không biến dị, thì sau cũng như trước, sự việc ấy không phải là có; trước cũng phải như sau, sự việc ấy không phải là không.[41] Vì trước và sau tự thể không khác biệt.

Nếu nói rằng dụng của ngã có biến dịch trước và sau nhưng tự thể của ngã thì không; điều này cũng không hợp lý. Bởi vì, hoặc dụng phải là thường hằng vì không tách rời thể; hoặc thể phải là không thường hằng vì không tách rời dụng.

Tuy nhiên, các hữu tình mỗi mỗi có bản thức riêng, tồn tại một cách tương tục và đồng nhất loại tợ, duy trì chủng tử, hỗ tương làm nhân cho tất cả các pháp. Những sự việc như ký ức các thứ có được là do năng lực của cái được huân tập. Do đó, nạn vấn được nêu lên là do sai lầm nơi ông, chứ không phải nơi tiền đề của tôi.

2. Nếu không tồn tại thực ngã, cái gì tạo nghiệp? Cái gì thọ quả?[42]

Ngã được quan niệm là thực ấy đã là không biến dịch, như hư không, làm thế nào có thể tạo nghiệp, thọ quả? Nếu nó có biến dịch, nó phải là không thường hằng.

Tuy nhiên, tâm và tâm sở pháp của các hữu tình tương tục không gián đoạn do bởi năng lực của nhân duyên; cho nên sự tạo nghiệp và thọ quả không có gì trái lý.

3. Nếu ngã thực sự không tồn tại, cái gì luân hồi các cõi trong sinh tử?[43] Cái gì nhàm tởm khổ mà mong cầu thú hướng Niết-bàn?

Ngã được quan niệm là thực hữu ấy đã không sinh diệt, làm sao có thể nói nó luân chuyển trong sinh tử? Thường hằng như hư không, không bị bức não bởi khổ, cần gì phải nhàm tởm, xả ly, mong cầu thú hướng Niết bàn? Cho nên, điều được phát biểu kia thường chỉ là tự hại.

Tuy nhiên, thân và tâm của các loại hữu tình tương tục, do năng lực của nghiệp phiền não mà luân chuyển các cõi thú, và do nhàm tởm khổ mà mong cầu thú hướng Niết-bàn.

Do những chứng lý như thế mà nhận thức được rằng tuyệt đối không tồn tại thực ngã. Thế nhưng, dòng tương tục của nhân quả của các hữu tình kể từ vô thủy, cái trước diệt cái sau sinh, do được huân tập một cách sai lầm, xuất hiện với tướng như là tợ ngã. Người ngu ở trong đó quan niệm một cách sai lầm là ngã.

[1] ibid., tr. 244c3: đặt vấn đề với các xu hướng hữu ngã: Độc tử bộ (Vātsīputriya), Chánh lượng bộ (Sammatīya), Kinh lượng bộ (Sautrāntika)…

[2] Quan niệm về tự ngã của Số luận (Thuật ký: Tăng-khư; Skt. Saṅkhyā), Thắng luận (Thuật ký: Phệ-thế-sử-ca; Skt. Vaiśeṣika). Câu-xá 30 (158b7), Thắng luận nạn vấn: “Nếu tự ngã không tồn tại hiện thực, cái gì tạo nghiệp? Bởi vì chính tự ngã sẽ nhận lãnh quả báo khổ, lạc.”

[3] Quan niệm ngã của phái Ni-kiền tử (Thuật ký: Ni-kiền-đà phất-trở-la, dịch là Ly hệ tử; Skt.Nigrantha-putra)
[4] Quan niệm của Thú chủ (Thuật ký: Bá-thâu-bát-đa, Skt. Paśupati), và cũng của Xuất gia ngoại đạo (Thuật ký: Ba-lị-đát-la-câu-ca dịch là Biến xuất; Skt. Parivrājaka). Thú chủ (Paśupati) cũng là biệt hiệu của Tự Tại Thiên (Maheśvara), Thiên chúa của phái ngoại đạo Bôi tro (Đồ hôi ngoại đạo, Skt. bhasman). Cf. Câu xá Quang ký 9 ( tr.172c9).

[5] Cf. Kim thất thập luận (T54n2137, tr.1249c29): “Tăng-khư (Saṃkhyā) nói Thần ngã (puruṣa) không phải là tác giả. Vệ-thế-sư (Vaiśeṣika) nói, Tự ngã là tác giả.”

[6] Chủ trương của Thắng luận (Thắng tông thập cú nghĩa, tr.1264a12): tự ngã (ātman) thuộc thật cú nghĩa (dravya-padārtha) không có động tác. Cf. Bách luận (tr.170c18): “Ưu-lâu-ca (Ulūka) nói, thật có Thần (Ngã) thường hằng. Do các dấu hiệu như thọ mạng, nhắm mở mắt, thở ra vào, mà biết có Thần (Ngã).”

[7] Xem cht. 41 trên.

[8] Cf. Kim thất thập luận (tr.1249c15): “Nếu ngã đồng nhất, khi một người sinh, tất cả cùng sinh.”

[9] Chủ trương của Số luận (Kim thất thập luận, tr.1249c12): Có nhiều ngã; tùy theo mỗi thân có một tự ngã riêng.

[10] Quan điểm về ngã của phái Ni-kiền tử.

[11] Thuật ký (tr.246c9): Ngã cực vi tiểu này có thể làm chuyển động thân thể cực kỳ to lớn đến 1 vạn 6 nghìn do tuần của trời Sắc cứu cánh.

[12] Cf. Du-già 6 (tr.306b7), bốn cơ sở chấp ngã: ngay chính nơi uẩn (uẩn tức ngã), (dị biệt uẩn) nhưng ở trong uẩn, (dị biệt uẩn) nhưng ở ngoài uẩn, không liên hệ gì đến uẩn.

[13] Quan điểm của Độc tử bộ (Vāsīputrīya). Thuật ký: Phiệt-tra thị ngoại đạo 筏蹉氏外道; Skt. Vatsagotra-parivrājaka; cf. Câu-xá 30, (tr.156a6), một người xuất gia ngoại đạo hỏi Phật có ngã hay không, Phật không trả lời; Pali: Vacchagotta-paribbājaka, cf. S.iv. tr. 400. Khuy Cơ đồng nhất Vatsagotra với Vātsī-putrīya (Pali: Vajji-puttaka). Cf. Dị bộ tông luân luận (tr.16c15), Độc tử bộ chủ trưong hữu ngã: Bổ-đặc-già-la (pudgala) phi tức uẩn phi ly uẩn; y uẩn, xứ giới mà giả thi thiết tên gọi. Về bác bỏ Ngã của Độc tử bộ, chi tiết xem Câu xá 29 (tr.152c9), tiếp theo và quyển 30: Độc tử bộ quan niệm thể của bổ-đặcgià-la phi nhất phi dị đối với uẩn.

[14] Chất ngại, tính chất cố kết, hữu hình. Xem đoạn sau, tr. 2c26.

[15] Chỉ các uẩn còn lại, trừ sắc uẩn và một phần hành uẩn.

[16] Thuật ký lập thí dụ, như ngọn đèn, và như âm thanh.

[17] Các hành còn lại, chỉ các hành phi tâm sở, tương hành không tương ưng tâm. Các sắc còn lại, chỉ 6 ngoại xứ và sắc vô biểu.

[18] Thuật ký 1b, giác tức giác sát; tên gọi chung cho tâm và tâm sở.

[19] Độc tử bộ lập năm tạng. Ngã thuộc tạng thứ năm, gọi là bất khả thuyết (avyaktavya). Cf. Câu-xá 29 (T29n1558, tr.153b3).

[20] Thuật ký: có tư lự (Skt. cinmātra), nhắm Tăng-khư (Saṃkhyā); không tư lự, nhắm Phệ-thế (Vaiśaṣika)

[21] Xu yếu (tr.621c5): Tăng-khư (Saṃkhyā) và các phái khác, tác dụng mà không động chuyển.

[22] Thuật ký: tay với tác dụng chuyển biến, nhắm Số luận. Chân với tác dụng hoại diệt, nhắm Thắng luận.

[23] Câu-xá 29 (tr.153c25): Độc tử bộ nói, ngã (bổ-đặc-già-la, Skt. pudgala) không phải là sở duyên (Skt. ālambana) của thức.”

[24] Quảng bách luận 2 (tr.194b29): “Nếu ngã được quan niệm ấy là thực hữu thì không thể là đối tượng của ngã kiến vốn là kiến chấp điên đảo.” Thuật ký, “Giáo lý của các phái Ngoại đạo và Tiểu thừa chủ trương hữu ngã đều cho rằng ngã kiến tuy thuận sở duyên nhưng tự thể là điên đảo. Khi đoạn trừ nó thì thành Thánh.”

[25] Chỉ Độc tử bộ, tuy Phật giáo nhưng chủ trương hữu ngã, do đó có tranh luận về ý nghĩa chính xác của Kinh. Cf. Câu-xá 29 (tr.154c13).

[26] Skt. sālambana. Chỉ thức hay các tâm giới, là nhữn thứ luôn luôn hướng đến đối tượng; xem Câu-xá 2 (tr.8b9)

[27] Như duyên dư tâm. Thuật ký (tr.249a3): “như tâm duyên ngã là ngọai sắc các thứ.”

[28] Thuật ký: Dụ, như sắc pháp v.v. ibid. 195c13: “Đối tượng của ngã kiến không phải là thực ngã. Vì mang hình tướng hoặc nam, hoặc nữ là đối tượng nhận thức của tâm. Như thân thể.”

[29] Cf. Laṅkā, tr. 118: tatra Mahāmate satkāyadṛṣṭir dvividhā yaduta sahajā ca parikalpitā ca. Nhập Lăng-già 4 (bản 10 quyển, tr.537a17), “Thân kiến có hai: 1. câu sanh, 2. hư vọng phân biệt.”

[30] Xu yếu (621c19), khởi tự tâm tướng, có 2 giải thích: 1. tướng là ảnh tượng; 2. tướng là cái bị chấp. Thuật ký, đây là tướng của tự tâm của thức thứ bảy. Diễn bí (tr. 824c25): sở duyên đều là tướng phần của tự tâm.

[31] Thuật ký: lấy tổng thể ngũ uẩn làm đối tượng; hoăc lấy từng uẩn cá biệt làm đối tượng.

[32] ibid., tướng của tự tâm, chỉ tướng là ảnh tượng.

[33] Thắng sinh không quán. Laṅkā, ibid., srotaāpannasya sadasatpakṣadṛṣṭidarśaṇāt satkāyadṛṣṭiḥ prahīṇā bhavati, “Khi Tu-đà-hoàn thấy rõ kiến chấp sai lầm về hữu và phi hữu, thân kiến (câu sanh) được đoạn trừ.”

65 Sơ kiến đạo; kiến đạo có 2 phần: chân kiến đạo và tướng kiến đạo. Đây thuộc phần đầu.

[35] Laṅkā, ibid., sā ca tasya pudgalanairātmyagrahābhā- vataḥ prahīṇā, “kiến chấp này bị đoạn trừ khi (Tu-đà-hoàn) không còn chấp chặt đối với nhân vô ngã.”

[36] Thuật ký (tr. 250c10): “Hữu hay vô, xét theo bản chất…Y uẩn mà chấp ngã, ngã ấy có bản chất; lìa uẩn mà chấp ngã, ngã ấy không có bản chất.”

[37] Tướng, chỉ tướng phần (nimittabhāga). Thuật ký (tr. 250c25): “Ảnh tượng, là tướng phần, tất nhiên là uẩn; lấy đó làm đối tượng mà chấp là ngã”

[38] Thuật ký, ibid.,:Tướng (phần) nội thức, do y tha duyên sinh, nên tồn tại.”

[39] Tham chiếu, Tạp A-hàm 2 ( tr.011b1); Pali, S. iii. 46:

ye hi keci, bhikkhave, samaṇā vā brāhmaṇā vā anekavihitaṃ attānaṃ samanupassamānā samanupassanti, sabbe pañcupādānakkhandhe samanupassanti, etesaṃ vā aññataraṃ.

[40] Cf. Câu-xá 30 (tr156c26): “Nếu tự thể của ngã tuyệt đối không tồn tại, thế thì, tâm sát-na diệt làm thế nào có thể nhớ biết cảnh tương tợ đã từng được nhận thức từ lâu xa?” Cf. Tì-bà-sa 11 (tr.156c26). trả lời Độc tử bộ và giải thích về ký ức.

[41] Thuật ký: “ Minh tánh (Skt. prakṛti) khi chưa biến chuyển thành đại (mahat) các thứ, thì Ngã (puruṣa) chưa có thọ dụng cảnh. Về sau, khi đại các thứ xuất hiện, Ngã (puruṣa) mới có sự thọ dụng. Trước, không có sự việc ấy; không có tác dụng lãnh thọ cảnh. Sau, có sự việc ấy, có tác dụng thọ nhận cảnh.”

[42] Câu-xá 30 (tr.158b26). Liễu nghĩa đăng (tr.688a23): “ Năm bộ gồm Độc tử, Chánh lượng, Bản kinh, Hiền trụ, Mật lâm sơn, đều nói 5 thức không có khả năng tác nghiệp, thọ qủa; thứ sáu có cả hai. Đại chúng bộ đông thuyết. Hữu bộ, 5 thức thọ quả nhưng không tác nghiệp.” Phụ chú của Thuật ký tập thành biên 6 (tr. 123c12): “Giải thích này chỉ được nghe truyền thuyết chứ không thấy minh văn của Kinh giáo.”

[43] ibid., (tr. 156c2): nạn vấn của Độc tử bộ, dẫn kinh chứng: “Trong kinh, Phật nói, các hữu tình bị vô minh trùm kín, bị tham ái trói buộc, nên dong ruổi sinh tử. Như vậy, phải có bổ-đặc-già-la (pudgala).”