Chương 8. Tinh thần đạo giáo và tinh thần thế tục
Jean Francois: Với sự phát triển Phật giáo ở Tây phương, một khía cạnh đáng lưu ý về thực tại hiện nay nổi lên một cách rất cụ thể. Đó là sự tương quan giữa Phật giáo và vài bản văn triết lý thuộc thế hệ mới. Ba đã kể với Luc Ferry. Ba muốn kể thêm André Comte Sponville, đã cho xuất bản từ hai năm nay quyển ”Tiểu khái luận về những đức hạnh lớn”. Đó là một chuỗi những lời dạy bảo khôn ngoan rất thực tế, mà ở Pháp chúng ta gọi là truyền thống của những nhà đạo đức học. Tác giả nhận xét về phong cách, tâm lý con người và đôi khi không e sợ sự nhạt nhẽo, tác giả đưa ra những lời khuyên thực tế về lối sống hằng ngày của con người. Đây cũng gần như một cuộc cách mạng tư tưởng vào cuối thế kỷ 20 vì lẽ các nhà đạo đức học luôn luôn bị khinh miệt bởi các triết gia chuyên nghiệp đã nhìn ở họ như những người ghi chép các giai thoại tâm lý.
Những nhân vật xây dựng các hệ thống tư tưởng triết lý hồi Ba còn trẻ, đã liệt các nhà đạo đức học vào hàng ngũ văn chương thời thượng. Họ cho các nhà đạo đức học chỉ có những nhận xét theo kinh nghiệm, gián đoạn và độc đoán, không thể tạo thành một hệ thống nào được. Nhưng hiện nay người ta nhận thấy rằng quần chúng đã quay về với những phương pháp đạo đức cổ điển đã đưa ra những lời chỉ dạy rất khiêm tốn và rất thực tế về nếp sống của con người. Nhà đạo đức học đặc sắc nhất hiện nay E.M.Cioran cũng là một nghệ sĩ và nhà văn đã bị gạt qua một bên trong suốt 40 năm và chỉ có hai hay ba ngàn độc giả. Đột nhiên vào năm 1985, mọi người lại bắt đầu chú ý đến ông ta và sách của ông ta đã thành công vang dội ở Pháp, điều này nói lên nhu cầu của quần chúng về những nguyên tắc chỉ đạo người ta phải sống như thế nào, phải vươn tới nghệ thuật sống và phải hướng dẫn cuộc đời mình ra sao. Đó là những câu hỏi mà từ lâu nền triết lý của chúng ta không có câu trả lời. Nhưng Comte Sponvil1e đã nhiều lần tham khảo Phật giáo và đã nói một câu đáng chú ý vì nó vừa thể hiện một sự đồng cảm cũng như một sự đối kháng giữa Phật giáo và Cơ đốc giáo, câu nói về tâm từ bi và lòng bác ái: “Tâm từ bi là một đức hạnh lớn của Phật giáo Đông phương cũng như lòng bác ái là một đức hạnh lớn của Cơ đốc giáo Tây phương. Có nên chọn lựa chăng? Để làm gì? Vì cả hai đức hạnh đều không chối bỏ nhau. Nhưng nếu cần, ta có thể nói như thế này: ”Lòng bác ái thì cao cả hơn nếu ít ra là chúng ta có khả năng, còn tâm từ bi thì dịu dàng và dễ gần gũi hơn. Hay nói cách khác thông điệp của chúa Ki Tô về tình yêu thì kích động hơn, còn bài thuyết giảng của Phật về tâm từ thì thực tế hơn.” Phải nói là Comte Sponville đã đúng khi nói rằng lòng bác ái là một đức hạnh lớn của Tây phương- ít ra là trên lời nói- vì 1ẽ lòng bác ái đó đã biểu lộ bằng sự tận diệt người đã đỏ ở Mỹ châu, hay bằng sự đưa lên giàn hỏa dưới thời Trung Cổ của những kẻ cuồng tín, hay bằng những sự hành hạ người Do Thái và người Tin Lành. Nhưng dù sao theo Comte Sponville thì cuối cùng phải nhận ra rằng lòng từ bi hãy còn kém về so với lòng bác ái của Cơ đốc giáo. Vậy thì con nghĩ như thế nào và hiểu lòng từ bi Phật giáo ra sao?
Matthieu: Trước hết con muốn nói vài lời về câu hỏi đầu tiên của Ba, tại sao lại có sự chú ý về những tác phẩm nói về minh triết trong đời sống thường nhật? Có lẽ là để sửa chữa lại cái quan niệm muốn trở thành một người tốt trong thời buổi hiện nay, là một sự bận tâm quá xa lạ với hệ thống giáo dục hiện hành. Nền giáo dục hiện nay, chủ yếu là phàm tục, chỉ chú trọng vào việc mở mang trí thông minh và tom góp kiến thức.
Jean Francois: Trong lãnh vực này, không thể nói là đã có sự thành công hoàn toàn.
Matthieu: Trí thông minh là một con dao hai lưỡi. Nó có thể đem lại điều tốt cũng như điều xấu, được dùng để xây dựng cũng như để phá hoại. Trong quá khứ, các tôn giáo đã dạy người ta trở thành người tốt, phải biết yêu thương đồng loại, phải có lòng nhân ái, thành thật, khoan dung và hào hiệp. Nếu bây giờ người ta yêu cầu các đức hạnh nói trên được dạy trong các trường học, chắc chắn sẽ có một sự phản đối rầm rộ. Người ta sẽ trả lời rằng điều đó thuộc lãnh vực cá nhân và cha mẹ có bổn phận phải dạy dỗ con cái về những đức hạnh đó. Thế nhưng trong các thế hệ mới, số cha mẹ hiện nay đã học qua các trường lớp ấy, người ta cũng không dạy bảo gì về đạo đức do đó rất ít bậc cha mẹ có được một sự hướng dẫn tôn giáo hay tâm linh. Người ta còn đi đến chỗ xem tình yêu và lòng từ bi cũng thuộc về tôn giáo. Đức Đạt Lai Lạt Ma thường nói rằng ta có thể không cần đến tôn giáo nếu mọi người đều có tình yêu đồng loại và tâm từ bi. Ngài phân biệt rõ ràng tinh thần đạo giáo và tinh thần phàm tục. Chính cái tinh thần phàm tục này giúp chúng ta trở hành những con người tốt, phát triển được những đức tính mà chúng ta có khả năng phát triển dù chúng ta có tin theo đạo hay không. Nếu không có hoạt động tâm linh thì không có gì hoặc không có bất cứ một người nào, có chăng 1à do tình cờ đọc sách, có thể chỉ ra cho các thanh thiếu niên những giá trị nhân bản và làm thế nào để phát huy các giá trị đó. Do đó rất đáng phấn khởi trước sự chú tâm của quần chúng yêu các tác phẩm dạy về minh triết trong đời sống.
Jean Francois: Ba rất hài lòng là con đã ghi lại lời của Đức Đạt Lai Lạt Ma về cái tinh thần phàm tục, vì Ba nghĩ rằng cái tinh thần này không hề đối nghịch với việc giáo dục đạo đức. Phàm tục có nghĩa là sự trung lập của một nền giáo dục không lệ thuộc vào bất cứ giáo điều nào dù 1à tôn giáo hay chính trị. Điều này không loại bỏ mà còn bắt buộc nữa là khác, việc huấn luyện đạo đức tập trung vào sự tôn trọng luật lệ và người khác, sự sử dụng đúng mức các quyền tự do, nói tóm lại cái mà Montesquieu gọi là đức hạnh Cộng hòa. Nhưng gần đây tinh thần phàm tục đã bị đánh lạc hướng.
Matthieu: Tinh thần phàm tục không phải là việc xóa bỏ những bài giảng về tôn giáo như ta đã làm. Tại sao ta lại không giảng dạy về mọi tôn giáo kể cả triết học và chủ nghĩa duy vật và cho phép học sinh được chọn lựa việc dự thính các buổi học đó. Làm như vậy người ta cho phép trẻ con và các em thiếu niên có một ý niệm về điều đã học. Tại sao phải chờ đến khi các em 16 tuổi mới dạy triết học cho các em cũng như những giá trị căn bản của con người.
Jean Francois: Đó là vấn đề dành cho cấp lãnh đạo ngành giáo dục. Nhưng bây giờ con nghĩ sao về lòng từ bi Phật giáo so với lòng bác ái bên Công giáo?
Matthieu: Lòng từ bi theo Phật giáo khó có thể diễn tả bằng ngôn ngữ Tây phương. Tâm từ theo Tây phương gợi lên ý niệm về thương hại, về lòng trắc ẩn và như vậy là có khoảng cách giữa người thương và kẻ được thương. Nhưng tiếng Tây Tạng Nyingjé mà ta dịch là tâm từ, đúng ra có nghĩa là ông chủ của trái tim, là người kiểm soát được tư tưởng. Tâm từ, theo Phật giáo là ý muốn hàn gắn mọi hình thức đau khổ, và nhất là các nguyên nhân gây đau khổ như vô minh, thù ghét, tham ái v.v… Do đó tâm từ một mặt hướng về con người, còn mặt kia lại hướng về kiến thức.
Jean Francois: Con có đồng hóa tâm từ với lòng bác ái không?
Matthieu: Lòng bác ái là một biểu hiện của tâm từ. Bố thí tất nhiên là một đức hạnh lớn trong Phật giáo. Người ta phân biệt nhiều hình thức bố thí: tài thí tức là cho thức ăn, tiền bạc, áo quần.Vô úy thí là bảo vệ những người gặp nạn, cứu người và sau cùng là Pháp thí giúp cho kẻ khác phương tiện để thoát khỏi vô minh. Những hình thức bố thí ấy luôn luôn được thực thi trong xã hội Phật giáo và đôi khi người ta cũng thấy những thí chủ cúng dường tất cả tài sản của họ cho những kẻ thiếu thốn. Trong lịch sử Tây Tạng, có nhiều trường hợp có người đã hy sinh cả mạng sống để cứu mạng những người khác. Điều này giống như lòng bác ái bên Công giáo. Sau đó để loại bỏ đau khổ dài hạn, ta phải quán tưởng về nguồn gốc của đau khổ, và người ta sẽ nhận ra là chính vô minh đã nuôi dưỡng chiến tranh, lòng câm thù, sự ám ảnh triền miên và tất cả thứ gì đem lại đau khổ cho con người.
Jean Francois: Tâm từ và tình yêu khác nhau như thế nào?
Matthieu: Tình yêu chính là phần bổ túc cần thiết cho tâm từ. Tâm từ không thể tồn tại hay phát triển nếu không có tình yêu và tình yêu là điều mong ước của chúng sinh muốn tìm hạnh phúc và nguyên nhân của hạnh phúc. Chữ tình yêu ở đây có nghĩa là vô điều kiện, là toàn diện cho mọi chúng sinh không phân biệt. Tình yêu giữa đàn ông và đàn bà, giữa những bạn bè, giữa những người thân có tính cách sở hữu độc chiếm, giới hạn và bao gồm cả những tình cảm ích kỷ. Khi người ta cho, người ta mong có sự đền đáp. Một tình yêu như vậy có vẻ như sâu sắc, nhưng nó dễ dàng tan biến nếu nó không đáp ứng được điều ta cầu mong. Hơn nữa, tình yêu mà ta dành cho người thân thường kéo theo một khoảng cách, hay hơn thế một cảm giác giận hờn đối với những người lạ, những người có thể đe dọa cho chính chúng ta hay cho những người thân của chúng ta. Tình yêu đích thực, tâm từ đích thực có thể gồm cả những kẻ thù của ta, còn tình yêu và tâm từ kèm theo một sự quyến luyến cá nhân thì không thể bao gồm kẻ thù của ta được.
Jean Francois: Vậy là quan niệm tình yêu cũng quan trọng trong Phật giáo chứ không riêng trong Công giáo?
Matthieu: Nó là nguồn cội của con đường đạo. Nhưng tình yêu không thể một chiều, giới hạn cho vài người thân, hay thiên vị. Tình yêu phải hoàn toàn không vị lợi, và không cần đền trả. Như vậy, một trong những đề tài chính về thiền định gồm có việc bắt đầu nghĩ đến người mà ta yêu mến nhất và để cho tình yêu ấy tràn ngập tâm hồn ta, sau đó phá vỡ các ngăn cách và trải rộng tình yêu ấy đến những người không thân, không sơ rồi sau cùng là đến những người ta xem là thù địch. Đó mới là tình yêu đích thực. Biết được một kẻ muốn làm hại ta, cũng không làm tổn thương đến tâm từ của ta vì tâm từ này dựa trên sự hiểu biết sâu xa rằng kẻ thù của ta cũng như ta luôn luôn muốn hạnh phúc và xa lìa đau khổ.
Jean Francois: Như vậy thì từ bi của Phật giáo khác với lòng bác ái bên Công giáo như thế nào?
Matthieu: Tình yêu đồng loại như đã viết trong Thánh thư, đúng là tình yêu và tâm từ trong Phật giáo. Thật ra có thể nói là nó chung cho các tôn giáo lớn. Trong Phật giáo người ta thêm vào tình yêu và tâm từ, hai đức hạnh khác. Một là tâm hỷ tức là chia sẻ niềm vui của kẻ khác, cầu mong cho niềm vui đó được tăng trưởng và kéo dài. Tâm hỷ đối nghịch với lòng ghen ghét. Hai là tâm xả, tức là dành tình yêu, tâm từ và sự khoan dung cho người thân cũng như cho người lạ và cho kẻ thù. Nếu chúng ta so sánh sự an vui của chúng ta với sự an vui của vô số chúng sinh, thì rõ ràng là sự an vui của chúng ta không đáng kể. Hơn nữa, phải biết rằng niềm vui hay nỗi khổ của chúng ta ràng buộc rất nhiều vào niềm vui hay nỗi khổ của kẻ khác. Trong đời sống thường nhật ta có thể thấy sự khác biệt giữa những người chỉ biết lo cho chính mình và những người luôn lo cho kẻ khác. Những người trước luôn luôn khó chịu và bất mãn. Sự hẹp hòi của họ trong giao tiếp khiến họ khó đạt được điều mà họ mong muốn. Họ thường xuyên gõ vào các cánh cửa đóng kín. Trái lại, người có thái độ cởi mở và không ích kỷ, luôn nghĩ đến lợi ích kẻ khác. Họ có sức mạnh tinh thần sung mãn và những vấn đề của riêng họ không làm họ mấy bận lòng và dù họ không mong muốn, những người khác luôn chú ý đến họ. Sau cùng, như con đã nói, tình yêu và tâm từ Phật giáo không tách rời sự minh triết tức là sự nhận thức đúng về sự vật, nhắm vào sự giải thoát kẻ khác thoát khỏi vô minh vốn là nguyên nhân đầu tiên của mọi đau khổ. Chính sự minh triết, trí tuệ đó đã đem 1ại sức mạnh cho tâm từ.
Jean Francois: Người ta có thể phản bác là các điều kể trên không rõ ràng lắm. Ngày nay có sự lo âu về cái mà ta gọi là những vấn đề xã hội, những bất công, phạm pháp, thuốc gây nghiện, phá thai, án tử hình. Và ngoài án tử hình là không thể sửa chữa được, có thể nào cứ phải nhốt những kẻ phạm pháp hay là nên giáo dục họ? Và những vấn đề con vừa nêu ra về giáo dục, có nên cưỡng bức hay là tùy thuộc vào nguyện vọng của học sinh?
Matthieu. Vấn đề giáo dục là: Có nên dạy cho học sinh những gì chúng muốn nghe hay là những gì chúng thật sự cần nghe. Sự chọn lựa thứ nhất là một giải pháp dễ dãi, còn thứ hai 1à một thái độ có trách nhiệm.
Jean Francois: Và sau cùng, tất cả vấn đề về bảo vệ xã hội, về thất nghiệp, bạo động, hội nhập những di dân, đối đầu chủng tộc trong những xã hội lớn ngày nay, Phật giáo có tự hỏi về những vấn đề nêu trên và đã có câu trả lời hay chưa?
Matthieu: Xã hội Tây phương có thừa phương tiện để xoa dịu những đau khổ vật chất nhưng lại rất thiếu phương tiện để xây dựng hạnh phúc tinh thần. Nó lại còn thiếu những điểm chuẩn liên quan đến những vấn đề thiết thực của xã hội và của cuộc sống vì lẽ càng ngày các nguyên tắc tâm linh càng ít soi sáng chúng ta. Năm 1993 khi con theo Đức Đạt Lai Lạt Ma với tư cách là thông dịch viên khi ông viếng nước Pháp trong ba tuần lễ, con rất ngạc nhiên về việc ngài đã được các sinh viên tiếp đón trọng thể như thế nào. Đúng là trong các Đại học sự đón tiếp xảy ra rất nồng nhiệt. Ở Grenoble vào tháng chạp, 8 giờ đêm trời lạnh, giảng đường đông nghẹt và bên ngoài 3 hay 4 ngàn người đang chờ đợi trong cái lạnh và nhìn vào một khung chiếu lớn hình ảnh Đức Đạt Lai Lạt Ma đang thuyết giảng. Ở Bordeaux cũng thế. Đáng ngạc nhiên là không khí sôi sục trong cuộc hỏi đáp giữa ngài và sinh viên. Ngài đã nói trong 20 phút rồi một loạt các câu hỏi được đưa ra về án tử hình, về phá thai, kiểm soát sinh đẻ, về bạo lực, về tình yêu v.v… Người ta có cảm giác là sinh viên sau cùng đã tìm được một nhân vật để đối thoại
Jean Francois: Và những câu trả lời của Ngài là như thế nào?
Matthieu: Về vấn đề kiểm soát sinh đẻ, Ngài chủ trương rằng mạng sống là của quí nhất mà con người có được. Mỗi một mạng sống giống như một con tàu có thể giúp chúng ta đến được sự giác ngộ. Nhưng nếu có quá nhiều mạng sống, thì nhân loại sẽ gặp rất nhiều khó khăn vì tài nguyên của trái đất không đủ cho nhiều tỷ người có được một cuộc sống đàng hoàng. Giải pháp duy nhất là chận đứng sự bùng nổ dân số và Đức Đạt Lai Lạt Ma chủ trương sự kiểm soát sinh đẻ bằng cách “bất bạo động” có nghĩa là sử dụng các phương pháp tránh thai sẵn có.
Jean Francois: Một sự phòng ngừa sinh sản?
Matthieu: Làm đủ mọi cách mà không dùng bạo lực để tránh một sự sinh sản quá mức.
Jean Francois: Như vậy là Ngài không tán thành việc phá thai.
Matthieu: Phật giáo cho sự giết chóc là cướp đi sinh mạng của một sinh vật đang hoạt động hoặc đang tượng hình. Vì theo thuyết tái sinh, khi khởi đầu thụ thai thì giòng tâm thức đã hiện hữu dù là rất sơ khai và khó phát hiện. Trong vài trường hợp nếu mạng sống người mẹ bị đe dọa, và nếu đứa con ra đời sẽ là một quái thai thì sự phá thai có thể chấp nhận được, nhưng ngược lại nếu vì lòng ích kỷ, vì mưu cầu lợi ích riêng cho bản thân thì việc phá thai phải bị lên án. Và ta nên phát triển các phương pháp tránh thai hiệu quả, để không sử dụng đến biện pháp phá thai. Câu trả lời này có vẻ làm hài lòng cử tọa. Và Ngài lại bông đùa: ”Cách hay nhất để tránh sự bùng nổ dân số là nên có nhiều nam và nữ tu sĩ” và điều này đã làm thính giả phải bật cười.
Jean Francois: Ba thêm rằng việc gia tăng dân số không còn là một vấn đề lớn đối với các nước phát triển vì nơi đây số trẻ sinh ra đã giảm xuống. Điều cần phải bàn là vấn đề tự do cá nhân và tự do lựa chọn. Một vấn đề khác là án tử hình đã được giải quyết trong phần đông các nước Tây phương tiên tiến, ở đây hầu như không còn giữ án tử hình. Và ngay ở Hoa Kỳ, chỉ còn vài tiểu bang giữ lại và vài tiểu bang khác thì mới thiết lập lại án tử hình. Như vậy chỉ còn lại sự trừng phạt các trường hợp phạm pháp và giết người có tổ chức. Người ta không thể áp dụng sự bất bạo động với các vụ giết người có tổ chức. Làm sao để chống lại bọn Mafia nếu không dùng đến bạo lực, không bỏ tù những kẻ sát nhân và làm cho những kẻ này không còn khả năng gây tội ác.
Matthieu: Sự bất bạo đang không có nghĩa là một sự hèn yếu. Mục đích là giảm thiểu nỗi đau của người khác. Như vậy vô hiệu hóa những tên sát nhân là một việc làm cần thiết. Nhưng điều này không ngụ ý là mang ý nghĩa báo thù hay là đem áp dụng những hình phạt tàn bạo. Gần đây con đã được nghe trên sóng phát thanh lời tuyến bố rất cảm động của cha mẹ một đứa bé bị sát hại trong một vụ mưu sát, trước ngày kết án tên khủng bố sát nhân: ”Chúng tôi không cần thêm một cái chết nữa.” Đối với hình phạt chung thân để ngăn không cho kẻ sát nhân có cơ hội làm hại nữa, thì án tử hình mang ý nghĩa như một việc báo thù. Đó là điều mà Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nói trong quyển ”Cõi trời với tai họa của con người”. Kết án tử hình một con người là một việc làm quan trọng. Đó là sự loại bỏ hẳn một cá nhân. Tuy nhiên con người đó nếu được sống có thể thay đổi nhân cách. Con tin chắc rằng với những kẻ sát nhân thật sự nguy hiểm vẫn còn có khả năng một sự thay đổi và hối cải. Nếu để cho họ sống, thì ta cho họ có cơ hội để cải tạo lại con người của họ.
Gần đây, vào năm 1996 ở Hoa Kỳ trong tiểu bang Arkansas, một phạm nhân bị hành quyết sau 12 năm bị giam cầm. Trong thời gian đó hắn đã thấy ra sự ghê tởm về hành vi của hắn. Và ước mong được đem quãng đời còn lại phục vụ kẻ khác chuộc lại lỗi lầm. Hắn cũng đã phát nguyện xin được tu hành. Qua điện thoại hắn đã làm cho công chúng nghe được trên sóng phát thanh địa phương: ”Tôi đã trở thành một con người khác. Hãy cho tôi cơ hội để chuộc lỗi. Đừng giết tôi”. Chúng ta muốn tin rằng chúng ta sống trong một xã hội loài người. Thật ra, không phải thế. Có lẽ chính phủ nên chính thức xem án tử hình như một sự báo thù. Rõ ràng là án tử hình không làm đầy đủ vai trò hình phạt gương mẫu có thể làm giảm thiểu tội ác sát nhân”. Và hắn lại đặt câu hỏi: “Tại sao các ông lại hành quyết các phạm nhân giữa đêm làm cho mọi người không hay biết? Nếu việc làm của các ông không phải là vô nhân đạo, tại sao không hành quyết chúng tôi giữa ban ngày, trước ống kính vô tuyến truyền hình.”
Thống đốc Arkansas, một vị mục sư cũ, đã không ân xá cho ông ta và ra lệnh hành quyết trước kỳ hạn một tháng để tránh việc tội nhân có dịp lại kêu ca.
Jean Francois: Ba nghĩ rằng đã có sự đồng tình khá phổ biến về vấn đề này. Cái xã hội dân chủ lớn nhất, còn giữ lại án tử hình là Hoa Kỳ dù rằng chỉ là ở trong một số tiểu bang và điều này đã gây ra tranh cãi ở nhiều nơi. Ba nghĩ rằng nó sẽ biến mất thôi.
Matthieu: Xã hội có bổn phận bảo vệ người dân chống lại những kẻ sử dụng bạo lực. Dù là một vụ giết người hay là một sự hành quyết đều không thể chấp nhận được. Mục đích là ngăn chận những kẻ nguy hiểm không cho họ gây hại, dù cho là họ có tổ chức hẳn hoi.
Mục đích của sự bất bạo động là làm giảm sự bạo động. Đó không phải là một thái độ thụ động. Giải pháp hay nhất là vô hiệu hóa những kẻ gây hại lớn cho người khác mà không sử dụng bạo lực.
Đức Đạt Lai Lạt Ma đã dùng một công thức rất ấn tượng bằng Anh ngữ: ”Chúng ta phải tha thứ, nhưng không quên.”
Jean Francois: Phải, đúng thế, không thể quên. Nhưng lý luận như vậy chỉ áp dụng cho cá nhân, hiện nay tội ác có tổ chức hẳn hoi. Đó là những băng đảng vì lợi nhuận, vì sự cuồng tín ý thức hệ đã tự cho mình cái quyền giết hại kẻ khác. Như vậy là không phải một con người cần phải cải tạo mà là cả một tổ chức tội ác. Và hiện nay xã hội có xu hướng sản sinh ra những tập đoàn lưu manh mà mục đích chỉ là lợi nhuận hay là quyền lực, hay cả hai. Và xã hội không có phương tiện nào khác để chống đỡ hơn là dùng bạo lực để chống lại bạo lực.
Matthieu: Tội ác có tổ chức chỉ là do một nhóm người. Vô hiệu hóa họ chỉ là giải pháp tình thế hơn là diệt trừ tận gốc. Muốn diệt trừ tội ác chỉ còn cách là cải tạo con người, giúp cho con người thay đổi cách suy nghĩ và hành động.