Có thể nói, cây hương (còn gọi là nhang) là một vật dụng linh diệu không thể thiếu trong mỗi gia đình từ nông thôn đến thành thị, miền núi đến đồng bằng, từ nhà giàu sang đến gia cảnh túng thiếu.
Ai ai cũng biết đến cây hương và từng thắp hương cho ông bà tổ tiên hoặc cho những người đã quá vãng.
1. Có lẽ, từ khi con người biết tôn sùng việc cúng tế và tổ chức cúng tế thì đồng thời xuất hiện cây hương. Trải qua bao thăng trầm của thế sự, bao biến thiên của thời gian, cho dù cây hương có thể khác nhau về hình thức hay chất liệu, nhưng xét về bản chất thì nó vẫn là sợi dây liên lạc mầu nhiệm, là nhịp nối ân tình giữa người đang sống với thế giới tâm linh vô cùng vô tận của vũ trụ.
Phải xác định rằng, hương là một mặt hàng rất đặc thù, chỉ dùng để cúng tế, nên trong quá trình sản xuất, ngoài mục đích vì lợi nhuận thì người làm hương phải có cái tâm trong sáng, tự đáy lòng mình phải biết tôn kính những gì thuộc về thế giới siêu nhiên. Có như thế thì người dâng hương mới gửi gắm trọn vẹn tâm nguyện, tình cảm và sự thành kính của mình với các bậc tiền nhân đang ở bên kia bầu trời.
Hương có nhiều loại, từ kích cỡ, mẫu mã đến chất liệu… đều rất phong phú và đa dạng, có thể liệt kê ra đây một số loại hương thông dụng:
+ Hương trầm: được làm 100% bột trầm, hương thơm tinh khiết, 1.000 cây hương trầm có giá từ 100.000 – 150.000 đồng, thậm chí 1.000.000 đồng tùy theo chất lượng trầm (trầm già có tỷ lệ dầu nhiều, có mùi thơm đậm đà, trầm non tỷ lệ dầu ít, mùi thơm dịu nhẹ).
+ Hương tùng: làm bằng bột cây tùng, tức cây thông, và bột cưa, bột đàn. Hương tùng thường có hai màu: màu vàng là sự pha trộn giữa các loại bột trên, màu đen thì hòa thêm chút ít bột than.
+ Hương quế: làm bằng bột cưa và bột quế (tỷ lệ pha trộn là 5/1: 5 kg bột cưa, 1 kg bột quế), đây là loại hương “bình dân” nên sức tiêu thụ mạnh hơn các loại hương khác.
+ Hương bổi: được làm 100% bột cưa, thân hương to, dài, da dẻ xơ xác (loại hương này người ta ít thắp mà chỉ dùng để đi đám tang, đám xong người nhà đem ra mộ đốt).
+ Hương thơm: làm bằng bột cưa, bột quế… và tẩm nước hoa, khi đốt lên thơm phức mùi nước hoa.
+ Hương khoanh: còn gọi là hương vòng, thân cây mềm mại, khoanh tròn hình xoắn ốc. Ưu điểm của loại hương này là thắp lâu tàn (khoảng 24 giờ mới hết), được dùng phổ biến trong các ngày Tết Nguyên đán, vào dịp đại lễ cầu siêu, chẩn tế cô hồn và các ngày lễ lớn của Phật giáo…
2. Qua tìm hiểu cho thấy, loại hương nào trong quá trình sản xuất cũng có hòa keo để tạo sự kết dính. Que hương (cọng nhang) được làm bằng thân cây dứa mềm mại, dẻo dai. Công đoạn chẻ que hương cũng không kém phần quan trọng: không dày quá hoặc mỏng quá. Nếu mỏng thì sẽ bị gãy.
Sau khi chẻ xong đem ngâm vào nước vôi để đảo, vớt ra gột nước lạnh thật sạch rồi đem phơi nắng, sau đó nhuộm chân bằng phẩm màu và tiến hành se hương. Điều này lý giải vì sao chúng ta thắp hương có lúc cháy hết nhưng cồi bên trong vẫn còn hoặc cháy không đều (cây cao, cây thấp, khập khễnh trên bát nhang vậy), đó là do que hương còn tươi chưa bị đảo (khô).
Trước đây người ta làm hương bằng se tay, nghĩa là lao động thủ công, dùng cơ bắp là chính, nếu cần mẫn suốt ngày thì có thể làm được 5.000 cây. Hương se tay phơi nắng từ 1-2 ngày mới khô. Ngày nay đã có máy sản xuất hương, đem lại năng suất gấp nhiều lần so với làm tay, và thời gian phơi cũng rút ngắn lại (khoảng 4 giờ), nếu phơi lâu cây hương sẽ bị nứt, cong, trời mưa phải dùng quạt điện để sấy nên phải tốn thêm chi phí tiền điện.
Máy se hương xuất hiện trên thị trường cách đây độ 7-8 năm. Máy se hương cũng có 2 loại: máy quay bằng tay và máy chạy bằng điện. Máy quay tay có giá khoảng 4 triệu. Máy se hương bằng điện cho năng suất gấp 5-7 lần se tay, giá thành của nó rất cao (từ 15-20 triệu đồng/chiếc) nên chưa áp dụng rộng rãi trong nghề hương.
Nếu so với các nghề thủ công gia truyền khác như làm hột nổ, làm bánh cộ, làm hàng mã… thì nghề hương chiếm ưu thế nhiều hơn như: số lượng, thị trường, sức tiêu thụ…
Nghề hương được sản suất đều đặn quanh năm, thị trường sôi động nhất vẫn là dịp Tết Nguyên đán. Nhiều người làm hương lâu năm cho biết, thuở xưa phải học 3 tháng mới làm được. Nay không cần học lâu như vậy cũng có thể se được, vì làm bằng máy dễ hơn nhiều.
Bắt đầu từ tháng 10 Âm lịch, người làm hương lại tất bật, hối hả để tạo ra nhiều sản phẩm đáp ứng thị trường tiêu thụ ngày Tết, nhiều gia đình làm hương phải thuê mướn thêm nhân công, nhiều học sinh, sinh viên cũng tranh thủ kiếm tiền xài Tết. Các bà, các mẹ, các chị cũng thu xếp việc nhà để tập trung làm hương.
Nhiều gia đình trên bàn thờ gia tiên, bên cạnh hương thật thắp cúng hàng ngày thì còn có một loại hương khác, chủ yếu là để trang trí cho bàn thờ thêm “sinh động”, tỏa sáng hơn. Đó là hương điện (hương cắm điện), loài hương bất tử, cháy mãi không tàn.
3. Khi đề cập đến ý nghĩa của nén hương thơm mà chúng ta thành tâm dâng cúng tổ tiên ông bà và các bậc tiền nhân, người xưa đã từng liên tưởng đến một loại hương khác, đó là hương người đức hạnh: “Hương các loài hoa không thể bay ngược gió – chỉ có hương người đức hạnh tỏa khắp muôn phương. Vâng, đúng như thế. Khói hương chỉ lan tỏa theo làn gió, còn hương người đức hạnh thì vượt cả không gian và thời gian để đến khắp mọi nơi và bất cứ lúc nào.
Tết đến, xuân về trên bàn thờ tổ tiên “hương chong đèn rạng”, chúng ta cảm nhận được một không khí trang nghiêm, ấm áp vô cùng. Lúc ấy, hình như có sợi dây vô hình đang kết nối giữa chúng ta với thế giới tâm linh huyền diệu (?).
Xuân của đất trời, xuân yêu thương, xuân an lạc đã về trên các cành cây, táng lá, chồi non; trên khắp mọi nẻo đường của đất nước, quê hương, là dịp để chúng ta lắng lòng nhớ nghĩ về cội nguồn và các bậc tiền nhân.
Một nén hương thơm, một phút giây tĩnh lặng lòng người như được hướng thiện, nhớ về nguồn cội ta xưa để sống tốt hơn, ý nghĩa hơn trong cuộc sống này và ngay chính hôm nay.
Võ Văn Dần
Bình luận