Phân tích Phẩm Phương tiện: Kinh văn
Kinh văn: Lúc bấy giờ đức Thế Tôn từ chánh định ung dung mà xuất, bảo Xá-lợi-phất rằng: “Trí tuệ của chư Phật thậm thâm vô lượng, trí tuệ môn đó rất khó hiểu, khó vào, tất cả hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật không thể biết được. Vì sao? Bởi vì các đức Phật từng thân cận trăm ngàn vạn ức vô số các đức Phật khác và đã tận hành vô lượng đạo pháp của các đức Phật, dũng mãnh tinh tấn, danh xưng cùng khắp, thành tựu được pháp thậm thâm vị tằng hữu và tùy nghi nói pháp ý thú khó hiểu”.
Giải thích: Đoạn này tán thán hai trí và nguyên nhân thành tựu hai trí của chư Phật. Sở dĩ đức Phật Thích Ca tán thán trí tuệ của chư Phật để đối chiếu lại trí tuệ của mình mà Ngài từng dùng trí tuệ đó thuyết pháp độ sanh. Hai trí tuệ đó là Thật trí và Quyền trí. Trí tuệ thậm thâm vô lượng, đó là chỉ về thật trí. Trí tuệ môn khó hiểu, khó vào đó là chỉ Quyền trí.
Thật trí là trí chứng được thật tướng, chứng chơn như. Đó là trí tự nội chứng của Phật, nên trí này cũng gọi là căn bản trí.
Quyền trí hay phương tiện trí là trí đức Phật dùng để thuyết pháp, giáo hóa độ sanh, trí đó cũng rất khó hiểu khó vào.
Thật trí thậm thâm vô lượng. Thậm thâm là rất sâu, không thể dùng tâm phân biệt mà dò biết được. Vô lượng là rất rộng, không làm sao biết được ngằn mé.
Đối với hàng Thanh Văn nhị thừa và ngoại đạo chúng sanh không thể hiểu, không thể vào, không đo lường được nên gọi là trí tuệ thậm thâm vô lượng. Nhưng đó là trí tuệ tự nội chứng. Còn phương tiện trí, trí tuệ dùng để thuyết pháp, giáo hóa, tùy theo căn cơ chúng sanh nữa. Trí tuệ ấy cũng không phải tầm thường nên trong kinh nói khó biết, khó vào.
Ví như một vị lương y biết được bệnh lý, biết rõ dược tánh, phương thang đó là thật trí. Biết rõ nhưng đứng trước một bệnh nhân, vị lương y ấy phải biết hạ phương thang như thế nào…? Nếu không có quyền trí, không có trí ứng cơ thì chắc chắn không làm sao bốc thuốc trị bệnh được. Hoặc có thể hạ phương thang bốc thuốc trị bệnh nhưng mà không trúng bệnh, không lành bệnh thì cũng không thể gọi là ứng cơ được.
Quyền trí rất khó được như vậy, cho nên có vị Tổ đã nói:
“Nhiên quân giảng đắc thiên kinh luận
Nhất cú lâm cơ hạ khẩu nan”.
Hai câu trên ý là: Tha hồ ông có giảng nói được ngàn kinh luận, nhưng khi lâm cơ một câu mở miệng nói được chẳng phải dễ.
Điều này chắc ai cũng đã có lần gặp phải. Có những việc đến với mình mà không biết phải mở miệng như thế nào cho được lợi ích, cho đúng, mặc dù ngày thường thì thao thao bất tuyệt. Cũng lắm khi đặt bút viết một câu văn mà cả giờ vẫn chưa đặt bút được, hay có người văn chương lỗi lạc nhưng nhờ viết dùm cho một cái đơn đi kiện thì chẳng biết viết làm sao! Như vậy là có thật trí mà không có quyền trí. Thật trí là trí biết nguyên lý sự vật, quyền trí là trí biết phương tiện trình bày tùy cơ vào tướng sai biệt của sự vật để ứng đối, ứng dụng.
Hai trí đó đức Phật đã thành tựu viên mãn, cho nên suốt 45 năm giáo hóa, đức Phật tùy theo căn cơ của chúng sanh mà Ngài thuyết pháp. Trí tuệ môn đó hàng nhị thừa, Bồ-tát không thể thấu được nên nói nan giải, nan nhập. Chữ Môn: Môn là cửa, môn để chỉ cho quyền trí. Nhờ giáo pháp Phật nói ra làm cửa ngỏ để chúng sanh đi vào cảnh giới thật trí chứng ngộ của Phật nên gọi là trí tuệ môn.
Hai câu đó là tán thán hai trí của Phật. Nói rộng ra, sở dĩ nó thậm thâm là bởi lẽ trí đó gồm đủ những tánh cách sau đây:
1. Thể tánh của trí tuệ: Là chân như thật tướng, mà đã là chân như thật tướng thì ly ngôn tướng.
2. Nghĩa tướng của trí tuệ: Tức căn bản trí và hậu đắc trí, toàn là những trí tuệ vô lậu. Sau khi chứng nhập được lý Duyên khởi, nhân quả, tánh tướng của sự vật, thành tựu viên mãn được.
3. Trợ bạn của trí tuệ: Là lục độ vạn hạnh. Không có lục độ vạn hạnh thì không thành tựu trí tuệ được.
4. Nhân của trí tuệ: Là giải và hành hay nói cách khác là phải trải qua Văn, Tư, Tu, có được như vậy trí tuệ mới thâm sâu.
5. Cảnh giới của trí tuệ: Cảnh giới đó hoặc không, hoặc hữu, hoặc hữu vi, hoặc vô vi, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu và tất cả pháp là cảnh giới của trí tuệ.
Trí tuệ gồm đủ năm nghĩa rộng như vậy cho nên trí tuệ đó gọi là trí tuệ thậm thâm. Thậm thâm cũng có 5 nghĩa:
a) Tự thể thậm thâm: Tự thể ly ngôn tuyệt tướng là thậm thâm.
b) Nghĩa tướng thậm thâm: Bởi vì đó là căn bản trí và hậu đắc trí.
c) Nội chứng thậm thâm: Trí tuệ đó là cái nội chứng của Phật.
d) Y chỉ thậm thâm: Trí tuệ đó y chỉ nơi pháp giới, pháp tánh.
e) Vô thượng thậm thâm: Vô thượng có hai nghĩa:
– Phật vô thượng: Siêu xuất tam giới.
– Pháp vô thượng: Tướng tịch diệt.
Thật tướng tất cả pháp đều bất khả thị, không thể chỉ bày từng cái, dù nói gì thì tướng vạn pháp vẫn như thị, nó không biến đổi theo lời nói, gọi là tướng tịch diệt. (Thị pháp bất khả thị ngôn từ tướng tịch diệt).
Trí đó đến địa vị Phật quả, vô đẳng đẳng chánh giác mới thành tựu được, nên gọi vô thượng thậm thâm.
Đó là tán thán hai trí thậm thâm, mà nguyên do thành tựu hai trí đó là nhờ Phật đã từng thân cận vô lượng vô số ngàn vạn ức đức Phật và tận hành vô lượng pháp môn của Phật pháp một cách dũng mãnh tinh tấn mà danh xưng đã lan khắp, thành tựu được pháp vị tằng hữu và tùy nghi thuyết pháp, ý thú nan tín nan giải. Đó là nguyên do thành tựu hai trí trên. Điều này ý nói rằng muốn thành tựu được hai trí không phải trong khoảnh khắc chỉ dụng công đơn sơ mà có thể thành được, mà phải thân cận vô số các đức Phật, thực hành vô lượng đạo pháp của các đức Phật một cách tinh tấn dũng mãnh. Nói rộng ra, có bốn nguyên tắc cho người học đạo:
1. Thân cận thiện hữu: Trong kinh nói thân cận chư Phật, đức Phật cũng là bậc Đại thiện hữu và còn những bậc thiện hữu khác nữa. Người học đạo bước đầu tiên là phải thân cận thiện hữu để học hỏi Chánh pháp.
2. Thính văn Chánh pháp: Nghe lời dạy vẽ Chánh pháp của thiện hữu.
3. Như lý tác ý: Tác ý đồng nghĩa với tư duy, tư duy đúng như lý, hợp như lý. Tư duy xong phải thực hành, đó là pháp tùy pháp hành.
4. Pháp tùy pháp hành: Thật hành pháp và tùy pháp. Pháp tức là pháp môn ta đương thực hành. Tùy pháp là pháp hỗ trợ cho pháp môn ta đương thực hành đó. Ví dụ đối với lục độ Ba-la-mật, ta tu về hạnh trì giới Ba-la-mật, thì trì giới Ba-la-mật là pháp mà năm hạnh kia (bố thí, tinh tấn…) là tùy pháp…Nói rộng ra là tất cả những pháp môn hỗ trợ cho pháp môn chính mà ta đang tu đó gọi là tùy pháp.
Bốn điều trên đây là đầu mối để thành tựu trí tuệ, cũng là cửa ngõ để đi vào đạo quả giải thoát. Bốn điều này là bốn điều chủ yếu. Không những kinh văn Đại thừa mà cả kinh văn Nguyên thủy cũng thường nói đến. Đức Phật thành tựu được hai trí cũng nhờ bốn điều này, tức nhờ vào thân cận các đức Phật, nghe giáo pháp, tư duy và tận hành đạo pháp của các đức Phật một cánh tinh tấn, dõng mãnh. Nhờ tinh tấn như vậy, nên đức Phật thành tựu được pháp vị tằng hữu, tức nhiên thành tựu thật trí, trí tuệ thậm thâm và quyền trí là trí tuệ tùy nghi nói pháp cho chúng sanh, ý thú khó hiểu, lời gần ý xa.
Một hôm đức Phật đi ngang qua rừng Simsapa, Ngài cầm một nắm lá trong tay rồi hỏi các Tỳ-kheo rằng: Lá Simsapa trong tay Ta nhiều hay là giữa rừng nhiều? Các tỳ-kheo thưa rằng: Lá trong tay Ngài ít, còn là giữa rừng nhiều, không tính đếm được. Đức Phật dạy rằng: Pháp mà Ta chứng ngộ nhiều như lá giữa rừng, còn điều mà Ta đem ra dạy cho các đệ tử như lá trong tay.
Qua câu chuyện trên để biết rằng trí tuệ thật chứng của Phật thậm thâm vô lượng, còn những pháp đem ra để giáo hóa thì ít. Thứ nữa, đó là phương tiện thì khi nào cũng là phương tiện, mà phương tiện thì không bao giờ nói hết được thật tướng, không bao giớ nói thẳng đến được. Nó chẳng qua chỉ là một cánh thức để diễn đạt thật tướng chứ nó không thể nói đúng thật tướng.
Ngoại đạo cho rằng ngôn ngữ có thể chứng đắc thật tướng, có thể nói được tự tướng của vạn vật cho nên kinh Vệ-đà họ cho là Thánh ngôn, mỗi chữ là mỗi sự thật. Trong kinh đức Phật dạy, ngôn ngữ chỉ là phương tiện chỉ sự thật chứ ngôn ngữ không phải là sự thật. Nếu ngôn ngữ là sự thật thì khi nói lửa chắc là bị cháy miệng, nhưng nói lửa vẫn không bị cháy miệng, như vậy, ngôn ngữ không phải là sự thật, nó chỉ là phương tiện, mà đã là phương tiện thì nói mấy cũng không hết, cũng không đến được thật tướng, nên trong kinh nói rằng: “Chư Phật trí tuệ thậm thâm vô lượng nan giải nan nhập”.
Trí tuệ thậm thâm khó hiểu, khó vào như vậy mà đức Phật đã thành tựu được là bởi Phật đã trãi qua bao nhiêu công phu trong số kiếp. Phật nói điều này cũng vì để đối phó, để dắt dẫn hàng nhị thừa và cũng chính nói cho họ biết rằng trí tuệ Phật là như vậy và muốn thành tựu được là phải trãi qua nhiều công phu trong vô lượng kiếp, tận hành đạo pháp của vô lượng các đức Phật. Và, đây cũng là một cách cốt phá tâm tăng thượng mạn của nhị thừa mà ở một đoạn kinh sau sẽ thấy rõ hơn.
Kinh văn: Này Xá-lợi-phất, Ta từ khi thành Phật đến nay đã từng dùng các thứ nhân duyên các thứ thí dụ, rộng diễn ngôn giáo, và vô số phương tiện dẫn đạo chúng sanh khiến xa lìa các chấp trước. Sở dĩ làm vậy vì phương tiện tri kiến Ba-la-mật Như Lai đều đã đầy đủ. Này Xá-lợi-phất, tri kiến Như Lai rộng lớn sâu xa, vô lượng, vô ngại lực, vô sở úy, thiền định, giải thoát, tam-muội, sâu vào không có ngằn mé, thành tựu tất cả những pháp chưa từng có. Này Xá-lợi-phất, Như Lai hay phân biệt, khéo nói các pháp, ngôn từ mềm dịu, vui đẹp lòng chúng. Này Xá-lợi-phất, lấy cốt yếu mà nói, vô lượng vô biên pháp vị tằng hữu, Phật đều thành tựu.
Thôi Xá-lợi-phất, không nên nói nữa, vì sao? Vì Phật đã thành tựu được pháp khó hiểu hy hữu đệ nhất, chỉ có Phật cùng với Phật mới rõ thấu cùng tột tướng chân thật của các pháp, đó là: Như thị tướng, như thị tánh, như thị thể, như thị lực, như thị tác, như thị nhân, như thị duyên, như thị quả, như thị báo, như thị bổn mạt cứu cánh đẳng.
Giải thích: Các thứ nhân duyên là sao? Đức Phật nói những pháp môn tùy theo căn cơ của chúng sanh, căn cơ đó có bản nhân như vậy và cần nhờ duyên của giáo pháp Phật như vậy sẽ được giác ngộ giải thoát.
Như đối với chúng sanh có căn cơ của hàng nhơn thiên tức “Nhơn”, Phật dạy về pháp ngũ giới, thập thiện, các thiền định để làm duyên cho họ được an lạc. Hoặc có chúng sanh có căn cơ Thanh Văn (Nhân Thanh Văn) Phật nói pháp Tứ đế làm duyên để họ phát triển trí tuệ vô lậu giải thoát, hoặc chúng sanh có căn cơ Duyên Giác, Phật nói pháp Thập nhị nhân duyên, có căn cơ Bồ-tát, Phật nói lục độ, vạn hạnh, Tứ vô lượng tâm, Tam tam-muội…, không bỏ sót một căn cơ nào. Gọi đó là các thứ nhân duyên.
Một Tỳ-kheo ở xứ Bạt Ký đến bạch Phật: “Con phải tu tập tới 250 học pháp và cứ mỗi nữa tháng tụng đọc một lần, con không thể nào theo nổi”. Phật hỏi: “Ông có thể chỉ tu học ba học pháp là Giới học, Định học, Huệ học không? Tỳ-kheo kia đáp, Bạch Thế Tôn, dạ được. Vậy là ông chỉ tuân thủ ba học pháp ấy cho đến khi chứng quả…
Hoặc cũng có nghĩa chỉ về nhân duyên của mỗi người khi xuất gia học đạo… Mỗi người đến với đạo đều có “Nhân” “Duyên” khác nhau. Bản nhơn nơi tự tâm và gặp duyên như thế nào để đi vào đạo đó là nhân duyên. Ví dụ như trường hợp theo Phật xuất gia của ngài Tôn-đà-la Nan-đà chẳng hạn, Phật dựa vào duyên để hướng dẫn ông, gọi đó là nhơn duyên.
Nếu có những căn cơ cần phải nói thí dụ mới hiểu được thì Phật dùng thí dụ (các thứ thí dụ). Như trong kinh Pháp Hoa Phật dùng thí dụ: Nhà lửa, cùng tử, hóa thành…, hoặc như nói, kinh Phật như chiếc bè qua sông, như ngón tay chỉ mặt trăng… hoặc như muốn chỉ rõ tánh chất của ngũ uẩn là không thật thì Phật dạy sắc như bọt nước (sắc như tụ mạc). Thọ như bong bóng nước (thọ như thủy thượng bào), Tưởng như sóng nắng (tưởng như dương thời diệm), các hành vi như cây chuối (chư hành như ba tiêu), thức ấm ví như trò huyễn (chư thức pháp như huyễn)…
Đức Phật dùng các nhân duyên, các thí dụ với vô số phương tiện dẫn đạo chúng sanh xa lìa cấu uế. Nên biết rằng, mỗi chúng sanh đều có mỗi chấp trước, chấp trước về thân tâm, chấp trước về cảnh giới, chấp trước về sự nghiệp, chấp trước về tri kiến… mang thân tâm gì thì chấp trước theo thân tâm ấy. Ở cảnh giới nào thì chấp theo cảnh giới ấy, chúng sanh dục giới chấp trước dục giới… thậm chí chúng sanh ở địa ngục cũng có sự chấp trước ở địa ngục, chấp trước về căn thân, về khí giới… Cho nên, tuy những điều rất nhỏ nhưng khi chấp trước thành thói quen rồi, thì muốn quên ngay cũng không được. Như tiền thân đức Thích Tôn, có một kiếp làm người trồng cải, sau bỏ nghề đi tu, nhưng cứ mỗi khi thiền quán, thân tâm vừa an tịnh thì lại thấy cái cuốc và hạt cải hiện ra, bao nhiêu phen mà tâm không định được. Ngài phải trở về nhà lấy cây cuốc và nắm hạt cải đi ra bờ sông, đứng nhắm mắt tay cầm cuốc và hạt cải tung vãi cho bay mất đi, sau đó mới yên tịnh tu hành được. Để cứu chúng sanh ra khỏi mọi ràng buộc của chấp trước đó, nên đức Phật dùng các thứ nhân duyên, các thứ thí dụ để đưa họ ra khỏi vậy.
Sở dĩ đức Phật dùng được vô số các nhân duyên, thí dụ để dẫn dắt chúng sanh là nhờ Phật thành tựu được tri kiến Ba-la-mật. Tri kiến Ba-la-mật là gì? Đó là tri kiến Như Lai rộng lớn sâu xa, rốt ráo, về bốn Vô lượng, bốn Vô ngại, Thập lực, bốn vô sở úy, tứ Thiền, Bát định, bát Giải thoát và Tam tam-muội. Đó là những pháp môn, những tri kiến mà đức Phật đã thành tựu. Những pháp môn này chính là những pháp tu quán. Chữ “Vô lượng” trong kinh tức chỉ cho Tứ vô lượng tâm: Từ, Bi, HỶ, Xả. Chúng sanh vô lượng, Phật phát tâm từ bi hỶ xả cũng vô lượng, thương xót…, cùng khắp không chừa một ranh giới nào, nên gọi là vô lượng. Bốn Vô ngại tức là bốn Vô ngại giải hay bốn Vô ngại biện. Thập lực, “Lực” có nghĩa là trí, tức chỉ cho trí của Phật. Trí của Phật kiên cố, vững chắc không bị lay chuyển, không bị phá hoại nên gọi là lực. Đại hùng, Đại lực, Đại từ bi tức là đại dũng, đại trí và đại từ bi, tức Bi-Trí-Dũng. Thập lực gồm có:
1. Tri xứ phi xứ trí lực: Xứ, có nghĩa là đạo lý. Phật có trí lực biết như thật nhân duyên quả báo như thế là đúng đạo lý hay không đúng đạo lý. Biết rõ sự kiện có xảy ra là có xảy ra, sự kiện không xảy ra là không xảy ra. Ví như biết A-la-hán là không còn tái sanh luân hồi là không tái sanh luân hồi. Phàm phu còn tái sanh luân hồi là có tái sanh luân hồi.
2. Tri tam thế nghiệp báo trí lực: Có trí lực biết như thật nghiệp báo ba đời của chúng sanh.
3. Tri chư thiền giải thoát tam-muội trí lực: Có trí lực biết như Thật các thiền định, Bát giải thoát, Tam tam-muội.
4. Tri chư căn thượng hạ trí lực: Có trí lực biết như thật các căn tánh cao thấp của chúng sanh.
5. Trí chủng chủng dục lực: Có trí lực biết như thật tất cả mọi chí hướng, ham muốn của chúng sanh.
6. Tri chủng chủng giới trí lực: Đối với các cảnh giới của chúng sanh ở thế gian không đồng nhau, nhưng Phật có trí lực đều biết rõ như thật cùng khắp.
7. Tri nhất thiết chí xứ đạo trí lực: Có trí lực biết như thật rằng nếu thật hành 5 giới, tu điều thiện (đạo) thì đạt đến (chí) nhơn thiên (xứ). Thật hành Bát chánh đạo, vô lậu (đạo) thì đưa đến (chí) Niết-bàn giải thoát (xứ).
8. Tri biên nhãn vô ngại trí lực: Có trí lực thiên nhãn thấy như thật sự sanh tử, nghiệp duyên của chúng sanh mà không bị chướng ngại.
9. Tri túc mạng vô lậu trí lực: Có trí lực biết như thật các đời trước của mình và chúng sanh.
10. Tri vĩnh đoạn tập khí trí lực: Có trí lực biết như thật đối với tất cả vọng tưởng, tập khí, lậu hoặc đã hoàn toàn đoạn trừ không sanh trở lại.
1.Nhất thiết trí vô sở úy: Đức Như Lai ở giữa đại chúng tuyên bố rằng: “Ta là bậc nhất thiết trí, không còn e sợ ai có thể chỉ trích một cách đúng pháp rằng: Như Lai không phải bậc nhất thiết trí”.
2. Lậu tận vô sở úy: Đức Như lai ở giữa đại chúng tuyên bố rằng: “Ta đã đoạn tận tất cả phiền não lậu hoặc, không còn e sợ ai có thể chỉ trích một cách đúng pháp rằng: Như Lai chưa đoạn hết các lậu hoặc”.
3. Thuyết chướng đạo vô sở úy: Đức Như Lai ở giữa đại chúng nói các dục phiền não là pháp chướng đạo, không còn e sợ ai có thể chỉ trích một cách đúng pháp rằng: “Các dục phiền não là pháp không chướng đạo mà Như Lai lại nói chướng đạo”
4. Thuyết tận khổ đạo vô sở úy: Đức Như Lai ở giữa đại chúng nói về giới, định, tuệ là con đường diệt khổ, không còn e sợ ai có thể chỉ trích một cách đúng pháp rằng: “Giới, Định, Tuệ không phải là đạo giải thoát mà Như Lai nói là đạo giải thoát.”
Chính nhờ thành tựu bốn pháp này, Như Lai tự nhận cho mình địa vị Ngưu vương, rống tiếng rống con sư tử ở giữa đại chúng.
1. Nội hữu sắc quán ngoại sắc giải thoát: Đối với nội thân còn có sắc tưởng của nhiều tham ái, muốn dứt trừ tham ái đó không thể tự quán bất tịnh tự thân mà phải nhờ quán bất tịnh nơi thân người khác mà được giải thoát tham ái nơi tự thân mình.
2. Nội vô sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát: Đối với tự thân ngũ uẩn không còn tham ái chấp trước, nhưng để cho tâm giải thoát tham ái đó được kiên cố và giải thoát tâm tham ái đối với thân người khác, nên cần phải tiếp tục quán bất tịnh nơi thân người khác, nơi xác chết…, nhờ đó mà tâm giải thoát tham ái được bền vững.
3. Tịnh giải thoát thân tác chứng cụ túc trí: Qua giai đoạn thứ ba này tâm tham ái về sắc thân đã dứt trừ, đến đây không còn phải quán bất tịnh nữa, nhưng lại quán tịnh sắc để luyện tập tâm, dù thấy tịnh sắc, tâm vẫn giải thoát không khởi tham ái.
4. Không vô biên xứ giải thoát.
5. Thức vô hữu xứ giải thoát.
6. Vô sở hữu xứ giải thoát.
7. Phi tưởng phi phi tưởng xứ giải thoát.
8. Diệt Thọ Tưởng Định Thân tác Chứng Cụ túc trú: Đây là Định cao nhất trong chín định thứ đệ. Nhập vào định này thì hành giả dứt cả thân hành (hơi thở ra vô không còn) dứt cả ngũ hành (không còn tầm và tứ) và bỏ luôn tâm hành (tức dứt trừ tâm sở thọ và tưởng).
Đức Phật nhờ tu Tứ vô lượng tâm, Tứ vô ngại biện…, thành tựu đầy đủ tri kiến phương tiện Ba-la-mật, cho nên, đức Phật mới thành tựu quyền trí, tùy căn cơ chúng sanh rộng diễn nói pháp, dẫn dắt cho ra khỏi mọi chấp trước.
Đây là đức Phật Thích ca tự tán thán trí tuệ của mình. Trí tuệ đó thậm thâm vi tế, càng đi sâu vào càng không biết ngằn mé chỗ nào.
Đức Phật thành tựu được pháp vị tằng hữu, vị tằng hữu tức nói về thật trí.
Đoạn kinh: “Như Lai dùng các thứ phân biệt, khéo nói các pháp, ngôn từ nhu nhuyển, làm vui đẹp lòng chúng”, là tán thán quyền trí. Quyền trí tức trí thuyết pháp độ sanh, dùng ngôn từ nhu nhuyến, làm đẹp lòng chúng sanh để dẫn dắt họ.
Trong lúc Phật đang tán thán thì nửa chừng thì Ngài bỗng nói: “Thôi, Xá-lợi-phất, không nên nói nữa”. Vì sao? Vì pháp đệ nhất nan giải Phật thành tựu đó chỉ có Phật với Phật mới cùng tận được thật tướng các pháp.
Mở đầu phẩm Phương tiện, có ba lần Phật bảo với Tôn giả Xá-lợi-phất “Thôi” (Chỉ), đây là lần thứ nhất. Lần thứ nhất Ngài bảo “thôi” không nói. “Thôi” này có ý nghĩa rằng, thật tướng các pháp là thậm thâm, quyền trí và thật trí của Phật là thậm thâm. Sự thậm thâm đó chỉ có trí tự giác, tự ngộ thân chứng chứ không thể dùng ngôn ngữ để trình bày, để nói ra được cho nên Phật nói “thôi”.
“Thôi” cũng có ý bảo rằng những lời Ngài sắp nói ra đây cần phải ly ngôn tự chứng chứ không thể cứ vin theo những câu những lời của Phật mà có thể chứng ngộ được. “Thôi” vì giáo nghĩa, vì thật tướng thậm thâm, trí tuệ thậm thâm cho nên Phật nói ngang đó rồi ngài bảo “thôi”. Vì sao? Vì điều đó chỉ có Phật với Phật mới cứu cánh chứng ngộ được thật tướng các pháp, chưa phải Phật, càng nói ra, chúng sanh càng chấp trước theo ngôn từ y văn giải nghĩa…, thì không làm sao giải thoát được.
Các pháp thật tướng. Thế nào là các pháp thật tướng? Đó là như thị tướng, như thị tánh, như thị thể, như thị lực, như thị tác, như thị nhơn, như thị duyên, như thị quả, như thị báo, như thị bản mạt cứu cánh đẳng. Pháp thật tướng là pháp ly ngôn, ly tứ cú tuyệt bách phi, nhưng mà thật tướng ly tứ cú tuyệt bách phi cũng không phải ngoài hiện tượng các pháp này mà có. Cho nên có thể bằng vào hiện tượng và dùng ngôn ngữ để diễn đạt thật tướng đó qua các nghĩa tướng của nó, mà chỉ ngay trong các pháp hiện trước mắt (hiện tướng) để chỉ thật tướng. Tất cả mỗi pháp tự nơi nó đều có 10: Tướng như vậy, tánh như vậy…
Tướng: Là hình dáng hiện ra bên ngoài, thấy, sờ mó được, nó hiển hiện. Pháp gì cũng có tướng như vậy.
Tánh: Pháp nào tự nó cũng có thật tánh bên trong không biến chuyển, không thấy được.
Thể: Tánh và tướng hợp nhất thành ra cá thể.
Lực: Tánh, tướng, thể thành ra một pháp, thì pháp đó có năng lực.
Tác: Có năng lực thì có sự tạo tác, tác dụng.
Nhơn: Chính pháp đó có thể làm nhơn cho cái khác.
Duyên: Có thể làm duyên cho cái khác.
Quả: Tự nhơn duyên của mình và cái khác mà thành ra quả. Nhơn đưa đến quả.
Báo: Sự thù đáp lại nhơn và duyên trước đó.
Bản mạt: là chỉ từ như thị tướng đến như thị báo cứu cánh đẳng… Từ tướng đến báo, từ bản đến mạt, đều rốt ráo bình đẳng như nhau, bình đẳng trên thật tướng, nên gọi “Cứu cánh đẳng”.
Đi sâu vào trong 10 như thị, thì có hai như thị là quả và báo cần phải rõ thêm.
Sao có “quả”mà lại có “báo”? Thường hay nói quả báo, như vậy là gồm cả hai chứ không phải một. Vừa đẳng lưu vừa dị thục. Tất cả pháp, pháp nào từ nhơn đến quả cũng có hai khía cạnh, một khía cạnh đẳng lưu, một khía cạnh dị thục. Nhưng hai khía cạnh này không phân ly (bất phân ly).
Đẳng lưu nhân quả: Từ nhân đến quả, quả lưu xuất một cách bình đẳng với nhân. Quả với nhân cùng một tánh, cùng một loại: Như nhân xoài quả xoài, nhân mít quả mít, nhân lành quả lành, nhân dữ quả dữ.
Dị thục nhân quả: Từ nhân đến quả có sự biến đổi, quả khác với nhân, quả và nhân không cùng một loại, không cùng một tánh, như nhân hạt mít thành cây mít, nhân lành hoặc dữ mà thành quả Vô ký. Ví dụ: Hạt mít trồng lên cây mít, ở đây ta thấy có hai khía cạnh.
1. Mít trồng lên mít, trước sau nhân quả vẫn là mít, chứ không phải xoài ổi… Đó là đẳng lưu nhân quả.
2. Hạt mít trồng lên cây mít, thì cây mít không giống hạt mít, cây là cây mà mít là mít, mặc dù cây từ mít mà mọc lên. Đó là dị thục nhân quả.
Hoặc ví dụ, đất sét nắn thành bình đất, thì đất là đất, mà bình đất cũng là đất, chứ không là bình đồng, đó là đẳng lưu nhân quả. Nhưng bình đất không phải là đất, bình đất dùng đựng, có thể vỡ, đất không vậy. Như vậy bình đất (quả) khác với đất (nhân), đó gọi là dị thục nhân quả.
Hai loại nhân quả ở loài hữu tình thì:
Nhân thiện thành quả thiện, nhân ác thành quả ác, gọi là đẳng lưu nhân quả.
Nhân thiện ác thành quả vô ký gọi là dị thục nhân quả.
Vì sao nhân quả lại mâu thuẫn nhau như vậy?
Nên biết dị thục nhân quả này không phải tách riêng đẳng lưu nhân quả mà có cái thể riêng, nhưng mà nó có tánh cách riêng. Như nghĩ lành, nói lành, làm lành (thiện nghiệp nhân) cái nhân thiện đó luôn luôn tạo ra kết quả nghĩ lành, nói lành, làm lành (thiện nghiệp quả), đó là nhân quả đẳng lưu. Vậy càng làm thiện chừng nào thì thiện tâm càng lớn, càng vững chắc. Đó là nhân thiện, quả thiện thuộc đẳng lưu nhân quả. Nghĩ ác, nói ác, làm ác cũng vậy.
Nhưng nhân thiện, nhân ác đồng thời lại đưa đến kết quả thọ báo thân cõi trời, cõi người, địa ngục, thọ quả báo khổ, vui… thì chính tự thân khổ vui hay thọ báo thân loài trời, loài người lại không có tánh lành hay tánh dữ mà là vô ký.
Báo thân người, báo thân trời… hay thọ khổ, thọ vui tự nó là vô ký, chứ không thể bảo thân người thân trời là thiện hay ác, thọ khổ là ác, thọ vui là thiện, mặc dù thân người, thân trời, khổ vui cũng từ nghiệp nhân thiện ác đưa đến. Cho nên thọ khổ, thọ vui thuộc dị thục quả. Trong khi thọ khổ mà ác tâm nghiệp của ngày trước vẫn còn lưu tục, ác tâm ác nghiệp đó tạo thành ác tâm ác nghiệp ngày hôm nay, ác vẫn là ác (đẳng lưu). Thiện tâm thiện nghiệp (nhân) của ngày trước đưa đến thiện tâm thiện nghiệp (quả) ngày hôm nay. Thiện vẫn là thiện (đẳng lưu). Nhưng thiện và ác phối hợp lại, hoặc là thiện nhiều ác ít hoặc ác nhiều thiện ít mà thành ra quả báo thân cõi trời, cõi người… hay hình thành ra báo thân con người thọ khổ hay thọ lạc, thì báo thân thọ khổ, thọ lạc đó không phải là thiện, không phải là ác, khổ không phải là thiện, không phải là ác; lạc không phải là thiện, không phải là ác. Thiện ra thiện, ác ra ác là đẳng lưu quả. Còn khổ và vui, làm lành được vui, làm ác bị khổ, khổ vui đó chính tự bản thân nó là vô ký. Mặc dù, cái khổ, cái vui đó chính từ ác nghiệp, thiện nghiệp gây ra, cũng như đất nắn thành bình, mà bình không giống đất, nên gọi là dị thục, nghĩa là biến đổi đưa đến thành thục, quả không cùng một loại với nhân.
Đẳng lưu là sao? Trồng giống xoài, giống xoài đó từ đầu nó diễn tiến lên, tiền niệm hậu niệm tương sanh, trước xoài giữa cũng xoài và sau cũng xoài. Như vậy gọi là đẳng lưu.
Dị thục là sao? Cây xoài, từ cái hột, rồi lên cây, sanh ra trái, như vậy nó vẫn là xoài, nhưng phải trải qua bao nhiêu giai đoạn khác nhau, cây xoài không giống xoài, như bình không giống đất, như vậy gọi là dị thục, mà dị thục này thuộc về vô ký…
Trong kinh dùng chữ quả và báo có khác nhau ở chỗ đó. Quả chỉ đẳng lưu, báo chỉ dị thục. Không phải hai nơi, hai thể mà chính từ một cái mà có hai khía cạnh khác nhau. Có những con người trong khi thọ vui, họ sung sướng lắm (dị thục), nhưng chưa chắc họ thiện (đẳng lưu). Sự sung sướng đó là kết quả thiện nghiệp ngày trước, cái sướng đó, cái lạc báo đó thuộc về vô ký. Nhưng mà giờ đây, chính trong họ đang mang nghiệp ác từ trước lưu lại, đó là đẳng lưu, nghiệp đó thiện tánh, ác tánh, không gọi vô ký. Thành ra, trong khi đẳng lưu thì vẫn là ác mà họ thọ sướng, cái sướng đó dị thục vô ký.
Tóm lại: Thiện tánh sanh thiện tánh là đẳng lưu. Thiện tánh cộng thiện nghiệp thành thiện báo, dị thục.
Về thập như thị, ngài Thiên Thai còn diễn giải thành ra “nhất tâm tam quán” và “nhất niệm tam thiên” như sau:
Tam quán là Giả quán, Không quán và Trung đạo quán. Sở dĩ có Tam quán là bởi vì chính từ mỗi pháp, pháp nào cũng có ba sự thật hay chân lý ba mặt gọi là “đế”. Đế là sự thật, là chân lý. Ba sự thật đó là:
1. Giả đế: Giả tức nhiên nó là vô thường, là do hòa hợp mà thành, nó không thật. Mỗi pháp đều do nhân duyên kết hợp, vô thường biến đổi, gọi là giả. Giả đó cũng là một sự thật không chối cãi nên gọi là “đế”.
2. Không đế: Bản tánh mọi vật vốn là giả, không thật, mà không thật nên không có tự tánh độc lập ngoài các duyên nên gọi nó là không, không đó cũng là một sự thật không chối cãi được nên gọi là Không đế.
3. Trung đạo đế: Giả, Không không phải nằm tách riêng biệt ngoài Giả có Không, ngoài Không có Giả mà chính Giả là Không, Không là Giả. Đó cũng là một sự thật nên gọi Trung đạo đế.
Chúng ta không nhìn thấy được Trung đạo là vì chúng ta chỉ nhìn có một khía cạnh, hoặc khi thì nói không, khi thì nói có, chứ không thấy được có trong không, không trong có.
Vậy thì, mỗi pháp tự nó có ba tánh cách thật: Giả cũng thật, Không cũng thật, Trung đạo cũng thật. Với ba sự thật đó làm sao nhận biết được. Nếu đem tâm thông thường không thể thấy được nên phải quán, và khi quán về mặt Giả thì gọi là Giả quán, quán về mặt Không thì gọi là Không quán, quán về mặt Trung đạo thì gọi là Trung đạo quán, mà ba quán đó cũng từ ở một tâm này mà thành tựu được chứ không phải ngoài tâm mà có. Trong một tâm mà quán được viên mãn ba thứ nên gọi là nhất tâm tam quán. Với “thập như” này ngài Thiên Thai lại biến chuyển ra ba cách đọc mà thành ra ba quán:
Khi đọc: Như thị tướng, Như thị tánh… (Tướng là như vậy,…) Đó là Giả quán. Đó là lối chỉ ngay hiện tượng mà nói, hiện tượng giả tướng là như vậy, tánh là như vậy… Tức là theo sự giả của sự vật mà chỉ bày ra, nhìn về mặt hiện tượng gọi là Giả quán.
Khi đọc: Tướng thị như, Tánh thị như,… đó là Không quán hay Chơn quán. vì dù là tướng, là Tánh…, nhưng tướng vẫn nằm nơi Như, tướng không ly Như, tướng không nằm ngoài thật tướng, ngoài như như, ngoài chân như, tánh vẫn là Như, tướng vẫn là Như.
Khi đọc: Tướng như thị, Tánh như thị… Tướng như vậy, như vậy là như vậy, Như thị là pháp nhĩ như thị, nó là nó, nó là như thế, như thế là như thế, đó là Trung đạo quán. Không thiên Hữu, không thiên Vô, không thiên Giả, không thiên Không gọi là Như thị.
Tóm lại, thập như thị này, mỗi thứ đều có ba cách nhìn, cách đọc thành ba sự thật. Ba cách nhìn, cách đọc đó thành ba cách quán mà ba quán vốn từ nhất tâm nên gọi là “Nhất tâm tam quán”, đó là lý chỉ yếu của Tông Thiên Thai.
“Nhất niệm tam thiên”. Một niệm ba ngàn là thế nào? Ba ngàn đây không phải là ba ngàn theo ý niệm thời gian. Ba ngàn đây là: Hữu tình (chúng sanh) thế gian thì có chia ra 10 bậc, gồm Tứ Thánh và Lục phàm. Tứ thánh: Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, và Phật. Lục phàm: Địa ngục, ngạ quỶ, súc sanh, thiên, nhơn, a-tu-la.
Mười cấp bậc của loài hữu tình như vậy gọi là thập pháp giới hay thập giới. Nhưng nói thập pháp giới như vậy là phân biệt đại thể chứ mỗi giới như vậy cũng mang đủ tánh cách của chín giới kia. Nói địa ngục không chỉ hẳn địa ngục mà trong ấy có cả Phật, Bồ-tát… ngạ quỶ, súc sanh nữa. Vậy thì mỗi giới có đủ tánh cách của chín giới kia, nên 10*10 là 100 giới, mà mỗi giới, giới nào cũng đủ 10 như thị (100 * 10 = 1.000) tức là bách giới thiên như. 1000 như, nhân với ba loại thế gian là: Hữu tình thế gian, ngũ ấm thế gian, khí thế gian, thành ba ngàn như. Nhưng ba ngàn như này không ngoài một niệm của chúng sanh, không ngoài một niệm có ba ngàn, thành thử, chính ba ngàn là một niệm, một niệm là ba ngàn. Tức là tánh cách từ nơi bản tánh một niệm mà đủ ba ngàn.
Cho nên, ngài Thiên Thai có dùng thuyết “Tánh Khởi”. Tánh khởi là từ nơi bản tánh một niệm mà có đủ ba ngàn, rồi nó gặp duyên như thế nào nó khởi lên như thế ấy. Gặp duyên địa ngục khởi lên địa ngục, gặp duyên thiên nhơn khởi lên thiên nhơn…
Nhất niệm tam thiên này có thể nói theo nghĩa của kinh Hoa Nghiêm là: “Vô biên sát hải tự tha bất cách ư mao đoan”.
Tóm lại, thập như thị trong kinh Pháp Hoa là điều chủ yếu để nói về thật tướng các pháp nên ngài Thiên Thai đã dùng thập như đó mà diễn ra bằng ba cách quán và thành tam thiên. Đó là hai lý chỉ yếu của Tông Thiên Thai vậy.
Kinh văn: Lúc bấy giờ đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà nói kệ rằng:
Đấng Thế Hùng bất khả lường, hàng chư thiên và thế nhơn, tất cả loài chúng sanh, không ai biết Phật được. Phật đủ 10 lực, bốn Vô sở úy, tám giải thoát, các tam muội và các pháp khác của Phật, không thể nào trắc lường hết được.
Giải thích: Đây là bài tụng tán thán Phật và pháp. Bốn câu đầu tán thán Phật là Đấng giác ngộ được thật tướng sâu xa, là Đấng có đầy đủ công đức chúng sanh không thể nào thấu hiểu hết được. Bốn câu sau là tán thán pháp, tức tán thán những điều đức Phật chứng ngộ được như mười lực, bốn Vô sở úy…, những pháp này chúng sanh cũng không thể nào trắc lường được.
Kinh văn: Vốn từ vô số các đức Phật, thật hành đầy đủ các đạo, pháp thậm thâm vi diệu khó thấy khó hiểu. Trải vô lượng ức kiếp, tu các đạo hạnh ấy xong, ở nơi đạo tràng chứng thành quả giác, Ta đã đều biết hết. Như vậy, đại quả báo và các nghĩa tánh tướng chỉ có Ta cùng mười phương chư Phật mới có thể biết việc đó, pháp ấy không thể chỉ bày, tướng ngôn ngữ vắng bặt, các loài chúng sanh khác, không làm sao hiểu được, trừ chúng Bồ-tát bằng sức tin kiên cố (mới tín giải mà thôi).
Giải thích: Đoạn kinh này cũng là tiếp lời tán thán trên.
Trên là tán thán Phật và pháp của Phật chứng ngộ.Tại sao đức Phật lại chứng ngộ được các pháp đó? Bởi vì như trên đã nói, không phải một hai ngày mà phải rất nhiều công phu tu tập trãi qua vô số kiếp, gặp vô số các đức Phật, thực hành đầy đủ đạo hạnh, cho nên đức Thích Tôn mới chứng được những pháp đó. Những pháp Phật chứng ngộ được rất là thậm thâm vi diệu. Mà pháp đó là gì? Tức chỉ cho thật trí và quyền trí, hay nói rộng ra là 10 trí lực, bốn điều không sợ, tám món giải thoát,… Do đó Ngài đã chứng thành quả vị Bồ-đề nơi đạo tràng, và điều đó Ngài đã biết rõ. Chỉ có đức Thích Tôn cũng như 10 phương chư Phật khắp cùng biết rõ đại quả báo và các tánh tướng của các pháp. “Quả báo tánh tướng” ở đây là nói tóm gọn”10 như” ở trước. Tánh tướng là đứng về nhơn, quả báo là đứng về quả báo. Cho nên bốn tướng này tóm thâu cả 10 như thị. Chỉ có đức Phật và 10 phương các đức Phật mới biết rõ pháp đó, mà pháp đó là pháp dứt bặt các tướng ngôn từ, không thể dùng ngôn từ để chỉ thị ra được, bởi vì pháp ấy cần tri chứng, thì phải dùng bằng trí chứng. Ngôn từ chỉ có thể là phương tiện chỉ dẫn, ngôn từ không thể nói đích thật pháp mà Phật chứng ngộ. Cho nên đối với pháp đó tướng ngôn từ vắng bặt, các loài chúng sanh không thể hiểu được.
Nhưng chúng sanh không hiểu được thì làm sao ngộ được trí chứng của Phật, học theo trí của Phật, để đạt đến trí của Phật được, duy chỉ các hàng Bồ-tát bằng sức tin kiên cố mà hiểu được, hiểu bằng tín giải chứ chưa hiểu bằng chứng giải. Nghĩa là dựa theo lời Phật dạy rồi phát lòng tin vững mạnh nơi lời đức Phật mà hiểu.
Đối với các vị Bồ-tát trước khi kiến đạo, thì đầy đủ bốn chứng tịnh hay bốn bất hoại tín là tin Phật tin Pháp, tin Tăng, tin Giới. Bốn thứ này người học đạo phải tin vững chắc không lay chuyển, không thay đổi. Khi người học đạo có đủ bốn đức tin như thế thì người đó đã gần tới địa vị kiến đạo. Chẳng những hàng Bồ-tát như vậy, mà những người học đạo cũng đều phải như vậy. Cho nên đức Phật nhắc nhở đến đức tin kiên cố để tín giải Phật pháp. Nếu không thì luôn luôn chỉ đứng ngoài cửa chứ không làm sao vào nhà Phật pháp được.
Kinh văn: Các đệ tử Phật, từng cúng dường các đức Phật, tất cả lậu đã tận, ở vào thân tối hậu, những người như thế sức họ không kham hiểu nổi.
Giải thích: Nghĩa là trừ hàng Bồ-tát dùng sức tin kiên cố nói trên, bậc A-la-hán ở Thanh văn thừa, những vị này đã từng tu tập, từng cúng dường, từng đoạn hết lậu hoặc. -Nên nhớ lậu hoặc ở đây chưa phải là đoạn vô minh mà là đoạn dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu, đó là ba thứ lậu trong tam giới chứ chưa phải đoạn vô minh lậu ngoài tam giới. -Khi đoạn hết lậu này rồi thì chứng A-la-hán, là thân cuối cùng, thân này không còn tái sanh trong tam giới nữa. Cho nên một vị A-la-hán thành tựu là một vị luôn luôn có đầy đủ bốn nghĩa: Thử sanh dĩ tận (Do đoạn Khổ đế, chấm dứt sanh tử), phạm hạnh dĩ lập (Do thành tựu Đạo đế, đủa các phạm hạnh), sở tác dĩ biện (Do chứng Diệt đế, việc cần làm đã làm xong), bất thọ hậu hữu (Do chứng Tập đế, không còn trở lại trong sanh tử). Đầy đủ bốn nghĩa đó gọi là A-la-hán. Bất thọ hậu hữu là ở thân cưối cùng. Trong vòng luân hồi sanh tử của chúng sanh trãi qua vô lượng vô số thân khi loài này, khi loài khác, không biết ngang đến mức nào mới gọi là thân cuối cùng? -Đến quả vị A-la-hán là thân cuối cùng không còn tái sanh nữa. Những bậc A-la-hán như thế cũng không thể hiểu được pháp Phật chứng ngộ.
Kinh văn: Giả sử, đầy cả thế gian gồm có những người như Xá-lợi-phất, suy nghĩ cùng tột, chung nhau lại so lường cũng không thể so lường biết được trí của Phật.
Giải thích: Các vị A-la-hán không biết đã đành, những vị trí tuệ như Tôn giả Xá-lợi-phất, đầy cả thế gian chung nhau lại để suy lường pháp của Phật chứng ngộ cũng không thể được.
Kinh văn: Giả sử, đầy cả 10 phương đều như Xá-lợi-phất và các hàng đệ tử khác cũng đầy cả 10 phương cõi nước, cùng tột tư lường, chung nhau trắc lường, thì cũng không thể biết được trí chứng ngộ của Phật.
Đến hàng Bích Chi Phật lợi trí, ở thân vô lậu tối hậu và cũng đầy cả 10 phương giới, số những vị đó nhiều như rừng tre, chung nhau lại đồng nhất tâm, trãi qua ức vô lượng kiếp, muốn suy nghĩ thật trí của Phật cũng chẳng làm sao biết được phần ít.
Dù đến hàng tân phát ý Bồ-tát, từng cúng dường vô số Phật liễu đạt được các nghĩa thú, lại khéo thuyết pháp. những vị đó nhiều như lúa, mè, tre, lau đầy khắp cả 10 phương cõi, nhất tâm dùng diệu trí ở trong hằng sa kiếp đều cùng nhau tư lường cũng không biết được trí của Phật.
Cho đến hàng Bất thối Bồ-tát, số đó như hằng sa, nhất tâm cùng nhau tư cầu cũng không thể biết được trí của Phật.
Giải thích: Tóm lại, trí Phật, thật tướng Phật chứng ngộ, chỉ trừ hàng Bồ-tát, bằng sức tin kiên cố mới tín giải được một phần, ngoài ra, hàng tân phát ý Bồ-tát (Bồ-tát còn ở địa vị trước thập tín), bất thối Bồ-tát (Bồ-tát đã lên trên thập địa), A-la-hán, Bích Chi Phật và những vị có đại trí tuệ như Xá-lợi-phất đầy khắp cả thế gian chung nhau lại để tu lường cũng không ai biết được trí của Phật và cũng không ai biết được thật tướng Phật chứng ngộ.
Trí của Phật sâu xa như vậy, lý của Phật sau xa như vậy, điều đó để nói lên rằng cái sâu xa của Phật không thể biết được. Vì sao như vậy? Bởi vì lý này, trí này là cần thật chứng chứ không thể tư lường phân biệt. Nếu đem tư lường phân biệt thì dù có phân biệt đến vô số kiếp, đem bao nhiêu tâm tư lanh lợi khôn ngoan để phân biệt cũng không phân biệt được.
Dựa vào ý này để hiểu thì giáo pháp của Phật đối với chúng ta cũng vậy, điều này luôn luôn được đức Phật nhắc nhở. Nếu ai nghĩ rằng đem tâm tư phân biệt để hiểu lời Phật dạy thì lời ấy sẽ trở thành một môn triết lý, nó không là một chân lý cứu cánh, chân lý giác ngộ của Phật nữa. Cho nên trong kinh thường nhắc nhở chúng ta là cần phải chứng ngộ. Và cũng như đoạn trước, đức Phật trong khi Ngài đang nói nửa chừng Ngài bảo “Thôi” không nên nói nữa. “Thôi” đó có ý nhắc nhở chúng ta là cần phải ly ngôn tự chứng chứ không phải cứ nói mãi trên ngôn từ mà hiểu được, cũng không thể bằng vào ngôn từ mà ngộ được.
Kinh văn: Lại này Xá-lợi-phất, pháp thậm thâm vi diệu vô lậu bất tư nghì Ta nay đã đầy đủ, chỉ có ta biết tướng ấy và mười phương chư Phật biết tướng ấy. Xá-lợi-phất nên biết, lời các đức Phật nói không đổi khác, hãy sanh đức tin to lớn đối với pháp của đức Phật nói. Pháp Thế Tôn lâu về sau cần phải nói chân thật.
Phật bảo chúng Thanh Văn và những người cầu Duyên Giác thừa, Ta khiến cho thoát khỏi sự trói buộc của các khổ, mau chứng được Niết-bàn, Ta dùng sức phương tiện để khai thị giáo nghĩa tam thừa, dắt dẫn khiến chúng sanh ra khỏi các nơi chấp trước.
Giải thích: Đoạn kinh này ý rằng, trong khi chứng ngộ cần phải đem lòng tin mới chứng giải được.
Có người nghĩ rằng, đạo Phật là đạo chú trọng về trí chứ không chú trọng về đức tin, còn các đạo khác thì chủ trương về đức tin chứ không chủ trương về trí. Nhưng nên hiểu rằng trong Phật giáo không phải không có đức tin, nhưng đức tin đó luôn luôn dựa theo giải (sự hiểu biết) tức trí tín, chứ không phải hoàn toàn trí mà không có tín. Nói có đức tin nghĩa là đối với những pháp chưa có thể nhất thời liễu ngộ, chứng ngộ rõ ràng được thì chỉ bằng vào lòng tin, mà khi đã hiểu rõ pháp đó rồi thì gọi là ngộ chứ không phải tín nữa. Ví dụ, như tôi nói các vị hãy tin tôi, các vị vào đây tôi sẽ cho một vật rất quý, mà vật quý đó các vị chưa thấy. Như vậy, vật tôi sẽ cho đó các vị chưa biết (giải). Nhưng các vị tin tôi, bằng vào bao nhiêu lần nói khác, tôi nói đúng thật, không hư dối. Hôm nay, tôi bảo các vị vào đây để các vị vật quý đó, các vị tin theo tôi nên vào. Đó gọi là tín giải. Nếu các vị không tin, đòi phải cho thấy rồi mới chịu vào, nhưng mà vật đó vốn dĩ nằm bên trong chứ không thể đem ra ngoài cho các vị thấy được, nếu như các vị không chịu tin lời tôi, cứ ở bên ngoài thì luôn luôn các vị không làm sao thấy vật quý đó được. Có tin lời tôi đi vào thì mới thấy, đó gọi là tín giải, có tín giải mới đi đến chỗ chứng giải, chứng ngộ.
Qua câu chuyện bà Kisagotami sau đây để hiểu thêm: Bà Kisagotami sanh được một đứa con duy nhất, trong khi sống bên nhà chồng, bà không được thương yêu, nhờ khi sanh đức con mà bà được thương yêu đôi chút, cho nên, đứa con đó đối với bà là một vật quý báu, một nguồn an ủi, bao nhiêu hy vọng, bao nhiêu hạnh phúc của mình đều đặt nơi đứa con. Nhưng không may con bà chết. Bà sầu khổ cùng tột, không chịu đem xác con đi chôn. Bà ôm xác con đi cùng khắp để tìm thầy cứu sống. Có người hiểu được hoàn cảnh nên chỉ bà đến đức Phật cầu cứu. Bà ôm con tìm Phật, đức Phật dạy bà hày đi xin một ít hạt cải nơi nhà nào xưa nay không có người chết đem về, Ngài sẽ cứu cho. Bà tin theo lời Phật dạy, đi gõ cửa từng nhà xin hạt cải, ai cũng sẵn lòng cho, nhưng khi hỏi nhà này xưa nay có ai chết không thì họ đều ngạc nhiên và trả lời rằng hoặc cha chết, mẹ chết… Cứ dần dần từ nhà này đến nhà kia đều trả lời giống nhau, làm tâm bà bừng tỉnh, hiểu rõ luật vô thường có sanh là có chết. Bà lặng lẽ đem xác con đi chôn rồi trở về bạch Phật rằng: -Bạch đức Thế Tôn, việc Ngài dạy con đi xin hạt cải con đã làm xong, xin đức Thế Tôn chứng cho.
Qua câu nói của bà Kisagotami, chứng tỏ một người từ lòng tin mà đi đến chỗ chứng ngộ. Nếu như không tin lời Phật dạy thì chắc bà nói “nếu Phật có cứu thì đưa cho chớ con có biết đâu mà xin”, mà nếu không tin lời Phật thì bà ấy không bao giờ tự mình giác ngộ đích thật được điều Phật chỉ cho: Cuộc đời là vô thường có sanh tức có chết. Thứ nữa, qua câu chuyện cho thấy rằng giáo pháp Phật, tin rồi là phải thực hành, không thể ngồi đó chờ Phật mang sự hiểu biết, sự sáng suốt tới cho mình được. Nếu như bà Kisagotami bảo, Phật có cứu thì Ngài hãy xin thuốc về cho, còn bà cứ ngồi đó chờ thì chắc chắn bài học giác ngộ của bà không bao giờ thành tựu được. Nếu bà cứ ngồi đó và Phật giải thích thì bà cũng chỉ hiểu sự vô thường một cách lờ mờ không xác thực, không thấm thía bằng chính bà học bài học đó từ miệng mọi người, từ sự kiện thực xảy ra. Thành ra, từ chỗ tín đi tới chỗ giải, chỗ ngộ, hai thứ đó phải song hành, Phật giáo không gọi bằng tín vì đó luôn luôn đi với trí, nếu tín mà không có trí thì thành mê tín, tín đó không đi đến chỗ xác thực. Nhưng phải có tín và tín đó phải đi đôi với trí. Trong kinh văn Phật bảo: “Tin lời Ta nói không khác”. Chữ “không khác” có hai nghĩa: Một là đức Thích Tôn nói, lời Ngài đã nói hôm trước và nói hôm nay là như vậy, tuy trên phương diện ngôn từ có khác, nhưng trên phương diện ý thức không khác, “vô dị”. Thứ nữa, ý rằng 10 phương chư Phật đồng chứng như nhau, đồng có trí tuệ như nhau, thì cũng đồng nói pháp như nhau, “Phật ngữ vô dị”.
Nhưng vì sao Phật cứ nhắc đi nhắc lại là cần phải tin lời Phật nói không khác? -Bởi vì đức Phật sẽ nói một pháp mà đối với hàng nhị thừa sẽ kinh ngạc, khó tin, cho nên Phật phải nhiều lần nhắc đi nhắc lại “Pháp Thế Tôn lâu về sau cần phải nói chân thật”. Sao gọi là lâu về sau? -Nghĩa là sau bao nhiêu năm thuyết giáo đến những năm cuối cùng Ngài mới nói pháp chân thật mà chính Ngài muốn nói từ lâu, cho nên gọi là lâu về sau.
Đoạn kinh “Những hàng Thanh Văn và những người cầu Duyên Giác thừa… dẫn dắt chúng sanh ra khỏi mọi chấp trước”, xứ xứ trước tức đắm trước mọi nơi. Chúng sanh ở dâu thì đắm trước nơi đó, đắm trước về thân, tâm, cảnh giới, về tập quán, về nghiệp lực của mình. Nếu như đức Phật không dùng sức phương tiện nói tam thừa để dẫn dắt thì không làm sao đưa chúng sanh ra khỏi (xứ xứ trước).
Kinh văn: Lúc bấy giờ, trong đại chúng, có các hàng Thanh Văn lậu tận A-la-hán như A-nhã Kiều-trần-như… một ngàn hai trăm người và các vị phát tâm cầu Thanh Văn, cầu Bích Chi Phật, các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo Ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, mỗi mỗi đều nghĩ rằng: Nay đây, vì cớ gì đức Thế Tôn ân cần tán thán pháp phương tiện mà nói rằng: “Pháp của Phật chứng ngộ thậm thâm khó hiểu, có nói dạy gì ý thú khó biết, tất cả hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật không thể biết kịp?” Phật nói nghĩa Nhất giải thoát thì chúng tôi đây cũng đã được pháp đó, đạt đến Niết-bàn rồi, mà nay không biết nghĩa thú về đâu.
Giải thích: Đây là đoạn đại chúng nghi mà Tôn giả Xá-lợi-phất là tiêu biểu. Nên nhớ ở phẩm Tựa, Phật chỉ hiện thần thông, phóng quang, nhập định, đại chúng thấy các điềm lạ mà sanh nghi. Nghi Phật hiện các thụy tướng đó để làm gì? Phẩm Tựa Phật chỉ “mật khai tam hiển nhất”, nghĩa là Phật ngấm ngầm khai tam thừa để hiển Nhất thừa nên đại chúng chưa có sanh nghi như ở phẩm Phương Tiện. Qua phẩm Phương Tiện mới “hiển khai tam hiển nhất”, nghĩa là, Phật nói trắng ra việc khai Tam thừa hiển nhất thừa như: “Ta dùng sức phương tiện để khai thị giáo nghĩa Tam thừa”, “Pháp của Ta lâu về sau cần phải nói chân thật”. Khi Phật nói rõ đến lý chân thật, đó là hiển, vì “hiển khai Tam hiển Nhất” cho nên các vị A-la-hán và đại chúng mới sanh lòng nghi. Không biết vì sao trước Phật tán thán cả hai trí (Thật trí và Quyền trí) mà đến đây Phật chỉ tán thán Quyền trí.
Thứ nữa, pháp của Phật chứng ngộ được Ngài diễn bày ngôn thuyết,mà ngôn thuyết đó cũng khó hiểu, khó biết, lời gần ý xa. Trong chúng tự thấy mình là Thanh Văn, là Bích Chi Phật mà không biết được. Phật nói Nhất giải thoát, nghĩa Nhất giải thoát là thế nào? Phật đã từng nói ai tu theo pháp Tứ đế,Thập nhị nhân duyên sẽ được giải thoát, Hữu dư, Vô dư Niết-bàn đồng y như nhau, pháp đó gọi là Nhất giải thoát, thì chính pháp đó nay đây chúng ta dã dược rồi, bây giờ, Phật lại nói đó chỉ là pháp phương tiện để đưa về pháp chân thật. Không biết cái nghĩa đó rồi sẽ đi về đâu, cho nên, trong chúng sanh lòng nghi. Nghi đây là vì do Phật nói rõ ý “khai tam hiển nhất” vậy.
Tóm lại, ý thú Phật nói ra khiến hàng đệ tử khó biết mà sanh nghi có ba lý do:
– Trước Phật tán thán cả hai trí, nay tại sao Phật lại chỉ tán thán có Quyền trí thôi, đó là điêù khó hiểu thứ nhất.
– Tại sao trước đức Phật không nói Tam thưà là phương tiện mà bây giờ Ngài lại nói Tam thừa là phương tiện, ý đó cũng khó hiểu.
– Còn chân thật nào nữa mà Phật nói “lâu về sau sẽ nói ý chân thật, thế thì từ trước tới nay Phật chưa nói lý chân thật sao? Và những giáo lý Phật nói đều không chân thật sao? Đó là những điều hàng đệ tử không hiểu cho nên sanh lòng nghi.
Kinh văn: Lúc bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất biết tâm của tứ chúng nghi hoặc, và tự mình cũng chưa rõ nên mới bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn, vì nhân duyên gì Ngài lại ân cần tán thán đệ nhất phương tiện của Phật là pháp thậm thâm vi diệu nan giải. Thật, con từ xưa đến nay chưa từng nghe Phật nói như vậy. Nay đây, cả bốn chúng đều có chỗ nghi, trông mong đức Thế Tôn, hãy phô diển việc này. Đức Thế Tôn vì cớ gì lại ân cần tán thán pháp thậm thâm vi diệu khó hiểu?
Giải thích: Thậm thâm vi diệu khó hiểu tức là nói về Quyền trí hay Phương tiện trí. Vì Phật nói rõ như vậy nên chúng sanh nghi. Trước là nói ba việc chúng không hiểu, giờ nói về việc nghi của chúng có ba:
Nghi giáo: Trước kia Phật nói Tam thừa, tu theo thừa nào thì chứng quả thừa đó, Phật không nói Đại thừa. Tiểu thừa hay pháp này cao, pháp kia thấp gì hết, cũng không nói pháp này thật, pháp kia quyền. Thế mà ngày hôm nay Phật nói Tam thừa là: phương tiện, Nhất thừa mới là chân thật. Vậy thì lời dạy trước kia đúng hay lời dạy hôm nay đúng? Và biết đâu ngày mai Ngài sẽ nói Nhất thừa là phương tiện còn có pháp khác mới là chân thật?
Nghi nhơn: Nghi chính đức Phật, một vị nói trước sau bất nhất như vậy có phải Phật hay không, hay là ma?
Nghi mình: Trước kia nghĩ rằng, mình đã chứng quả A-la-hán. Như Tôn giả Xá-lợi-phất đã từng được Phật ngợi khen là bậc trí tuệ đệ nhất, thế mà giờ đây đối với lời Phật dạy không hiểu gì hết nên nghi mình có phải là trí chưa, mình có thật chứng La-hán không? Và tại sao Ngài lại ân cần tán thán đệ nhất phương tiện của chư Phật?
Chữ “đệ nhất phương tiện” có hai nghĩa:
– Diệu dụng phương tiện thuyết pháp này chỉ có đức Phật mới đủ sức dụng để thuyết pháp cho chúng sanh.
– Phật phương tiện nói Tam thừa để đưa đến nhất thừa, như vậy, Tam thừa là phương tiện của nhất thừa.
Kinh văn: Lúc bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất muốn lặp lại nghĩa này mà nói bài kệ rằng:
Đấng Huệ nhất đại Thánh Tôn, lâu xa mới nói pháp, tự nói rằng mình được thập lực như vậy, Tứ vô sở úy, Thiền định tam-muội, giải thoát như vậy là những pháp bất tư nghì. Pháp đã chứng được nơi đạo tràng không ai phát ra lời hỏi được, ý của Ta (Phật) cũng khó trắc lường, không ai hỏi được. Không hỏi mà tự nói, xưng tán đạo tu hành, là trí tuệ rất vi diệu của chư Phật chứng đắc. Các vị lậu tận A-la-hán, những người cầu Niết-bàn, nay đều bị rơi vào trong lưới nghi. Cớ gì Phật nói như thế? Những người cầu Duyên giác, hay hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, các trời, rồng, quỉ thần và Càn-thác-bà… nhìn nhau lòng do dự nghi nan, chiêm ngưỡng đấng Lưỡng túc tôn, muốn biết việc đó là thế nào? Mong đức Thế Tôn nói cho.
Đối với chúng Thanh Văn, Phật nói con (Xá-lợi-phất) là đệ nhất. Thế mà con nay, đối với trí tuệ của mình, nghi hoặc không sao rõ được. Đó là pháp cứu cánh hay là đạo tu hành.
Hàng Phật tử từ miệng Phật sanh ra, chấp tay chiêm ngưỡng chờ mong Ngài buông lời vi diệu, đã đúng thời nên vì nói như thật.
Các hàng trời, rồng, quỉ thần số như hằng sa. Các vị Bồ-tát cầu Phật quả, số lớn cũng có tám vạn và Chuyển luân Thánh vương từ muôn ức cõi nước, đều đến đây chấp tay cung kính muốn nghe Ngài nói Đạo chân thật đầy đủ.
Giải thích: Huệ nhật đại Thánh Tôn là chỉ cho đức Phật, đấng đại Thánh tôn có trí tuệ như mặt trời. Dùng chữ Huệ nhật có ý rằng trí tuệ như mặt trời ấy phá được vô minh, giờ đây trí tuệ này hiển nhất chân lý nên gọi là Huệ nhật.
Đoạn này ý nói rằng Tôn giả Xá-lợi-phất nghĩ trí tuệ của mình thường được Phật tán thán là đệ nhất, nhưng kỳ thật chưa nhất gì hết. Bởi vì không hiểu được lời Phật dạy hôm nay là pháp cứu cánh hay là đạo tu hạnh?
“Cứu cánh pháp” tức chỉ cho Niết-bàn hay Diệt đế; “Sở hành đạo” tức chỉ Đạo đế.
“Phật tử”; từ miệng Phật sanh ra, từ Pháp Phật được hóa sanh gọi là Phật tử. Nhờ nghe lời Phật dạy, từ kim khẩu Phật mà phát tâm tu hành trở thành đứa con tinh thần của Phật nên gọi là Phật tử.
Đoạn kinh trên là lời của Tôn giả Xá-lợi-phất ân cần cầu xin Phật thuyết pháp, cầu xin Phật giải nghi cho mình và đại chúng.
Kinh văn: Lúc bấy giờ, Phật bảo Xá-lợi-phất, thôi thôi không nên nói nữa. Nếu nói việc này thì tất cả thế gian, trời, người đều kinh hãi nghi ngờ.
Xá-lợi-phất lại bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn, trông mong nói cho! Trông mong nói cho! Bởi vì sao? Bởi vì nơi hội này vô số trăm ngàn vạn ức A-tăng-kỳ chúng sanh, là những người từng thấy các đức Phật, các căn lanh lợi, trí tuệ minh liễu, nghe lời Phật nói tức sẽ kính tin.
Lúc bấy giờ, Xá-lợi-phất muốn lập lại nghĩa này mà nói bài kệ rằng:
Đấng Pháp vương vô thượng, trông mong Ngài nói, chớ có lo nghĩ, vô lượng chúng hội này, có người nghe được liền sanh tâm kính tin.
Phật lại bảo, thôi Xá-lợi-phất. Nếu nói việc này tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la đều sẽ kinh hãi nghi ngờ, hàng tăng thượng mạn Tỳ-kheo sẽ rơi vào hầm lớn. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lập lại nghĩa này mà nói bài kệ rằng:
“Thôi thôi không nên nói, pháp Ta rất nhiệm mầu, khó nghĩ, các hàng tăng thượng mạn nghe chắc không kính tin.
Lúc bấy giờ, Xá-lợi-phất lại bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn, trông mong nói cho, trông mong nói cho! Nay ở trong chúng hội này, những hàng so sánh như chúng con có tới trăm ngàn vạn ức, đời đời đã từng theo Phật chịu sự giáo hóa, những người kính tín, trường dạ an ổn được nhiều lợi ích. Lúc bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất muốn lập lại nghĩa này mà nói bài kệ rằng:
Đấng vô thượng lưỡng túc tôn, trông mong nói pháp đệ nhất, con là trưởng tử của Phật, mong dủ lòng từ phân biệt nói cho. Hội này vô lượng chúng, hay kính tin pháp đó. Phật đã từng đời đời giáo hóa chúng hội như vậy. Những người đó đều nhất tâm chắp tay, mong nghe và lãnh thọ lời Phật dạy. Chúng tôi một ngàn hai trăm và các người cầu Phật quả trông mong Ngài vì chúng này mà dủ lòng từ phân biệt nói cho. Những người như vậy nghe pháp này thì sanh tâm đại hoan hỶ.
Giải thích: Trong phần đầu của phẩm Phương Tiện, Phật có ba lần bảo “thôi” và ba lần Tôn giả Xá-lợi-phất thỉnh Phật nói pháp.
Lần đầu tiên, Phật đang tán thán thật trí và quyền trí nửa chừng Ngài bảo “thôi”. Thôi lần đầu tiên có ý rằng pháp Phật chứng ngộ thâm diệu cao quá nói ra không được, không thể dùng ngôn ngữ văn tự để diễn tả phân biệt mà hiểu được, cần phải thân chứng, ly ngôn tự chứng, cho nên Phật bảo thôi. Nhưng sau lần Phật bảo thôi đó, giờ đây, Phật lại bảo “Ta đã dùng sức phương tiện mà nói tam thừa”. Phật gợi lên sự nghi ngờ rất lớn cho Xá-lợi-phất và đại chúng, cho nên, Tôn giả Xá-lợi-phất lại ân cần thỉnh Phật nói pháp. Thế là một lần Phật bảo “thôi” và một lần Xá-lợi-phất cầu Phật nói pháp. Khi Xá-lợi-phất cầu thỉnh Phật nói pháp, đức Phật lại bảo “thôi”, “thôi” không nên nói, nếu nói việc này thì tất cả thế gian trời người kinh nghi. Đây là lần “thôi” thứ hai, lần này không phải vì pháp sâu xa mà bảo “thôi”, nhưng vì căn cơ của hàng trời người thấp kém, sợ nghe pháp này sẽ sanh lòng kinh ngạc nghi nan cho nên Phật bảo “thôi”. Phật bảo “thôi”, Xá-lợi-phất lại một lần cầu thỉnh Phật nói pháp, ngài nêu lý do rằng những người trong hội chúng đều là những người đã từng thấy Phật, có căn tánh lanh lợi, có trí tuệ, có thể nghe được và có thể kính tin lời Phật dạy. Khi Tôn giả Xá-lợi-phất cầu thỉnh Phật nói pháp lần thứ hai này thì Phật lại bảo “thôi, Xá-lợi-phất, nếu nói việc này, tất cả thế gian, Trời, Người, A-tu-la đều sẽ kinh nghi, hàng tăng thượng mạn Tỳ-kheo sẽ rơi vào hầm lớn”. Đây là lần thứ ba Phật bảo “thôi”. Lần này là vì không những hàng nhơn thiên kinh nghi, không kính tin mà chính ngay hàng A-la-hán cũng kinh nghi không kính tin nổi, hàng Tỳ-kheo tăng thượng mạn sẽ khinh chê phỉ báng, do đó, bị đọa địa ngục cho nên Phật bảo “thôi” không nói.
Đức Phật đã ba lần bảo “thôi” không chịu nói, nhưng Tôn giả Xá-lợi-phất lại lần thứ ba nữa nêu lý do rằng những người trong chúng hội này chẳng những nghe được lời Phật nói sanh lòng kính tin, mà cũng chính nhờ nghe lời Phật mà họ có được nhiều sự lợi ích an ổn, để thỉnh Phật nói cho.
Đó là nguyên nhân của ba lần Phật bảo “thôi” không nói và ba lần Phật lẫn Xá-lợi-phất cầu Phật nói. Và ba lần “thôi” ấy còn có ý rằng pháp Phật thậm thâm, Phật muốn chúng hội tập trung tư tưởng, chú ý vào và tập trung lòng mong cầu ham muốn nghe pháp. Cũng để chứng tỏ rằng pháp tâm viễn này không thể nói phi thời mà phải nói đúng lúc, đúng thời. Thứ nữa là cũng để chờ những người trong hội không đủ sức nghe, những kẻ tăng thượng mạn đều lui ra. Bởi vì không nghe được mà ngồi đó thì sanh lòng phỉ báng sẽ bị đọa lạc, cho nên ba lần nói “thôi” đó cũng là một cách chờ cho hội chúng thuần nhất rồi sẽ nói.
Vì sao hàng A-la-hán mà còn kinh nghi? Vì bởi xưa nay nghĩ rằng mình là A-la-hán đã chứng Niết-bàn rồi, giờ đây Phật lại bảo đó mới là phương tiện, thì ra trước đây mình chưa chứng Niết-bàn gì hết! Đó là vì thấy mình có sự tổn hại nên kinh nghi. Một điểm nữa là trước đây Phật nói pháp tam thừa, tu hành có giới hạn, bây giờ Phật lại nói về Bồ-tát hạnh, thôi thì mênh mông vô cùng. Lục độ vạn hạnh, hạnh nào cũng là Bồ-tát hạnh, hạnh nào cũng là hạnh độ sanh, không biết hạnh nào mà lường. Mà những hạnh ấy không phải tu một hai ngày hay một vài năm mà là vô lượng kiếp, thời gian lâu xa làm sao ai theo nổi? Trước Phật dạy tu theo Thanh Văn thừa, chứng Sơ quả Dự lưu thì chỉ pcòn bảy lần sanh lại Dục giới, đến Nhất lai chỉ còn một lần sanh lại Dục giới rồi chứng A-la-hán. Bất lai là không còn sanh Dục giới nữa mà ở trên Tứ Thiền, Ngũ tịnh cư thiên chứng A-la-hán thì không còn sanh tam giới nữa, phá sạch phiền não, thoát ly sanh tử, có giới hạn rõ ràng, còn Bồ-tát thì mênh mông trãi ba A-tăng-kỳ kiếp…, nên sanh kinh nghi. Đó là đa sự kinh nghi.
Hàng phàm phu mang ngã chấp nặng nề, tội chướng sâu dày, nghe Phật nói sanh ra phiền não điên đảo, gọi là điên đảo kinh nghi.
Hàng trí tuệ như Tôn giả Xá-lợi-phất nghe Phật nói pháp mà không hiểu, sanh lòng ân hận, thà trước kia mình đừng nghe đừng tu để đợi đến ngày hôm nay nghe rồi tu luôn khỏi hoài công vô ích, gọi là hối kinh nghi.
Khi nghe Phật nói thì sanh nghi ngờ, không biết Ngài nói như thế là thật hay là có sự luống dối, vì khi Phật nói thế này, lúc Ngài nói thế kia, đó là cuống kinh nghi.
Tóm lại, đây là đoạn mở đầu cho phần “Khai tam hiển nhất” ở sau. Sau ba lần cầu thỉnh, bấy giờ, Phật hứa nói.
Kinh văn: Lúc bầy giờ đức Thế Tôn bảo Xá-lợi-phất rằng: “Ông đã ân cần ba phen thưa thỉnh há không nói được sao! Ông hãy nghe cho kỸ, khéo suy nghĩ và nhớ mãi, Ta sẽ vì ông phân biệt giải nói.
Giải thích: Đức Phật hứa nói, nhưng khi nào Phật sắp nói pháp đều bảo “đế thính, thiện tư, niệm chi”. Nhiều kinh đều có lời nhắc nhở này, trong lời nhắc nhở ấy có ý là khi nghe giáo pháp Phật là phải dùng Văn huệ. Tư huệ và Tu huệ chớ không phải nghe suông mà có thể hiểu được.
“Đế thính” thuộc về Văn huệ. Nghe một cách kỸ lưỡng, rõ ràng, ưa thích, có trí tuệ hiểu được trong khi nghe, đó là Văn huệ.
“Thiện tư” thuộc về Tư huệ. Nghe rồi phải suy nghĩ chín chắn.
“Niệm chi” thuộc về Tu huệ. Suy nghĩ rồi phải ghi nhớ mãi và phải thực hành, trì niệm.
Kinh văn: Khi Phật nói lời đó thì trong hội chúng có các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di năm ngàn người cả thảy, từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ chân Phật mà lui ra. Vì cớ sao? -Vì hạng này tội căn thâm trọng và tánh tăng thượng mạn, chưa được cho là được, chưa chứng cho đã chứng, có sự tội lỗi như thế nên họ không ở lại. Đức Thế Tôn im lặng không ngăn chận.
Bấy giờ, Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất, nay đây trong chúng hội này của Ta không còn cành lá nữa mà thuần là hạt chắc thôi. Xá-lợi-phất, những kẻ tăng thượng mạn như vậy lui đi cũng tốt, ông nay hãy khéo nghe, Ta sẽ vì ông mà nói.
Xá-lợi-phất bạch Phật rằng, thưa vâng, kính bạch Thế Tôn, con nguyện muốn nghe.
Giải thích: Khi Phật hứa nói thì trong hội chúng có năm ngàn người gồm Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di đứng dậy lễ Phật lui ra.
Trước khi Phật chưa nói thì họ còn ngồi, đến khi Phật hứa nói thì họ lui ra. Vì sao?
Vì:
1. Tội căn thâm trọng, bởi những người này còn nặng về các phiền não chướng, báo chướng, nghiệp chướng nên không mong nghe pháp cao xa.
2. Vì tâm tăng thượng mạn nên không muốn nghe. Thế nào là tăng thượng mạn? -Chưa được nói là được, chưa chứng nói đã chứng hay mới được một chút ít mà cho là đủ rồi (đắc thiểu vi túc) nên không cần thêm nữa. Tăng thượng mạn là một trong bảy món mạn. Bảy món mạn đó là:
– Mạn: Ỷ mình hơn người rồi nói mình hơn người, mình bằng người rồi nói mình bằng người. “Tôi hơn anh chứ, tôi bằng anh chứ!” Chính từ câu nói đó đã chứa “Mạn” trong ấy. Họ thua mình thật và mình hơn họ thật, nhưng hơn thua đó tự nhiên không nói không nghĩ đến thì thôi, nhưng khi nói ra hoặc đem lòng so sánh phân biệt tranh đua thì gọi là “Mạn”.
– Quá mạn: Mình thua người mà cho mình bằng người, mình bằng người mà cho mình hơn người, lúc nào cũng đưa mình làm hơn người một bậc.
– Mạn quá mạn: Hạng này quá hơn nữa, thua người mà nói mình hơn, tự nâng mình lên hơn người đến hai bậc, nên gọi mạn quá mạn.
-Tăng thượng mạn: “Đắc thiểu vi túc” mới được một ít cho là đủ, mới tu sơ sơ, mới học một vài kinh cho là vừa rồi tu chi nhiều, học vậy là đủ rồi, hoặc chưa chứng Thánh quả mà cho là đã chứng. Người đã sa vào tăng thượng mạn là không tự biết được, vì tập quán lâu ngày che lấp tâm trí, khi nào cũng tự thấy mình hơn cả.
-Tà mạn: Các hàng ngoại đạo chấp những đạo lý sai quấy rồi tự phụ những ý kiến lý lẽ ấy, cho rằng hơn cả. Hoặc chấp tà nhơn, tà quả rồi tự thị nơi tà nhơn tà quả đó.
-Ti liệt mạn: Thua người đến một trăm phần mà nói thua ít ít thôi. Cũng chịu thua, nhưng thua chút chút, hoặc thủ phận mình thua, nhưng không chịu phục người hơn.
-Ngã mạn: Tự chấp lấy ngã và ngã sở của mình, khi chấp trước như thế thì bao giờ cũng thấy cái ngã của mình quí hơn cái ngã của người khác. Nói ra hay mặc nhiên trong tâm tư vẫn thấy bản ngã của mình hơn bản ngã của người khác. Dù có tàn tật, nghèo khó đi nữa cũng vẫn thấy bản ngã của mình quí hơn. Ngã mạn này là căn bản của chúng sanh. Các “mạn” kia, hoặc có cái này, hoặc có cái kia, nhưng ngã mạn thì ai cũng có.
Biết rõ tánh chất của bảy thứ mạn để chúng ta nghiệm lại tâm lý của mình và mọi người, tâm trạng ấy mỗi lúc thuộc về loại mạn nào để cách trừ diệt.
Khi năm ngàn người tăng thượng mạn bỏ đi ra, đức Phật nói: “Hàng tăng thượng mạn như vậy lui ra cũng tốt”. Phật nói lui đi cũng tốt, in tuồng như Phật chẳng từ bi gì hết. Những đệ tử theo Phật nghe pháp xưa nay, giờ đây, họ bỏ ra đi mà Phật cũng không hề ngăn, cũng không khuyên, có những người ở đâu đâu mà Phật còn tìm đến để độ, còn những người ngồi trước mặt mà Ngài lại không độ, để họ đi ra lại nói: “Đi vậy cũng tốt”. Nói có vẽ phũ phàng hất hủi!
Không, vì đức Phật biết rằng nếu những người tăng thượng mạn còn ngồi lại họ sẽ làm mất hạt giống Phật, bởi ngồi nghe mà sanh tâm phỉ báng, mất lòng tin sẽ bị đọa lạc, thà để họ lui ra còn hơn. Thứ nữa, nghe với tâm không mong mỏi lại phỉ báng thì sẽ phiền cho những người chung quanh, gây cái xấu cho người chung quanh, người chung quanh không được nghe một cách thuần nhất chân thành, nên Phật bảo lui đi cũng tốt là vậy.
Kinh văn: Phật bảo Xá-lợi-phất, diệu pháp như vậy, các đức Phật Như Lai đúng thời mới nói, như hoa Ưu-đàm-bát đúng thời mới hiện một lần. Xá-lợi-phất: các ông hãy tin điều Như Lai nói là không luống dối.
Giải thích: “Thời nãi thuyết chi” -đúng thời mới nói -diệu pháp của Phật nói ra phải hợp thời, không phải lúc nào cũng nói được, ví như hoa Ưu-đàm đúng thời mới nở.
Đoạn kinh trên đây là đức Phật tán thán diệu pháp.
Từ đây đến cuối phẩm thường bao gồm sáu ý này trong các đoạn văn:
1. Tán thán pháp.
2. Đức Phật thường nhắc đi nhắc lại là lời Phật không hư vọng.
3. Đức Phật phương tiện mở tam thừa.
4. Phật chỉ thị đạo lý nhất thừa chân thật.
5. Vì gặp đời ngũ trược nên Phật phải phương tiện khai tam thừa.
6. Phật phân biệt hạng người đủ sức tin Phật Pháp và hạng không tin Phật Pháp để khuyến khích người có đủ sức tin cố gắng tin giáo pháp Phật.
Kinh văn: Xá-lợi-phất, các đức Phật tùy nghi thuyết pháp, ý thú khó hiểu. Vì cớ sao? Vì Ta dùng vô số phương tiện, các thứ nhơn duyên và thí dụ, ngôn từ diễn nói các pháp. Pháp ấy không thể đem tâm tư lường phân biệt mà hiểu được. Chỉ có các đức Phật mới hiểu được mà thôi.
Giải thích: Đây cũng là lời tán thán Pháp và đồng thời khai phương tiện. Tức là, đức Phật dùng vô số phương tiện cách thức để nói pháp ra cho mọi người đều hiểu được.
Kinh văn: Sở dĩ làm sao? Các đức Phật Thế Tôn chỉ do nhân duyên của sự trọng đại duy nhất cho nên xuất hiện ra đời. Này Xá-lợi-phất, thế nào gọi là các đức Phật Thế Tôn chỉ do nhân duyên của sự trọng đại duy nhất cho nên xuất hiện ra đời? Các đức Phật Thế Tôn vì muốn khiến chúng sanh mở trí kiến Phật, khiến được thanh tịnh, cho nên xuất hiện ở đời; muốn chỉ thị cho chúng sanh tri kiến Phật, cho nên xuất hiện ở đời; muốn khiến chúng sanh ngộ được tri kiến Phật, cho nên xuất hiện ở đời; muốn khiến chúng sanh chứng nhập tri kiến đạo của Phật, cho nên xuất hiện ở đời.
Xá-lợi-phất, ấy là chư Phật vì nhân duyên của sự trọng đại duy nhất cho nên xuất hiện ở đời.
Giải thích: Đoạn này là một đoạn chủ yếu trong kinh Pháp Hoa. Trước Phật tán thán hai trí của Phật, kế tiếp tán thán thật tướng Phật chứng ngộ. Đến đoạn này, Phật “tán thán chủ đích Phật ra đời” Nói chủ đích Phật ra đời tức là nói đến bản hoài đức Phật ra đời cốt để làm gì? Đức Phật có trí tuệ sâu xa, chứng ngộ được pháp thậm thâm vi diệu, bây giờ Phật xuất hiện ở đời để làm gì?
Chủ đích đức Phật xuất hiện ra đời là “Vị nhất đại sự nhân duyên”. Nhất đại sự tức chỉ tri kiến Phật. Vì bởi chỉ có tri kiến Phật mới là đại sự duy nhất mà cũng chính vì nhân duyên đó Phật ra đời. Nhân duyên duy nhất đó là Khai, Thị, Ngộ, Nhập cho chúng sanh Phật tri kiến.
Chữ “Khai thị ngộ nhập” có tầng bậc: Khai thị ngộ nhập Phật tri kiến (hay phá vọng, hiển chơn, trí giải, hạnh chứng).
Phật tri kiến: Tri tức trí tri, kiến tức nhãn kiến. Phật có tứ và ngũ nhãn. Tri kiến là bao gồm cả Tứ trí và ngũ nhãn. Tri kiến là bao gồm cả Tứ trí và ngũ nhãn của Phật. Chữ “tri” cũng chỉ cho căn bản trí, căn bản trí là trí chứng nhập thật tánh các pháp. Chữ “kiến” chỉ cho hậu đắc trí tức là trí sai biệt, vận dụng để thuyết pháp độ sanh.
Tri kiến Phật nói bằng cách khác tức là Phật tánh. Như đã biết, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, tức có nghĩa là, tất cả chúng sanh đều có trí kiến Phật. Tất cả chúng sanh đều có tri kiến Phật nhưng vì còn bị phiền não chướng, sở tri chướng che lấp cho nên tri kiến Phật nơi chúng sanh chưa hiển lộ ra được nên không dùng chữ tri kiến Phật nơi chúng sanh. Như vậy, tri kiến Phật giữa Phật và chúng sanh đồng thể, bình đẳng như nhau nhưng vì bị vô minh che lấp, bây giờ Phật cần khai thị cho chúng sanh ngộ nhập được tri kiến Phật ấy.
Nói cho dễ hiểu là chúng ta có nhận được Phật tính hay tri kiến Phật không, nếu như Phật không khai thị cho chúng ta thấy. Cho nên, bao nhiêu lời Phật dạy, Phật nói: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”. Đó là Khai. Nhưng Phật nói mà chúng ta chưa thấy Phật tánh của mình ra sao, cho nên Phật chỉ rõ cho thấy Phật tánh, đó là Thị. Có chỉ rõ mới ngộ được, đó là Ngộ: Nhờ ngộ mới tu chứng, đó là Nhập. Bốn tầng lớp tầng lớp Khai, Thị, Ngộ, Nhập này có thể dựa vào kinh Lăng Nghiêm để phân biệt giảng giải như sau:
Trong kinh Lăng Nghiêm không dùng hai chữ tri kiến Phật, Phật tánh, mà gọi là Như Lai tạng tâm, thanh tịnh diệu tâm, thường trú chơn tâm. Trong kinh có đoạn:”Nhất thiết chúng sanh tùng vô thủy lai, giai do bất tri thường trú chơn tâm, tánh tịnh minh thể, nhận chư vọng tưởng, thử tưởng bất chơn, cố hữu lưu chuyển.” (Tất cả chúng sanh từ vô thủy đến nay, đều vì không nhận biết được thường trú chơn tâm, tánh của nó là thanh tịnh, là thể sáng suốt, lại cứ nhận lầm các vọng tưởng cho là mình, mà những vọng tưởng thì không chơn thật, cho nên phải luân hồi sanh tử). Kinh Lăng Nghiêm không nói Phật tri kiến nhưng thường trú chơn tâm là Phật tri kiến. Cũng như chỗ khác gọi Phật tánh cũng chính là Phật tri kiến của kinh Pháp Hoa vậy.
Trong kinh Lăng Nghiêm Phật Khai, Thị, Ngộ, Nhập như thế nào?
Mở đầu kinh Lăng Nghiêm, đức Phật hỏi Tôn giả A-nan rằng, Ông vì thấy gì, muốn gì ở trong giáo pháp Ta mà đi tu?
A-nan thưa rằng, con vì thấy thân đủ ba mươi hai tướng tốt của Như Lai, con biết thân đó không phải do ái dục sanh mà là do vô lượng công đức sanh, cho nên con sanh lòng mong muốn mà đi tu.
Ở đây, câu hỏi của Phật là câu hỏi gây sự để A-nan nói ra rồi Ngài nắm lấy đó mà giải bày.
Phật gạn hỏi, Ông lấy cái gì ưa muốn và lấy cái gì trông thấy?
Tôn giả A-nan thưa rằng, con lấy con mắt trông thấy và lấy cái tâm ưa muốn. Đức Phật liền hỏi, tâm Ông ở đâu?
Thường tình, ta nghĩ tâm ở trong thân, chớ có ai để ý tâm ở chỗ nào, chẳng ai hỏi câu hỏi đó làm gì, nhưng đức Phật lại hỏi, Tôn giả A-nan đã cứ theo thường tình mà trả lời.
Tôn giả A-nan nói: Tâm ở trong thân, bị Phật bác; tâm ở ngoài thân, Phật cũng bác. Ngoài thân bị bác thì Ngài nói tâm núp sau mắt; tâm ở chặng giữa; hễ khi căn trần lợp lại thì có tâm sanh ra…; Phật cũng đều bác hết. Bảy lần Tôn giả A-nan chỉ chỗ tâm ở đều bị Phật bác. Chính lúc Phật bác đó là “khai”. Phật khai các mê lầm của Tôn giả A-nan, từ trước đến nay chấp lầm cái tâm tư lường phân biệt phan duyên hằng ngày chạy theo ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng của chúng sanh làm tâm. Chấp những cái đó làm tâm thì chẳng khác nào chấp thằng giặc làm con. Không biết nó là giặc là một tầng sai lầm, không biết con để nhận giặc làm con là hai tầng sai lầm, mà khi nhận giặc làm con thì dù gặp đứa con thật cũng không nhận nó là con nữa. Nếu như đức Phật không khai, không chỉ cho biết đó là vọng tưởng, vọng tâm, đó chẳng phải là chơn tâm thì Tôn giả A-nan sẽ nhận lấy vọng tưởng làm tâm mà không bao giờ nhận ra chơn tâm thường trú hay Phật tri kiến. Cho nên, trong kinh Lăng nghiêm, đoạn bảy chỗ hỏi tâm có thể tương đương với kinh Pháp Hoa là khai Phật tri kiến.
Hằng ngày, chúng ta nói, làm việc, suy nghĩ… trong đó, chúng ta đem tâm gì để biết, tâm gì để hiểu, tâm gì để suy tư, tâm gì để nói, tâm gì để đọc kinh, cúng Phật, lạy Phật… Chơn tâm hay vọng tâm? Phật tri kiến hay phiền não? Nếu Phật không khai thì luôn luôn ta cho đó là tâm ta, ta nhận như vậy là tâm ta nói, tâm ta tu… Và sẽ nhận cái đó là tâm chơn thật của ta. Nếu không nhờ Phật chỉ cho, trong đó chơn vọng lẫn lộn, không làm sao phân ra được, cho nên bảy chỗ hỏi tâm trong kinh Lăng Nghiêm chính là đoạn Phật “Khai” Phật tri kiến. Phật khai cho để biết rằng cái gì là phiền não, cái gì là sở tri chướng mà loại nó ra, cũng như loại ra tất cả cát, đá, sỏi, sạn để chỉ còn lại viên ngọc.
Nhưng, khai như vậy mà chúng sanh đã thấy Phật tri kiến chưa? Chưa. Chẳng qua không còn nhận lầm vọng tưởng là chơn tâm, không còn nhận lầm phiền não làm Phật tri kiến mà thôi, phải qua tầng thứ hai là “thị”, chỉ cho thấy Phật tri kiến. Nhưng Phật tri kiến thậm thâm vi diệu thì làm sao bằng ngôn từ có thể chỉ bày cho thấy được? Chỉ có thể phương tiện chỉ bày qua những cái hiện hành của nó trên kiến văn giác tri của chúng ta hằng ngày mà thôi, còn bề sâu thực thể, thực tánh của Phật tri kiến chỉ có chứng ngộ mới biết rõ được.
Trong kinh Lăng Nghiêm, sau bảy chỗ hỏi tâm, đức Phật 10 phen chỉ bày tánh thấy, đức Phật hỏi A-nan rằng, khi mở mắt gọi là thấy, vậy khi nhắm mắt có thấy không? A-nan thưa không thấy. Theo như thông thường, người đời nói nhắm mắt thì không thấy. Đức Phật hỏi, vậy thì khi nhắm mắt có thấy tối không? A-nan nói, thấy có tối. Đức Phật nói, nếu không thấy thì làm sao thấy tối. Như vậy, mở mắt thấy sáng gọi là thấy, nhắm mắt thấy tối cũng gọi là thấy, sáng tối khác nhau, chứ tánh thấy không khác. Như vậy, cái thấy vẫn dựa nơi căn mà phát hiện, nhưng cái thấy không bị căn chi phối, cái thấy không phải là căn.
Tiếp tới, Phật bảo La-hầu-la đánh chuông, khi có tiếng chuông Phật hỏi A-nan có nghe không? A-nan thưa có nghe, khi chuông dứt, Phật hỏi A-nan có nghe không? A-nan thưa không nghe. Đức Phật bảo La-hầu-la đánh chuông lại rồi hỏi A-nan có nghe không? A-nan thưa có nghe. Khi tiếng chuông dứt Phật lại hỏi A-nan có nghe không? A-nan thưa không nghe.
Đức Phật bảo A-nan, có tiếng chuông nói là có nghe, không tiếng chuông gọi là không nghe. Vậy có nghe được cái không tiếng chuông không? A-nan thưa, có. Đức Phật bảo, này A-nan, như vậy ông đã lầm lấy cảnh làm tâm, lấy vật làm mình. Có tiếng chuông gọi là có nghe, không tiếng chuông gọi là không nghe, đó là lầm lấy vật làm mình, chớ có tiếng chuông hay không tiếng chuông, đó là của tiếng chuông, thuộc tiền trần cảnh vật, còn cái nghe luôn luôn đều có. Khi có tiếng chuông thì nghe tiếng chuông, khi không có tiếng chuông thì nghe không tiếng chuông, dầu tiếng chuông có hay không vần nghe, cái nghe đó thường trú đâu có bị tiếng chuông có hay không làm thay đổi. Cái nghe đó vẫn là cái nghe. Như thế, bên trong đối với căn, tánh nghe, tánh thấy dựa vào căn mà phát hiện nhưng không bị lệ thuộc vào căn, bên ngoài tánh nghe, tánh thấy dựa vào trần mà phát hiện nhưng không bị lệ thuộc vào trần.
Tóm lại, kiến tánh đó lại là siêu thế. Vì lẽ tại thế mà siêu thế, cho nên, chúng sanh rất khó nhận mà Phật phải chỉ thị cho. Khi Phật chỉ cho như vậy rồi thì ngay chúng ta cũng nhận biết được, thấy được mình có tánh thấy, tánh nghe rất thường. Nhắm mắt, mở mắt, có tiếng, không tiếng cũng thấy cũng nghe, không bị lệ thuộc vào trần vào cảnh, mặc dù nó không ly trần, ly cảnh, ly căn nhưng nó siêu việt lên trần lên cảnh lên căn. Nhờ có Phật chỉ thị như vậy ta mới thấy được, đó là “thị” Phật tri kiến.
Nói một cách thông thường, lòng tham lam không phải là Phật tri kiến, ích kỶ không phải là Phật tri kiến. Vậy thì bố thí, hỶ xả là Phật tri kiến. Bởi vì tánh vô tham, vô sân, vô si trong luận gọi là tam thiện căn, ba gốc lành, tức là mọi điều lành đều từ đó mà ra, mà nó đã là gốc lành thì nó tức là Phật tri kiến, chứ như phiền não vọng tâm làm sao là căn bản của sự lành. Cho nên vô tham, vô sân, vô si là Phật tri kiến. Hiểu sai lệch thật tướng vạn pháp, chấp vô nhơn vô quả, tà nhơn tà quả đó là tri kiến chúng sanh. Ngược lại, hiểu đúng thật tánh vạn pháp là vô thường, vô ngã, đó là tri kiến Phật.
Hiểu thật tướng vạn pháp theo vọng tướng phân biệt thị hiện, có, không, thường, đoạn là tri kiến chúng sanh. Ngược lại, ngộ được thật tánh vạn pháp nhất như bình đẳng, đó là tri kiến Phật. Vậy thì, muốn biết hằng ngày mình có Phật tri kiến không? Nhận được Phật tri kiến không? Chúng ta có thể bằng vào tầng lớp đó mà biết được. Đây là đứng trên phương diện tam tánh (thiện, ác, vô ký) và tri kiến hằng ngày để phân biệt. Ác tánh là chúng sanh, không phải Phật tri kiến, vậy thiện tánh là Phật tri kiến, mà thiện bao gồm cả vô tham, vô sân, vô si, bố thí…, mặc dù thiện có phân ra hữu lậu thiện, vô lậu thiện nhưng đều là thiện, mà đều là thiện thì đó chính là diệu dụng của Phật tri kiến, vả lại, tà tri, vọng kiến không phải Phật tri kiến, thì chánh tri, chánh kiến chính là Phật tri kiến, sự phát hiện của Phật tri kiến, chúng ta có thể hiểu qua tác dụng như thế, chúng ta không thể hiểu Phật tri kiến trên bản thể, vì bản thể Phật tri kiến là ly ngôn tự chứng. Tất cả vạn pháp chỉ thấy được “dụng”, “tướng”, chứ không thể thấy được “thể”, huống chi là Phật tri kiến. Đó là “thị” Phật chi kiến. Đức Phật đã chỉ thị cho như vậy, về phần chúng sanh là phải “ngộ” Phật tri kiến. Ngộ là nhận biết, ngộ là giải ngộ, chứng ngộ. Nhưng chúng sanh nghe Phật chỉ thị cho như vậy là chúng sanh đã giải ngộ chứ chưa chứng ngộ. Nghĩa là ngộ đó bằng tâm tư phân biệt biện giải mà ngộ được. Nhờ giải ngộ đó rồi tu, nhờ tu mà nhập được Phật chi kiến, đạt được vô phân biệt trí thật chứng mà ngộ.
Đến giai đoạn trực chứng là ngộ, Ngộ đó như các Thiền sư, trực hạ thừa đương. Ngộ đó không bằng biện giải, không bằng vào suy tư phân biệt. Một thiền sinh đến hỏi đạo, vị Thiền sư trả lời một câu vô nghĩa, ngay nơi đó mà trực nhận thừa đương gọi là ngộ. Nếu lúc đó Thiền sinh dùng tâm tư phân biệt để lý giải thì sai và không ngộ được. Trường hợp này rất khó và hiếm, chúng ta chỉ giải ngộ được mà thôi. Sau khi nghe đức Phật dạy rồi phân biệt so sánh, hiểu rằng mình có Phật tri kiến, khác với phiền não nhiễm ô…, nhưng cũng chính nhờ biết, hiểu như vậy, đó cũng là một bước đề đưa tới chứng ngộ và ngộ nhập. Giai đọan thứ tư là “nhập” Phật tri kiến, tức chứng nhập vào tri kiến Phật, thực dụng được Phật tri kiến đó gọi là chứng nhập. Cho nên đức Phật nhập tri kiến Phật rồi thì tự phát ra cái khả năng, cái diệu dụng tùy cơ thuyết pháp giáo hóa chúng sanh.
Đối chiếu ngộ Phật tri kiến ngang giai đoạn sơ địa kiến đạo, từ kiến đạo trở lên dùng ngộ đó mà tu (dĩ ngộ vi tu), tự ngộ mà tu (tự ngộ vi tu). Tu là tu theo chỗ ngộ chứ không tu theo chỗ giải, đó gọi là nhập.
Trong kinh Niết-bàn có ví dụ một người đàn bà nghèo có châu báu trong nhà nhưng không biết, để chôn vùi dưới bao nhiêu đất cát bụi dơ. Vì không biết mình có châu báu, cho nên sống một đời cực khổ thiếu thốn. Một hôm, có người bạn lành tới, thấy biết có châu báu nên vạch tất cả đất cát bụi dơ đó lên để châu báu hiện ra. Đó là khai cho bà ta thấy châu báu, nhưng bà thấy thì thấy mà vẫn không hiểu được sự quý giá như thế nào, như trong kinh Lăng Nghiêm nói: “Khẩu năng thuyết dược, chơn dược hiện tiền bất năng phân biệt”. Miệng thì nói vị thuốc này vị thuốc nọ nhưng khi để các vị thuốc trước mắt thì không phân biệt được. Người đàn bà nghe nói vàng bạc châu báu, vàng bạc để trước mắt mà không biết. Cho nên phải “thị”, chỉ bày cho biết giá trị của châu báu như thế nào… Có chỉ cho biết rồi mới ngộ. Khi ngộ rồi mới biết giá trị châu báu, mới quý trọng giữ gìn, tìm cách sử dụng nó. Cũng như chúng sanh không biết Phật tri kiến của mình nên cứ bỏ lăn lóc trong phiền não nhiễm ô, trong sanh tử mà không biết đến. Khi biết rồi mới giữ gìn và sử dụng, gọi là nhập. Hiểu được tánh cách của châu báu là ngộ, sử dụng được châu báu là nhập. Nghĩa khai, thị, ngộ, nhập là vậy.
Trong kinh Lăng Nghiêm còn hai đoạn ngộ và nhập, tức là sau khi Tôn giả A-nan được Phật khai thị (thất xứ trưng tâm, thập phương hiển kiến) cho Ngài thấy rồi, Tôn giả A-nan liền thưa: “Mong Phật Như Lai, vi diệu khai thị, liễu nhiên tụ tri, hoạch bổn diệu tâm, thường trú bất diệt”. Nhờ đức Như Lai khai thị một cách vi diệu, cho nên con rõ biết được cái diệu tâm bổn lai thường trú bất diệt. Khi Tôn giả A-nan ngộ được bồn diệu tâm đó rồi, Tôn giả đứng trên cái bản diệu tâm đó phát lời thệ nguyện tán thán Tam Bảo và độ sanh: “Diệu Trạm tổng trì bất động tôn…” đó tức là ngộ.
“Nhập” tức như trong Lăng Nghiêm, về phần hai mươi lăm vị Thánh tu chứng viên thông. Có Ngài từ nhãn căn mà ngộ nhập lý viên thông, có ngài từ nhĩ căn, tỶ căn, sắc trần, thanh trần,… mà ngộ nhập lý viên thông. Gồm tất cả hai mươi lăm vị, mỗi vị từ mỗi pháp môn mà chứng nhập lý viên thông. Lý viên thông tức Phật tri kiến, Phật tánh vậy. Bởi Phật tri kiến là cái lý chung nhất cùng dung thông hết tất cả cho nên gọi là viên thông. Có ngài từ nhĩ căn, có ngài từ nhãn căn…, quán nhãn căn, quán nhĩ căn. Bởi vì trong mỗi pháp, trên tướng dụng có sai khác nhưng trên thật tánh thì nhất thiết pháp bình đẳng, mà đã là bình đẳng thì thực tánh của một vi trần cũng như thực tánh của một núi tu di. Tùy theo căn cơ, có người quán núi tu di ngộ được thật tánh của vạn pháp, có người quán một vi trần mà ngộ được thật tánh của vi trần để ngộ nhập thực tánh của vạn pháp. Trên phương tiện, pháp môn, dụng công tu tập có khác, nhưng chỗ chứng ngộ thì y như nhau.
Kinh văn: Phật bảo Xá-lợi-phất, các đức Phật Như Lai chỉ giáo hóa hàng Bồ-tát. Phàm có làm gì đều thường vì một việc là chỉ khai thị chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật.
Xá-lợi-phất, Như Lai chỉ đem nhất Phật thừa mà nói pháp cho chúng sanh, chứ không có thừa nào khác hoặc hai, hoặc ba. Xá-lợi-phất, tất cả pháp của mười phương chư Phật cũng đều như vậy.
Giải thích: Trước đức Thích Ca nói về Ngài, đoạn này cũng nói thêm rằng không phải một mình Ta nói như vậy mà mười phương các đức Phật cũng nói như vậy. Lời này vừa để làm chứng lời mình (đức Thích Tôn) nói là đúng, vừa để tỏ lời mình nói cũng là quyền trí như các đức Phật mười phương mà cũng vừa để tăng thêm lòng tin của đại chúng đối với lời nói của Ngài nữa.
Kinh văn: Xá-Lợi-Phất, các đức Phật quá khứ dùng vô lượng vô số phương tiện, các thứ nhân duyên, thí dụ ngôn từ, vì chúng sanh diễn nói các pháp, pháp đó đều là nhất Phật thừa. Các chúng sanh theo các đức Phật nghe pháp rốt ráo đều được nhất thiết chủng trí.
Giải thích: Nhất thiết trí là Phật trí. Trí biết được tất cả vạn pháp và sự sai biệt của vạn pháp nên gọi nhất thiết trí hay nhất thiết chủng trí.
Kinh văn: Xá-lợi-phất, các đức Phật vị lai sẽ xuất hiện ở đời cũng dùng vô số phương tiện, các thứ nhơn duyên, thí dụ ngôn từ vì chúng sanh diễn nói các pháp, pháp ấy đều là nhất Phật thừa. Các chúng sanh theo Phật nghe pháp, rốt ráo đều được chứng nhất thiết chủng trí.
Xá-lợi-phất, các đức Phật hiện tại trong vô lượng trăm ngàn vạn ức Phật độ ở 10 phương, đem lại nhiều lợi ích an lạc cho chúng sanh. Các đức Phật ấy cũng dùng vô lượng vô số các thứ nhân duyên, thí dụ ngôn từ vì chúng sanh diễn nói các pháp, pháp ấy cũng đều là nhất Phật thừa. Và các chúng sanh ấy theo Phật nghe pháp, rốt ráo đều chứng được nhất thiết chủng trí.
Này Xá-lợi-phất, các đức Phật chỉ giáo hóa hàng Bồ-tát, muốn đem tri kiến Phật chỉ thị cho chúng sanh, muốn đem tri kiến Phật cho chúng sanh tỏ ngộ, muốn khiến chúng sanh nhập vào tri kiến Phật.
Này Xá-lợi-phất, Ta nay cũng như vậy. Ta biết các chúng sanh có các thứ dục lạc khác nhau, thâm tâm đắm trước khác nhau, tùy theo bản tánh của họ, Ta dùng các thứ nhân duyên, thí dụ ngôn từ và sức phương tiện để vì họ nói pháp.
Xá-lợi-phất, như thế, đều vì muốn khiến cho tất cả được nhất Phật thừa, nhất thiết trí mà thôi.
Này Xá-lợi-phất, trong 10 phương thế giới còn không có hai thừa huống chi có ba.
Giải thích: Đoạn kinh này dẫn ba đời các đức Phật, quá khứ, vị lai, hiện tại để minh chứng rằng, chính ngày hôm nay đức Thích Tôn nói pháp cũng giống như ba đời các đức Phật nói pháp không khác, chỉ vì duy nhất đại sự là “khai thị cho chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến” mà thôi.
Kinh văn: Xá-lợi-phất, lúc các đức Phật ra đời nhằm vào thời ngũ trược ác thế, gọi là kiếp trược, phiền não trược, chúng sanh trược, kiến trược, mạng trược.
Như vậy, Xá-lợi-phất, trong thời kiếp trược rối loạn, chúng sanh cấu trọng, xan tham tật đố, thành tựu các bất thiện căn, cho nên các đức Phật dùng sức phương tiện từ Nhất Phật thừa phân biệt nói thành ba.
Giải thích: Như đã biết, trí tuệ của Phật là đồng nhất, thật tướng chư Phật chứng ngộ là đồng nhất, bản hoài chư Phật ra đời độ sanh cũng đồng nhất, chỉ vì khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến, tức có nghĩa là đức Phật chỉ nói về Nhất thừa pháp mà thôi. Bởi Phật tri kiến đó là thể của Nhất thừa pháp, thật tướng, thật trí, quyền trí cũng là thể của Nhất thừa pháp. Nếu ly ba thứ đó ra thì Nhất thừa pháp không thể có. Bởi nhất thừa pháp thuộc về giáo, còn trí tuệ, thật tướng và Phật tri kiến thuộc về lý, thuộc về cảnh, thuộc về chơn như, mà nhất thừa giáo là giáo từ lý được thành lập, có lý như vậy rồi thuyết lý đó ra thành giáo, gọi là Nhất thừa giáo. Một bên thuộc về sở thuyên, một bên thuộc về năng thuyên, dù rằng sở thuyên, năng thuyên cũng đều đồng là nhất thừa hết.
Thế tại sao đức Phật lại không nói Nhất thừa giáo cho chúng sanh nghe ngay từ đầu và suốt cả thời thuyết giáo của Ngài mà Ngài lại phải nói Tam thừa làm gì?
Bởi vì, đức Phật ra đời gặp thời ngũ trược ác thế, cho nên tùy theo cơ duyên từ Nhất thừa pháp phương tiện nói ra Tam thừa để dắt dẫn chúng sanh, rồi từ đó đưa về nhất thừa. Nếu không phương tiện nói Tam thừa thì không thể đưa về Nhất thừa được.
Chỗ chứng ngộ của đức Phật có thể ví dụ một cách thông thường như sau: Một học sinh học biết bài toán cộng 2 + 2 = 4, khi biết được như vậy tức là học sinh ấy đã chứng được chân lý 2 + 2 = 4. Nhưng chứng được chân lý ấy là phải trải qua một thời gian chớ không phải một hai ngày mà biết được 2 + 2 = 4. Nhưng, khi biết được rõ rồi thì đó là một sự thật, đối với học sinh đó rất dễ dàng. Cái đó có thể gọi là thật trí. Nhưng khi đem chân lý thật chứng 2 + 2 = 4 ấy dạy lại cho em bé ba tuổi thì phải nói cách nào cho em hiểu ? Tức phải trãi qua một thời gian và dùng nhiều cách thức, hoặc phải tốn nhiều kẹo bánh dỗ dành, ví dụ ta đi từ 1 + 1 = 2 và vế hai cũng đi từ 1 + 1 = 2. Tức 1 kẹo + 1 kẹo + 1 kẹo + 1 kẹo + 4 kẹo. Rồi tiến lên 2 kẹo (vế 1) + 2 kẹo (vế 2) = 4 kẹo vậy. Nghĩa là phải đi từ dễ đến khó mới dạy cho em biết được 2 + 2 = 4.
Cứ vào việc thông thường này để hiểu sự chứng ngộ thật tướng các pháp của Phật, Ngài muốn đem chỗ chứng ngộ ấy nói cho chúng sanh nghe, nhưng vì căn cơ chúng sanh chưa nhận thức được lý Nhất thừa nên đức Phật từ bản hoài ra đời để nói Nhất thừa giáo, Ngài lại phải phương tiện nói ra Tam thừa giáo.
Đời ngũ trược ác thế là thế nào ? Trược là khổ thống, tạp nhiễm xấu xa, độc ác. Chúng sanh bị mắc vào năm thứ này cho nên gọi là ngũ trược. Trong năm trược thì phiền não trược và kiến trược làm tự thể cho các trược khác.
Phiền não trược: Chỉ cho ngũ độn sử. Tất cả phiền não của chúng sanh không ngoài 10 thứ là ngũ độn sử và ngũ lợi sử. Ngũ độn sử là: tham, sân, si, mạn, nghi. Năm thứ này đần độn không thể dùng lý, dùng sự hiểu biết để dứt trừ được mà cần phải thực hành kiên cố mới dứt trừ được nên gọi là độn sử. Hay nói cách khác là tu sở đoạn hoặc, là những lậu hoặc không thể hiểu lý suông mà cần phải tu, phải thực hành mới đoạn trừ được.
Kiến trược: Chỉ cho ngũ lợi sử. Ngũ lợi sử là: Thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ và giới cấm thủ. Thân kiến tức là chấp sắc thân tứ đại, ngũ uẩn này là thật ngã, không biết rằng sắc thân tứ đại là do hòa hợp hư giả, không có cá thể riêng biệt tồn tại ngoài các duyên. Do chấp thân kiến nên sanh ra biên kiến. Biên kiến là chấp rằng thân tứ đại này, ngã này tồn tại mãi, con người chết rồi vẫn là con người, linh hồn không bao giờ thay đổi, đó thuộc về thường kiến. Ngược lại hoặc cho rằng con người sống mấy mươi năm đến khi nhắm mắt tắt thở là hết, đó thuộc về đoạn kiến. Không hiểu rằng, chấp lệch về thường kiến, hay về đoạn kiến cũng đều không đúng với tánh cách của sự vật, cũng không đúng với tánh cách của con người, nên gọi đó là biên kiến. Do biên kiến sanh ra tà kiến. Tà kiến là hoặc chấp đoạn, chấp thường, hoặc chấp hữu, chấp vô. Nói rộng ra là chấp tất cả các pháp và vũ trụ theo một tánh cách thiên lệch, gọi là tà kiến. Khi chấp tà kiến như vậy rồi cứ giữ chặt kiến chấp ấy và cho là độc tôn, là đúng thật, là chân lý tuyệt diệu mà không chịu thay đổi, gọi là kiến thủ kiến. Từ những tà kiến, kiến thủ kiến mà có những hành động, phương pháp tu hành không phải nhân đưa đến giải thoát mà cho đó là nhân đưa đến đạo giải thoát, như nhịn ăn hay các lối khổ hạnh của ngoại đạo ở Ấn Độ. Gọi đó là giới cấm thủ, tức là giữ chặt những điều răn cấm hay những pháp môn tu sai lệch không đưa đến đạo giải thoát chân thật.
Năm thứ này gọi là lợi sử hay kiến hoặc. Lợi là mảnh lợi, không có căn bản sâu xa chắc chắn, chẳng qua là vì tà sư ác hữu, vì suy tư sai lệch mà có ra. Đến khi thấy được lý Tứ đế của Phật thì năm kiến chấp này tiêu trừ. Năm thứ kiến này đứng trên quả vị thì lên đến kiến đạo Tu-đà-hoàn là đoạn trừ. Do đó cũng có tên là kiến sử đoạn hoặc, tức hoặc lậu, kiến được đế lý chân thật là đoạn trừ. Đây không cần dụng công tu hành mà chỉ cần có sự thấy biết đứng đắn, tin tưởng chính đáng là đoạn trừ năm hoặc này, nên gọi là kiến hoặc.
Tóm lại, đứng về mặt nhận thức (kiến) sai lệch thì nó trở thành kiến trược, mà đứng về mặt tình cảm nhiễm ô, phiền não thì gọi là phiền não trược.
Hai thứ trược này là nguồn gốc, là căn bản, là nguyên nhân chính vì hai thứ đó kết hợp lại, chúng sanh dựa vào đó tạo nghiệp thọ sanh, làm thân chúng sanh lăn lộn trong luân hồi sanh tử.
Chúng sanh có hai nghĩa: Kết hợp chúng duyên mà thành và chúng đa sanh tử, chịu nhiều sự sanh tử luân hồi nên gọi là chúng sanh. Khi chấm dứt sanh tử luân hồi, phá bỏ các duyên thì không gọi là chúng sanh nữa.
Chúng sanh trược: Do từ phiền não trược và kiến trược mà ra, cho nên phiền não trược, kiến trược là gốc, là nhân mà chúng sanh trược là quả.
Mạng trược: Có chúng sanh tức nhiên có đời sống, quả báo của chúng sanh, có sức mạnh để làm cho chúng sanh đó sống trong 10 năm, 20 năm… hay mới lọi lòng ra đã chết. Cái mạng mạch mỗi người không chừng đổi gì hết, chúng sanh muốn kéo dài đời sống đó cũng không thể kéo dài ra được, muốn sống lâu mà không sống lâu, muốn đừng chết mà nó vẫn chết, không tự tại với chính mình nên gọi là mạng trược.
Còn bị phiền não nhiễm ô, còn chúng sanh luân hồi sanh tử. Như vậy, phiền não trược, kiến trược là nhân, mạnh trược, chúng sanh trược là quả. Đồng kết phiền não trược, kiến trược, chúng sanh trược, mạng trược trong một khoảng thời gian nào đó thì gọi là Kiếp trược. Kiếp trược phụ thuộc vào bốn trược kia, nếu như không có 4 trược kia thì khoảng thời gian đó không có gì là trược nên không thể gọi là thời kiếp trược được. Chúng sanh ở đời kiếp trược bị cấu trọng, xan tham tật đố, cấu là chỉ cho kiến trược. Xan là ôm giữ mãi những vật mình có mà không chịu chia xẻ, bố thí cho người khác. Tham là vật gì chưa có muốn cho có, muốn mãi không bao giờ đủ. Tật đố là ai có điều chi hay hơn, tốt hơn… thì sanh lòng ganh ghét, tỴ hiềm. Vì xan tham tật đố có những tánh cách như vậy, cho nên xan tham là nhơn của bần cùng, tật đố là nhơn của hạ tiện. Khi thấy người hơn thì sanh lòng ganh tỴ, đó là tạo nhơn để thua người, làm kẻ hạ tiện, từ đó thành tựu các bất thiện.
Đức Phật ra đời gặp thời như vậy, với chúng sanh như vậy thì làm sao Ngài đem đạo lý Nhất thừa mà dạy được. Cho nên, Phật phương tiện từ Nhất thừa phân biệt nói thành ba. Vậy thì ba đó là ba giả thuyết chứ không phải chân thật, tuy nó vẫn có công dụng rất lớn lao dẫn đến Nhất thừa.
Kinh văn: Này Xá-lợi-phất, nếu đệ tử của Ta, người nào tự gọi A-la-hán, Bích-chi Phật, mà không nghe không biết được việc các đức Như Lai là chỉ giáo hóa hàng Bồ-tát thì những người đó không phải Phật đệ tử, không phải A-la-hán, không phải Bích-chi Phật.
Giải thích: Đoạn kinh trên đức Phật chỉ rõ như thế nào là tăng thượng mạn, như thế nào là không tăng thượng mạn, như thế nào là đệ tử Phật, là A-la-hán.
Đức Phật nói Tam thừa là nói chung cho tất cả, trong khi Ngài dùng phương tiện nói Tam thừa thì dù có những người tin rằng, đó là pháp chân thật mà tu hành chứng quả hoặc A-la-hán, Bích-chi Phật…, nhưng ít nhất cũng phải hiểu rằng, đại sự ra đời của đức Phật không phải nhằm chừng ấy, mà cốt giáo hóa hàng Bồ-tát, có nghĩa là đức Phật ra đời cốt dạy đạo nhất thừa. Nói Bồ-tát tức nói hạng người đủ căn cơ trình độ lãnh thọ đạo lý nhất thừa. Hoặc người nghe đạo lý nhất thừa, ít ra phải hiểu, phải biết, dù không chứng ngộ được, nhưng phải thấy được, tin được đại sự đức Phật ra đời, có như vậy mới gọi là A-la-hán, Bích-chi Phật, đệ tử Phật được.
Kinh văn: Này Xá-lợi-phất, các hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni tự cho mình đã được A-la-hán, ở vào thân tối hậu cứu cánh Niết-bàn, lại không còn có chí nguyện cầu A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề thì nên biết, hạng này đều là kẻ tăng thượng mạn. Sở dĩ làm sao ? Nếu có Tỳ-kheo thật chứng quả A-la-hán mà không tín được pháp này thì không có lẽ đó. Trừ sau khi đức Phật diệt độ, hiện tiền không có Phật. Vì sao ? Vì sau khi Phật diệt độ những kinh như thế mà hạng người thọ trì, đọc tụng, giải nghĩa thì hạng người đó khó có được. Nếu gặp các đức Phật khác thì đối với pháp này bèn được hiểu rõ.
Giải thích: Thân tối hậu, một vị đã tu chứng quả A-la-hán phải đủ bốn điều: Thử sanh dĩ tận, phạm hạnh dĩ lập, sở tác dĩ biện, bất thọ hậu hữu. Bốn điều này phối hợp với lý Tứ đế như sau:
Thử sanh dĩ tận, tương xứng với Khổ đế, khổ được dứt trừ đoạn diệt, không còn tái sanh nữa.
Phạm hạnh dĩ lập, tương xứng với Đạo đế, tức pháp môn tu hành đã được kiến lập, đầy đủ và thành tựu phạm hạnh.
Sở tác dĩ biện, tương xứng với Diệt đế. Niết-bàn đã chứng, điều cần làm đã làm xong.
Bất thọ hậu hữu, tương xứng với Tập đế, Tập đế là nguyên nhân của hậu hữu (đời sau). Đã dứt hết Tập đế tức không còn thọ hậu hữu nữa.
A-la-hán là gì ? Là người đã thành tựu viên mãn đạo lý Tứ đế. Muốn thành tựu đạo lý Tứ đế, hành giả phải trãi qua ba giai đoạn, kiến đạo, tu đạo và vô học đạo.
Nhận thức rõ đạo lý Tứ đế, như biết cuộc đời là khổ, tuy vẫn biết nếu đứng trên bình diện tương đối, cuộc đời vẫn vui, nhưng đó là cái vui của thế gian, nếu đứng trên bình diện tuyệt đối thì thế gian chưa vui, thế gian còn khổ, bởi chúng sanh còn đang chịu sanh tử luân hồi, chịu luật vô thường chi phối. Muốn sống mà cứ chết, muốn không bệnh mà cứ bệnh…, cho nên biết thế gian là khổ. Nói cho cùng, thế gian vẫn còn khổ, hiểu rõ được như vậy gọi là biết được Khổ đế.
Biết được khổ đó và cũng biết chắc rằng khổ đó do ái dục vô minh sanh ra, chứ không do một nguyên nhân nào khác. Như thế là biết được Tập đế. Và biết rõ rằng hễ dứt trừ được khổ nhơn và khổ quả thì được tịch tịnh an lạc Niết-bàn, đó gọi là Diệt đế. Và cũng biết rằng giáo lý Bát chánh đạo, Tam thập thất Bồ-đề là con đường chân chánh, là pháp môn đứng đắn đưa đến Nhất thừa đạo. Như vậy là biết được Đạo đế.
Khi tìm hiểu lý Tứ đế chân chánh như vậy gọi là kiến đạo. Kiến đạo mới trừ được ngũ lợi sử, kiến hoặc mà thôi. Phải đợi bước qua địa vị tu đạo, tức từ nhị quả Tư-đà-hàm đến A-la-hán hướng, thời gian đó gọi là tu đạo. Thời gian này là thật hành theo lý Tứ đế, đoạn trừ ngũ độn sử. Khi đã đoạn trừ ngũ độn sử tức dứt hết Tập đế, dứt Tập đế tức dứt Khổ đế, chứng Niết-bàn, bước lên quả vị A-la-hán gọi là Vô học đạo. Đến quả vị A-la-hán là thân cuối cùng không còn tái sanh nữa. Nhưng, nếu đến đó rồi tự cho là đủ mà không có chí nguyện cầu vô thượng Bồ-đề thì những người như vậy gọi là tăng thượng mạn. Tăng thượng mạn là chấp chặt nơi quả vị Hữu dư y, Vô dư y Niết-bàn, cho là cứu cánh rồi, trên A-la-hán không còn gì nữa nên không chịu cầu vô thượng Bồ-đề.
Trên là nói không biết bản nguyện của Phật ra đời… thì không phải là A-la-hán,… chứ chưa thuộc loại tăng thượng mạn, những người chấp chặt quả vị mới gọi là tăng thượng mạn.
Nhưng, có trường hợp nào một vị A-la-hán chấp chặt quả vị mà không thuộc loại tăng thượng mạn không ? Có. Ngoại trừ “sau khi Phật diệt độ, hiện tiền không có Phật”. Bởi vì khi đức Phật diệt độ rồi không có người nói pháp Nhất thừa khai quyền, hiển thật cho nghe thì làm sao biết được ngoài quả vị A-la-hán còn có quả vị vô thượng Bồ-đề nữa, trường hợp này không gọi là tăng thượng mạn.
Như vậy thì những vị A-la-hán luôn ở quả vị đó chứ không thể chứng quả vị vô thượng Bồ-đề hay sao? Trừ trường hợp gặp được các đức Phật khác ra đời thì sẽ được đức Phật đó giải rõ pháp khai quyền hiển thật và bấy giờ vị A-la-hán đó sẽ vượt lên cầu chứng quả vị vô thượng Bồ-đề.
Kinh văn: Này Xá-lợi-phất, các Ông hãy nên nhất tâm tín giải thọ trì lời Phật. Các đức Phật Như Lai nói không hư dối. Không có các thừa khác mà chỉ có nhất Phật thừa.
Giải thích: Đức Phật nhắc đi nhắc lại “các đức Như Lai nói không hư dối” đức Phật lúc nói Tam thừa, Ngài không nói đây là Ta giả nói, cho nên khi Ngài nói Tam thừa thì mọi người đều tin rằng Tam thừa là chân thật. Đến hội Pháp Hoa đức Phật lại nói Nhất thừa mới là chân thật còn Tam thừa chỉ là phương tiện. Điều này sẽ khiến mọi người lầm nghĩ rằng, đức Thế Tôn nói trước sau bất nhất, vậy thì lời Ngài có hư dối không ? -Không. Mặc dù trên ngôn từ kinh giáo trình bày trước sau khác nhau nhưng ý nghĩa và mục đích trước sau vẫn là một. Đại sự ra đời giáo hóa của chư Phật trước sau cũng duy nhất, lời chư Phật nói không hư dối là vậy.
Kinh văn: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà nói bài kệ rằng:
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, có những người ôm tâm tăng thượng mạn, còn Ưu-bà-tắc ngã mạn, Ưu-bà-di thì bất tín. Bốn chúng như vậy, số đó có năm ngàn. Họ không tự thấy được lỗi của mình, đối với giới có thiếu, có lậu lọt, rồi cứ bảo vệ che dấu chỗ tỳ vết, hàng tiểu trí đó đã ra đi rồi, cặn bả trong chúng hội, do oai đức của Phật đã lui ra. Những hạng kém ít phước đức đó không kham chịu được giáo pháp này. Những cành lá trong chúng hội này không còn nữa mà chỉ còn hạt chắc thôi.
Giải thích: Đây là đoạn kệ lặp lại năm ngàn người tăng thượng mạn ở đoạn kinh trước. Năm ngàn này không phải chỉ hàng xuất gia mà cả tại gia. Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni thì tăng thượng mạn, vì có tu, có chứng quả nhưng lại chấp chặt quả vị nên bị lỗi tăng thượng mạn. Ưu-bà-tắc thì ngã mạn, đây là bệnh chấp ngã cố hữu của chúng sanh. Còn Ưu-bà-di thì bất tín, bất tín hay ty liệt mạn. Mỗi hạng người có mỗi bệnh, gồm năm ngàn người, không tự thấy lỗi mình, đối với giới có khuyết có lậu. Khuyết là tu hành không đầy đủ, thiếu sót, do khuyết cho nên phiền não lọt vào. Bởi vì người xuất gia, giới như phao nỗi qua sông, phao nỗi bị lũng nước sẽ tràn vào và bị chìm nên gọi là khuyết lậu.
Cũng có nghĩa nữa là đối với giới luật oai nghi thiếu sót, giữ gìn không chu đáo gọi là khuyết; định cộng giới, đạo cộng giới không có nên gọi là lậu. Những hạng như thế đã ra hết, chỉ còn lại hạt chắc thật. Bây giờ, chính lúc đức Phật nói pháp Nhất thừa vậy.
Kinh văn: Xá-lợi-phất hãy khéo nghe, pháp của các đức Phật chứng được, và vô lượng sức phương tiện của Ngài đem ra vì chúng sanh mà nói. Đối với điều tưởng niệm trong tâm của chúng sanh, với các thứ hành đạo hoặc bao nhiêu tánh dục của chúng sanh, hoặc các nghiệp thiện, nghiệp ác đời trước của chúng sanh, Phật đều biết rõ. Ngài dùng các nhân duyên thí dụ ngôn từ, các sức phương tiện khiến cho tất cả những người đó đều được hoan hỶ.
Giải thích: Chư Phật sở đắc pháp là chỉ cho thật trí, vô lượng phương tiện lực là chỉ cho quyền trí. Đức Phật do thật trí và quyền trí mà nói pháp cho chúng sanh. Đức Phật biết rõ từng căn tánh và dục của chúng sanh. Tánh là những điều căn để gắn chặt từ xưa, dục là những điều ham muốn hôm nay.
Kinh văn: Hoặc nói Tu-đa-la, Già-đà, Bổn sự, Bổn sanh, Vị-tằng-hữu, cũng nói về Nhân duyên, Thí dụ, Kỳ-dạ, Ưu-ba-đề-xá.
Giải thích: Đây là Phật nói 9 bộ kinh, thường nói 12 bộ, nhưng Tiểu thừa Phật mới nói 9 bộ, chưa có Thọ ký, bởi Tiểu thừa Phật chưa Thọ ký, và Đại phương quảng, vì Phật chưa nói đến kinh Đại thừa.
Tu-đa-la là khế kinh, Già-đà là trùng tụng, Bổn sự là nói về sự nghiệp tu hành trong đời quá khứ của đức Phật. Bổn sanh là nói về sự thọ sanh đời trước của đức Phật. Đức Phật sanh ra tên gì, họ gì, ở đâu…, Vị tằng hữu, những điều chưa từng có. Nhân duyên, Thí dụ, Kỳ-dạ là Trùng tụng, Ưu-ba-đề-xá là luận nghị. Luận nghị tức là một lối hành văn trong kinh, lời lẽ đối đáp, phân tích, giảng giải những điều Phật đã nói.
Mười hai bộ kinh này có nghĩa là 12 bộ loại, phân theo thể tài và phân theo nội dung. Như Tu-đa-la là phân theo thể tài, văn trường hàng, văn xuôi. Kỳ-dạ, Trùng tụng là phân theo văn kệ, có lối kệ độc khởi thì gọi là Kỳ-dạ, kệ lặp lại văn trường hàng thì gọi là trùng tụng. Bổn sanh, Bổn sự, Nhân duyên là phân theo nội dung, Luân nghị là phân theo thể tài.
Kinh văn: Những hàng độn căn ưa thích pháp nhỏ, tham trước sanh tử, đối với vô lượng Phật không hành được đạo thâm diệu, bị các khổ làm não loạn, đối với những người đó Ta nói pháp Niết-bàn cho.
Giải thích: Đây là pháp Tiểu thừa. Lúc bấy giờ đức Phật chỉ nói về Niết-bàn, giúp trừ sanh tử, đoạn các lậu hoặc mà thôi chứ chưa nói sẽ thành Phật đạo, chứng Bồ-đề.
Kinh văn: Ta thiết lập ra phương tiện ấy, khiến họ được vào Phật huệ. Nhưng, Ta chưa từng nói (các ông sẽ được thành Phật đạo). Bởi vì sao mà chưa từng nói? Bởi vì thời gian nói chưa đến, hôm nay mới đúng lúc, Ta quyết định nói pháp Đại thừa.
Giải thích: Nên hiểu rằng, trước kia Ngài đã nói pháp Đại thừa rồi, nhưng Đại thừa trước Pháp Hoa Phật chỉ thọ ký cho hàng Bồ-tát thành Phật. Đến Pháp Hoa mới chung kết, tóm thâu cả hàng Thanh Văn hồi tâm hướng Đại đều được thọ ký thành Phật, nên Đại thừa trong Pháp Hoa có nghĩa trọn vẹn hơn. Do đó, gọi là Đại thừa Viên giáo.
Kinh văn: Ta nói 9 bộ pháp này, tùy thuận theo chúng sanh cốt để đưa vào Đại thừa, cho nên nói kinh này.
Có những Phật tử tâm thanh tịnh, nhu nhuyến và lợi căn, đối với vô lượng các đức Phật có thể tu hành đạo thâm diệu. Ta sẽ vì các hàng Phật tử đó, nói kinh Đại thừa này. Ta thọ ký cho những người như thế, tương lai thành Phật đạo. Do họ thâm tâm niệm Phật, tu trì giới luật thanh tịnh nên những hạng người đó nghe mới được thành Phật thì sanh hoan hỶ lớn lao đầy khắp cả thân mình. Phật biết tâm hạnh của những người đó, cho nên nói kinh Đại thừa.
Hàng Thanh Văn hoặc Bồ-tát nghe pháp Ta nói cho đến một câu kệ cũng đều thành Phật đạo không có nghi.
Giải thích: Tâm thanh tịnh nhu nhuyến tức là có tâm tín thuận, lợi căn tức là có trí tuệ. Có tín và có tuệ.
Biết tâm hạnh tức nhiên biết sở hành trong tâm. Sở hành trong tâm là đủ có tín có tuệ, thọ lãnh và nạp được giáo lý Đại thừa nên Phật nói kinh Đại thừa.
Nghe một câu kệ cũng thành Phật, bởi vì câu kệ đó nói lên đạo lý làm Phật, lẽ tất nhiên nghe câu kệ đó sẽ thành Phật.
Kinh văn: Trong 10 phương Phật độ, chỉ có pháp Nhất thừa chứ không hai cũng không ba, trừ Phật phương tiện nói ra, mà phương tiện nói cũng chỉ dùng danh tự giả để dẫn đạo các chúng sanh.
Giải thích: Nói Nhị thừa, Tam thừa là danh tự giả để dẫn dắt chúng sanh, chứ đó cũng không phải thật.
Kinh văn: Vì nói trí tuệ Phật, nên các đức Phật ra đời. Chỉ một việc đó là thật, còn nói hai thừa ba thừa thời chẳng phải chơn. Ta hoàn toàn không đem pháp Tiểu thừa để tế độ chúng sanh. Phật tử trú trong pháp Đại thừa, đúng như pháp Ngài chứng được, do sức định, tuệ và sức phương tiện trang nghiêm, đem pháp đó để hoá độ chúng sanh.
Giải thích: “Dư nhị” ngoài hai thừa… tức là ngoài nhất thật sự ra, dù nói cái gì khác nữa thì đều chẳng phải. Tức ngoài nhất đại sự nhân duyên, tất cả cái khác đều là phương tiện để dẫn đạo chúng sanh. Định, Tuệ, Lực ở trên phải hiểu: Định để thành Phật, Tuệ để chứng ngộ chân lý và phương tiện lực để dắt dẫn chúng sanh. Ba thứ này thiếu một thì không thể trang nghiêm được pháp Đại thừa. Và nhờ trang nghiêm pháp Đại thừa mà Phật luôn trú trong pháp Đại thừa. Chữ “tự trú” có nghĩa tự giác thánh trí luôn luôn tự trú, chứng nhập pháp Đại thừa bình đẳng thật tướng.
Kinh văn: Tự chứng pháp vô thượng đạo Đại thừa bình đẳng. Nếu Ta dùng Tiểu thừa để giáo hóa, dù giáo hóa chỉ một người thôi Ta cũng mắc vào xan tham đó là việc không thể có.
Giải thích: Không bao giờ đức Phật chứng pháp bình đẳng Đại thừa mà Ngài lại đem pháp Tiểu thừa dạy cho chúng sanh, dù dạy cho một người Ngài cũng không dạy, nếu làm như vậy là mắc lỗi xan tham. Đây là một lối nói của đức Phật. Ngài thấy việc này chúng sanh khó tin khó hiểu, cho nên, Ngài luôn lập lại như vậy.
Kinh văn: “Nếu người có lòng tin quy y Phật, họ sẽ biết Như Lai không luống dối, cũng không có ý xan tham tật đố. Như Lai đã đoạn hết các điều ác, nhờ đó cho nên, ở trong mười phương chỉ riêng Phật có hiệu là vô sở úy (gồm cả tứ vô sử úy)” Ta có thân tướng trang nghiêm, có hào quang chiếu soi thế gian, được vô lượng chúng tôn kính, Ta nói pháp ứng hợp với thật tướng.
Giải thích: Đây cũng là một lời minh chứng, đức Phật nhờ đoạn ác, nhờ không tật đố xan tham, nhờ lòng cứu độ chúng sanh mới có được thân tướng trang nghiêm. Có hào quang chiếu khắp thế gian, được vô lượng chúng tôn kính. Vậy “cho nên Ta nói thật tướng ấn”, thật tướng ấn là pháp Đại thừa, pháp thật tướng ấn. Ấn có tam pháp ấn, có thật tướng ấn. Tam pháp ấn thuộc pháp Tiểu thừa. Đó là vô thường, khổ, vô ngã. Vì tất cả mọi hiện tượng ở thế gian, thiên hình vạn trạng sai khác, nhưng tự mỗi pháp đều mang đủ ba tánh chất vô thường, khổ, vô ngã. Đức Phật đã tự chứng ngộ được, Phật nói lại cho chúng sanh nghe, điều đó như một dấu ấn. Nếu ở đâu, lời kinh, quyển luận nào diễn tả trong đó bao hàm cả ý nói về hiện tượng thế gian vô thường, khổ, vô ngã thì đó là dấu ấn của Phật, tin đó là lời Phật nói, gọi đó là ấn. Như một cái dấu đóng trên tờ giấy, ai thấy cái dấu đóng đều biết là văn thơ thuộc của ai nên gọi đó là ấn.
Còn Đại thừa thì có thêm thật tướng ấn hay nhất Phật thừa ấn. Đó là dấu ấn của Kinh luận Đại thừa, chỉ về thật tướng bình đẳng của vạn pháp.
Kinh văn: “Xá-lợi-phất nên biết, Ta vốn lập thệ nguyện, muốn khiến các chúng sanh đồng được như Ta không khác”.
“Như sở nguyện của Ta xưa thì nay đã được viên mãn đó là hóa độ tất cả chúng sanh đều khiến vào Phật đạo.”
Giải thích: Câu này để nói rằng đức Phật không phải ngày hôm nay mà chính từ trong bản nguyện, Ngài cũng đã lập thệ nguyện muốn cho chúng sanh đồng được thành Phật như mình, nghĩa là muốn đem pháp nhất thừa nói cho chúng sanh chớ không hai ba thừa gì hết.
Kinh văn: Nếu ta gặp chúng sanh, đều dạy cho họ Phật đạo, nhưng những người vô trí, bị lầm lỗi, rối loạn, mê hoặc, không lãnh thọ được lời dạy đó. Ta biết chúng sanh ấy chưa từng tu gốc thiện. Họ bị chấp chặt nơi 5 dục, bị si ái nên sanh ra khổ não.
Giải thích: Đoạn kệ này là lập lại phần văn trường hàng ở trước nói về ngũ trược. Mấy câu này là nói về phiền não trược.
Kinh văn: “Do nhơn duyên của ái dục phải đọa vào tam đồ ác đạo. Sanh vào trong 6 thù luân hồi để chịu các khổ”.
Giải thích: Đoạn này là nói về chúng sanh trược. Khi sanh chỗ này, khi sanh chỗ kia, cho nên gọi là chúng sanh.
Kinh văn: “Rồi thọ lấy thân hình mỏng manh trong thai bào, cứ đời đời tăng dồn lên mãi”.
Giải thích: Đây là nói về mạng trược.
Kinh văn: “Những người thiếu phước đức, bị các khổ bức bách, sa vào trong rừng tà kiến, hoặc chấp có chấp không, v.v… Dựa theo các tà kiến đó tăng lên đủ 62 tà kiến, rồi đắm chấp theo pháp hư vọng, giữ chặt không rời bỏ.”
Giải thích: Đây là nói về kiến trược. (62 tà kiến xem kinh Phạm võng hay Phạm động trong Trường A Hàm sẽ rõ)
Kinh văn: “Ngã mạn tự cống cao, tâm siểm, khúc không chân thật, trong ngàn vạn ức kiếp, không nghe được danh tự Phật, cũng không nghe được chánh pháp, những người như thế thật khó độ”.
Giải thích: Đây là nói về kiếp trược.
Kinh văn: “Cho nên Xá-lợi-phất, Ta vì họ thiết lập phương tiện, nói đạo dứt khổ, chỉ thị Niết-bàn, Ta tuy nói Niết-bàn, nhưng có cũng chẳng phải chân thật Niết-bàn. Các pháp từ xưa nay, tướng thường tự tịch diệt. Các Phật tử dựa theo đó hành đạo xong, tương lai sẽ được làm Phật. Ta có sức phương tiện, khai thị ba thừa pháp”.
Giải thích: Đức Phật nói Niết-bàn là đối với hàng Thanh Văn. Trong khi nói Niết-bàn, Ngài chỉ cái khổ sanh tử, muốn dứt trừ khổ sanh tử phải đoạn trừ mê hoặc, mê hoặc được đoạn trừ thì sanh tử không còn, sanh tử không còn thì chứng được Niết-bàn. Như vậy, ở hàng Thanh văn, đức Phật nói tướng sanh tử rõ ràng, tướng Niết-bàn rõ ràng, đoạn cái này thì chứng quả kia, cho nên, đức Phật nói pháp Tứ đế cho Thanh Văn đó là sanh diệt Tứ đế, tức là đứng trên tánh cách, tướng trạng có sanh có diệt, có tướng sanh tử, có tướng Niết-bàn rõ ràng… Niết-bàn đó là Niết-bàn tương đối chưa phải là cứu cánh.
Niết-bàn cứu cánh là gì ? là chư pháp thật tướng. “Chư pháp tùng bản lai thường tự tịch diệt tướng”, các pháp từ xưa nay tướng của nó vẫn thường tự tịch diệt, hay là tướng của các pháp từ xưa nay tự tịch diệt, tự tịch diệt là tự vắng lặng. Sở dĩ nói pháp đó sanh, pháp đó diệt, pháp đó có, pháp đó không… Đó chỉ là vọng kiến hư tưởng của chúng sanh mà thôi. Kỳ thật, pháp đó vốn tịch tịnh, vốn bất sanh bất diệt. Sanh tức bất sanh. Nói cái nhà sanh nhưng có phải thật sự có cái nhà sanh không – thật sự không có cái nhà sanh. Đã không có sanh thì lấy cái gì diệt ? Thành ra, thấy có cái tướng nhà giả dối sanh diệt, nhưng chính tự nó, chính từ bản thể của cái nhà đó vốn không sanh diệt, đó gọi là “tướng tịch diệt”. Tịch diệt tức Niết-bàn. Niết-bàn là bất sanh bất diệt thì tịch diệt có nghĩa là bất sanh bất diệt. Đây mới là chân thật Niết-bàn và đây là lý của Đại thừa, mà lý Đại thừa thì chính ngay trong đương thể các pháp là bất sanh bất diệt, đó là Niết-bàn. Cho nên, trong Tiểu thừa không nói sanh tử tức Niết-bàn, phiền não tức Bồ-đề. Lên Đại thừa thì chính ngay nơi dụng và tướng là thể, chính nơi thể là tướng là dụng bất tương ly.
Trung luận có cắt nghĩa: “Các pháp duyên sanh vô tánh, đó là tịch diệt, mà tịch diệt là vô tướng, vô thử, vô bỉ”. Nói có cái nhà sanh mà kỳ thật không có cái nhà sanh, nhà bổn vô sanh, không có một cái gọi là có cái nhà cụ thể thật có sanh. Như vậy, nhà vốn vô sanh vô diệt là vô tướng thì làm sao có kia có đây, cho nên, gọi là tịch diệt. Và ở đó ngôn ngữ cùng hý luận đều bặt dứt, nói không nói có cũng hý luận, nói thường nói đoạn… cũng hý luận.
Tóm lại, Trung luận có nêu lên 8 phạm trù chấp trước của chúng sanh: Đối với các pháp, một là chấp sanh, hai là chấp diệt, ba là chấp thường, bốn là chấp đoạn, năm là chấp nhất, sáu là chấp khác, bảy là chấp từ ngoài đến, tám là từ trong sanh ra. Vì thế, nhà Trung luận, để phá những hý luận sai lầm đó, nên thêm vào chữ bất: Bất sanh, bất diệt, bất thường, bất đoạn, bất nhứt, bất dị, bất lai, bất xuất, để phủ nhận những điều chúng sanh chấp đó là giả dối, không thật, mà khi đã phủ nhận tám điều đó tức không có sanh diệt, đoạn, thường… thì như vậy, tự các pháp bản lai tịch diệt tướng.
Cùng một chỗ khác trong kinh luận nói, các pháp thực tướng thì ở đó tâm duyên cũng bặt dứt, ngôn ngữ cũng bặt dứt.
Khi nói chữ “bất” này rồi, thì giờ đây không thể dùng tâm mà tưởng đo lường được tánh cách của thật tướng pháp, đó là tâm duyên bặt dứt. Chỉ có trực nhận chớ còn phân biệt tức là dùng ngôn ngữ mà phân biệt, tức đem tâm hành duyên lự thì cả hai đều không được. Dùng tâm hành duyên lự không khác nào đem lửa đom đóm đốt nhà thì không sao đốt được. Trung luận nói “vô sanh cũng vô diệt, tịch diệt như Niết-bàn”. Cho nên, tịch diệt như Niết-bàn, tịch diệt là bất sanh, bất diệt. Niết-bàn là bất sanh bất diệt. Ngộ được lẽ đương sanh “bất sanh” của các pháp tức ngộ được tướng tịch diệt của các pháp thì ngay trong đó đã là Niết-bàn, chớ không phải chờ dứt hết sanh tử mới được Niết-bàn, mà chính ngay sanh tử tự tánh là Niết-bàn. Ngộ được tự tánh sanh tử là Niết-bàn thì đó mới là chân thật Niết-bàn, chưa ngộ được thì là phi chơn diệt.
Kinh văn: “Tất cả các đấng Thế Tôn đều nói nhất thừa đạo, nay đây các hàng đại chúng đều hãy nên trừ nghi hoặc. Lời các đức Phật nói không khác, chỉ có một không hai thừa.”
Giải thích: Đoạn này ý rằng, lời đức Phật nói không hư dối hãy nên tin. Đây cũng là một nghĩa trong 6 nghĩa đã nói ở trước, bàn bạc trong các đoạn kinh. (Hoặc tán thán pháp nhất thừa, lời Phật không hư dối…)
Kinh văn: Quá khứ vô số kiếp, vô lượng các đức Phật diệt độ, trăm ngàn vạn ức số không thể lường hết được, các đức Phật như vậy từng dùng các thứ nhơn duyên, các thứ thí dụ, vô số phương tiện lực để diễn nói các pháp tướng (các pháp thật tướng). Các đấng Thế Tôn ấy đều chỉ nói nhất thừa pháp để giáo hóa vô lượng chúng sanh khiến họ vào Phật đạo.
Lại, các đấng đại thánh chúa, biết tất cả thế gian, các loài nhân thiên quần sanh, về chỗ ưa muốn trong thâm tâm họ, rồi lại dùng dị phương tiện làm trợ tiếp phát hiển nghĩa đệ nhất.
Giải thích: Thế nào là “dị phương tiện”? Thay vì đức Phật nói thẳng pháp nhất thừa thì chúng sanh không hiểu, cho nên, Ngài phải dùng phương tiện này, phương tiện khác để nói ra, nên gọi dị phương tiện. Như Phật phóng hào quang, Phật nói phiền não ô nhiễm của chúng sanh để chúng sanh biết đó là nguồn gốc sanh tử để trừ, Phật nói Niết-bàn Vô dư y v.v… tất cả đó là dị phương tiện. Vì sao gọi là dị phương tiện? Là những điều đó đối với chúng sanh thì thấy là thật, nhưng đối với đức Phật, Ngài tự thấy rằng đó chỉ là phương tiện để dẫn dắt chúng sanh đi tới nhất thừa đạo mà thôi. Cho nên gọi là dị phương tiện, mà có dị phương tiện đó mới giúp phát huy được nhất thừa đạo. Nếu như đức Phật không khai quyền thì chắc chắn không bao giờ chúng sanh nghe được nhất thừa đạo, cho nên, Ngài dùng dị phương tiện để khai quyền. Mặc dù là dị phương tiện nhưng là pháp môn đưa đến nhất thừa đạo.
Kinh văn: Nếu có loại chúng sanh gặp được các đức Phật quá khứ, hoặc nghe pháp bố thí, hoặc trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thuyền định, trí tuệ mà tu tập trí tuệ phước đức đó. Những hạng người như vậy đều đã thành Phật đạo.
Giải thích: Đức Phật nói về lục độ vạn hạnh, đó cũng là dị phương tiện. Vì sao nhất thừa pháp mà lại chia ra lục độ? Đoạn này là nói về chúng sanh gặp Phật ra đời, nghe pháp lục độ mà tu hành đều được thành Phật đạo. Còn sau khi Phật diệt độ thì sao?
Kinh văn: “Sau khi chư Phật diệt độ, hoặc có người tâm hiền lành nhu nhuyến, những hạng chúng sanh như vậy đều đã thành Phật đạo. Các đức Phật diệt độ rồi cúng dường Xá-lợi-phất, dựng lên vạn ức các thứ tháp, hoặc bằng vàng, bạc, pha lê, xa cừ, mã não, mai quỉ hoặc lưu ly rồi trang nghiêm thanh tịnh, trang nghiêm nơi các tháp”.
Hoặc dựng miếu thờ, hoặc bằng đá, hoặc bằng gỗ chiên đàn, bằng trầm thủy, bằng cây tra, gỗ mộc cùng các thứ gỗ khác. Hoặc bằng ngói gạch đất, hoặc ở giữa chỗ đồng trống, đắp đất làm miếu thờ Phật. Cho đến đồng tử giỡn chơi, nhóm cát lại làm tháp Phật. Những người như vậy đó, đều đã thành Phật đạo”.
Giải thích: Cúng dường Xá-lợi, làm tháp, miếu, cho đến đồng tử giỡn chơi, nhóm cát làm tháp Phật cũng đều thành Phật đạo. Đây là nói việc xây tháp miếu cúng dường.
Kinh văn: “Hoặc có người vì Phật mà kiến lập nên hình tượng Phật, hoặc chạm, hoặc khắc, thành các tướng, người đó đều đã thành Phật đạo.
Hoặc dùng bảy báu để kết thành, hoặc bằng thiếc, bạc, đồng trắng, đồng đỏ, bạch lạp, bằng chì, bằng sắt, bằng cây, bằng đất, bằng sơn, bằng vải, để trang sức tượng Phật. Những người như vậy đều đã thành Phật đạo.
Hoặc là vẽ tượng Phật, đủ trăm phước trang nghiêm, hoặc tự mình làm, hoặc khiến người khác làm, đều đã thành Phật đạo. Cho đến đồng tử giỡn chơi, hoặc dùng cỏ cây và bút, dùng móng tay gạch vẽ tượng Phật, những người như vậy lần lượt chứa công đức, đầu đủ tâm đại bi, đều đã thành Phật đạo, chỉ giáo hóa hàng Bồ-tát, độ thoát vô lượng chúng sanh”.
Giải thích: Đoạn này nói về sự tạo tượng Phật mà được thành Phật đạo.
Kinh văn: “Hoặc có người đối với tháp miếu, đối với tượng báu, tượng vẽ, dùng hoa hương, phan lọng đem tâm cung kính để cúng dường.
Hoặc khiến người khác trổi nhạc, đánh trống, thổi còi, thổi ốc, thổi ống tiêu, ống địch, đờn cầm, đờn không hầu, đờn tỳ bà, não bạc. Các âm nhạc như vậy dùng để cúng dường, hoặc với tâm hoan hỶ, ca ngâm khen ngợi công đức của Phật, cho đến một tiếng nhỏ, cũng đều đã thành Phật đạo.
Hoặc người tâm tán loạn, cho đến dùng một cành hoa cúng dường nơi tượng vẽ, cũng lần lượt thấy vô số Phật”.
Giải thích: Đoạn này nói về sự cúng dường tượng Phật mà được thành Phật đạo.
Kinh văn: “Hoặc có người lễ bái, hoặc chỉ chấp hai tay, cho đến đưa một tay, hoặc chỉ hơi cúi đầu để cúng dường tượng Phật thì cũng lần lược thấy vô số Phật, tự thành vô thượng đạo, rộng độ vô số người mà vào Vô dư Niết-bàn, như củi hết lửa tắt.
Giải thích: Đoạn này nói về sự lễ bái, cung kinh tượng Phật mà được thành Phật đạo.
Kinh văn: “Hoặc người tâm tán loạn, đi vào trong tháp miếu, niệm lên một câu Nam Mô Phật, đều đã thành Phật đạo”.
Giải thích: Đoạn này nói về sự niệm Phật mà được thành Phật đạo.
Kinh văn: “Đối với các đức Phật quá khứ, hoặc còn ở đời, hoặc sau khi diệt độ, nếu có người nghe được pháp này của các Ngài, đều đã thành Phật đạo.”
Giải thích: Đoạn này nói về việc chư Phật quá khứ ra đời thuyết pháp, các chúng sanh quá khứ nghe pháp tu hành đều được thành Phật đạo; tức chứng quả vô thượng bồ-đề. Tiếp đoạn sau nói về chư Phật vị lai và hiện tại ra đời thuyết pháp, chúng sanh đời vị lai và hiện tại nghe pháp tu hành cũng được lợi ích như vậy. Những sự việc tu hành, hành đạo đã nói trong kinh để diễn tả lên cái “dị phương tiện” như đã nói. Đó là những phương tiện Phật khai ra để cho đủ hạng chúng sanh nương theo đó tu hành.
Trong kinh Phật dạy: “Hoặc có người chỉ lễ bái… chỉ hơi cúi đầu… hoặc có người tâm tán loạn đi vào trong tháp miếu niệm một câu “Nam Mô Phật” đều đã thành Phật đạo…” sao mà dễ vậy? chúng ta tu đã lâu, niệm Phật cũng nhiều, nghe pháp đọc kinh cũng nhiều mà sao chẳng thành gì cả?
Phải hiểu rằng cái nhơn như vậy thì thành cái quả như vậy. Vẽ tượng Phật là đã có mầm mống Phật, dâng một cành hoa cúng Phật, làm một tháp Phật, niệm một danh hiệu Phật là đã gieo chủng tử Phật vào tâm, mà khi đã gieo chủng tử Phật thì tự nó sẽ tiếp tục tăng lên để thành tựu vô lượng công đức và được thành Phật đạo.
Nên biết đây là nói nhơn thành Phật sẽ đưa đến quả thành Phật chứ không nói khoảng thời gian, mới gạch vẽ tượng Phật chơi dưới đất, đưa một cánh tay…. mà đã thành Phật liền. Dù một việc làm rất nhỏ, nhưng với tâm hướng về Phật tức là gieo chủng tử Phật vào trong tâm, khi chủng Phật đã có, hột giống Phật đã gieo tức nhiên sẽ mọc lên cây Phật. Cũng như, học đánh đàn thì sẽ biết đàn chứ không làm toán được. Đó là điều cần phải hiểu rõ, đừng thấy trong kinh mới nói câu trên đưa cánh tay… câu dưới đã thành Phật đạo, rồi hiểu lầm rằng thời gian trong khoảng chốc lát làm sao thành được.
Như trước đã hiểu về nghĩa quả và báo, đoạn này sẽ hiểu quả và báo ấy xuyên qua lời Phật dạy trên. Đẳng lưu nhân quả và dị thục nhân quả hay gọi cách khác tập nhơn, tập quả và báo nhơn, báo quả.
Về đẳng lưu nhân quả thì nhơn thiện đi đến quả thiện, nhơn ác đi đến quả ác. Ở đây nhơn Phật sẽ đi đến quả Phật chắc chắn. Mặc dù, với thời gian từ nhơn Phật đi tới quả Phật có chìm nổi bao nhiêu trong vòng luân hồi sanh tử đi nữa, nhưng đẳng lưu nhơn quả là hột giống thiện vẫn đi tới quả thiện. Nó chỉ chìm nổi về mặt dị thục nhơn quả mà thôi. Thay đổi trên mặt dị thục nhơn quả, khi làm trời, khi làm người, khi làm súc sanh…. Còn về mặt đẳng lưu nhơn quả thì y như một dòng nước, ta cho vào một chấm màu xanh trên đầu dòng nước, màu xanh đó sẽ trôi xuống cuối dòng nước, màu xanh đó vẫn là màu xanh. Đó là đẳng lưu nhơn quả. Màu xanh ấy từ đầu dòng nước đến cuối dòng nước nó chìm nổi biết bao nhiêu khúc, khi dội lên, khi chìm xuống, khi thành băng tuyết, sóng to sóng nhỏ, thay hình đổi dạng… Đó là dị thục nhơn quả. Những hình thái này, ta ví dụ cho thân sanh tử luân hồi trong cõi trời, cõi người, địa ngục…. Tuy đổi khác trên hình thức thấy có thấp cao lên xuống, nhưng cái giống Phật trên đầu dòng nước vẫn đi tới cuối dòng nước. Cũng như vậy gieo nhơn làm Phật thì nhất định thành Phật, dù ở giữa khoảng từ nhơn tới quả có lâu xa chìm nổi .
Dù trong đó có hữu lậu thiện, nhưng thiện này đã bị thế lực vô minh dẫn dắt, nên cũng đều là vô minh. Vậy quả báo 3 cõi đó là của vô minh chớ không phải của thiện. Hóa Địa Bộ cũng cho rằng: “Thiện chẳng phải là nhơn của quả báo 3 cõi (thiện phi hữu nhơn). Luận Nhiếp Đại thừa cuốn 11 nói: Tất cả việc thiện của chúng sanh đều là phương tiện đại thanh tịnh của Bồ-tát. Vì sao? Vì thanh tịnh đã là một, dù chưa đến địa vị đại thanh tịnh, bởi nghĩa vô trụ mà tất cả đều quy hướng về đại đạo Bồ-tát. Để rõ thêm ý nghĩa này, Ngài Thiên Thai có chia ra 6 bậc kể từ hàng chúng sanh ô trược, thấp thỏi hà tiện nhất cho đến Phật quả, gọi là “lục tức Phật”.
1. Lý tức Phật: Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, như vậy chúng sanh đều là Phật. Cho đến chúng sanh ở địa ngục cũng có Phật tánh, vậy thì đứng trên lý thể, chúng sanh địa ngục cũng tức là Phật, nhưng mà Phật đây là Phật trên lý nên gọi là lý tức Phật. Dù rằng, chúng sanh đó không hiểu gì về Phật cũng là Phật. Bởi vì, dù không biết gì tới Phật nhưng tự bản tánh của chúng sanh vốn có trí giác ngộ thành Phật, đều có Phật tánh.
Có người thắc mắc nói, có ông đó hung dữ như thế mà Phật tánh chỗ nào? ai nói gì ông cũng chửi, gặp ai ông cũng đánh, giết, gặp đâu ăn cắp đó, Phật tánh chỗ nào ? Vẫn có. Bởi vì hung dữ gì thì hung dữ nhưng tựu trung, ông ta vẫn có điều lành, ông ta vẫn ưa điều thiện, ghét điều ác. Chẳng hạn, tuy ăn cắp nhưng ai nói ông ta ăn cắp thì ông không thích, thế tức nhiên chính trong thâm tâm ông ta vốn là ưa điều thiện, ghét điều ác chứ gì. Nếu như thích điều ác, thích việc ăn cắp thì khi nghe nói ông ăn cắp thì ông thích mới phải, chứ sao ông lại ghét, ngược lại, nghe người ta khen ông đó tốt lắm, biết thương người cứu vật… thì ông lại thích. Thế cho biết, từ trong bản tâm ông ta vẫn ưa điều thiện, ghét điều ác. Các tính ưa lành ghét dữ đó là Phật tánh chứ gì. Có ai bảo rằng tôi chỉ ưa điều ác mà rất ghét điều thiện không ? Ai mắng tôi đánh tôi tôi thích, chớ khen tôi tôi giận không? chắc chắn là không, không ai chỉ ưa ác ghét thiện, trái lại ai cũng chỉ ưa thiện mà ghét ác, vậy biết ai cũng có Phật tánh. Và chính nhờ cái đó để có thể làm người, làm trời, làm Phật. Nếu như không có tính ưa điều thiện ghét điều ác đó thì Phật cũng bó tay không làm sao cứu nổi. Vì nếu người chỉ ưa điều ác thôi, thì làm sao đem điều thiện nói cho nghe được. Cho nên, chính điểm ưa thiện ghét ác là Phật tánh, là Phật tri kiến mà Phật tánh đó ai cũng có, cho nên, ai cũng là Phật. Ở trong mọi người, mọi chúng sanh đều có, cho đến con vật cũng có một chút niềm thương, nó thương con nó, thương tự thân nó, mà từ niềm thương đó nếu biết khai thác ra thì nó thương con người khác, thương vật khác, nếu không biết khai thác thì nói chỉ thu gọn trong chỗ thương con nó thôi, nhưng nó cũng có một niềm thương. Nhìn thấy chỗ đó là Phật vậy. Ngài Quy Sơn đến học thiền với Tổ Bá Trượng, một hôm Tổ bảo Ngài đến bươi lò ấy lửa, Ngài đến lò bươi tìm rồi đến thưa rằng không có lửa. Tổ đứng dậy đến bươi sâu thêm một chút nữa rồi cầm lên một đóm lửa hỏi Ngài Quy Sơn rằng, ngươi nói không có lửa vậy cái này là gì? Ngài Quy Sơn liền ngộ. Ngài Quy Sơn ngộ cái gì? Ngộ Phật tánh, ngộ bản lai diện mục. Bản lai diện mục đó, Phật tánh đó có sẳn trong chúng sanh nhưng vì chôn vùi dưới đám tro phiền não, ai biết bươi thì tìm thấy không biết bươi thì đành chịu. Ngài Quy Sơn không biết cách bươi cho nên tìm không ra. Tổ Bá Trượng biết cách bươi cho nên Ngài đưa lên được.
2. Danh tự tức Phật: Cao hơn một bậc, như người có biết đến Phật có nghe pháp, có quy y, giữ giới, có biết làm lành, tránh dữ theo lời Phật dạy đôi chút gọi là danh tự tức Phật. Có mang danh Phật tử chớ không phải chỉ lý suông, như lý tức Phật. Nhưng nếu không có lý tức Phật thì không thể có danh tự Phật. Lý còn Phật hà huống danh tự Phật. Người không biết chi tới Phật cũng là Phật, huống chi người đã biết Phật rồi.
3. Quán hạnh tức Phật: Người có tu, có biết suy tư đạo lý của Phật, biết thực hành lời dạy của Phật gọi là quán hạnh tức Phật. Quán hạnh tức Phật này từ thập tín, thập trụ, thập hạnh đến thập hồi hướng.
4. Tương tợ tức Phật: Chỉ sơ địa kiến đạo. Đây là thấy rõ được Phật tánh của mình chớ không có lầm, tức khai thị ngộ. Ngộ thấy rõ được Phật tánh của mình chớ không mơ hồ, tương tợ nhưng cũng chỉ mới là thấy. Như người tìm cha mình mà mới thấy tấm ảnh chứ chưa thấy cha bằng da thịt thật. Nhưng tấm ảnh đó cũng đầy đủ hình dạng bóng dáng của người cha, đem bóng đó so với cha mình thì giống y, còn đưa qua người khác thì không giống nên gọi là tương tợ.
5. Phần chứng tức Phật: Từ sơ địa trở lên, đã ngộ được Phật tánh rồi dựa theo lý Phật tánh mình ngộ đó mà thực hành theo từng Phần, từng phần phá trừ vô minh, từng phần thấy rõ Phật tánh, in như từng phần thấy được ông cha mình bằng xương bằng thịt chớ không thấy bóng dáng nữa.
6. Cứu cánh tức Phật: Lên đến Diệu giác. Đây là đức Phật trọn vẹn không phải Phật ở trong lý mà đức Phật đây đủ trí đức, đoạn đức, ân đức, đầy đủ pháp thân, bát nhã, giải thoát.
Tóm lại, như vậy thì lý cũng Phật, danh tự cũng Phật, quán hạnh cũng Phật… thì làm sao không thành Phật được. Không thành Phật lý thì thành Phật danh tự… cho nên trong kinh gọi “giai dĩ thành Phật đạo”. Đây là một đạo lý vô cùng thâm thúy cao siêu, đức Phật đưa tất cả chúng sanh lên ngang địa vị Phật. Ngài không nhìn chúng sanh là những kẻ nhỏ mọn thấp hèn. Khi đức phật nói chúng sanh bị đau khổ vì sanh già bệnh chết, không phải Ngài khinh khi mà là nói với một tình thương, thấy chúng sanh khổ, muốn cho chúng sanh lìa khổ mà nói. Khi nói như vậy nhưng Ngài vẫn thấy tất cả chúng sanh đều là Phật. Cho nên giáo thuyết, pháp môn của Phật ôm tất cả chúng sanh vào lòng như người mẹ hiền không bỏ một đứa con nào với tinh thần bao la quảng đại.
Kinh văn: Các đức Thế Tôn vị lai, số ấy nhiều vô lượng. Các đấng Như Lai đó cũng dùng phương tiện thuyết pháp.
Tất cả các đức Như Lai dùng vô số phương tiện, độ thoát các chúng sanh vào nơi trí tuệ vô lậu (tức nhập Phật tri kiến).
Hoặc người có nghe Pháp, không một ai không thành Phật. Bổn thệ nguyện của các đức Phật là, Ta tu hành Phật đạo và khắp muốn tất cả chúng sanh cùng đồng được đạo đó.
Các đức Thế Tôn ở đời vị lai tuy nói trăm ngàn ức vô số các pháp môn kỳ thật vì nhất thừa mà thôi.
Giải thích: Đã dẫn mười phương các đức Phật quá khứ đến đây là nói đến các đức Phật vị lai và ngay đức Phật Thích Ca để luôn nhắc cho biết rằng Phật, Phật đạo đồng, Phật, Phật pháp đồng và Phật Phật nguyện đồng. Cho nên, hễ ai có nghe được pháp của Phật thì thành Phật đạo.
Kinh văn: Các đức Phật lưỡng túc tôn, biết pháp thường vô tánh, giống Phật theo duyên mà hiện khởi, cho nên mới nói pháp nhất thừa là pháp trụ pháp vị, tướng thế gian thường trú, đức Phật ở nơi đạo tràng chứng biết rồi, đấng Đạo sư phương tiện nói ra.
Giải thích: Tám câu kệ: “Chư Phật lưỡng túc tôn, tri pháp thường vô tánh… Đạo sư phương tiện thuyết”. Tôi đã giảng rõ trong bài “Nhất thừa đạo”. Ở đây, xin giảng thêm “Chư Phật lưỡng túc tôn”. Chữ lưỡng túc tôn có hai nghĩa.
1. Đức Phật là bậc cao quý nhất trong loài hai chân. Bởi vì, chúng sanh có loại không chân, có loại nhiều chân, có loại 12 chân, 10 chân, 4 chân, 2 chân. Hai chân là cao nhất, loài người, trời. Đức Phật là bậc cao nhất trong loài hai chân cho nên gọi là lưỡng túc tôn.
2. Đức Phật là bậc đầy đủ phước và huệ, “phước huệ lưỡng toàn phương tác Phật”. Phước đức và trí tuệ đầy đủ mới làm Phật. Đức Phật có đầy đủ hơn cả nên gọi là lưỡng túc tôn.
“Tri pháp thường vô tánh”, Đức Phật biết rõ được các pháp thường vô tánh, tức các pháp thường vô tự tánh, có nghĩa rằng chúng sanh chỉ biết các pháp trên mặt giả tướng. Chúng sanh không biết được nghĩa thật tướng của các pháp là không, là giả, là trung đạo (không đế, giả đế, trung đạo đế). Bởi vì, bất cứ một pháp nào, tự nó cũng đủ ba cạnh khía gọi là ba sự thật hay chân lý ba mặt là không, giả và trung. Biết các pháp thường vô tánh tức là biết các pháp trọn vẹn ở trong ba thật tướng là không, giả, trung của các pháp.
“Phật chủng tùng duyên khởi”, đồng thời cũng biết giống Phật phải theo cơ duyên mà hiện khởi. Nếu không có duyên thì giống Phật không khởi được. Giống Phật, chủng tử Phật, Phật tánh, tất cả chúng sanh đều có ; nhưng nếu không gặp duyên thì chủng tử Phật đó vẫn nằm yên dưới lớp bùn dơ phiền trược. Viên ngọc vẫn là viên ngọc, nhưng viên ngọc đó không có duyên để phát khởi thì vẫn nằm yên trong khối đá. Cho nên, phải có duyên mới phát khởi được. Phát khởi đây là Phát khởi tướng chớ không phát khởi tánh. Ngài Thiên Thai, do đó, cũng chia Phật tánh ra làm ba thứ: Chánh nhơn Phật tánh, duyên nhơn Phật tánh và liễu nhơn Phật tánh.
Bởi vì, từ Phật tánh trong thể tánh, nó thành tựu được, cụ túc được thật tướng thì nó phải có duyên mới thành tựu được và khi duyên đầy đủ thì nó hiển lộ một cách trọn vẹn cho nên gọi là Liễu.
Chánh nhơn Phật tánh tức là lý tức Phật, tất cả chúng sanh đều có chánh nhơn Phật tánh. Nếu như không có Phật tánh ấy, cũng như gạo không có chất cơm, không có chánh nhơn cơm thì dù có nấu mấy cũng không thành cơm được. Nhưng dù có chánh nhơn cơm, mà phải có nấu mới thành cơm, chớ cứ để nguyên hột gạo thì không thành cơm. Cũng vậy, có chánh nhơn Phật tánh lại phải có duyên nhơn Phật tánh, như gặp Phật, nghe được giáo lý nhất thừa thì chánh nhơn Phật tánh mới thành tựu được. Khi duyên nhơn Phật tánh được thành tựu đầy đủ thì chánh nhơn Phật tánh sẽ hiển lộ một cách trọn vẹn. Cũng như, cơm khi đã nấu, đầy đủ nước, đủ củi, đủ lửa, nấu chín trọn vẹn, trở thành hột cơm ngon bùi gọi là liễu nhơn. Phật chủng phải có đủ duyên mới hiển được. Cái duyên làm phát khởi Phật chủng này là gì ? Phải là nhất thừa giáo, cho nên, đức Phật nói lý nhất thừa.
“Thị Pháp trụ, pháp vị”. Pháp trụ pháp vị chỉ cho chơn như, đồng nghĩa với chơn như thật tướng. Thị pháp là chỉ cho chư pháp thường vô tánh, tức thật tướng, cái đó luôn luôn vẫn ở trong pháp thật tướng, vẫn ở trong bản vị của nó, mặc dù hiện hữu mà ở trong bản vị lý tánh. Tất cả mọi hiện tướng chỉ hiện lên trong lý tánh, lý thể của nó. Tướng lửa đỏ chỉ hiện lên trong tánh lửa, chỉ hiện lên trong tánh nóng, chứ lửa không thể hiện lên trong tánh ướt, sóng chỉ hiện lên trong nước, chứ sóng không thể hiện lên đất, nghĩa là, tất cả mọi hiện tướng đều hiện lên trên bản thể của nó, trên tự tánh, lý tánh của nó gọi là pháp trụ pháp vị. Mà đã là pháp trụ pháp vị như vậy thì tất cả những tướng thế gian, những hiện tượng ta thấy đó cũng điều trụ pháp vị, cũng đều hiện lên trên tự thể bản vị của nó. Sóng chỉ hiện lên trên nước, lửa chỉ hiện lên trên tánh nóng, ngọn lửa không thể hiện lên trên đất, nghĩa là lửa với tánh nóng luôn luôn gắn chặt với nhau. Lý tức sự, sự tức lý, sóng tức nước, nước tức sóng. Mà nước là thường, sóng tức nước, như vậy, sóng cũng thường. Cho nên nói thế gian tướng thường trú. Quy tướng về tánh, quy sóng về nước. Sóng là nước không thể ngoài nước tìm có sóng, không thể bỏ sóng đi để tìm nước. Còn mắt thông thường của chúng sanh hay trú vào tướng nên không thấy nước mà chỉ thấy sóng. Thử hỏi, có sóng nào ngoài nước mà có ? Không cần sóng, múc sóng đổ đi để lấy nước có được không ? Chắc chắn là không. Như vậy, nước là thường, sóng ở trong nước sóng là thường. Đó là thế gian tướng thường trú. Đây là theo nghĩa của Hiển giáo. Theo Mật giáo thì tức tướng tức tánh, tướng tánh bất ly, như mặt trăng, mặt trời và ánh sáng. Mặt trăng, mặt trời là tánh là thể, mà ánh sáng là tướng là dụng. Thể, tướng, dụng đó bất tương ly. Ly mặt trăng mặt trời thì không có ánh sáng, ly ánh sáng không có mặt trăng mặt trời. Tánh tướng bất ly. Mà mặt trăng mặt trời là thường thì ánh sáng mặt trăng mặt trời là thường. Vậy thì, những hiện tướng của thế gian cũng vẫn ở trong thực thể tự tánh của thế gian, bất tương ly cho nên gọi thế gian tướng thường trú.
“Ư đạo tràng tri dĩ, đạo sư phương tiện thuyết”. Đức Phật ở nơi đạo tràng, chứng ngộ được lý thật tướng đó, nhưng Ngài không thể nói thẳng lý đó cho chúng sanh nghe mà đức Phật phải phương tiện giảng thuyết.
Kinh văn: Các đức Phật hiện tại trong mười phương được hàng nhơn thiên cúng dường. Số các Ngài nhiều như cát sông Hằng, xuất hiện ở thể gian, đem lại sự an ổn cho chúng sanh, cũng nói pháp như vậy.
Biết được tịch diệt đệ nhất ( tịch diệt đệ nhất tức là nhất thừa) mà dùng sức phương tiện, tuy nói chủng chủng đạo, (khi nói Thanh văn, khi nói Duyên giác…) Nhưng kỳ thật cũng cốt vì Phật thừa.
Đức Phật biết các hạnh nghiệp của chúng sanh, biết xu hương trong thâm tâm chúng sanh, biết tập nghiệp, dục, tánh, sức tinh tấn, lợi căn, độn căn quá khứ của chúng sanh mà dùng các thứ nhân duyên thí dụ, và ngôn từ, tùy theo chỗ ưa thích của chúng sanh mà phương tiện nói ra.
Nay Ta (đức Thích Ca) cũng như vậy. Vì an ổn chúng sanh mà dùng các pháp môn để khai thị Phật đạo.
Ta đem sức trí tuệ, biết tánh, dục của chúng sanh, rồi dùng sức phương tiện nói các pháp, khiến đều được hoan hỶ.
Xá-lợi-phất nên biết, Ta dùng Phật nhãn quán sát, thấy lục đạo chúng sanh bần cùng không phước huệ (vô phước mới bần cùng), bị sa vào trong đường hiểm sanh tử (vô huệ mới sanh vào hiểm đạo) tiếp tục chịu khổ không dứt (nói về mạng trược), đắm sâu nơi ngũ dục, như con trâu đen ưa cái đuôi của nó (có loại trâu đuôi dài, xứ mình không có, nó ưa thích cái đuôi của nó thành cứ quay đầu nhìn theo cái đuôi mà đi, phải bị sa hầm. Do lòng tham ái ngăn che, mù mờ không thấy biết, không cầu đến Đại Thế Phật (tức đức Phật có đại oai lực) và cũng không chịu cầu pháp dứt khổ (không chịu cầu pháp đây nói về phiền não trược), thâm nhập vào tà kiến, muốn lấy khổ để dứt khổ (theo ngoại đạo là dĩ khổ diệt khổ. Đây là kiến trược). Ta vì các chúng sanh ấy mà khởi lên tâm đại bi. Khi Ta ngồi chốn đạo tràng, hoặc xem cây, hoặc đi kinh hành, ở trong ba thất đầu, tư duy việc như vầy ; Trí tuệ Ta chứng được, vi diệu tối đệ nhất. Còn các chúng sanh độn căn này bị đắm ưa dục lạc và bị các sự ngu si che lấp, cái loại như vậy làm sao mà độ được ? Lúc bấy giờ các Phạm Thiên vương các Đế Thích thiên, Hộ thế tứ thiên vương, Đại tự tại thiên và các chư thiên khác, quyến thuộc trăm ngàn vạn, cung kính chắp tay đảnh lễ xin Ta chuyển pháp luân. Ta liền tự suy nghĩ, nếu chỉ tán thán Phật thừa, thì chúng sanh chìm đắm trong sự khổ không làm sao tin nổi pháp đó. Mà không tin thì sẽ phá pháp; mang tội bị đọa vào ba đường ác, vậy Ta thà không thuyết pháp, mau vào Niết-bàn.
Ta liền nghĩ tới các đức Phật quá khứ đã thi hành sức phương tiện. Ta nay đã chứng được đạo rồi cũng nên (dùng sức phương tiện như các đức Phật quá khứ) mà nói pháp tam thừa. Khi suy nghĩ như vậy, mười phương các đức Phật đều hiện đến, với phạm âm vi diệu an ủi khuyến dụ Ta rằng: Lành thay Thích Ca Văn, là bặc đạo sự bậc nhất, chứng được vô thượng pháp, hãy tùy theo thông lệ của tất cả chư Phật mà dùng sức phương tiện (độ sanh). Như các đức Phật, Ta cũng đều được tối diệu đệ nhất pháp, vì các loài chúng sanh phân biệt nói ba thừa.
Những hàng tiểu trí ưa pháp nhỏ, không tự tin mình làm Phật được, cho nên, Ta dùng phương tiện phân biệt nói các quả vị; tuy có nói tam thừa nhưng chỉ để giáo hóa Bồ-tát.
Xá-lợi-phất nên biết, Ta nghe âm thanh vi diệu thâm sâu thanh tịnh của các bậc Thánh Sư Tử, Ta liền xưng Nam Mô Chư Phật, Ta lại nghĩ như vầy: Ta ra đời vào thời năm trược ác, hãy giống như các đức Phật khác nói, Ta cũng tùy hành theo như các Ngài. Tư duy việc đó rồi, liền đi đến rừng Ba-la-nại. (Chỗ 5 vị Tỳ-kheo, nhưng mà đến đó thì đến chứ). Các pháp tướng tịch diệt không thể dùng lời nói để tuyên ra được nên mới dùng sức phương tiện vì 5 Tỳ-kheo nói pháp. Ấy gọi Chuyển pháp luân, mới có âm thanh Niết-bàn và A-la-hán. Pháp và Tăng từ đây mới có danh xưng sai biệt.
Từ kiếp lâu xa đến nay tán thán pháp Niết-bàn, dứt hết khổ sanh tử, Ta thường nói điều đó.
Xá-lợi-phất nên biết, Ta thấy các hàng Phật tử người có chí cầu Phật đạo, vô lượng trăm ngàn ức, đều đem tâm cung kính đến chỗ đức Phật, từng theo các đức Phật nghe Ngài dùng phương tiện nói pháp, Ta liền nghĩ rằng: Đức Như Lai sở dĩ ra đời là vì nói trí tuệ Phật cho chúng sanh nghe thì hôm nay là đúng lúc.
Xá-lợi-phất nên biết, hàng độn căn tiểu trí, cứ trước tướng kiêu mạn không thể tin được pháp này, nhưng nay đây, Ta rất vui mừng không còn sợ hãi, ở trong hàng Bồ-tát, đúng lúc thẳng thắn bỏ pháp phương tiện mà chỉ nói đạo nhất thừa !”
Giải thích: Trước kia, đức Phật nói pháp còn sợ chúng sanh không hiểu rồi sanh phỉ báng sẽ bị đọa lạc. Bây giờ Ngài không còn lo sợ điều đó nữa nên gọi là vô úy. Thứ nữa là, trước kia Ngài chưa nói được điều Ngài muốn nói mà phải nói nương theo ý người khác, đến lúc này thì nói được điều muốn nói cho nên mừng. Trước Ngài nói phương tiện, bây giờ bỏ không nói phương tiện nữa. Nói “bỏ” không phải vì pháp phương tiện vô dụng đâu. Bởi đó là bước đầu để đưa đến nhất thừa. Trước kia chưa nói ngay đạo nhất thừa, nay thì nói ngay đạo nhất thừa.
Kinh văn: Hàng Bồ-tát nghe pháp này thì lưới nghi đều dứt, 1200 vị La-hán cũng đều biết mình sẽ làm Phật. Như nghi thức thuyết pháp của các đức Phật ba đời, Ta hôm nay cũng giống như thế, nói pháp vô phân biệt.
Các đức Phật ra đời rất lâu xa khó gặp được. Chính ngay khi đức Phật ra đời nói pháp này còn khó hơn. Vô lượng vô số kiếp nghe được pháp này lại khó hơn nữa, và người đủ căn cơ nghe được pháp này lại càng khó hơn nữa.
Giống như hoa Ưu-đàm được tất cả đều ưa mến, đó là thứ hoa hi hữu trong hàng nhơn thiên, lâu lâu mới xuất hiện một lần, người nghe pháp hoan hỶ tán thán, cho đến phát lên một câu nói, người đó đã là cúng dường tam thế Phật. Người đó rất hy hữu, quá hơn hoa Ưu-đàm, các ông chớ có nghi. Ta là vua các pháp (đức Phật đối với các pháp Ngài tự tại nên gọi Pháp Vương) khắp bảo các đại chúng, chỉ dùng nhất thừa đạo giáo hóa các Bồ-tát, không có vì hàng đệ tử Thanh Văn. Các ông Xá-lợi-phất, Thanh Văn và Bồ-tát hãy biết pháp vi diệu này là pháp bí yếu của chư Phật, ở trong đời ác 5 trược, chỉ ưa đắm các dục, những chúng sanh như thế trọn không thể cầu Phật đạo. Các người ác trong đời sau nghe Phật nói nhất thừa, mê hoặc không tin thọ được, người đó phá pháp bị đọa vào ác đạo. Còn người có tâm tàm quí, có đức thanh tịnh, có chí cầu Phật đạo, thì hãy vì những người như vậy rộng tán dương đạo lý nhất thừa.
Xá-lợi-phất nên biết, pháp của chư Phật như vậy do vạn ức phương tiện tùy nghi mà nói ra, những người không tập học, không thể hiểu rõ được pháp đó. Các ông nay đã biết: Đức Phật là thầy của thế gian, việc tùy nghi phương tiện nói pháp, không còn các nghi hoặc, tâm sanh đại hoan hỶ, tự biết mình sẽ làm Phật.
(Hết phẩm Phương Tiện)
(Có người nói: Sáu Hoa sen trước chỉ cho sáu đức Phật quá khứ. Hoa sen thứ bảy là đức Phật Thích Ca vậy.
Thám cang ảnh thảo là phương thức bắt cá. Thám cang là bó lông chim đề hô (tức chim bồ hồng ở nước) vào đầu cây sào rồi cặm xuống nước, dò sâu cạn cho cá tụ lại rồi dùng lưới bắt. Ảnh thảo là trải cỏ trên mặt nước cho cá tụ lại núp bóng rồi dùng lưới bắt. Thiện tri thức dùng phương thức dò căn cơ để khai hóa trò cũng giống như thế.
Thiên Thai Trí Giả (538 – 97) là Tổ thứ 3 của tông Thiên Thai Trung Hoa.
2 Chỉ có Phật cùng với Phật mới hiểu thấu chân tướng của tất cả các Pháp, tức là mọi hiện hữu có hình thái như thế, bản tánh như thế, năng lực như thế, biểu hiện như thế, năng lực như thế, hành tác như thế, nguyên nhân như thế, duyên cớ như thế, kết quả như thế, báo đáp như thế và toàn bộ rốt ráo như thế.
Cưu-ma-la-thập sinh năm 344 ở Kucha, một nước ở Trung Á, giữa Ấn Độ và Trung Quốc. Năm 7 tuổi La Thập đã vào ở tu viện và sau đó Ngài được gởi đi Ấn Độ để học Phật giáo Đại Thừa.
Khi về lại quê nhà, Thầy Ngài là Suryasoma đã dạy Ngài Kinh Saddharma-pundarika-sùtra (Diệu Pháp Liên Hoa Kinh). Năm 401 Ngài đến Tràng An kinh đô của Hậu Tân theo lời mời của Vua. Lúc ấy Ngài đã 62 tuổi và được vua phong quốc sư, và mất năm 72 tuổi (431).
Ngài là người tinh thông Phạn và Hoa ngữ. Kinh Pháp Hoa và các Kinh do Ngài phiên dịch (có đến cả ngàn người phụ việc) do đó có thể kết luận rằng bản dịch Kinh Pháp Hoa từ Phạn sang Hoa ngữ của Ngài hầu như không có sai lạc. Kinh Pháp Hoa sau đó đóng một vai trò rất quan trọng trong Phật giáo Trung Quốc. Trí Giả (538 – 97) sau đó đã nghiên cứu rốt ráo tất cả các Kinh điển của Phật giáo Đại thừa và Tiểu thừa và viết ra sớ luận tuyệt diệu về Pháp Hoa như Pháp Hoa Huyền Nghĩa (Diệu Pháp Diên Hoa Kinh Huyền Nghĩa), Pháp Hoa Văn Cú (Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú) với ngài Quán Đảnh và Ma-ha Chỉ Quán. Như thế, Kinh Pháp Hoa đã phổ biến sâu rộng khắp Trung Quốc, dù nhập vào Nhật xuyên qua Cao Ly. Việt Nam chúng ta Kinh Pháp Hoa cũng được truyền rất sớm.
Trích trong Bài ca tâm Phật của Tuệ Trung Thượng sĩ:
“…Đi cũng thiền, ngồi cũng thiền
Trong lò lửa rực, một hoa sen…”
Theo cách phán giải của ngài Thiên Thai trí giả.
Nhằm nói đến Thật giáo, mà Thật giáo cao nhất là Nhất thừa đạo, nương lấy Nhất thừa đạo làm diệu nhân để chứng đắc diệu quả
Nhằm nói đến thật thân tức là Pháp thân vô trụ của Phật, mà Pháp thân vô trụ cùng tột của diệu quả
Hay: Ý nghĩa bài kệ trong kinh Pháp Hoa.
Hay: Ba đức cần có của người thuyết giảng Pháp Hoa.
Liên quan vấn đề này, kinh Lăng Già nói có năm thứ ngôn thuyết:
-Tướng ngôn thuyết: Ngôn thuyết do chấp trước các tướng như sắc, hương… mà sanh ra.
-Mộng ngôn thuyết: Nương cảnh chiêm bao, phân biệt thọ dụng mà sanh ra.
-Chấp trước ngôn thuyết: Do nghĩ nhớ những việc đã nghe đã làm mà sanh ra.
-Vô thủy ngôn thuyết: Do sự huân tập của chủng tử phiền não hỶ chấp trước từ vô thủy mà sanh ra.
-Như nghĩa ngôn thuyết: Thí như kinh Kim Cang Tam Muội nói: “Xá-lợi-phất thưa, tất cả pháp đều là lời nói, văn tự. Tướng là lời nói văn tự không phải là nghĩa, và nghĩa như thật thì không thể nói được. Vậy thì sao đức Như Lai hiện nay lại thuyết pháp? Phật dạy: Ta thuyết pháp là do chúng sanh các ông còn ở trong vòng phát sanh lời nói. Do muốn nói cái không thể nói nên Ta thuyết pháp. Cái chỗ Ta nói là nói cái nghĩa, chứ không phải nói văn tự, còn chỗ chúng sanh nói là nói văn tự, chứ không phải nói nghĩa. Lời nói phi nghĩa đều là rỗng không, lời nói rỗng không không nói được nghĩa và đã không nói được nghĩa thì đều là vọng ngữ. Còn lời nói như nghĩa thì thật không là bất không, không thật là bất thật, rời cả hai tướng, cho đến tướng trung gian cũng không thành, chỉ như lý như như mà nói.
Liên quan vấn đề này, kinh Bản Nghiệp Anh Lạc và phẩm Bản Nghiệp Phật mẫu nói: “Tất cả điều thiện đều đưa đến Phật quả, còn vô minh chỉ đưa đến quả hữu vi sanh diệt. Như thế quả lành do nhân lành, quả ác do nhân ác, nên gọi là “thiện không chịu quả báo sanh diệt, chỉ chịu thành Phật quả thôi”. Tất cả điều thiện của phàm phu hoặc Thánh nhân đều gọi là vô lậu. Pháp Sư Hải Đông nó: “Tất cả thiện thọ Phật quả là sanh đắc thiện và tác đắc thiện, chúng đều là chánh nhơn đưa đến Phật quả. Tất cả thiện đều gọi là vô lậu, vì nó thuận với tánh tịch tịnh, nghịch với các lậu, Sanh đắc thiện tùy thuận bản giác, từ bản giác thanh tịnh mà sanh ra, rồi chuyển thành tác đắc thiện nên cũng thuận với bàn giác. Pháp sư Trúc Đạo Sinh đời Lu Tống viết luận: “Thiện bất thọ báo”. Pháp sư Phổ Tịch (Nhật Bản) nói: “Tôn chỉ thiện bất thọ báo rất thâm huyền. Tất cả thiện khi chưa thành quả thì nó xu hướng Phật đạo, thành thứ thiện thuận với phần giải thoát. Khi thành Phật quả mặc dù báo nhơn báo quả như đã tiêu tạ, nhưng tập nhơn tập quả vẫn tiếp tục tăng trưởng quy về đại đạo. Thế của thiện vốn diệu, vì phàm tất cả thiện pháp đều từ chơn như không tánh phát khởi, tự nhiên nó xu hướng về Phật quả, chớ không làm cái nhơn cho quả hữu vi sanh diệt. Trái lại, quả báo trong ba cõi đều từ vô minh bất thiện phát khởi. Dù trong đó có hữu lậu thiện, nhưng thiện này đã bị thế lực vô minh dẫn dắt, nên cũng đều là vô minh. Vậy, quả báo ba cõi đó là của vô minh chớ không phải của thiện. Hóa Địa Bộ cũng cho rằng: “Thiện chẳng phải là nhơn của quả báo 3 cõi (thiện phi hữu nhơn). Luận Nhiếp Đại thừa cuốn 11 nói: Tất cả việc thiện của chúng sanh đều là phương tiện đại thanh tịnh của Bồ-tát. Vì sao? Vì thanh tịnh đã là một, dù chưa đến địa vị đại thanh tịnh, bởi nghĩa vô trụ mà tất cả đều quy hướng về đại đạo Bồ-tát.