Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết

Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết

Trương Văn Chiến 35

ăn-thù hỏi Duy-ma-cật:

«Bồ tát làm sao để thông đạt Phật đạo?»[2]

Duy-ma-cật nói:

«Bồ tát đi trên phi đạo[3] là thông đạt Phật đạo.»

Văn-thù-sư-lợi hỏi:

«Bồ tát đi trên phi đạo là thế nào?»

Duy-ma-cật đáp:

«Bồ tát hành năm vô gián[4] mà không thù không hại.[5] Đi đến địa ngục mà không có cáu bẩn nào của tội lỗi.[6] Đi đến súc sinh mà không có các lỗi lầm của vô minh, kiêu, mạn.[7] Đi đến ngạ quỷ[8] mà vẫn đầy đủ công đức. đi lên các cõi Sắc và vô Sắc giới[9] mà không cho là hơn hết.[10] Thị hiện hành tham dục mà không nhiễm trước. Thị hiện hành sân hận thù nghịch mà không có thù hận ác ý đối với các chúng sinh. Thị hiện hành ngu si mà dùng trí tuệ để chế ngự tâm mình. Thị hiện hành xan tham bủn xỉn mà không tiếc cái gì sở hữu trong ngoài, thân mạng. Thị hiện hành phá giới mà an trụ trong tịnh giới, cho đến dù đối với tội nhỏ vẫn ôm lòng kinh sợ. Thị hiện hành sân nhuế mà thường hành từ, nhẫn nhịn. Thị hiện hành biếng nhác mà lại siêng năng tu tập công đức. Thị hiện hành loạn ý mà thường chánh niệm, tâm định. Thị hiện hành ngu si[11] mà thấu triệt tuệ thế gian và xuất thế gian. Thị hiện hành siểm ngụy mà khéo phương tiện tùy theo nghĩa kinh.[12] Thị hiện hành kiêu mạn[13] mà đối với chúng sinh thì như một chiếc cầu.[14] Thị hiện hành các phiền não mà tâm thường thanh tịnh. Thị hiện nhập bọn với Ma nhưng thuận với trí tuệ của Phật chứ không theo giáo thuyết khác.[15] Thị hiện nhập vào hàng Thanh văn, nhưng thường nói pháp chưa từng nghe cho chúng sinh. Thị hiện trong hàng Bích-chi-phật mà thành tựu đại bi giáo hoá chúng sinh. Thị hiện hoà nhập trong giới cùng khổ nhưng có bàn tay châu báu với công đức vô tận.[16] Thị hiện làm người khuyết tật mà thân tự trang nghiêm các tướng tốt đẹp đẽ. Thị hiện ở giữa giai cấp hạ tiện mà sinh vào chủng tính Phật, đủ các công đức. Thị hiện ở giữa người gầy xấu ốm yếu mà được thân Na-la-diên,[17] hết thảy chúng sinh đều ưa nhìn ngắm. Thị hiện người già yếu mà không ốm đau, vượt qua nỗi sợ hãi sự chết. Thị hiện có mọi tiện nghi của cuộc sống[18] vẫn luôn thấy rõ tính vô thường, không tham cầu gì. Thị hiện có thê thiếp và nàng hầu mà vẫn thường xa rời bùn sình ngũ dục. Thị hiện người đần độn, nói lắp, nhưng lại thành tựu biện tài bằng lực tổng trì không hề quên lãng.[19] Thị hiện đi vào bến tà[20] nhưng vẫn đưa chúng sinh đi qua bằng bến chánh. Hiện vào khắp các đạo mà đoạn trừ nhân duyên của chúng. Hiện ở niết bàn vẫn không dứt lìa sinh tử.[21]

«Văn-thù-sư-lợi, Bồ tát đi trên phi đạo như vậy là Bồ tát thông đạt Phật đạo.»

Đoạn Duy-ma-cật lại hỏi Văn-thù-sư-lợi:

«Thế nào là chủng tánh của Như Lai?»[22]

Văn-thù-sư-lợi đáp:
«Hữu thân[23] là chủng tánh; vô minh và hữu ái là chủng tánh; tham, sân, si là chủng tánh; bốn điên đảo là chủng tánh; năm chướng cái[24] là chủng tánh; sáu nhập[25] là chủng tánh; bảy thức xứ[26] là chủng tánh; tám tà pháp[27] là chủng tánh; chín não xứ[28] là chủng tánh; mười bất thiện nghiệp đạo là chủng tánh. Nói tóm, sáu mươi hai kiến và hết thảy phiền não đều là chủng tánh Phật.»

Duy-ma-cật hỏi Văn-thù-sư-lợi:

«Sao lại như vậy?»

Văn-thù-sư-lợi đáp:

«Vì người thấy pháp vô vi[29] rồi vào chánh vị[30] thì không còn phát tâm cầu vô thượng chánh đẳng chánh giác. Cũng như trên gò đất cao thì làm sao nảy nở hoa sen; chỉ mọc nơi chỗ đầm lầy mới mọc hoa này. Cũng vậy, người thấy pháp vô vi rồi vào chánh vị thì cuối cùng không còn sinh nơi Phật Pháp.[31] Chỉ có chúng sinh ở chốn bùn lầy phiền não mới có thể phát khởi Phật pháp. Cũng như hạt giống đem bỏ giữa hư không không bao giờ có thể nảy mầm; đem vùi trong đất phân mới có thể tươi tốt. Do đó, người vào Chánh vị vô vi không phát sinh Pháp Phật; trong khi người khởi lên ngã kiến[32] lớn như núi Tu-di còn có thể phát tâm cầu giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác mà phát huy Pháp Phật.

«Cho nên, nên biết hết thảy phiền não đều là chủng tánh của Như Lai. Cũng như người không lặn xuống biển sâu thì không tìm được ngọc trai vô giá; cũng vậy người không lặn xuống biển phiền não sẽ không tìm được ngọc Nhất thiết trí.»

Lúc ấy Ma-ha Ca-diếp tán thán:

«Lành thay, Văn-thù-sư-lợi, lành thay, lời ông nói thật tuyệt. Đúng như những điều được nói, những đám trần lao đều là chủng tánh Như Lai. Chúng tôi nay thật chẳng thể phát tâm cầu vô thượng chánh đẳng chánh giác.[33] Cho đến người phạm năm tội vô gián cũng còn có thể phát ý sanh nơi Phật pháp nhưng chúng tôi thì vĩnh viễn không thể phát. Cũng như người mà căn đã hư hoại thì chẳng còn hưởng lợi được gì nơi ngũ dục. Cũng vậy, hàng Thanh-văn đã đoạn các kết sử chẳng còn thu hoạch gì thêm nơi Phật pháp, vĩnh viễn không có chí nguyện. Cho nên, Văn-thù-sư-lợi, phàm phu còn quay trở lại với Phật pháp chứ Thanh-văn thì không. Vì sao? Vì phàm phu khi nghe Pháp thì có thể phát khởi đạo tâm[34] vô thượng, để cho Tam bảo không gián đoạn. Giả sử Thanh-văn trọn đời nghe Pháp và thấy lực, vô úy của Phật, v.v… nhưng vĩnh viễn không thể phát đạo tâm vô thượng.»

Lúc ấy,trong hội chúng có Bồ tát tên Phổ-hiện Sắc-thân hỏi Duy-ma-cật:

«Cư sĩ, ai là cha mẹ, vợ con, thân bằng quyến thuộc của ngài? Gia nhân tôi tớ của ngài, voi ngựa xe cộ của ngài ở đâu?»

Bấy giờ Duy-ma-cật trả lời bằng bài kệ:

Trí độ,[35] mẹ Bồ tát;
Phương tiện,[36] cha Bồ tát.
Hết thảy bậc Đạo sư
Đều từ đấy mà sinh.
Lấy Pháp hỷ làm vợ;
Tâm từ bi, con gái;
Tâm thành thật,[37] là trai.
Nhà, rốt ráo không-tịch;
Đệ tử là trần lao,[38] Tùy nghi mà chuyển hoá.
Đạo phẩm,[39] là bạn hữu
Nhờ đây thành chánh giác.
Các độ, bạn đồng hành;
Bốn nhiếp là kỹ nữ;
Ca vịnh, tụng pháp ngôn,
Lấy đó làm âm nhạc.
Tổng trì là vườn hoa,
Vô lậu là rừng cây.
Giác ý,[40] hoa tươi đẹp
Quả, trí tuệ, giải thoát.
Tám giải[41] là hồ tắm;
Nước định lắng trong, đầy.
Rải bằng bảy hoa tịnh,[42] Tắm gội người vô nhiễm.
Voi, ngựa: năm thần thông,
Kéo cổ xe Đại thừa;
Lấy nhất tâm[43] chế ngự
Dong ruổi tám chánh đạo.
Tướng tốt để nghiêm thân
Vẻ đẹp chuốt tư thái.
Tàm quý là trang phục
Thâm tâm[44] là tràng hoa.
Giàu có bảy tài bảo[45] Dạy dỗ cho thêm ích.
Theo giáo thuyết tu hành
Hồi hướng làm đại lợi.[46] Bốn thiền là giường chõng
Phát sinh từ tịnh mạng.[47] Học nhiều, tăng trí tuệ,
Làm âm thanh thức tỉnh.[48] Cam lộ là thức ăn;[49] Vị giải thoát là tương;[50] Tịnh tâm là tắm gội;
Giới phẩm là hương thoa.
Diệt trừ giặc phiền não,
Dũng mãnh không ai hơn.
Hàng phục bốn thứ ma
Cờ thắng dựng Đạo tràng.[51] Dù biết không khởi, diệt
Vẫn thị hiện tái sanh
Trên khắp các quốc độ
Như mặt trời rọi khắp.
Cúng dường vô lượng Phật
Khắp mười phương thế giới
Mà không hề phân biệt
Có Phật và có ta.
Dù biết các cõi Phật
Cùng chúng sinh là không
Vẫn thường tu tịnh độ,
Để giáo hóa chúng sinh.
Chúng sinh vô số loại,
Sắc, thanh, và oai nghi;
Bồ tát lực, vô uý,[52] Khoảnh khắc thảy hiển hiện.
Biết rõ việc chúng ma
Vẫn thị hiện hành theo,
Rồi bằng phương tiện trí,
Tuỳ ý mà thể hiện.[53] Hoặc hiện già, bịnh, chết,
Để thành tựu chúng sinh;
Biểt rõ là huyễn hoá,
Thông suốt không chướng ngại.
Hoặc hiện lửa tận thế
Đốt cháy rực cõi đất;
Khiến người tưởng thường hằng
Hiểu rõ pháp vô thường.
Vô số ức chúng sinh
Cùng đến thỉnh Bồ tát.
Một lúc chúng đến nhà,
Chỉ cho hướng Phật đạo.
Kinh sách và chú thuật,
Kỹ, mỹ nghệ đều tinh;
Lấy đó mà thị hiện,
Làm lợi ích quần sinh.
Xuất gia khắp các đạo,
Đạo pháp của thế gian;
Nhân đó trừ mê hoặc,
Chứ không đọa tà kiến.
Làm Vua mặt Trời, Trăng,
Phạm thiên, Thế giới chủ,
Có khi là đất, nước,[54] Hoặc gió, hoặc là lửa.
Hoặc tai kiếp[55] tật dịch,
Thị hiện cây cỏ thuốc;
Để cho người được uống,
Trị dứt các dịch bịnh.
Hoặc tai kiếp đói kém;
Hiện thân làm thức ăn;
Trước cứu người đói khát
Sau dạy Pháp giải thoát.
Hoặc tai kiếp đao binh;
Khơi dậy tâm từ bi
Gíáo hoá chúng sinh kia
Để sống không tranh chấp.
Hoăc khi gặp đại chiến,
Khiến hai bên cùng mạnh
Rồi dùng lực oai nghiêm
Làm họ giảng hòa nhau.
Trong khắp mọi quốc độ,
Chỗ nào còn địa ngục,
Liền thị hiện chỗ ấy
Giúp người giảm bớt khổ.
Trong khắp mọi quốc độ,
Súc sinh ăn thịt nhau;
Người thị hiện chỗ đó
Làm lợi ích cho chúng.[56] Thị hiện thọ ngũ dục
Mà vẫn hiện hành thiền,
Làm rối loạn các ma
Không cho chúng tự tiện.
Hy hữu như trong lửa
Nở một đóa sen hồng;
Hành thiền trong ngũ dục
Cũng hy hữu như vậy.
Hoặc hiện làm dâm nữ
Dẫn dụ người háo sắc;
Trước lấy dục câu móc,
Sau hướng về Phật trí.
Hoặc là chủ thành ấp;
Hoặc làm chủ thương buôn;
Làm quốc sư, đại thần;
Cũng vì lợi chúng sinh.
Có người nghèo, đói rách,
Hiện làm kho vô tận;
Rồi nhân đó khuyên dẫn,
Khiến phát Bồ-đề tâm.
Với kẻ tâm kiêu mạn;
Hiện làm đại lực sỹ
Khuất phục các kiêu mạn,
Đưa về vô thượng đạo.[57] Hoặc đám người kinh sợ,
Liền đến mà an ủi.
Trước làm cho hết sợ;
Sau khiến phát đạo tâm.
Hoặc hiện lìa dâm dục,[58] Làm tiên nhân năm thông[59] Để dắt dẫn quần sanh,
Trụ ở giới, nhẫn, từ.
Với người cần phục dịch,
Hiện thân làm tôi tớ
Khiến cho chủ hài lòng
Mà phát khởi Đạo tâm.
Tuỳ theo người nhu cầu,
Mà đưa vào Phật đạo;
Liền dụng lực phương tiện
Cấp cho đủ thứ cần.
Như thế, đạo vô lượng,
Và sở hành không bờ;
Trí tuệ không biên tế,
Người độ vô số chúng.
Dù hết thảy chư Phật
Trải qua vô lượng kiếp
Tán thán công đức này
Cũng không thể nói hết.
Pháp như vậy, ai nghe
Mà không phát bồ-đề?
Chỉ trừ kẻ vô dụng,
Hoặc si ám, vô tri.

[1] DMC: Phật đạo phẩm 佛道品 . VCX: Bồ đề phần phẩm  菩提分品. Skt. Bodhi-pakṣa-varga. Chi Khiêm: Phẩm Như lai chủng tánh 如來種品第八.

[2] Thông đạt Phật đạo. VCX, chư Phật pháp đáo cứu cánh thú; «Làm thế nào để đạt đến chỗ quy hướng cứu cánh trong Phật pháp.» Skt. buddha-dharmeṣu niṣṭhita-gatiḥ.

[3] Phi đạo  非道; La-thập nói (Đại 38, tr.390b27): «Có ba thứ phi đạo. 1. Quả báo dẫn đến cõi xấu ác. 2. Hành nghiệp dẫn đến cõi xấu ác. 3. Nghiệp thiện thế tục, và quả báo của nghiệp thiện. VCX: phi thú  非趣; Khuy Cơ (T38n1782_p1086c10): «Chỗ mà phàm hướng đến để quay về gọi là thú  趣. Chỗ quay về của Thánh nhân không phải là chỗ quay về của phàm phu. Đi trên lối đi không thích hợp ấy gọi là hành phi thú  行非趣.»

[4] VCX: ngũ vô gián thú  五無間趣 (Skt. pañca ānantaryārgatayaḥ= pañca ānantaryāṇi karmāni), chỉ năm nghiệp vô gián: giết cha (pitṛ-ghātaḥ), giết mẹ (mātṛ-ghātaḥ), hại A-la-hán (arhad-vadaḥ), phá hoà hiệp tăng (saṃgha-bhedaḥ), gây thương tích nơi Phật (tathāgatasyāntike duṣṭa-citta-rudhirotpādanaṃ).

[5] Não nhuế  惱恚; VCX: nhuế não phẫn hại độc tâm 恚惱忿害毒心, tâm ác độc, thù hận, quấy nhiễu, phẫn nộ, ác hại.

[6] Tội cấu  罪垢. VCX: phiền não trần cấu  煩惱塵垢. Skt. kleśa-mala.

[7] Có thể DMC nhảy sót; VCX: «đi trên lối A-tố-lạc (Skt. āsura) mà không còn ngạo mạn, kiêu dật.»

[8] VCX: «Đi trên lối của Diệm-ma vương (Skt. Yama-rāja) mà chứa nhóm rộng rãi vô lượng tư lương của phước và huệ.»

[9] Hành sắc vô sắc giới đạo 行色無色界道 . VCX: hành ư vô sắc định thú 無色定趣.(ārūpya-samāpatti-gati).

[10] VCX: «… mà không xu hướng cảm thọ lạc đối với định ấy.»

[11] VCX: ác tuệ hành thú 惡慧行趣. Skt. pāpa-mati-gati ; Cf. Câu-xá 10 (Đại 29, tr. 51c21): tuệ nhiễm ô được gọi là ác tuệ (Skt. kuprajñā/ kutsitā prajñā).

[12] Kinh nghĩa 經義; La-thập dùng từ Hán thư, chỉ đạo lý ghi trong kinh điển. VCX: thể hiện thành công phương tiện thiện xảo.

[13] VCX: mật ngữ phương tiện kiêu mạn 密語方便憍慢: kiêu mạn như là phương tiện của mật ngữ (Skt. sandhyopāyamāna?). VCS (T38n1782_p1087b11) giải thích: «Người đời chúc nhau ‘Không bệnh, sống lâu’; Bồ tát cũng nói theo… như là phương tiện độ người.»

[14] La-thập (Đại 38, tr.0391a12): «Ý nói khiêm tốn như làm đồ vật cho người ta dẫm đạp lên mà vẫn nhẫn nhịn, không kiêu mạn.»

[15] VCX: bất tuỳ tha duyên  不隨他緣, không lệ thuộc điều kiện của người.

[16] La-thập (Đại 38, tr.0391a25) nói: «bảo vật từ bàn tay tuôn ra bất tận.»

[17] Na-la-diên thân 那羅延身; La-thập (ibid.) nói: «Thân thể đẹp đẽ, rắn chắc như lực sỹ nhà trời.» Skt. nārāyaṇa-bala (kāya).

[18] VCX: cầu tài vị  求財位. Skt. bhogānārabhya-paryeṣṭi.

[19] Tổng trì vô thất  總持無失. VCX: đà-la-ni niệm tuệ vô thất  陀羅尼念慧無失.

[20] Tà tế  邪濟. VCX: tà đạo  邪 道.

[21] DMC nhảy một đoạn; VCX: «Tuy thị hiện chứng đắc diệu Bồ đề, chuyển đại pháp luân, nhập Niết-bàn nhưng vẫn tinh cần tu tập Bồ tát hành, tiếp nối không dứt.»

[22] Như lai chủng  如來種. La- thập (Đại 38, tr.0391b27) nói, «Chủng, và căn bản nhân duyên, cùng một nghĩa.» Đạo Sinh (ibid.) nói, «Mượn hạt giống lúa mà nói Như lai chủng.» Chủng ở đay đựơc hiểu là bīja. VCX: Như lai chủng tánh  如來種性; VCS (T38n1782, tr.p1087c22): «Chủng là nhân; tánh là loại.Thể loại của nhân của Phật gọi là Phật chủng tánh.» Skt. tathāgata-gotra: gia tộc hay dòng dõi. Cf. Du già sư địa 35 (T30n1579, tr.478c12): «Có hai loại chủng tánh: 1. Bản tánh trụ (Skt. prakṛti-stha-gotra), chủng tánh tự nhiên có sẵn từ vô thủy của Bồ tát. 2. Tập sở thành (samudānīta-gotra), do tu tập các thiện căn mà thành… Chủng tánh này cũng có nghĩa là chủng tử (gotra = bīja).»

[23] Hữu thân  有身. La-thập, «Hữu thân, chỉ năm thọ ấm (=thủ uẩn, Skt. upādāna-skandha) thuộc hữu lậu.» VCX: ngụy thân chủng tánh  偽身種性. Khuy Cơ (T38n1782, tr.1088a19):«Tức thân năm uẩn làm đối tượng cho tát-ca-da kiến (Skt. satkāya-dṛṣṭi).»

[24] Ngũ cái  五蓋. Skt. pañca nīvaraṇāni, ngăn che và chướng ngại.

[25] VCX: lục xứ chủng tánh 六處種性. Skt. ṣaḍ āyatanāni, sáu nội xứ hay sáu căn.

[26] Thất thức trụ  七識住. Skt. vijñāna-sthiti, bảy chỗ an trụ của thức. Cf. Câu-xá 8 (Đại 29, 42c)

[27] Tám tà pháp  八邪法; các bản không giải. Thường chí phần đối lập với tám chánh đạo.

[28] Chín não xứ; chín trường hợp thù oán: 1. Oan gia của người mà ta thương; 2. Thân hữu của người mà ta ghét; 3. Gây phiền cho bản thân ta. Nhân với ba thời thành chín. Skt. āghāta-sthāna. Cf. Pali, Saṅgīti, D.iii.262, nava āghāta-paṭivinayā.

[29] Kiến vô vi 見無為 .La-thập nói (Đại 38, tr.0392b01): «Vô vi, tức tận đế (= diệt đế; Skt. nirodha-satya).

[30] Chánh vị 正位 . La-thập (ibid.) nói: «Từ khổ pháp nhẫn cho đến vô sinh A-la-hán, cho đến Phật vị, đều gọi là chánh vị.» VCX: chánh tánh ly sanh vị  正性離生位. Khuy Cơ (T38n1782 tr.1088b26): «Chánh tánh chỉ chân lý Thánh đế. Sanh, chỉ dị sanh (Skt. pṛthagjana: phàm phu). Ly sanh, tức vượt ngoài địa vị phàm phu… Đây chỉ địa vị Dự lưu trở lên.»

[31] VCX: «Không thể phát khởi tâm Nhất thiết trí  一切智心 (Skt. sarvajñatā-citta).»

[32] VCX: khởi thân kiến  身見. (Skt. satkāya-dṛṣṭi: hữu thân kiến).

[33] VCX: «Chúng tôi, trong dòng tương tục của tâm, hạt giống sanh tử đã mục nát, không còn cơ hội để phát tâm…»

[34] Đạo ý 道意 : Bồ đề tâm.

[35] Giải thích của Khuy Cơ (T38n1782_p1089b25): trong bản Huyền Trang, chỉ ba-la-mật thứ sáu tức Bát-nhã ba-la-mật (Skt. prajñāpāramitā) vốn là trí vô phân biệt (Skt. nirvikalpa-jñāna); trong bản La-thạp, trí độ chỉ ba-la-mật thứ mười (jñāna-pāramitā).

[36] Khuy Cơ, đây chỉ ba-la-mật thứ 7, mà tự thể là hậu đắc trí (pṛṣṭhalabdha-jñāna).

[37] Thiện tâm thành thật  善心誠實. Chân thật đế pháp 真實諦法 (Skt. satya-dharma).

[38] VCX: «Lấy phiền não nô lệ hèn mọn và kẻ giúp việc, tuỳ ý mà sử dụng .»

[39] Đạo phẩm, La-thập nói: 37 phẩm chung cho cả ba thừa. Đạo phẩm của Bồ tát kiêm cả sáu ba-la-mật. VCX: Giác phần  覺分 (Skt. bodhi-pakṣa). Khuy Cơ: Nhân tố của Bồ đề nên gọi là giác phần, chứ không phải là 37 phần Bồ đề.

[40] Giác ý  覺意, Đạo Sinh: chỉ 7 giác ý; Skt. bodhyaṅga. VCX: giác phẩm  覺品; Khuy Cơ: chỉ 37 giác phẩm hay trợ đạo; Skt. bodhi-pakṣa.

[41] Tám giải thoát  八解脫 (Skt. aṣṭau vimokṣāḥ).

[42] Bảy thanh tịnh  七清淨: 1. giới tịnh; 2. tâm tịnh; 3. kiến tịnh; 4. độ nghi tịnh; 5. phân biệt đoạ tịnh; 6. hành trí kiến tịnh; 7. hành đoạn trí kiến tịnh.

[43] La-thập: «Nhất tâm, trong bản phạm là hoà hiệp 和合 (Skt. samagrī?) . Trong đạo phẩm có ba tướng: phát động, nhiếp tâm và xả. Phát động quá thì tâm tán; do đó cần thâu nhiếp lại. Nhiếp quá thì chìm nên cần tinh tấn… Đông tĩnh thích hợp, khoan thai xử trung; đó là xả. Xả là đã được chế ngự. Được chế ngự, là hoà hiệp.» VCX: bồ-đề tâm (Stk. bodhicitta).

[44] VCX: thắng ý lạc  勝意樂 (Skt. adhyāśaya).

[45] Chỉ 7 Thánh tài  七聖財 (Skt. sapta dhanāni): tín, giới, tàm, quý, đa văn, xả, tuệ.

[46] VCX: hồi hướng đại Bồ đề.

[47] Tùng ư tịnh mạng sanh 從於淨命生 ; Khuy Cơ cho là văn dịch này hơi tối nghĩa. VCX: lấy tịnh mạng (Skt. śuddhājīva) là chăn đệm.

[48] La-thập: «người sang quý ngoại quốc, khi mặt trời mọc, sai người tấu nhạc để đánh thức.» VCX: «Niệm, trí thường giác ngộ; tâm luôn luôn tại định.»

[49] VCX: «Thức ăn là pháp bất tử (Skt. amṛta-dharma)

[50] Tương 漿 , đây chỉ thức uống.

[51] VCX: «dựng cờ diệu Bồ đề.»

[52] Chỉ 10 lực và 4 vô uý của Bồ tát.

[53] Khuy Cơ diễn ý: «Tuy biết rõ các nghiệp của Ma, nhưng thị hiện như là hành động theo chúng. Cho đến giai đoạn cứu cánh, bằng vào tuệ phương tiện mà dứt sạch tất cả.»

[54] La-thập (Đại 38, tr.0395c14): «Hoặc khi thấy có người ra biển mà thuyền sắp bị chìm, Bồ tát biến mình thành đất liền để làm chỗ trú ẩn…»

[55] Trung kiếp  劫中 (Skt. antarkalpa), chỉ thời tận thế. Trong thời này, loài người chịu ba tai họa nhỏ, gọi là tiểu tam tai: dịch bịnh, đói kém, chiến tranh. Cf. Câu-xá 12 (Đại 29, tr. 65c25).

[56] VCX: «Làm lợi lạc, đó gọi là bản sanh.» Khuy Cơ (T38n1782, tr.1090c14): «Những việc làm lợi lạc như vậy, khi đã thành Phật được gọi là bản sanh. Đó chính là Bản sanh sự của Bồ tát.»

[57] VCX: khiến phát Bồ đề nguyện.

[58] VCX: thanh tịnh tu phạm hạnh.

[59] Ngũ thông tiên nhân 五通仙人 (Skt. pañcābhijña ṛṣi)