Kinh Vô Lượng Thọ

Kinh Vô Lượng Thọ

Trương Văn Chiến 82

PHẨM 1 – PHÁP HỘI THÁNH CHÚNG

Như vậy, tôi nghe một lúc đức Phật ở thành Vương Xá, trong núi Kỳ Xà Quật, cùng chúng đại Tỳ kheo một vạn hai ngàn người câu hội. Các Ngài này đều là bực đại Thanh văn mà mọi người quen biết. Đó là Tôn giả A Nhã Kiều Trần Như, Tôn giả Mã Thắng, Tôn giả Đại Danh, Tôn giả Hữu Hiền, Tôn giả Vô Cấu, Tôn giả Danh Văn, Tôn giả Thiện Xưng, Tôn giả Viên Mãn, Tôn giả Kiều Phạm Ba Đề, Tôn giả Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, Tôn giả Già Da Ca Diếp, Tôn giả Na Đề.

Ca Diếp, Tôn giả Ma Ha Ca Diếp, Tôn giả Xá Lợi Phất, Tôn giả Đại Mục Kiền Liên, Tôn giả Ma Ha Ca Chiên Diên, Tôn giả Ma Ha Kiếp Tân Na, Tôn giả Ma Ha Châu Na, Tôn giả Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử, Tôn giả A Nâu Lâu Đa, Tôn giả Ly Bà Đa, Tôn giả Nan Đà, Tôn giả La Hầu La, Tôn giả A Nan Đà v.v… các Tôn giả này làm Thượng thủ.

PHẨM 2 – THEO HẠNH PHỔ HIỀN

Lại có chúng đại Bồ tát, các Ngài Phổ Hiền Bồ tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, Di Lặc Bồ tát, và chư đại Bồ tát trong kiếp Hiền sau trước vây quanh.

Lại cùng Hiền Hộ v.v… mười sáu vị Chánh sĩ câu hội. Đó là các Ngài Thiện Tri Duy Nghĩa Bồ tát, Huệ Biện Tài Bồ tát, Quán Vô Trụ Bồ tát, Thiện Hoa Thần Thông Bồ tát, Quang Tràng Bồ tát, Trí Thượng Bồ tát, Tịch Căn Bồ tát, Huệ Nguyện Bồ tát, Hương Tượng Bồ tát, Bửu Tràng Bồ tát v.v… làm Thượng thủ.

Chư đại Bồ tát này đều tuân tu hạnh Phổ Hiền, đầy đủ tất cả hạnh nguyện Bồ tát, an trụ trong tất cả công đức, đến bờ Phật pháp rốt ráo kia, nguyện ở trong tất cả thế giới thành Đẳng Chánh giác.

Lại nguyện sanh cung trời Đâu suất, ở đó thọ chung giáng sanh ở hông bên hữu, hiện đi bảy bước phóng ánh sáng lớn chấn động khắp thế giới mà xướng lên rằng: Nơi tất cả thế gian, ta là tôn quý hơn cả. Đế Thích và Phạm Thiên đều đến thân cận cúng dường. Lại hiện học tập lục nghệ hơn người, ở vương cung nhàm chán ngũ dục, thấy người già bịnh chết liền biết đời là vô thường, rời bỏ ngôi vua vượt thành học đạo, cởi lụa là chuỗi ngọc mặc y hoại sắc, khổ hạnh sáu năm. Ở cõi ngũ trược này có thể thị hiện như vậy. Vì thuận theo thế gian, đến tắm tại sông Ni Liên rồi đi tới đạo tràng. Long Vương ca tụng nghinh tiếp. Chư Bồ tát đi nhiễu bên hữu ngợi khen. Nhận lấy cỏ tự tay trải dưới cội cây Bồ đề rồi ngồi kiết già. Lại hiện quân ma bao vây làm hại. Dùng sức định huệ hàng phục ma oán. Thành bậc Vô thượng Chánh giác. Phạm Vương thỉnh chuyển pháp luân dũng mãnh vô úy. Âm thanh của Phật vang rền, đánh trống pháp, thổi loa pháp, dựng tràng pháp, thắp đuốc pháp, nhiếp chánh pháp và các thiền định, mưa pháp vũ nhuần thấm quần sanh, chấn sấm pháp khai ngộ tất cả quốc độ, quang minh chiếu khắp thế giới, mặt đất rúng động, cung ma sụp đổ, Ma Vương Ba Tuần kinh sợ, phá giặc phiền não, xé lưới tà kiến, xa rời ác pháp, sanh lớn thiện pháp, với món đồ ăn của tín thí có thể ăn có thể tiêu, vì điều phục chúng sanh mà tuyên dương diệu lý, hoặc hiện mỉm cười phóng trăm ngàn tia sáng lên bực quán đảnh thọ ký Bồ đề, hoặc thành Phật đạo, hiện nhập Niết bàn, khiến vô lượng hữu tình đều được quả vô lậu, thành thục thiện căn cho vô biên Bồ tát. Trong tất cả cõi Phật đều có thể thị hiện như vậy.

Ví như nhà ảo thuật biết rõ ảo thuật có thể hiện ra những tướng nam nữ v.v…, ở trong các tướng ấy thiệt không có được.

Cũng vậy, chư Bồ tát khéo học vô biên ảo thuật công đức nên hay thị hiện biến hóa, hay khéo biết rõ đạo biến hóa, nên ở các quốc độ hiện đại từ bi đều có thể lợi ích tất cả quần sanh. Thành tựu vô biên hạnh nguyện Bồ tát. Thông đạt bình đẳng vô lượng nghĩa môn. Tu hành đầy đủ tất cả pháp lành. Bình đẳng thẳng vào trong các cõi Phật. Thường được chư Phật khuyến tấn và gia hộ oai thần. Được tất cả Như Lai rõ biết ấn khả. Vì giáo hóa chư Bồ tát mà làm A Xà Lê. Thường tu tập thành tựu vô biên công hạnh. Thông đạt tất cả pháp giới hạnh. Hay biết rành rẽ hữu tình và quốc độ. Cũng thường đi đến cúng dường chư Phật. Hiện các thứ thân hình như là ảnh tượng.

Khéo học pháp vô úy, phá lưới ma, trừ tà kiến, qua khỏi quyến thuộc phiền não và bạn ma dân ma. Hơn hẳn bực Thanh văn và Bích Chi Phật. Nhập môn không, vô tướng và vô nguyện, mà hay an trụ phương tiện thiện xảo. Chẳng hề thích Niết bàn của Nhị thừa. Được các tam muội vô sanh vô diệt và các môn Đà la ni. Các căn quảng đại, biện tài quyết định, nơi tạng pháp Bồ tát hay biết rõ Phật hoa tam muội, tùy thời ngộ nhập. Đủ tất cả các thứ thậm thâm thiền định. Tất cả

chư Phật đều hiện ra trước. Trong khoảng một niệm đi khắp cõi Phật, quanh vòng qua lại vẫn chẳng khác thời gian, cứu vớt nạn khổ. Phân biệt hiển bày chơn thiệt bổn tế. Được Phật biện tài, trụ hạnh Phổ Hiền. Hay phân biệt rõ ngôn ngữ của chúng sanh. Vượt hơn tất cả pháp thế gian.
Biết rành tất cả pháp xuất thế. Nơi tất cả vạn vật tùy ý tự tại. Với tất cả hữu tình làm bạn chẳng chờ thỉnh. Có thể chấp trì pháp tạng của tất cả Như Lai. An trụ chẳng dứt chủng tánh tất cả Phật.

Thương mến hữu tình mở bày pháp nhãn cho họ. Bít cửa ác đạo, mở cửa thiện đạo. Với tất cả hữu tình xem như cha mẹ anh em. Lại xem chúng sanh không khác thân mình. Tất cả pháp lành đều được rốt ráo. Vô lượng công đức của chư Phật đều đã được. Trí huệ Thánh minh chẳng thể nghĩ bàn.

Chúng đại Bồ tát vô lượng vô biên như vậy đồng đến pháp hội.

PHẨM 3 – DUYÊN KHỞI ĐẠI GIÁO

Lúc bấy giờ sắc diện của đức Thế Tôn vui vẻ sáng rỡ.

Thừa oai thần của đức Phật, Tôn giả A Nan từ chỗ ngồi đứng dậy chỉnh lý y phục, trịch vai hữu, gối hữu chấm đất chắp tay hướng lên đức Phật bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Hôm nay sắc diện của đức Thế Tôn vui vẻ sáng rỡ, trong sạch như gương sáng, từ nào chưa từng được thấy.
Bạch đức Thế Tôn! Tôi tự nghĩ rằng hôm nay đức Thế Tôn an trụ chỗ an trụ của chư Phật. Hôm nay Đức Thế Nhãn an trụ nơi hạnh của bực đạo sư. Hôm nay đức Thế Anh an trụ nơi đạo tối thắng. Hôm nay đức Thế Hùng hành công đức của Như Lai.Phải chăng hôm nay đức Thế Tôn nghĩ nhớ đến chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại?”

Đức Phật phán dạy: “Này A Nan! Sao ông biết được việc ấy, chư Thiên bảo ông, hay là ông tự thấy biết?”

Ngài A Nan thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi thấy sắc diện của đức Thế Tôn rạng rỡ ít khi có, nên mới bạch hỏi như vậy, chẳng phải là do chư Thiên mách bảo.”

Đức Phật phán dạy: “Lành thay, lành thay! Này A Nan! Ông phát trí huệ biện tài hỏi được Như Lai việc ấy. Ông là Đại sĩ hi hữu như hoa Ưu Đàm xuất hiện thế gian, có lòng đại bi lợi ích chúng sanh, nên thưa hỏi việc ấy.

Này A Nan! Đức Như Lai Chánh đẳng Chánh giác hay khai thị được vô lượng tri kiến. Tại sao?

Vì Như Lai tri kiến vô chướng vô ngại.

Này A Nan! Như Lai Chánh đẳng Chánh giác, nếu muốn ở thế gian, có thể ở đến vô lượng vô số trăm ngàn ức na do tha kiếp, hoặc là tăng hơn số lượng trên, mà thân thể của Như Lai và các căn vẫn không tổn giảm. Tại sao vậy? Vì Như Lai được tam muội tự tại rốt ráo. Nơi tất cả pháp là tự tại hơn hết.

Này A Nan! Ông phải lắng nghe, khéo suy nghĩ lấy. Ta sẽ vì ông mà phân biệt giải nói.”

Ngài A Nan thưa: “Vâng! Bạch đức Thế Tôn! Tôi mong muốn được nghe đức Phật chỉ dạy.”

PHẨM 4 – PHÁP TẠNG NHÂN ĐỊA

Đức Phật bảo Ngài A Nan: “Thuở xưa quá a tăng kỳ vô số đại kiếp có Phật xuất thế hiệu là Nhiên Đăng Như Lai giáo hóa độ thoát vô lượng chúng sanh. Sau đó có Quang Viễn Phật, Nguyệt Quang Phật, Chiên Đàn Hương Phật, Thiện Sơn Vương Phật, Tu Di Thiên Quang Phật, Tu Di Đẳng Diệu Phật, Nguyệt Sắc Phật, Chánh Niệm Phật, Ly Cấu Phật, Vô Trước Phật, Long Thiên Phật, Dạ Quang Phật, An Minh Đảnh Phật, Bất Động Địa Phật, Lưu Ly Diệu Hoa Phật, Lưu Ly Kim Sắc Phật, Kim Tạng Phật, Viêm Quang Phật, Viêm Căn Phật, Địa Chủng Phật, Nguyệt Tượng Phật, Nhật Âm Phật, Giải Thoát Hoa Phật, Trang Nghiêm Quang Minh Phật, Hải Giác Thần Thông Phật, Thủy Quang Phật, Đại Hương Phật, Ly Trần Cấu Phật, Xả Yểm Ý Phật, Bửu Viêm Phật, Diệu Đảnh Phật, Dũng Lập Phật, Công Đức Trì Huệ Phật, Tỳ Nhựt Nguyệt Quang Phật, Nhựt Nguyệt Lưu Ly Quang Phật, Vô Thượng Lưu Ly Quang Phật, Tối Thượng Thủ Phật, Bồ Đề Hoa Phật, Nguyệt Minh Phật, Nhựt Quang Phật, Hoa Sắc Hương Phật, Thủy Nguyệt Quang Phật, Trừ Si Minh Phật, Độ Cái Hạnh Phật, Tịnh Tín Phật, Thiện Tú Phật, Oai Thần Phật, Pháp Huệ Phật, Loan Âm Phật, Sư Tử Âm Phật, Long Âm Phật, Xử Thế Phật. Chư Phật như vậy kế tiếp nhau xuất hiện ra đời.

Kế đó có đức Phật hiệu là Thế Tự Tại Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn.
Lúc đó có Quốc Vương nghe đức Phật thuyết pháp lòng rất vui đẹp phát tâm Vô thượng Bồ đề, từ bỏ ngôi vua xuất gia làm Tỳ kheo hiệu là Pháp Tạng, đến chỗ đức Phật Thế Tự Tại Vương, cúi lạy chơn đức Phật, đi quanh bên hữu ba vòng, quỳ dài chắp tay nói kệ tụng khen rằng:

Sắc diện Phật rực rỡ

Oai Thần Phật vô cực

Ánh sáng chói như vậy

Không ai sánh bằng Phật

Mặt nhựt và mặt nguyệt

Cùng ma ni bửu châu

Ánh sáng bị che lấp

Chẳng khác gì đống mực

Dung nhan của Như Lai

Thế gian không ai sánh

Viên âm của Như Lai

Vang khắp đến mười phương

Giới, đa văn, tinh tiến

Tam muội và trí huệ

Oai đức không ai sánh

Rất thù thắng hy hữu

Đế lý sâu, niệm lành

Pháp hải của chư Phật

Đã cùng tận thâm áo

Tột bờ và suốt đáy

Vô minh và tham sân

Thế Tôn đã không hẳn

Đấng nhơn hùng sư tử

Thần đức không thể lường

Công huân Phật rộng lớn

Trí huệ sâu vi diệu

Quang minh tướng oai nghi

Chấn động cõi Đại Thiên

Nguyện tôi lúc làm Phật

Bằng với đấng Pháp Vương

Vượt khỏi dòng sanh tử

Không gì chẳng giải thoát

Bố thí và trì giới

Nhẫn nhục và tinh tiến

Thiền định các tam muội

Trí huệ là trên hết

Tôi thề được làm Phật

Làm khắp hết nguyện này

Tất cả sự khủng bố

Tôi sẽ làm an ổn

Giả sử có chư Phật

Số trăm ngàn muôn ức

Vô lượng đấng đại Thánh

Như số cát sông Hằng

Dầu cúng dường tất cả

Chư Phật Thế Tôn ấy

Vẫn chẳng bằng cầu đạo

Tâm vững chắc chẳng bỏ

Thí như hằng hà sa

Thế giới của chư Phật

Lại có bất khả kể

Vô số những quốc độ

Quang minh đều chiếu đến

Khắp hết những cõi ấy

Siêng tinh tấn như vậy

Sức oai thần khó lường

Nếu lúc tôi làm Phật

Cõi nước tôi đệ nhứt

Rất nhiều thứ kỳ diệu

Đạo tràng rất siêu tuyệt

Cõi nước như Niết bàn

Không cõi nào sánh bằng

Tôi sẽ luôn thương nhớ

Độ tất cả chúng sanh

Người mười phương sanh về

Lòng vui mừng thanh tịnh

Đã về đến nước tôi

Đều sung sướng an ổn

Trông mong Phật chứng minh

Cho tôi được thành tựu

Do sức muốn tinh tiến

Tôi phát nguyện như trên

Mười phương chư Thế Tôn

Trí huệ lớn vô ngại

Khiến cho Thế Tôn này

Biết tâm niệm của tôi

Giả sử thân tôi ở

Trong những chốn khốn khổ

Tôi tinh tiến hành đạo

Chịu đựng chẳng hối tiếc.

PHẨM 5 – CHÍ TÂM TINH TIẾN

Này A Nan! Tỳ kheo Pháp Tạng nói kệ tụng xong bạch đức Phật Thế Tự Tại Vương rằng:

Bạch đức Thế Tôn! Tôi đã phát tâm Vô thượng Chánh giác, xin đức Thế Tôn rộng tuyên kinh pháp cho. Tôi sẽ tu hành nhiếp lấy Phật quốc thanh tịnh vô lượng trang nghiêm. Khiến tôi mau thành bực Chánh giác nhổ hết gốc rễ sanh tử khổ lụy.

Thế Tự Tại Vương Như Lai nói với Pháp Tạng Tỳ kheo rằng:

Công hạnh tu hành trang nghiêm Phật độ, ông tự biết lấy.

Tỳ kheo Pháp Tạng thưa:

Bạch đức Thế Tôn! Nghĩa ấy sâu rộng chẳng phải cảnh giới của tôi. Ngưỡng mong đức Thế Tôn chỉ dạy công hạnh Tịnh độ của chư Phật Như Lai. Tôi được nghe rồi sẽ y theo tu hành để hoàn thành sở nguyện.

Lúc ấy đức Phật Thế Tự Tại Vương biết Tỳ kheo Pháp Tạng cao minh chí nguyện sâu rộng liền giảng dạy rằng:

Ví như biển cả kia, có một người lấy đấu múc nước trải qua kiếp số còn có thể cạn đến đáy được châu báu vi diệu. Có người chí tâm tinh tiến cầu đạo chẳng thôi, tất sẽ kết quả, có nguyện gì mà chẳng được thành.

Rồi Đức Thế Tự Tại Vương Phật nói rộng hai trăm mười ức quốc độ chư Phật, những là sự thiện ác của hàng thiên nhơn, những sự xấu tốt của cõi nước, và ứng theo tâm nguyện của Tỳ kheo Pháp Tạng mà hiện rõ ra cho thấy cả. Nghe và thấy các quốc độ nghiêm tịnh, Tỳ kheo Pháp Tạng phát khởi thệ nguyện thù thắng Vô thượng, tâm Ngài tịch tịnh, trí Ngài rỗng rang, tất cả thế gian không có ai bằng. Trọn đủ năm kiếp, Ngài suy xét nhiếp lấy công hạnh trang nghiêm thanh tịnh nước Phật.”

Ngài A Nan thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Người cõi Phật xưa ấy thọ mạng bao lâu?”

Đức Phật nói: “Này A Nan! Đức Phật Thế Tự Tại Vương thọ mạng bốn mươi hai kiếp. Thuở ấy, Tỳ kheo Pháp Tạng nhiếp lấy công hạnh thanh tịnh trang nghiêm hai trăm mười ức nước Phật và tu tập xong, Ngài đến trước đức Thế Tự Tại Vương Như Lai cúi lạy chơn Phật, đi quanh bên hữu ba vòng chắp tay đứng lại bạch rằng:

Bạch đức Thế Tôn! Tôi đã nhiếp lấy công hạnh trang nghiêm thanh tịnh nước Phật.

Đức Thế Tự Tại Vương Như Lai nói:

Nay ông nên trình bày, phải biết là đúng lúc, để phát khởi và làm vui đẹp tất cả đại chúng. Bồ tát tu hành pháp ấy thì sẽ đầy đủ vô lượng đại nguyện.

PHẨM 6 – 7 PHÁT ĐẠI THỆ NGUYỆN

Tỳ kheo Pháp Tạng thưa:

Bạch đức Thế Tôn! Mong được xét soi, tôi sẽ trình rõ những điều nguyện mà tôi đã phát.

1) – Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.

2) – Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi sau khi mạng chung còn trở lại ba ác đạo thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

3) – Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi chẳng đều thân màu vàng ròng thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.

4) – Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi sắc thân chẳng đồng có kẻ xấu người đẹp thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.

5) – Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi chẳng biết túc mạng, tối thiểu là biết sự việc trong trăm ngàn ức na do tha kiếp thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.

6) – Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi chẳng được thiên nhãn, tối thiểu là thấy trăm ngàn ức na do tha cõi nước chư Phật thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.

7) – Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi chẳng được thiên nhĩ, tối thiểu là nghe lời thuyết pháp của trăm ngàn ức na do tha chư Phật và chẳng thọ trì hết, thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.

8) – Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi chẳng được tha tâm trí, tối thiểu là biết tâm niệm của chúng sanh trong trăm ngàn ức na do tha cõi nước, thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.

9) – Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi chẳng được thần túc, tối thiểu là khoảng một niệm qua đến trăm ngàn ức na do tha nước Phật thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.
10)- Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi nếu sanh lòng tưởng nghĩ tham chấp thân thể thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.

11) – Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn ở nước tôi, chẳng an trụ định tụ quyết đến diệt độ thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.

12) – Giả sử khi tôi thành Phật, quang minh có hạn lượng, tối thiểu chẳng chiếu đến trăm ngàn ức na do tha cõi nước chư Phật thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.

13) – Giả sử khi tôi thành Phật, thọ mạng có hạn lượng, tối thiểu là trăm ngàn ức na do tha kiếp thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.

14) – Giả sử khi tôi thành Phật, hàng Thanh văn trong nước tôi mà có người tính đếm được, nhẫn đến chúng sanh trong cõi Đại Thiên đều thành bực Duyên giác cùng nhau chung tính đếm suốt trăm nghìn kiếp mà biết được số lượng ấy thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.

15) – Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi thọ mạng không ai hạn lượng được, trừ họ có bổn nguyện dài ngắn tự tại. Nếu chẳng như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.

16) – Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi mà còn nghe danh từ bất thiện thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.

17) – Giả sử khi tôi thành Phật, mười phương vô lượng chư Phật chẳng đều ngợi khen xưng tụng danh hiệu của tôi thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.

18) – Giả sử khi tôi thành Phật, chúng sanh ở mười phương chí tâm tin ưa muốn sanh về nước tôi nhẫn đến mười niệm, nếu không được sanh thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.

19) – Giả sử khi tôi thành Phật, chúng sanh ở mười phương phát Bồ đề tâm, tu các công đức chí tâm phát nguyện muốn sanh về nước tôi. Lúc họ mạng chung, tôi và đại chúng vây quanh hiện ra trước mặt họ. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.

20) – Giả sử khi tôi thành Phật, chúng sanh ở mười phương nghe danh hiệu của tôi, chuyên nhớ nước tôi, trồng những cội công đức, chí tâm hồi hướng muốn sanh về nước tôi mà chẳng được toại nguyện thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.

21) – Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi chẳng đều đầy đủ ba mươi hai tướng đại nhơn thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.

22) – Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ tát ở cõi nước khác sanh về nước tôi rốt ráo tất đến bực Nhứt sanh bổ xứ. Trừ người có bổn nguyện tự tại hóa độ, vì chúng sanh mà mặc giáp hoằng thệ chứa công đức độ tất cả, đi qua các nước Phật tu hạnh Bồ tát, cúng dường chư Phật mười phương, khai hóa hằng sa vô lượng chúng sanh khiến họ đứng nơi đạo chánh chơn vô thượng, vượt hơn công hạnh của hạng tầm thường, hiện tiền tu công đức Phổ Hiền. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.

23) – Giả sử khi tôi thành Phật, Bồ tát trong nước tôi thừa thần lực Phật đi cúng dường chư Phật, khoảng bữa ăn nếu không đến khắp vô số vô lượng ức na do tha cõi nước thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.

24) – Giả sử khi tôi thành Phật, Bồ tát trong nước tôi ở trước chư Phật hiện công đức mình, nếu những thứ dùng để cúng dường không có đủ theo ý muốn thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.
25) – Giả sử khi tôi thành Phật, Bồ tát trong nước tôi chẳng thể diễn nói Nhứt thiết trí thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.

26) – Giả sử khi tôi thành Phật, Bồ tát trong nước tôi chẳng được thân Kim Cương Na la diên thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.

27) – Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn và tất cả vạn vật trong nước tôi trang nghiêm thanh tịnh sáng rỡ hình sắc đặc biệt lạ cùng vi tột diệu không ai lường biết được, dầu là có thiên nhãn mà biện biệt được danh số ấy thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.

28) – Giả sử khi tôi thành Phật, Bồ tát trong nước tôi, nhẫn đến người công đức ít nhứt mà chẳng thấy biết đạo tràng thọ màu sáng vô lượng cao bốn trăm muôn dặm thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.

29) – Giả sử khi tôi thành Phật, Bồ tát trong nước tôi nếu đọc tụng thọ trì diễn thuyết kinh pháp mà chẳng được trí huệ biện tài thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.

30) – Giả sử khi tôi thành Phật, trí huệ biện tài của Bồ tát trong nước tôi mà có hạn lượng thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.

31) – Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi thanh tịnh soi thấy tất cả vô lượng vô số bất khả tư nghị thế giới chư Phật mười phương, như gương sáng soi hiện hình gương mặt, nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.

32) – Giả sử khi tôi thành Phật, từ mặt đất lên đến hư không, những cung điện, lâu đài, ao nước, cây hoa, tất cả vạn vật trong nước tôi đều dùng vô lượng châu báu, trăm ngàn thứ hương hiệp lại làm thành xinh đẹp kỳ lạ hơn hàng thiên nhơn. Hương ấy xông khắp vô lượng thế giới mười phương. Bồ tát nghe mùi hương ấy đều tu hạnh Phật. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.

33) – Giả sử khi tôi thành Phật, những loài chúng sanh của vô lượng bất tư nghị thế giới mười phương, được quang minh tôi chiếu đến thân, thân họ nhu nhuyến hơn hẳn hàng thiên nhơn. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.

34) – Giả sử khi tôi thành Phật, những loài chúng sanh của vô lượng bất tư nghị thế giới mười phương nghe danh hiệu tôi mà chẳng được Bồ tát vô sanh pháp nhẫn các thâm tổng trì thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.

35) – Giả sử khi tôi thành Phật, hàng nữ nhơn của vô lượng bất tư nghị thế giới mười phương nghe danh hiệu tôi vui mừng tin ưa phát tâm Bồ đề nhàm ghét thân người nữ, nếu sau khi chết mà họ còn sanh thân người nữ lại thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.

36) – Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ tát trong vô lượng bất tư nghì thế giới mười phương thế giới nghe danh hiệu tôi sau khi thọ chung thường tu phạm hạnh đến thành Phật đạo. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.

37) – Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn trong vô lượng bất tư nghị thế giới mười phương nghe danh hiệu tôi rồi năm vóc gieo xuống đất cúi đầu vái lạy vui mừng tin ưa tu hạnh Bồ tát thì được chư Thiên và người đời đều kính trọng. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.

38) – Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi muốn được y phục liền tùy nguyện hiện đến, y phục đẹp đúng pháp như Phật khen ngợi tự nhiên mặc trên thân. Nếu còn phải may cắt nhuộm giặt thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.

39) – Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi hưởng thọ khoái lạc chẳng như bực lậu tận Tỳ kheo thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.

40) – Giả sử khi tôi thành Phật, Bồ tát nước tôi tùy ý muốn thấy vô lượng nước Phật trang nghiêm thanh tịnh mười phương thì liền được toại nguyện, đều được soi thấy ở trong những cây báu, như thấy mặt mình hiện rõ trong gương sáng. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.

41) – Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi, từ đó đến lúc thành Phật nếu các căn thân còn thiếu xấu chẳng được đầy đủ thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.

42) – Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi thảy đều chứng được thanh tịnh giải thoát tam muội, khoảng một lúc phát ý, cúng dường vô lượng bất khả tư nghị chư Phật Thế Tôn, mà không mất tâm chánh định. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.

43) – Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi, sau lúc thọ chung sanh nhà tôn quý. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.

44) – Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi vui mừng hớn hở tu hạnh Bồ tát đầy đủ cội công đức. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.

45) – Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi thảy đều chứng được phổ đẳng tam muội, an trụ trong tam muội này đến lúc thành Phật thường thấy vô lượng bất khả tư nghị tất cả chư Phật. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.
46) – Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ tát trong nước tôi tùy chí nguyện của mỗi người muốn được nghe pháp liền tự nhiên được nghe. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.

47) – Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi mà chẳng liền được đến bực bất thối chuyển thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.

48) – Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi mà chẳng liền được đệ nhứt nhẫn, đệ nhị nhẫn và đệ tam pháp nhẫn, nơi các Phật pháp chẳng liền được bực bất thối chuyển thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.

Tuyên bốn mươi tám đại nguyện ấy xong, Tỳ kheo Pháp Tạng nói kệ tụng rằng:

Tôi lập nguyện hơn đời

Tất đến đạo vô thượng

Nguyện này chẳng đầy đủ

Thề chẳng thành Chánh giác

Tôi ở vô lượng kiếp

Chẳng làm đại thí chủ

Cứu khắp kẻ nghèo khổ

Thề chẳng thành Chánh giác

Tôi đến lúc thành Phật

Danh tiếng siêu mười phương

Trọn có người chẳng nghe

Thề chẳng thành Chánh giác

Ly dục, chánh niệm sâu

Tịnh huệ, tu phạm hạnh

Chí cầu đạo vô thượng

Làm thầy hàng trời người

Thần lực phóng quang minh

Chiếu khắp vô biên cõi

Tiêu trừ tối phiền não

Cứu thoát những ách nạn

Khai mắt trí huệ kia

Trừ tối mù lòa này

Đóng bít các ác đạo

Thông đạt cửa thiện đạo

Công đức thành đầy đủ

Oai sáng chói mười phương

Sáng hơn mặt nhựt nguyệt

Thiên quang bị khuất lấp

Vì chúng khai pháp tạng

Rộng ban báu công đức

Thường ở trong đại chúng

Thuyết Pháp sư tử rống

Cúng dường tất cả Phật

Đầy đủ những công đức

Nguyện, huệ đều viên mãn

Được làm bực Thế Tôn

Như Phật vô ngại trí

Thông đạt chiếu tất cả

Nguyện công đức của tôi

Bằng Tối Thắng Tôn này

Nguyện đây nếu quả toại

Đại Thiên nên cảm động

Chư Thiên Thần trên không

Sẽ mưa hoa báu đẹp.

Tỳ kheo Pháp Tạng nói kệ xong, khắp mặt đất liền chấn động sáu cách. Trời mưa hoa đẹp rải trên mình Ngài. Âm nhạc tự nhiên trên hư không khen rằng: Quyết định chắc thành Vô thượng Chánh giác.

PHẨM 8 – TÍCH LŨY CÔNG ĐỨC

Từ đó Tỳ kheo Pháp Tạng tu tập đầy đủ những đại nguyện ấy chắc thiệt chẳng luống vượt khỏi thế gian.

Này A Nan! Tỳ kheo Pháp Tạng ở chỗ đức Phật Thế Tự Tại Vương và giữa đại chúng, chư Thiên, Ma, Phạm, Long, Thần, Bát bộ mà phát hoằng thệ ấy. Sau khi lập thệ rồi, Ngài chuyên chí trang nghiêm tịnh độ tốt đẹp rộng lớn thù thắng hơn cả, không suy không biến đổi. Trong thời gian bất khả tư nghị triệu tải kiếp lâu xa, Ngài tích chứa vô lượng đức hạnh Bồ tát, chẳng sanh dục giác, sân giác, hại giác, chẳng khởi dục tưởng, sân tưởng, hại tưởng, chẳng trước sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, thành tựu nhẫn lực chẳng kể những sự khổ, thiểu dục tri túc không có tham sân si, chánh định thường vắng lặng, trí huệ vô ngại, không có tâm hư ngụy siểm khúc, hòa nhan, ái ngữ hỏi thăm trước, dũng mãnh tinh tiến chí nguyện không mỏi nhàm chuyên cầu lấy pháp thanh bạch, đem ân huệ ban cho quần sanh được lợi ích, cung kính Tam bảo, thờ phụng Sư trưởng, dùng đại trang nghiêm đầy đủ những công hạnh, khiến các chúng sanh thành tựu công đức, an trụ nơi pháp không vô tướng vô nguyện vô tác vô khởi, quán các pháp như huyễn như hóa, rời xa lời thô ác hại mình hại người, mình người đồng hại, tu tập lời lành lợi mình lợi người, mình người đồng lợi, bỏ nước thôi vua dứt bỏ tài sắc, tự làm sáu môn Ba la mật cũng dạy người cùng làm, trong vô lượng số kiếp tích công chứa đức, tùy sanh ở chỗ nào theo ý muốn, có vô

lượng kho báu tự nhiên phát hiện, giáo hóa an lập vô số chúng sanh an trụ nơi đạo Vô thượng Chánh giác, hoặc làm Trưởng giả Cư sĩ họ quý dòng sang, hoặc làm Quốc Vương Chuyển Luân Thánh Vương, hoặc làm Thiên Vương ở sáu cõi trời dục giới nhẫn đến làm Phạm Vương, thường đem tứ sự cúng dường cung kính tất cả chư Phật. Tỳ kheo Pháp Tạng có những công đức như vậy chẳng thể kể hết.

Miệng Ngài hơi thơm như hoa sen xanh, lỗ lông trên thân tiết hơi thơm chiên đàn, hơi thơm này xông khắp vô lượng thế giới. Dung sắc Ngài đoan chánh đủ những tướng tốt. Tay Ngài thường xuất sanh những châu báu vô tận, những là y phục, thức ăn uống, hoa báu đẹp, hương quý thơm, bảo cái, tràng phan những đồ trang nghiêm. Những sự như vậy hơn hẳn hàng thiên nhơn, với tất cả pháp đều được tự tại.”