Đạo Vô Ngại Giải Paṭisambhidāmagga

Đạo Vô Ngại Giải Paṭisambhidāmagga

Đỗ Quang Huy 44
dao vo ngai giai paṭisambhidamagga
Mục lục

 [CHƯƠNG VI – SANH VÀ DIỆT]

283. Thế nào là tuệ quán sự biến đổi của các hiện tượng đang hiện khởi là trí quán sanh diệt?

284. Vật thể đang hiện khởi là [vật thể] đã được tạo ra; đặc tính của sự phát sanh này là sanh, đặc tính biến đổi của nó là diệt, quán sanh diệt ấy là trí. Cảm nghiệm đang hiện khởi… Nhận thức đang hiện khởi… Tạo lập tâm trạng đang hiện khởi… Thức đang hiện khởi đã được tạo ra; đặc tính của sự phát sanh này là sanh, đặc tính biến đổi của nó là diệt, quán sanh diệt ấy là trí.

Mắt đang hiện khởi… [và cứ thế với 201 ý niệm còn lại liệt kê ở đ. 5 cho đến]… Trở thành đang hiện khởi là hiện hữu đã được tạo ra; đặc tính của sự phát sanh này là sanh, đặc tính biến đổi của nó là diệt, quán sanh diệt ấy là trí.

285. Người thấy sự sanh của năm tập hợp thì thấy được bao nhiêu đặc tính của chúng? Người thấy sự diệt của năm tập hợp thì thấy được bao nhiêu đặc tính của chúng? Người thấy sự sanh diệt của năm tập hợp thì thấy được bao nhiêu bao nhiêu đặc tính của chúng?

Người thấy sự sanh của năm tập hợp thì thấy được hai mươi lăm đặc tính. Người thấy sự diệt của năm tập hợp thì thấy được hai mươi lăm đặc tính. Người thấy sự sanh diệt của năm tập hợp thì thấy được hai mươi lăm đặc tính. [55]

286. Người thấy sự sanh của tập hợp vật thể thì thấy được bao nhiêu đặc tính? Người thấy sự diệt của tập hợp vật thể thì thấy được bao nhiêu đặc tính? Người thấy sự sanh diệt của tập hợp vật thể thì thấy được bao nhiêu đặc tính? Người thấy sự sanh của tập hợp cảm nghiệm thì thấy được bao nhiêu đặc tính?… của tập hợp nhận thức…? … của tập hợp tạo lập tâm trạng…? Người thấy được sự sanh của tập hợp thức thì thấy bao nhiêu đặc tính? Người thấy sự diệt của tập hợp thức thì thấy được bao nhiêu đặc tính? Người thấy sự sanh diệt của tập hợp thức thì thấy được bao nhiêu đặc tính?

Người thấy sự sanh của tập hợp vật thể thì thấy được năm đặc tính, người thấy sự diệt của nó thì thấy năm đặc tính, người thấy sự sanh diệt của nó thì thấy được mười đặc tính. Người thấy được sự sanh của tập hợp cảm nghiệm… của tập hợp nhận thức… của tập hợp tạo lập tâm trạng… Người thấy sự sanh của tập hợp thức thì thấy được năm đặc tính, người thấy sự diệt của nó thì thấy được năm đặc tính, người thấy được sự sanh diệt của nó thì thấy mười đặc tính.

287. Người thấy sự sanh của tập hợp vật thể thì thấy được năm đặc tính nào?

Người thấy sự sanh của tập hợp vật thể theo nghĩa căn nguyên có điều kiện như vầy: Với sự sanh khởi của vô minh nên có sanh khởi của vật thể. Người thấy sự sanh của tập hợp vật thể theo nghĩa căn nguyên có điều kiện như vầy: Với sự sanh khởi của khao khát nên có sanh khởi của vật thể. Người thấy sự sanh của tập hợp vật thể theo nghĩa căn nguyên có điều kiện như vầy: Với sự sanh khởi của hành vi tạo quả (kamma) nên có sanh khởi của vật thể. Người thấy sự sanh của tập hợp vật thể theo nghĩa căn nguyên có điều kiện như vầy: Với sự sanh khởi của dưỡng tố nên có sanh khởi của vật thể. Người thấy đặc tính của sự phát sanh thì thấy được sự sanh của tập hợp vật thể.

Người thấy sự sanh của tập hợp vật thể thì thấy được năm đặc tính này.

Người thấy sự diệt của tập hợp vật thể thì thấy được năm đặc tính nào?

Người thấy sự diệt của tập hợp vật thể theo nghĩa đoạn diệt có điều kiện như vầy: Với sự đoạn diệt của vô minh nên có sự đoạn diệt của vật thể. Người thấy sự diệt của tập hợp vật thể theo nghĩa đoạn diệt có điều kiện như vầy: Với sự đoạn diệt của khao khát … Với sự đoạn diệt của hành vi tạo quả (kamma)… Với sự đoạn diệt của dưỡng tố nên có sự đoạn diệt của vật thể. Người thấy [56] đặc tính biến đổi thì thấy được sự diệt của tập hợp vật thể.

Người thấy sự diệt của tập hợp vật thể thì thấy được năm đặc tính này.

Người thấy sanh diệt thì thấy được mười đặc tính này.

288. Người thấy sự sanh của tập hợp cảm nghiệm thì thấy được năm đặc tính nào?

Người thấy sự sanh của tập hợp cảm nghiệm theo nghĩa căn nguyên có điều kiện như vầy: Với sự sanh khởi của vô minh nên có sự sanh khởi của cảm nghiệm. Người thấy sự sanh của tập hợp cảm nghiệm theo nghĩa căn nguyên có điều kiện như vầy: Với sự sanh khởi của khao khát… Với sự sanh khởi của hành vi tạo quả (kamma)… Với sự sanh khởi của xúc chạm nên có sự sanh khởi của cảm nghiệm. Người thấy đặc tính của sự phát sanh thì thấy được sự sanh của tập hợp cảm nghiệm.

Người thấy sự sanh của tập hợp cảm nghiệm thì thấy được năm đặc tính này.

Người thấy sự diệt của tập hợp cảm nghiệm thì thấy được năm đặc tính nào?

Người thấy sự diệt của tập hợp cảm nghiệm theo nghĩa đoạn diệt có điều kiện như vầy: Với sự đoạn diệt của vô minh… Với sự đoạn diệt của khao khát… Với sự đoạn diệt của hành vi tạo quả (kamma)… Với sự đoạn diệt của xúc chạm nên có đoạn diệt của cảm nghiệm. Người thấy đặc tính biến đổi thì thấy được sự diệt của tập hợp cảm nghiệm.

Người thấy sự diệt của tập hợp cảm nghiệm thì thấy được năm đặc tính này.

Người thấy sanh diệt thì thấy được mười đặc tính này.

289. Người thấy sự sanh của tập hợp nhận thức thì thấy được năm đặc tính nào?

Người thấy sự sanh của tập hợp nhận thức… [hoàn tất như ở đ. 288].

Người thấy sanh diệt thì thấy được mười đặc tính này.

290. Người thấy sự sanh của tập hợp tạo lập tâm trạng thì thấy được năm đặc tính nào?

Người thấy sự sanh của tập hợp tạo lập tâm trạng… [hoàn tất như ở đ. 288].

Người thấy sanh diệt thì thấy được mười đặc tính này.

291. Người thấy sự sanh của tập hợp thức thì thấy được năm đặc tính nào?

Người thấy được sự sanh của tập hợp thức theo nghĩa căn nguyên có điều kiện như vầy: Với sự sanh khởi của vô minh… Với sự sanh khởi của khao khát… Với sự sanh khởi của hành vi tạo quả (kamma)… Với sự sanh khởi của tâm thức-vật thể nên có sự sanh khởi của thức. Người [57] thấy đặc tính của sự phát sanh thì thấy được sự sanh của tập hợp thức.

Người thấy sự sanh của tập hợp thức thì thấy năm đặc tính này.

Người thấy sự diệt của tập hợp thức thì thấy năm đặc tính nào?

Người thấy sự diệt của tập hợp thức theo nghĩa đoạn diệt có điều kiện như vầy: Với sự đoạn diệt của vô minh… Với sự đoạn diệt của khao khát… Với sự đoạn diệt của hành vi tạo quả… Với sự đoạn diệt của tâm thức-vật thể nên có sự đoạn diệt của thức. Người thấy đặc tính của biến đổi thấy được sự đoạn diệt của tập hợp thức.

Người thấy sanh diệt thì thấy được mười đặc tính này.

292. Người thấy sự sanh của năm tập hợp thì thấy được hai mươi lăm đặc tính này; người thấy sự diệt của năm tập hợp thì thấy được hai mươi lăm đặc tính này; người thấy sự sanh diệt của chúng thì thấy được năm mươi đặc tính này.

293. Trí theo nghĩa điều được biết tới và tuệ theo nghĩa hành vi hiểu biết đó. Như vậy nên nói: ‘Tuệ quán sự biến đổi của các hiện tượng đang hiện hữu là trí quán sanh diệt.’

294. Tập hợp vật thể có bốn yếu tố chính* làm căn nguyên; ba tập hợp tâm kia là cảm nghiệm, nhận thức và tạo lập tâm trạng có xúc làm căn nguyên; còn tập hợp thức có tâm thức-vật thể làm căn nguyên của nó (đọc M iii 17)

* bốn yếu tố chính là: đất, nước, gió, lửa. Dịch theo M iii 17.



[CHƯƠNG VII – DIỆT]

295. Thế nào là tuệ quán sự diệt [của tâm] sau khi quán tưởng về đối tượng là trí quán thực tánh?

296. Tâm có vật thể làm đối tượng khởi lên và diệt đi. Sau khi quán tưởng điều ấy xong, tỳ kheo quán sự diệt của tâm đó.

Vị ấy quán: người ấy quán ra sao? Người ấy quán vô thường, chứ không quán trường tồn; vị ấy quán khổ đau [58] chứ không quán vui sướng, vị ấy quán không phải là ngã chứ không quán là ngã; vị ấy trở nên nhàm chán, không lấy làm ưa thích; làm cho lòng tham phai nhạt đi, vị ấy không khêu gợi nó; vị ấy làm cho diệt tận, chứ không sanh khởi; vị ấy buông bỏ, chứ không nắm giữ. Khi quán vô thường vị ấy từ bỏ nhận thức về trường tồn; khi quán khổ vị ấy từ bỏ nhận thức về vui sướng; khi quán không phải là ngã vị ấy từ bỏ nhận thức về ngã; khi vị ấy trở nên nhàm chán vị ấy từ bỏ ưa thích; khi lòng tham của vị ấy phai nhạt đi, vị ấy từ bỏ tham; khi vị ấy làm cho diệt tận, vị ấy từ bỏ sanh khởi; khi vị ấy buông bỏ, vị ấy không nắm giữ.

Tâm có cảm nghiệm làm đối tượng khởi lên… [hoàn tất như trên]…

Tâm có nhận thức làm đối tượng khởi lên…

Tâm có tạo lập tâm trạng khởi lên…

Tâm có thức làm đối tượng khởi lên… [hoàn tất như trên]… khi vị ấy buông bỏ, vị ấy không nắm giữ.

Tâm có mắt làm đối tượng khởi lên… [và cứ thế với 201 ý niệm còn lại liệt kê ở đ. 5 cho đến]…

Tâm có già và chết làm đối tượng khởi lên… [hoàn tất như trên]… khi vị ấy buông bỏ, vị ấy không nắm giữ.

297. Sự thay thế đối tượng
Sự thuyên chuyển tuệ tri
Năng lực tạo chú ý – Đây là
Quán thực tánh theo sau tư duy.
Thấy cả hai giống nhau
Do suy luận từ một đối tượng,
Chú tâm vào diệt – đây là
Quán thực tánh trong tướng diệt.
Sau khi suy tưởng về đối tượng
Vị ấy quán hoại diệt,
từ đó biểu lộ rỗng không – đây
là quán thực tánh tăng thượng
Thuần thục về ba quán tưởng,
Và cả về quán thực tánh bốn phần,
Thuần thục ba biểu hiện
Các quan điểm sai lạc khác sẽ không lay chuyển vị ấy.

298. Trí theo nghĩa điều được biết tới và tuệ theo nghĩa hành vi hiểu biết đó. Như vậy nên nói: ‘Tuệ quán sự diệt [của tâm] sau khi quán tưởng về đối tượng là trí quán thực tánh.’



[59] [CHƯƠNG VIII – BIỂU HIỆN HÃI HÙNG]

299. Thế nào là tuệ về biểu hiện hãi hùng là trí quán nguy hiểm?

300. (1. a) Tuệ về biểu hiện hãi hùng như vầy: ‘Nguồn sanh khởi của hiện hữu là hãi hùng’ là trí quán nguy hiểm. Tuệ về biểu hiện hãi hùng như vầy: ‘Tiếp tục tái diễn hiện hữu là hãi hùng’… ‘Điều kiện để còn sanh tử là hãi hùng’… ‘Tích lũy là hãi hùng’… ‘Kết sanh là hãi hùng’… ‘Cảnh giới sẽ tái sanh vào là hãi hùng’… ‘Sanh sản là hãi hùng’… ‘Tái sanh khởi là hãi hùng’… ‘Sanh là hãi hùng’… ‘Già là hãi hùng’… ‘Bệnh là hãi hùng’… ‘Chết là hãi hùng’… ‘Khổ não là hãi hùng’… ‘Ta thán là hãi hùng’… Tuệ về biểu hiện hãi hùng như vầy ‘Tuyệt vọng là hãi hùng’ là trí quán nguy hiểm.

 (1. b) Trí về trạng thái an lạc (santipada) là điều này: ‘không còn nguồn sanh khởi của hiện hữu là an ổn’. Trí về trạng thái an lạc là điều này: ‘không tiếp tục tái diễn hiện hữu là an ổn’ … [và cứ thế với 15 ý niệm còn lại liệt kê ở đ. 18]… Trí về trạng thái an lạc là điều này: ‘Không tuyệt vọng là an ổn’.

 (1. c) Trí về trạng thái an lạc là điều này: ‘Nguồn sanh khởi của hiện hữu là hãi hùng, không sanh khởi là an ổn’… [và cứ thế như ở đ. 18]… Trí về trạng thái an lạc là điều này: ‘Tuyệt vọng là hãi hùng và không tuyệt vọng là an ổn’.

301. (2.a) Tuệ về biểu hiện hãi hùng như vầy: ‘Nguồn sanh khởi của hiện hữu là khổ đau’ là trí quán nguy hiểm… [và cứ thế như ở đ. 19]… Tuệ về biểu hiện hãi hùng như vầy ‘Tuyệt vọng là khổ đau’ là trí quán nguy hiểm.

 (2.b) Trí về trạng thái an lạc là điều này ‘không còn nguồn sanh khởi của hiện hữu là hạnh phúc toàn hảo’… Trí về trạng thái an lạc là điều này ‘Không tuyệt vọng là hạnh phúc toàn hảo’.

 (2.c) Trí về trạng thái an lạc là điều này: ‘Nguồn sanh khởi của hiện hữu là khổ đau, không còn nguồn sanh khởi của hiện hữu là hạnh phúc toàn hảo’… Trí về trạng thái an lạc là điều này: ‘Tuyệt vọng là khổ đau, Không tuyệt vọng là hạnh phúc toàn hảo’.

302. (3.a) Tuệ về biểu hiện hãi hùng như vầy: ‘Nguồn sanh khởi của hiện hữu là thế tục’ là trí quán nguy hiểm… Tuệ về biểu hiện hãi hùng như vầy: ‘Tuyệt vọng là thế tục’ là trí quán nguy hiểm. [60]

 (3.b) Trí về trạng thái an lạc là điều này ‘không còn nguồn sanh khởi của hiện hữu là phi thế tục’… Trí về trạng thái an lạc là điều này ‘Không tuyệt vọng là phi thế tục’.

 (3.c) Trí về trạng thái an lạc là điều này ‘Tuyệt vọng là thế tục, không tuyệt vọng là phi thế tục’.

303. (4.a) Tuệ về biểu hiện hãi hùng như vầy: ‘Nguồn sanh khởi của hiện hữu là hành vi tạo quả’ là trí quán nguy hiểm… Tuệ về biểu hiện hãi hùng như vầy: ‘Tuyệt vọng là hành vi tạo quả’ là trí quán nguy hiểm.

 (4.b) Trí về trạng thái an lạc là điều này ‘Không còn nguồn sanh khởi là nibbana, không tuyệt vọng là nibbana’.

 (4.c) Trí về trạng thái an lạc là điều này ‘Nguồn sanh khởi của hiện hữu là các hành vi tạo quả, không còn sanh khởi của hiện hữu là nibbana’… Trí về trạng thái an lạc là điều này ‘Tuyệt vọng là hành vi tạo quả, không tuyệt vọng là nibbana.’

304. Vị ấy quán khổ đau

 Nguồn sanh khởi của hiện hữu, tiếp tục tái diễn hiện hữu, và điều kiện để còn sanh tử,

 Tích lũy, kết sanh –

 Và đây là trí quán về nguy hiểm của vị ấy.

 Vị ấy quán là hạnh phúc toàn hảo:

 Không còn nguồn sanh khởi của hiện hữu, không tiếp tục tái diễn hiện hữu, không có điều kiện để còn sanh tử,

 không tích lũy, không kết sanh –

 Và đây là trí quán về an lạc của vị ấy.

 Trí quán về nguy hiểm có

 Năm nguồn cội;

 Trí quán về an lạc cũng có năm –

 Vị ấy hiểu rõ cả mười trí ấy.

 Thuần thục hai loại trí này

 Các quan điểm sai lạc khác sẽ không lay chuyển vị ấy.

305. Trí theo nghĩa điều được biết tới và tuệ theo nghĩa hành vi hiểu biết đó. Như vậy nên nói: ‘Tuệ về biểu hiện hãi hùng là trí quán nguy hiểm.’



[CHƯƠNG IX – BÌNH THẢN TRƯỚC HÀNH VI TẠO QUẢ]

306. Thế nào là tuệ muốn giải thoát, tư duy và điềm tĩnh,* là trí bình thản trước các hành vi tạo quả? (cf. Thag 270 và ThagA).

* santiṭṭhanā: điềm tĩnh.

307. Tuệ muốn giải thoát, tư duy và điềm tĩnh, [bận bịu với] nguồn sanh khởi của hiện hữu là trí bình thản trước hành vi tạo quả. Tuệ muốn giải thoát, tư duy, và điềm tĩnh, [bận bịu với] tiếp tục tái diễn hiện hữu… [và cứ thế với 15 ý niệm còn lại liệt kê ở đ. 18]… Tuệ muốn giải thoát, tư duy và điềm tĩnh, [bận bịu với] tuyệt vọng là trí bình thản trước hành vi tạo quả.

308. Tuệ muốn giải thoát, tư duy và điềm tĩnh như vầy: ‘Nguồn sanh khởi của hiện hữu là khổ đau’ là trí bình thản trước hành vi tạo quả [61]… Tuệ muốn giải thoát, tư duy và điềm tĩnh như vầy: ‘Tuyệt vọng là khổ đau’ là trí bình thản trước hành vi tạo quả.

309. Tuệ muốn giải thoát, tư duy và điềm tĩnh như vầy: ‘Nguồn sanh khởi của hiện hữu là hãi hùng’ là trí bình thản trước hành vi tạo quả… Tuệ muốn giải thoát, tư duy và điềm tĩnh như vầy: ‘Tuyệt vọng là hãi hùng’ là trí bình thản trước hành vi tạo quả.

310. Tuệ muốn giải thoát, tư duy và điềm tĩnh như vầy: ‘Nguồn sanh khởi của hiện hữu là thế tục’ là trí bình thản trước hành vi tạo quả… Tuệ muốn giải thoát, tư duy và điềm tĩnh như vầy: ‘Tuyệt vọng là thế tục’ là trí bình thản trước hành vi tạo quả.

311. Tuệ muốn giải thoát, tư duy và điềm tĩnh như vầy: ‘Nguồn sanh khởi của hiện hữu là các hành vi tạo quả’ là trí bình thản trước hành vi tạo quả… Tuệ muốn giải thoát, tư duy và điềm tĩnh như vầy: ‘Tuyệt vọng là hành vi tạo quả’ là trí bình thản trước hành vi tạo quả.

312. Nguồn sanh khởi của hiện hữu là các hành vi tạo quả; vị ấy vô can nhìn các hành vi tạo quả với lòng bình thản: như vậy là bình thản trước hành vi tạo quả. Cả hai hành vi tạo quả và lòng bình thản đều là hành vi tạo tác; vị ấy vô can nhìn các hành vi tạo tác ấy với lòng bình thản: như vậy là bình thản trước hành vi tạo quả. Tiếp tục tái diễn hiện hữu là hành vi tạo quả… Tuyệt vọng là hành vi tạo quả, vị ấy vô can nhìn các hành vi tạo quả với lòng bình thản: như vậy là bình thản trước hành vi tạo quả. Cả hai hành vi tạo quả và lòng bình thản đều là hành vi tạo tác; vị ấy vô can nhìn các hành vi tạo tác ấy với lòng bình thản: như vậy là bình thản trước hành vi tạo quả.

313. Với người thế tục, có bao nhiêu cách điều hướng tâm để được bình thản trước hành vi tạo quả?

Với người thế tục, có tám cách điều hướng tâm để được bình thản trước hành vi tạo quả.

314. Với người hữu học (còn tu tập), có bao nhiêu cách điều hướng tâm để được bình thản trước hành vi tạo quả? Với người không còn tham, có bao nhiêu cách điều hướng tâm để được bình thản trước hành vi tạo quả? [62] Với người thế tục, có hai cách điều hướng tâm để được bình thản trước hành vi tạo quả. Với người hữu học (còn tu tập), có ba cách điều hướng tâm để được bình thản trước hành vi tạo quả. Với người không còn tham, có ba cách điều hướng tâm để được bình thản trước hành vi tạo quả.

315. Với người thế tục, hai cách điều hướng tâm để được bình thản trước hành vi tạo quả là gì?

Người thế tục hoặc thích thú bình thản trước hành vi tạo quả hay thấy rõ nó bằng quán thực tánh. Với người thế tục, đây là hai cách điều hướng tâm để được bình thản trước hành vi tạo quả.

316. Với người hữu học (còn tu tập), ba cách điều hướng tâm để được bình thản trước hành vi tạo quả là gì?

Với người hữu học, hoặc ưa thích bình thản trước hành vi tạo quả hay thấy rõ nó bằng quán thực tánh, hay sau khi quán tưởng, vị ấy trú vào thành quả đắc được [của đạo lộ]. Với người hữu học, đây là ba cách điều hướng tâm để được bình thản trước hành vi tạo quả.

317. Với người không còn tham, ba cách điều hướng tâm để được bình thản trước hành vi tạo quả là gì?

Với người không còn tham nhìn bình thản trước hành vi tạo quả bằng quán thực tánh, hay sau khi quán tưởng, trú vào thành quả đắc được «của đạo lộ» hay bằng cách vô can nhìn với lòng bình thản, vị ấy sống trú trong trống không hay sống trú trong không dấu hiệu hay sống trú trong không ước nguyện. Với người không còn tham, đây là ba cách điều hướng tâm để được bình thản trước hành vi tạo quả.

318. Thế nào là sự tương đồng giữa cách điều hướng tâm để được bình thản trước hành vi tạo quả của người thế tục và của người hữu học?

Khi ưa thích bình thản trước hành vi tạo quả, người thế tục làm ô nhiễm tâm của mình, và đấy là chướng ngại cho tu tập, trở ngại cho sự thấu suốt liễu tri, một điều kiện cho kết sanh trong tương lai. Khi ưa thích bình thản trước hành vi tạo quả, người hữu học làm ô nhiễm tâm của mình, và đấy là chướng ngại cho tu tập, trở ngại cho sự thấu suốt liễu tri, một điều kiện cho kết sanh trong tương lai. Đây là sự tương đồng giữa cách điều hướng tâm để được bình thản trước hành vi tạo quả của người thế tục và người hữu học (còn tu tập).

319. Thế nào là sự tương đồng giữa cách điều hướng tâm để được bình thản trước hành vi tạo quả của người thế tục, của người hữu học và của người không còn tham?

Người thế tục thấy bình thản trước hành vi tạo quả bằng quán thực tánh là vô thường, khổ đau và không phải là ngã. Người hữu học thấy bình thản trước hành vi tạo quả bằng quán thực tánh là vô thường, khổ đau và không phải là ngã. Người không còn tham thấy bình thản trước hành vi tạo quả bằng quán thực tánh là vô thường, khổ đau và không phải là ngã. [63] Đây là sự tương đồng giữa cách điều hướng tâm để được bình thản trước hành vi tạo quả của người thế tục, người hữu học và người không còn tham.

320. Thế nào là sự khác biệt giữa cách điều hướng tâm để được bình thản trước hành vi tạo quả của người thế tục, của người hữu học và của người không còn tham?

Với người thế tục, bình thản trước hành vi tạo quả là thiện. Với người hữu học, bình thản trước hành vi tạo quả là thiện. Với người không còn tham, bình thản trước hành vi tạo quả là bất định. Đây là sự khác biệt giữa cách điều hướng tâm để được bình thản trước hành vi tạo quả của người thế tục, của người hữu học và của người không còn tham theo nghĩa thiện và bất thiện.

321. Thế nào là sự khác biệt giữa cách điều hướng tâm để được bình thản trước hành vi tạo quả của người thế tục, của người hữu học và của người không còn tham?

Với người thế tục, bình thản trước hành vi tạo quả đôi khi được nhận ra rõ ràng, đôi khi không được nhận ra rõ ràng. Với người hữu học, đôi khi được nhận ra rõ ràng, đôi khi không được nhận ra rõ ràng. Với người không còn tham, bình thản trước hành vi tạo quả luôn luôn được nhận ra rõ ràng. Đây là sự khác biệt giữa các cách điều hướng tâm để được bình thản trước hành vi tạo quả của người thế tục, người hữu học và người không còn tham theo nghĩa điều được nhận ra và không được nhận ra.

322. Thế nào là sự khác biệt giữa các cách điều hướng tâm để được bình thản trước hành vi tạo quả của người thế tục, của người hữu học và của người không còn tham?

Người thế tục thấy bình thản trước hành vi tạo quả với quán thực tánh còn non xanh. Người hữu học thấy bình thản trước hành vi tạo quả với quán thực tánh còn non xanh. Người không còn tham thấy bình thản trước hành vi tạo quả với quán thực tánh đã chín mùi. Đây là sự khác biệt giữa các cách điều hướng tâm để được bình thản trước hành vi tạo quả của người thế tục, người hữu học và người không còn tham theo nghĩa chín mùi và không chín mùi.

323. Thế nào là sự khác biệt giữa các cách điều hướng tâm để được bình thản trước hành vi tạo quả của người thế tục, của người hữu học và của người không còn tham?

Người thế tục thấy rõ bình thản trước hành vi tạo quả bằng quán thực tánh để chứng đạo lộ nhập giòng do từ bỏ ba kết buộc. Người hữu học thấy rõ bình thản trước hành vi tạo quả bằng quán thực tánh để chứng [đạo lộ] cao hơn, sau khi ba kết buộc đã bị từ bỏ. Người không còn tham thấy rõ bình thản trước hành vi tạo quả với quán thực tánh để sống trú trong hạnh phúc toàn hảo ở ngay đây và ngay bây giờ, sau khi tất cả các nhiễm lậu đã bị đoạn diệt. Đây là sự khác biệt giữa các cách điều hướng tâm để được bình thản trước hành vi tạo quả của người thế tục, người hữu học và người không còn tham theo nghĩa cái gì bị từ bỏ và không bị từ bỏ. [64]

324. Thế nào là sự khác biệt giữa các cách điều hướng tâm để được bình thản trước hành vi tạo quả của người thế tục, người hữu học và người không còn tham?

Người thế tục hoặc ưa thích bình thản trước hành vi tạo quả hay thấy rõ nó bằng quán thực tánh. Với người hữu học, hoặc ưa thích bình thản trước hành vi tạo quả hay thấy rõ nó bằng quán thực tánh, hay sau khi quán tưởng, vị ấy chứng trú vào thành quả đắc được [của đạo lộ]. Với người không còn tham nhìn bình thản trước hành vi tạo quả bằng quán thực tánh, hay sau khi quán tưởng, chứng trú vào thành quả đắc được «của đạo lộ» hay bằng cách vô can nhìn với lòng bình thản, vị ấy sống trú trong trống không hay sống trong không biểu tượng hay sống trong không ước nguyện. Đây là sự khác biệt giữa các cách điều hướng tâm để được bình thản trước hành vi tạo quả của người thế tục, của người hữu học và của người không còn tham theo nghĩa sống trú và thành đạt.

325. Có bao nhiêu loại bình thản trước hành vi tạo quả nhờ tĩnh lặng? Có bao nhiêu loại bình thản trước hành vi tạo quả nhờ quán thực tánh?

Tám loại bình thản trước hành vi tạo quả nhờ tĩnh lặng. Mười loại bình thản trước hành vi tạo quả nhờ quán thực tánh.

326. Tám loại bình thản trước hành vi tạo quả nhờ tĩnh lặng là gì?

Tuệ tư duy đến chướng ngại với mục đích chứng đạt sơ thiền và điềm tĩnh, là trí về bình thản trước hành vi tạo quả. Tuệ tư duy đến hướng tâm về đối tượng và suy xét đối tượng với mục đích chứng đạt nhị thiền và điềm tĩnh, là trí về bình thản trước hành vi tạo quả. Tuệ tư duy về hỉ với mục đích chứng đạt tam thiền và điềm tĩnh, là trí về bình thản trước hành vi tạo quả. Tuệ tư duy về lạc và khổ với mục đích chứng đạt tứ thiền và điềm tĩnh, là trí bình thản trước hành vi tạo quả. Tuệ tư duy đến nhận thức về sắc thể, nhận thức về chống đối và nhận thức về sai biệt với mục đích chứng đạt cõi không gian vô biên và điềm tĩnh, là trí về bình thản trước hành vi tạo quả. Tuệ tư duy đến nhận thức về cõi không gian vô biên với mục đích chứng đạt cõi thức vô biên và điềm tĩnh, là trí bình thản trước hành vi tạo quả. Tuệ tư duy đến nhận thức về cõi thức vô biên với mục đích chứng đạt cõi không có gì và điềm tĩnh, là trí về bình thản trước hành vi tạo quả. Tuệ tư duy đến nhận thức về cõi không có gì với mục đích chứng đạt cõi không có nhận thức cũng không phải không có nhận thức và điềm tĩnh, là trí bình thản trước hành vi tạo quả.

Đây là tám loại bình thản trước hành vi tạo quả nhờ tĩnh lặng.

327. Mười loại bình thản trước hành vi tạo quả nhờ quán thực tánh là gì? [65]

Tuệ tư duy về nguồn sanh khởi của hiện hữutiếp tục tái diễn của hiện hữuđiều kiện để còn sanh tử, tích lũy, kết sanh, cảnh giới sẽ tái sanh, tái xuất hiện, sanh, già, bệnh, chết, sầu não, ta thán, tuyệt vọng, và về điềm tĩnh, với mục đích chứng đạt đạo lộ nhập giòng là trí về bình thản trước hành vi tạo quả. Tuệ tư duy về nguồn sanh khởi của hiện hữu,… tuyệt vọng, và về điềm tĩnh, với mục đích chứng đạt quả vị nhập giòng là trí về bình thản trước hành vi tạo quả. Tuệ… đạo lộ trở lại một lần… quả vị trở lại một lần… đạo lộ không trở lại… quả vị không trở lại… đạo lộ arahant… <quả vị arahant… sống trú trong trống không…> Tuệ tư duy về nguồn sanh khởi của hiện hữu,… tuyệt vọng, và về điềm tĩnh, với mục đích chứng đạt an trú trong không dấu hiệu>, và về điềm tĩnh, là trí về bình thản trước hành vi tạo quả.

Đây là mười loại bình thản trước hành vi tạo quả nhờ quán thực tánh.

328. Có bao nhiêu loại bình thản trước hành vi tạo quả là thiện? Có bao nhiêu bất thiện? Có bao nhiêu bất định tính?

Có mười lăm loại bình thản trước hành vi tạo quả là thiện. Có ba loại bình thản trước hành vi tạo quả là bất định tính. Không có loại bình thản trước hành vi tạo quả bất thiện.

329. [Bây giờ] tuệ về tư duy
Và điềm tĩnh [như sau]:
Tám lãnh vực của tâm
Là: hai cho người thế tục
Và ba cho người hữu học
Và ba cho người đã hết tham, qua đó
Tâm của vị đó đã quay đi.
Với định, có tám điều kiện,
Và có mười lãnh vực cho trí, nữa
Chúng tạo thành mười tám loại
Bình thản trước hành vi tạo quả,
Tự chúng làm điều kiện cho
[Cả] ba loại giải thoát.
[Nên] người đã có tuệ
Khiến cho [tất cả] 18 hình thái này xảy ra
Thuần thục về bình thản
Trước hành vi tạo quả, và vì thế
Các nhận thức sai lạc khác sẽ không lay chuyển vị ấy.

330. Trí theo nghĩa điều được biết tới và tuệ theo nghĩa hành vi hiểu biết đó. Như vậy nên nói: ‘Tuệ muốn giải thoát, tư duy và điềm tĩnh, là trí về các loại bình thản trước hành vi tạo quả.’



[CHƯƠNG X – CHUYỂN TÁNH]

331. Thế nào là tuệ trồi lên và quay đi từ bên ngoài là trí chuyển tánh?

332. Nó vượt qua nguồn sanh khởi của hiện hữu, như vậy nó là chuyển tánh. Nó vượt qua tiếp tục tái diễn hiện hữu… điều kiện để còn sanh tử… tích lũy… kết sanh… cảnh giới sẽ tái sanh vào… sanh sản… tái sanh khởi… sanh… già… bệnh… chết… sầu não… ta thán… nó vượt qua tuyệt vọng, như vậy nó là chuyển tánh. Nó vượt qua biểu tượng của hành vi tạo quả bên ngoài,* như vậy nó là chuyển tánh. Nó nhập vào2* không còn nguồn sanh khởi của hiện hữu, như vậy nó là chuyển tánh. Nó nhập vào vô sanh… Nó nhập vào không tuyệt vọng, như vậy là chuyển tánh. Nó nhập vào đoạn diệt, nibbana, như vậy nó là chuyển tánh.

vượt qua biểu tượng của hành vi tạo quả bên ngoài là trồi lên khỏi giới vực của hành vi tạo quả, được gọi là ‘bên ngoài’ vì nibbana không do điều kiện tạo thành nằm ở bên ngoài (Pm. 866).

2*pakkhandati có nghĩa là anupavisati: nhập vào, đi vào (Pm. 866).

Sau khi vượt qua nguồn sanh khởi của hiện hữu, nó nhập vào không còn nguồn sanh khởi của hiện hữu, như vậy nó là chuyển tánh. Sau khi vượt qua sanh, nó nhập vào vô sanh… Sau khi vượt qua tuyệt vọng, nó nhập vào không tuyệt vọng… như vậy là chuyển tánh. Sau khi vượt qua biểu tượng của hành vi tạo quả bên ngoài, nó nhập vào đoạn diệt, nibbana, như vậy nó là chuyển tánh.

333. Nó trồi lên từ nguồn sanh khởi của hiện hữu, như vậy nó là chuyển tánh… Nó trồi lên từ tuyệt vọng, như vậy nó là chuyển tánh. Nó trồi lên từ biểu tượng của hành vi tạo quả bên ngoài, như vậy nó là chuyển tánh.

Nó nhập vào không còn nguồn sanh khởi của hiện hữu, như vậy nó là chuyển tánh… Nó nhập vào không tuyệt vọng, như vậy nó là chuyển tánh. Nó nhập vào đoạn diệt, nibbana, như vậy nó là chuyển tánh.

Sau khi trồi lên từ nguồn sanh khởi của hiện hữu, nó nhập vào không còn nguồn sanh khởi của hiện hữu, như vậy nó là chuyển tánh… [67] Sau khi trồi lên từ tuyệt vọng, nó nhập vào không tuyệt vọng… như vậy nó là chuyển tánh. Sau khi trồi lên từ biểu tượng của hành vi tạo quả bên ngoài, nó nhập vào đoạn diệt, nibbana, như vậy nó là chuyển tánh.

334. Nó quay đi từ nguồn sanh khởi của hiện hữu, như vậy nó là chuyển tánh. Nó quay đi từ tuyệt vọng, như vậy nó là chuyển tánh. Nó quay đi từ biểu tượng của hành vi tạo quả bên ngoài, như vậy nó là chuyển tánh.

Nó nhập vào không còn nguồn sanh khởi của hiện hữu, như vậy nó là chuyển tánh… Nó nhập vào không tuyệt vọng, như vậy nó là chuyển tánh. Nó nhập vào đoạn diệt, nibbana, như vậy nó là chuyển tánh.

Sau khi quay đi từ nguồn sanh khởi của hiện hữu, nó nhập vào không còn sanh khởi của hiện hữu, như vậy nó là chuyển tánh… Sau khi quay đi từ tuyệt vọng, nó nhập vào không tuyệt vọng… như vậy nó là chuyển tánh. Sau khi quay đi từ biểu tượng của hành vi tạo quả bên ngoài, nó nhập vào đoạn diệt, nibbana, như vậy nó là chuyển tánh.

335. Có bao nhiêu ý niệm về chuyển tánh khởi lên nhờ tĩnh lặng? Có bao nhiêu ý niệm về chuyển tánh khởi lên nhờ quán thực tánh?

Có tám ý niệm về chuyển tánh khởi lên nhờ tĩnh lặng. Có mười ý niệm về chuyển tánh khởi lên nhờ quán thực tánh.

336. Tám ý niệm về chuyển tánh khởi lên nhờ tĩnh lặng là gì? Để chứng sơ thiền, nó vượt qua chướng ngại, như vậy là chuyển tánh. Để chứng nhị thiền… [và cứ thế như ở đ. 326 cho đến]… [68] Để chứng cõi không có nhận thức cũng không phải không có nhận thức, nó vượt qua nhận thức về cõi không có gì, như vậy nó là chuyển tánh.

Đây là tám ý niệm về chuyển tánh khởi lên nhờ tĩnh lặng.

337. Mười ý niệm về chuyển tánh khởi lên nhờ quán thực tánh là gì? Để chứng đạo lộ nhập giòng, nó vượt qua nguồn sanh khởi của hiện hữu, như vậy nó là chuyển tánh… [và cứ thế như ở đ. 327 cho đến]… tuyệt vọng, biểu tượng của hành vi tạo quả bên ngoài, như vậy nó là chuyển tánh. Để chứng quả vị nhập giòng, nó vượt qua nguồn sanh khởi của hiện hữu, như vậy là chuyển tánh. Để chứng đạo lộ trở lại một lần… quả vị trở lại một lần… đạo lộ không trở lại… quả vị không trở lại… đạo lộ arahant… <quả vị arahant… sống trú trong trống không…> Để chứng <không biểu tượng> nó vượt qua nguồn sanh khởi của hiện hữu, tuyệt vọng, biểu tượng của hành vi tạo quả bên ngoài, như vậy nó là chuyển tánh.

Đây là mười loại bình thản trước hành vi tạo quả nhờ quán thực tánh.

338. Có bao nhiêu ý niệm chuyển tánh thiện? Có bao nhiêu ý niệm chuyển tánh bất thiện? Có bao nhiêu ý niệm chuyển tánh bất định tính?

Có mười lăm ý niệm chuyển tánh thiện. Ba ý niệm chuyển tánh bất định tính. Không có bao nhiêu ý niệm chuyển tánh bất thiện.

339. Vật thể và phi vật thể,
Ước nguyện và không ước nguyện,
Bị kết buộc và không kết buộc,
trồi lên và không trồi lên.
Với định, có tám điều kiện,
Và có mười lãnh vực cho trí, nữa
Tạo thành mười tám loại của
Trạng thái chuyển tánh
Tự chúng làm điều kiện cho
[Cả] ba loại giải thoát.
[Nên] người có tuệ đã
Khiến cho [tất cả] 18 hình thái này xảy ra
Thuần thục về quay đi
như thuần thục về trồi lên, và vì thế
Các quan điểm sai khác kia sẽ không lay chuyển vị ấy.

340. Trí theo nghĩa điều được biết tới và tuệ theo nghĩa hành vi hiểu biết đó. Như vậy nên nói: ‘Tuệ trồi lên và quay đi từ bên ngoài là chuyển tánh.’ [69]



[CHƯƠNG XI – ĐẠO LỘ]

341. Thế nào là tuệ trồi lên và quay đi từ [bên ngoài lẫn bên trong] là trí về đạo lộ?

342. Vào khoảnh khắc ở đạo lộ nhập giòng:

Chánh kiến theo nghĩa thấy rõ (a) trồi lên từ quan điểm sai lạc, và nó trồi lên từ nhiễm lậu và từ các tập hợp do nhiễm lậu sanh, và (b) từ bên ngoài, nó trồi lên từ tất cả các biểu tượng; như vậy nên nói: ‘Trí về đạo lộ là tuệ trồi lên và quay đi khỏi cả hai bên’.

Chánh tư duy theo nghĩa hướng tâm trụ vào (a) trồi lên…

Chánh ngữ theo nghĩa giữ gìn lời nói (a) trồi lên…

Chánh hành theo nghĩa nguồn sanh khởi (a) trồi lên…

Chánh mạng theo nghĩa giữ cho sạch (a) trồi lên…

Chánh tinh tấn theo nghĩa nỗ lực (a) trồi lên…

Chánh niệm theo nghĩa thiết lập (a) trồi lên…

Chánh định theo nghĩa không phân tâm (a) trồi lên từ định sai lạc và nó trồi lên từ các nhiễm lậu và từ các tập hợp do nhiễm lậu sanh, và (b) từ bên ngoài, nó trồi lên từ tất cả các dấu hiệu; như vậy nên nói: ‘Trí về đạo lộ là tuệ trồi lên và quay đi khỏi cả hai bên’.

343. Vào khoảnh khắc ở đạo lộ trở lại một lần:

Chánh kiến theo nghĩa thấy [70]… chánh định theo nghĩa không phân tâm (a) trồi lên từ những kết buộc thô của ham muốn ái dục và của sự đối kháng lại, từ những khuynh hướng ngủ ngầm thô của ham muốn ái dục và của sự chống đối lại, trồi lên từ những nhiễm lậu và từ các tập hợp do nhiễm lậu sanh, và (b) từ bên ngoài, nó trồi lên từ tất cả các dấu hiệu*; như vậy nên nói: ‘Trí về đạo lộ là tuệ về trồi lên và quay đi từ cả hai bên’.

 * dấu hiệu là biểu tượng của năm tập hợp. Đọc Vism. XXIII đ. 13.

344. Vào khoảnh khắc ở đạo lộ không trở lại:

Chánh kiến theo nghĩa thấy… chánh định theo nghĩa không phân tâm (a) trồi lên từ những kết buộc còn xót lại của ham muốn ái dục và của sự chống đối, từ những khuynh hướng ngủ ngầm còn xót lại của ham muốn ái dục và của sự đối kháng lại, xuất khởi từ những nhiễm lậu và từ các tập hợp do nhiễm lậu sanh, và (b) từ bên ngoài, nó trồi lên từ tất cả các dấu hiệu; như vậy nên nói: ‘Trí về đạo lộ là tuệ trồi lên và quay đi từ cả hai bên’.

345. Vào khoảnh khắc ở đạo lộ Arahant:

Chánh kiến theo nghĩa thấy… chánh định theo nghĩa không phân tâm (a) trồi lên từ ham muốn hiện hữu cõi sắc giới, từ ham muốn hiện hữu cõi vô sắc giới, từ ngã mạn, từ dao động, từ vô minh, và (b) từ bên ngoài, nó trồi lên từ tất cả các dấu hiệu; như vậy nên nói: ‘Trí về đạo lộ là tuệ về trồi lên và quay đi từ cả hai bên’.

346. Vị ấy thiêu đốt (đọc từ PsA là jhāpeti) cái không sanh bằng cái sanh,
Từ đó jhāna có tên như thế
Nhờ thuần thục về giải thoát jhana
Các quan điểm sai khác sẽ không lay chuyển vị ấy
Nếu sau khi định, vị ấy thấy bằng trí trực quán
và cũng thế, sau trí trực quán, vị ấy tập trung
Thì quán thực tánh và tĩnh lặng tăng cấp
Và buộc đều vào nhau
Thấy hành vi tạo quả là khổ
và đoạn diệt là lạc
Tuệ từ hai trồi lên này
Chạm trạng thái Vô sanh
vị ấy biết rõ con đường giải thoát
Thuần thục trong khác biệt và nhất điểm
Khi thuần thục trong hai loại trí ấy
Các quan điểm sai khác sẽ không lay chuyển vị ấy.

347. Trí theo nghĩa điều được biết tới và tuệ theo nghĩa hành vi hiểu biết đó. Như vậy nên nói: ‘Tuệ trồi lên và quay đi từ [bên ngoài lẫn bên trong] là trí về đạo lộ’. [71]



[CHƯƠNG XII – QUẢ VỊ]

348. Thế nào là tuệ về làm lắng dịu nỗ lực* là trí về quả?

 * Đọc chú thích ở đ. 27 Luận I về nỗ lực.

349. Vào khoảnh khắc ở đạo lộ nhập giòng:

Chánh kiến theo nghĩa thấy trồi lên từ quan điểm sai lạc, và nó trồi lên từ nhiễm lậu và từ các tập hợp do nhiễm lậu sanh, và từ bên ngoài, nó trồi lên từ tất cả các dấu hiệu. Chánh kiến khởi lên vì sự lắng dịu nỗ lực đó: Đây là quả của đạo lộ.

Chánh tư duy theo nghĩa hướng tâm trụ vào trồi lên…

Chánh ngữ theo nghĩa giữ gìn lời nói trồi lên…

Chánh hành theo nghĩa nguồn sanh khởi trồi lên…

Chánh mạng theo nghĩa giữ cho sạch trồi lên…

Chánh tinh tấn theo nghĩa nỗ lực trồi lên…

Chánh niệm theo nghĩa thiết lập trồi lên…

Chánh định theo nghĩa không tán loạn trồi lên từ định sai lạc và nó trồi lên từ các nhiễm lậu và từ các tập hợp do nhiễm lậu sanh, và từ bên ngoài, nó trồi lên từ tất cả các dấu hiệu. Chánh định [72] khởi lên vì sự lắng dịu nỗ lực đó: Đây là quả của đạo lộ.

350. Vào khoảnh khắc ở đạo lộ trở lại một lần:

Chánh kiến theo nghĩa thấy… chánh định theo nghĩa không phân tâm trồi lên từ những kết buộc thô của ham muốn ái dục và của sự chống đối lại, từ những khuynh hướng ngủ ngầm thô của ham muốn ái dục và của sự chống đối lại, trồi lên từ những nhiễm lậu và từ các tập hợp do nhiễm lậu sanh, và từ bên ngoài, nó trồi lên từ tất cả các dấu hiệu. Chánh kiến khởi lên vì sự lắng dịu nỗ lực đó: Đây là quả của đạo lộ.

351. Vào khoảnh khắc ở đạo lộ không trở lại:

Chánh kiến theo nghĩa thấy… chánh định theo nghĩa không phân tâm trồi lên từ những kết buộc còn xót lại ham muốn ái dục và của sự chống đối lại, từ những khuynh hướng ngủ ngầm còn xót lại của ham muốn ái dục và của sự chống đối lại, nó trồi lên từ những nhiễm lậu và từ các tập hợp do nhiễm lậu sanh, và từ bên ngoài, nó trồi lên từ tất cả các dấu hiệu. Chánh kiến khởi lên vì sự lắng dịu nỗ lực đó: Đây là quả của đạo lộ.

352. Vào khoảnh khắc ở đạo lộ Arahant:

Chánh kiến theo nghĩa thấy… chánh định theo nghĩa không phân tâm trồi lên từ khao khát hiện hữu cõi sắc giới, từ khao khát hiện hữu cõi vô sắc giới, từ ngã mạn, từ dao động, từ vô minh, từ khao khát hiện hữu trở thành, và từ vô minh, và nó trồi lên từ những nhiễm lậu và từ các tập hợp do nhiễm lậu sanh, và từ bên ngoài, nó trồi lên từ tất cả các dấu hiệu. Chánh kiến khởi lên vì sự lắng dịu nỗ lực đó: Đây là quả của đạo lộ.

353. Trí theo nghĩa điều được biết tới và tuệ theo nghĩa hành vi hiểu biết đó. Như vậy nên nói: ‘Tuệ về lắng dịu nỗ lực là trí về quả’.



[CHƯƠNG XIII – GIẢI THOÁT]

354. Thế nào là tuệ quán bất toàn bị cắt bỏ là trí về giải thoát?

355. Đến giai đoạn đạo lộ nhập giòng, các bất toàn sau đây bị cắt bỏ hẳn trong tâm người tu tập:

1.      quan điểm [sai lạc] cho ngã* trường tồn
*
sakkāyadiṭṭhi

2.      hoài nghi,

3.      diễn giải sai về giới và nghi lễ,

i.         khuynh hướng tiềm ẩn đến quan điểm [sai lạc]

ii.       khuynh hướng tiềm ẩn đến hoài nghi

Tâm đã được giải thoát, hoàn toàn giải thoát khỏi năm bất toàn này với các hình thái ám ảnh của chúng. [73]

Trí theo nghĩa giải thoát khỏi các bất toàn và tuệ theo nghĩa hành vi hiểu biết đó. Như vậy nên nói: ‘tuệ quán bất toàn bị cắt bỏ là trí về giải thoát’.

356. Đến giai đoạn đạo lộ trở lại một lần, các bất toàn sau đây hoàn toàn bị cắt bỏ trong tâm người tu tập:

4.      kết buộc thô của ham muốn ái dục,

5.      kết buộc thô của sự chống đối lại,

iii.      khuynh hướng ngủ ngầm thô của ham muốn ái dục và

iv.     khuynh hướng ngủ ngầm thô của sự chống đối lại,

Tâm đã được giải thoát, hoàn toàn giải thoát khỏi bốn bất toàn này với các hình thái ám ảnh của chúng.

Trí theo nghĩa giải thoát khỏi các bất toàn và tuệ theo nghĩa hành vi hiểu biết đó. Như vậy nên nói: ‘tuệ quán bất toàn bị cắt bỏ là trí về giải thoát’.

357. Đến giai đoạn đạo lộ không trở lại, các bất toàn sau hoàn toàn bị cắt bỏ trong tâm người tu tập:

4.      kết buộc còn xót lại của ham muốn ái dục,

5.      kết buộc còn xót lại của sự chống đối lại,

iii.      khuynh hướng ngủ ngầm còn xót lại của ham muốn ái dục

iv.     khuynh hướng ngủ ngầm còn xót lại của sự chống đối lại,

Tâm đã được giải thoát, hoàn toàn giải thoát khỏi bốn bất toàn này với các hình thái ám ảnh của chúng.

Trí theo nghĩa giải thoát khỏi các bất toàn và tuệ theo nghĩa hành vi hiểu biết đó. Như vậy nên nói: ‘tuệ quán bất toàn bị cắt bỏ là trí về giải thoát’.

358. Đến giai đoạn đạo lộ arahant, các bất toàn sau đây hoàn toàn bị cắt bỏ trong tâm người tu tập:

6.      khao khát [hiện hữu] cõi sắc giới,

7.      khao khát [hiện hữu] cõi vô sắc giới,

8.      ngã mạn,

9.      dao động,

10.  vô minh,

v.       khuynh hướng ngã mạn ngủ ngầm

vi.     khuynh hướng khao khát hiện hữu ngủ ngầm

vii.    khuynh hướng vô minh ngủ ngầm

Tâm đã được giải thoát, hoàn toàn giải thoát khỏi tám bất toàn này với các hình thái ám ảnh của chúng.

Trí theo nghĩa điều được biết tới và tuệ theo nghĩa hành vi hiểu biết đó. Như vậy nên nói: ‘Tuệ quán bất toàn bị cắt bỏ là trí về giải thoát’.



[CHƯƠNG XIV – DUYỆT XÉT]

359. Thế nào là tuệ quán thực tánh các hiện tượng đạt được lúc đó là trí duyệt xét?

360. Ở khoảnh khắc đạo lộ nhập giòng:

Chánh kiến theo nghĩa thấy rõ đạt được lúc đó, chánh tư duy theo nghĩa hướng tâm trụ vào đạt được lúc đó, chánh ngữ theo nghĩa giữ gìn lời nói…, chánh hành theo nghĩa nguồn sanh khởi…, [74] chánh mạng theo nghĩa giữ cho sạch…, chánh tinh tấn theo nghĩa nỗ lực…, chánh niệm theo nghĩa thiết lập…, chánh định theo nghĩa không phân tâm đạt được lúc đó; yếu tố tạo thành giác ngộ của niệm theo nghĩa thiết lập đạt được lúc đó, yếu tố tạo thành giác ngộ của đi tìm sự thực theo nghĩa tìm hiểu…, yếu tố tạo thành giác ngộ của tinh tấn theo nghĩa nỗ lực…, yếu tố tạo thành giác ngộ của hỉ theo nghĩa chan hòa…, yếu tố tạo thành giác ngộ của tĩnh lặng theo nghĩa an tịnh…, yếu tố tạo thành giác ngộ của định theo nghĩa không phân tâm…, yếu tố tạo thành giác ngộ của bình thản theo nghĩa tư duy đạt được lúc đó;

tín lực theo nghĩa không lay chuyển vì không tin đạt được lúc đó; tấn lực theo nghĩa không lay chuyển vì lười biếng…, niệm lực theo nghĩa không lay chuyển vì xao lãng…, định lực theo nghĩa không lay chuyển vì dao động…, tuệ lực theo nghĩa không lay chuyển vì vô minh đạt được lúc đó;

năng lực gây ảnh hưởng của tín theo nghĩa cả quyết đạt được lúc đó; năng lực gây ảnh hưởng của tinh tấn…, năng lực gây ảnh hưởng của niệm theo nghĩa thiết lập…, năng lực gây ảnh hưởng của định theo nghĩa không phân tâm…, năng lực gây ảnh hưởng của tuệ theo nghĩa đạt được lúc đó;

các năng lực gây ảnh hưởng theo nghĩa ưu thắng đạt được lúc đó; các lực theo nghĩa không lay chuyển…, các yếu tố tạo thành giác ngộ theo nghĩa lối thoát…, đạo lộ theo nghĩa nguyên nhân…, nền tảng của quán niệm theo nghĩa thiết lập…, nỗ lực chân chánh theo nghĩa tinh tấn…, nền tảng của thần thông theo nghĩa thành tựu…, các Sự thực theo nghĩa như thực (chân thực) đạt được lúc đó;

tĩnh lặng theo nghĩa không phân tâm đạt được lúc đó; quán thực tánh theo nghĩa quán tưởng…, tĩnh lặng và quán thực tánh theo nghĩa tác dụng duy nhất…, sóng đôi theo nghĩa không vượt quá nhau đạt được lúc đó;

thanh lọc giới theo nghĩa chế ngự đạt được lúc đó; thanh lọc tâm theo nghĩa không phân tâm…, thanh lọc quan điểm theo nghĩa thấy rõ…, giải thoát theo nghĩa được tự do…, minh trí theo nghĩa hiểu rõ…, tiêu dao theo nghĩa dứt bỏ…, trí hoại diệt theo nghĩa cắt đứt đạt được lúc đó; [75]

theo nghĩa nguồn gốc, hăng hái đạt được lúc đó; theo nghĩa nguồn sanh khởi, suy xét…; theo nghĩa phối hợp lại, xúc…, theo nghĩa gặp gỡ, cảm nghiệm…, theo nghĩa đi trước, định…; theo nghĩa ưu thắng, quán niệm…; theo nghĩa cao cả nhất, tuệ… theo nghĩa cốt lõi (hương vị), tiêu dao…; theo nghĩa kết thúc, nibbana trồi lên từ bất tử đạt được lúc đó.

Sau khi trồi lên, vị ấy duyệt xét. Các trạng thái này đạt được lúc đó.

361. Ở khoảnh khắc quả vị nhập giòng:

Chánh kiến theo nghĩa thấy rõ đạt được lúc đó, chánh tư duy… [và cứ thế như ở đ. 360 cho đến]…, tiêu dao theo nghĩa dứt bỏ…, trí về không sanh khởi theo nghĩa lắng dịu đạt được lúc đó; ước muốn theo nghĩa nguồn gốc đạt được lúc đó; suy xét… [và cứ thế như ở đ. 360 cho đến]…, nibbana, trồi lên từ bất tử theo nghĩa kết thúc, đạt được lúc đó.

Sau khi trồi lên, vị ấy duyệt xét. Các trạng thái này lúc đó khởi lên.

362. Ở khoảnh khắc đạo lộ trở lại một lần:

 … [như ở đ. 360 cho đến]…

363. Ở khoảnh khắc quả vị trở lại một lần:

 … [như ở đ. 361 cho đến]…,

364. Ở khoảnh khắc đạo lộ không trở lại:

 … [như ở đ. 360 cho đến]…

365. Ở khoảnh khắc quả vị không trở lại:

 … [như ở đ. 361 cho đến]…,

366. Ở khoảnh khắc đạo lộ arahant:

 … [như ở đ. 360 cho đến]…

367. Ở khoảnh khắc quả vị arahant:

Chánh kiến… [và cứ thế như ở đ. 361 cho đến]…, [76] nibbana trồi lên từ bất tử theo nghĩa chấm dứt, đạt được lúc đó.

Sau khi trồi lên, vị ấy duyệt xét. Các trạng thái này đạt được lúc đó.

368. Trí theo nghĩa điều được biết tới và tuệ theo nghĩa hành vi hiểu biết đó. Như vậy nên nói: ‘Tuệ quán thực tánh của hiện tượng đạt được lúc đó là trí duyệt xét’.



[CHƯƠNG XV – XÁC ĐỊNH CÁC GIÁC QUAN]

369. Thế nào là tuệ xác định các giác quan là trí về khác biệt trong căn cứ vật thể?

370. Hành giả xác định các giác quan như thế nào?

Vị ấy xác định mắt, vị ấy xác định tai,… mũi… lưỡi… thân… vị ấy xác định ý.

371. Hành giả xác định mắt như thế nào? (Cf. đ 287).

Vị ấy xác định như vầy: Mắt do vô minh tạo ra. Mắt do thèm khát tạo ra… Mắt do hành động tạo ra… Mắt do dưỡng tố tạo ra… Mắt được tạo ra do [bám níu] từ bốn yếu tố chính… Mắt được khởi lên… Vị ấy xác định như vầy: Mắt đã được tạo ra. Vị ấy xác định như vầy: Mắt, trước không có, đã được tạo ra, sẽ không hiện hữu. Vị ấy xác định mắt có không gian hữu hạn. Vị ấy xác định như vầy: Mắt là vô thường, do điều kiện tạo nên, sanh khởi do tùy thuộc, chịu hủy diệt, chịu diệt mất, chịu tàn tạ, chịu diệt tận. Vị ấy xác định mắt vô thường, chứ không tồn tại lâu dài; vị ấy xác định mắt là khổ đau, chứ không phải vui sướng; vị ấy xác định nó không phải là ngã, chứ không xác định là ngã; vị ấy trở nên nhàm chán, không lấy làm ưa thích; làm cho lòng tham phai nhạt đi, [77] vị ấy không khêu gợi nó; vị ấy làm cho diệt tận, chứ không sanh khởi; vị ấy buông bỏ, chứ không nắm giữ. Xác định là vô thường, vị ấy từ bỏ quan niệm về trường tồn; xác định là khổ đau, vị ấy từ bỏ quan niệm về vui sướng; xác định không phải là ngã, vị ấy từ bỏ quan niệm về ngã; trở nên nhàm chán, vị ấy từ bỏ thích thú; tạo nên phai nhạt, vị ấy từ bỏ ham muốn; tạo nên diệt tận, vị ấy từ bỏ nguồn sanh khởi; buông bỏ, vị ấy từ bỏ bám giữ. Hành giả xác định mắt như thế đấy.

372. Hành giả xác định tai như thế nào?

 … [như ở đ. 371]…

373. Hành giả xác định mũi như thế nào?

 … [như ở đ. 371]…

374. Hành giả xác định lưỡi như thế nào?

 … [như ở đ. 371]…

375. Hành giả xác định thân như thế nào?

 … [như ở đ. 371]…

376. Hành giả xác định ý như thế nào?

 … [như ở đ. 371]… Hành giả xác định ý như thế đấy.

377. Vị đó xác định các ý niệm như thế ấy. Trí theo nghĩa điều được biết tới và tuệ theo nghĩa hành vi hiểu biết đó. Như vậy nên nói: ‘Tuệ xác định các giác quan là trí về khác biệt trong căn cứ vật thể’.



[CHƯƠNG XVI – XÁC ĐỊNH ĐỐI TƯỢNG BÊN NGOÀI]

378. Thế nào là tuệ xác định « đối tượng» bên ngoài là trí về sự khác biệt trong lãnh vực [căn cứ vật thể]?

379. Hành giả xác định các «đối tượng» bên ngoài như thế nào?

Vị ấy xác định vật hữu hình bên ngoài, vị ấy xác định âm thanh… mùi… vị… vật xúc chạm được bên ngoài.

380. Hành giả xác định vật hữu hình bên ngoài như thế nào?

Vị ấy xác định như vầy: Vật hữu hình do vô minh tạo ra. Vị ấy … [và cứ thế như ở đ. 371 cho đến]… [78] … buông bỏ, vị ấy từ bỏ bám giữ. Hành giả xác định vật hữu hình bên ngoài như thế đấy.

381-385. Hành giả xác định âm thanh bên ngoài… [và cứ thế như ở đ. 372-376 cho đến]… Hành giả xác định các đối tượng bên ngoài như thế đấy.

386. [Hành giả xác định các đối tượng bên ngoài như thế đấy]. Trí theo nghĩa điều được biết tới và tuệ theo nghĩa hành vi hiểu biết đó. Như vậy nên nói: ‘Tuệ xác định đối tượng bên ngoài là trí về sự khác biệt trong lãnh vực [căn cứ vật thể]’. [79]



[CHƯƠNG XVII – HÀNH XỬ]

387. Thế nào là tuệ xác định hành xử là trí biết sự khác biệt trong hành xử?

388. Hành xử có ba loại: hành xử của tâm, hành xử của si mê, hành xử của trí.

389. Hành xử của tâm là gì?

Hành vi hướng sự chú ý bất định theo chức năng của tâm để thấy các đối tượng hữu hình là hành xử của tâm. Nghĩa của nhận biết từ mắt thấy đối tượng hữu hình là hành xử của tâm. Từ đó hệ quả là yếu tố ý [xảy ra] là hành vi hướng đến [đối tượng] vì các đối tượng hữu hình đã được nhìn thấy là hành xử của tâm. Từ đó hệ quả là yếu tố nhận biết từ ý [xảy ra] vì hướng đến đối tượng hữu hình là hành xử của tâm.

Hành vi hướng sự chú ý bất định theo chức năng của tâm để nghe âm thanh là hành xử của tâm. Nghĩa của nhận biết từ tai nghe âm thanh là hành xử của tâm… [và cứ thế như trên]…

Hành vi hướng sự chú ý bất định theo chức năng của tâm để ngửi mùi…

Hành vi hướng sự chú ý bất định theo chức năng của tâm để nếm vị…

Hành vi hướng sự chú ý bất định theo chức năng của tâm để xúc chạm vật sờ mó được…

Hành vi hướng sự chú ý bất định theo chức năng của tâm để nhận biết các đối tượng tâm ý là hành xử của tâm. Nghĩa của nhận biết về các đối tượng tâm ý như là nhận biết từ ý là hành xử của tâm. Kết quả từ đó là yếu tố ý [xảy ra] như là hành vi hướng đến [đối tượng] vì các đối tượng tâm ý đã được nhận biêt là hành xử của tâm. Kết quả từ đó là yếu tố nhận biết từ ý [xảy ra] vì hướng đến đối tượng là hành xử của tâm. [80]

390. Hành xử của tâm: theo nghĩa nào?

Tâm hành xử không có tham: đây là hành xử của tâm. Tâm hành xử không có sân: đây là hành xử của tâm. Tâm hành xử không có si:… Tâm hành xử không có ngã mạn (tự hào):… Tâm hành xử không có quan điểm [sai lạc]:… Tâm hành xử không có dao động:… Tâm hành xử không có nghi hoặc:… Tâm hành xử không có khuynh hướng ngủ ngầm:… Tâm hành xử không liên kết với tham:… Tâm hành xử không liên kết với sân:… Tâm hành xử không liên kết với si:… Tâm hành xử không liên kết với ngã mạn (tự hào):… Tâm hành xử không liên kết với quan điểm [sai lạc]:… Tâm hành xử không liên kết với dao động: … Tâm hành xử không liên kết với nghi hoặc:… Tâm hành xử không liên kết với khuynh hướng ngủ ngầm:… Tâm hành xử không liên kết với hành vi thiện:… Tâm hành xử không liên kết với hành vi bất thiện:… Tâm hành xử không liên kết với hành vi có thể khiển trách được:… Tâm hành xử không liên kết với hành vi không thể khiển trách được:… Tâm hành xử không liên kết với hành vi đen tối:… Tâm hành xử không liên kết với hành vi minh bạch:… Tâm hành xử không liên kết với hành vi tạo an vui:… Tâm hành xử không liên kết với hành vi tạo khổ đau:… Tâm hành xử không liên kết với hành vi hưởng quả an vui:… Tâm hành xử không liên kết với hành vi chịu quả khổ đau:… Tâm hành xử đến cái gì được nhận biết [đối tượng]: Đây là hành xử của tâm. Hành xử của tâm ấy là như thế: đây là một loại hành xử của tâm. Tâm này trong sạch tự bản chất theo nghĩa không có nhiễm lậu: đây là một loại hành xử của tâm.

Đấy là hành xử của tâm.

391. Hành xử si mê là gì?

Hành vi hướng sự chú ý bất định theo chức năng của tâm vì sự thúc đẩy của tham đắm đến các đối tượng hữu hình khả ý là hành xử của tâm: hành vi thúc đẩy ấy của tham là hành vi của si mê. Hành vi hướng sự chú ý bất định theo chức năng của tâm vì sự thúc đẩy của sân đến các đối tượng hữu hình bất khả ý là hành xử của tâm: hành vi thúc đẩy ấy của sân là hành vi của si mê. Hành vi hướng sự chú ý bất định theo chức năng của tâm vì sự thúc đẩy của si đến các đối tượng không hẳn tạo [tham hay sân] là hành xử của tâm: hành vi thúc đẩy ấy của si là hành vi của si mê. Hành vi hướng sự chú ý bất định theo chức năng của tâm vì sự thúc đẩy của ngã mạn như là trói buộc là hành xử của tâm: hành vi thúc đẩy ấy của ngã mạn là hành vi của si mê. Hành vi hướng sự chú ý bất định theo chức năng của tâm vì sự thúc đẩy của quan điểm [sai lạc] như diễn giải sai lạc [81] là hành xử của tâm: hành vi thúc đẩy ấy của quan điểm [sai lạc] là hành vi của si mê. Hành vi hướng sự chú ý bất định theo chức năng của tâm vì sự thúc đẩy của dao động như tán loạn là hành xử của tâm: hành vi thúc đẩy ấy của dao động là hành vi của si mê. Hành vi hướng sự chú ý bất định theo chức năng của tâm vì sự thúc đẩy của nghi hoặc như không kết luận dứt khoát là hành xử của tâm: hành vi thúc đẩy ấy của nghi hoặc là hành vi của si mê. Hành vi hướng sự chú ý bất định theo chức năng của tâm vì sự thúc đẩy của khuynh hướng ngủ ngầm như thói quen lâu đời khó thay đổi là hành xử của tâm: hành vi thúc đẩy ấy của khuynh hướng ngủ ngầm là hành vi của si mê.

Hành vi hướng sự chú ý bất định theo chức năng của tâm vì sự thúc đẩy của tham đắm các âm thanh là hành xử của tâm: hành vi thúc đẩy ấy của tham là hành vi của si mê. Hành vi… [và cứ thế như trên]… tham đắm mùi…

… tham đắm vị…

… tham đắm vật xúc chạm được…

Hành vi hướng sự chú ý bất định theo chức năng của tâm vì sự thúc đẩy của tham đắm các đối tượng tâm ý là hành xử của tâm: hành vi thúc đẩy ấy của tham là hành vi của si mê. Hành vi… [và cứ thế như trên]… Hành vi hướng sự chú ý bất định theo chức năng của tâm vì sự thúc đẩy của khuynh hướng ngủ ngầm là hành xử của tâm: hành vi thúc đẩy ấy của khuynh hướng ngủ ngầm là hành vi của si mê.

392. Hành xử của si mê: hành xử của si mê theo nghĩa nào?

Tâm hành xử với tham: Đây là hành xử si mê của tâm. Tâm hành xử với sân: Đây là hành xử si mê của tâm. Tâm hành xử với si: Đây là hành xử si mê của tâm. Tâm hành xử với ngã mạn: Đây là hành xử si mê của tâm. Tâm hành xử với quan điểm [sai lạc]:… Tâm hành xử với dao động… Tâm hành xử với nghi hoặc… Tâm hành xử với khuynh hướng ngủ ngầm:… Tâm hành xử liên kết với tham:… Tâm hành xử liên kết với sân:… Tâm hành xử liên kết với si:… Tâm hành xử liên kết với ngã mạn:… Tâm hành xử liên kết với quan điểm [sai lạc]:… [82] Tâm hành xử liên kết với dao động:… Tâm hành xử liên kết với nghi hoặc:… Tâm hành xử liên kết với khuynh hướng ngủ ngầm:… Tâm hành xử không liên kết với hành vi thiện:… Tâm hành xử liên kết với hành vi bất thiện:… Tâm hành xử không liên kết với hành vi không thể khiển trách được: … Tâm hành xử liên kết với hành vi đen tối:… Tâm hành xử không liên kết với hành vi minh bạch:…

Tâm hành xử không liên kết với hành vi tạo an vui:… Tâm hành xử liên kết với hành vi tạo khổ đau:… Tâm hành xử không liên kết với hành vi hưởng quả an vui:… Tâm hành xử liên kết với hành vi chịu quả khổ đau:… Tâm hành xử đến cái gì chưa biết: đây là hành xử si mê. Hành xử si mê ấy là như thế: đây là một loại hành xử si mê.

Đây là hành xử si mê.

393. Hành xử của trí là gì?

Hành vi hướng sự chú ý bất định theo chức năng của tâm với mục đích quán vô thường là hành xử của tâm: sự quán vô thường ấy là hành xử của trí. Hành vi hướng sự chú ý bất định theo chức năng của tâm với mục đích quán khổ đau… với mục đích quán không phải là ngã… với mục đích quán nhàm chán… với mục đích quán hết ham muốn… với mục đích quán đoạn diệt… với mục đích quán buông bỏ… với mục đích quán hủy diệt… với mục đích quán diệt… với mục đích quán biến đổi… với mục đích quán không dấu hiệu… với mục đích quán không ước nguyện… với mục đích quán trống không… với mục đích quán thực tánh chiếu rọi vào các hiện tượng là tuệ tăng thượng… với mục đích thấy biết đúng như thật… với mục đích quán hiểm nguy… với mục đích quán tư duy là hành xử của tâm: hành vi quán tư duy ấy là hành xử của trí. Hành vi hướng sự chú ý bất định theo chức năng của tâm với mục đích quán quay đi là hành xử của tâm: sự quán quay đi ấy là hành xử của trí. Đạo lộ nhập giòng là hành xử của trí. Quả vị nhập giòng… Đạo lộ trở lại một lần là hành xử của trí. Quả vị trở lại một lần… Đạo lộ không trở lại là hành xử của trí. Quả vị không trở lại… Đạo lộ arahant là hành xử của trí. Quả vị arahant là hành xử của trí.

394. Hành xử của trí: hành xử của trí theo nghĩa nào?

Tâm hành xử không có tham: đây là hành xử của trí. Tâm hành xử không có sân:… Tâm hành xử không có si:… Tâm hành xử không có ngã mạn:… [83] Tâm hành xử không có quan điểm [sai lạc]:… Tâm hành xử không có dao động:… Tâm hành xử không có nghi hoặc:… Tâm hành xử không có khuynh hướng ngủ ngầm:… Tâm hành xử không liên kết với tham:… Tâm hành xử không liên kết với sân:… Tâm hành xử không liên kết với si:… Tâm hành xử không liên kết với ngã mạn:… Tâm hành xử không liên kết với quan điểm [sai lạc]:… Tâm hành xử không liên kết với dao động:… Tâm hành xử không liên kết với nghi hoặc:… Tâm hành xử không liên kết với khuynh hướng ngủ ngầm:… Tâm hành xử không liên kết với hành vi thiện:… Tâm hành xử không liên kết với hành vi bất thiện:… Tâm hành xử không liên kết với hành vi có thể khiển trách được:… Tâm hành xử liên kết với hành vi không thể khiển trách được:… Tâm hành xử không liên kết với hành vi đen tối:… Tâm hành xử liên kết với hành vi minh bạch:… Tâm hành xử liên kết với hành vi tạo an vui:… Tâm hành xử không liên kết với hành vi tạo khổ đau:… Tâm hành xử liên kết với hành vi hưởng quả an vui:… Tâm hành xử không liên kết với hành vi chịu quả khổ đau:… Tâm hành xử đến cái gì được nhận biết: Đây là hành xử của trí. Hành xử si mê ấy là như thế: đây là một loại hành xử của trí.

Đây là hành xử của trí.

395. Hành xử của tâm là một, hành xử của si mê là một điều khác, hành xử của trí là một điều khác nữa.

Trí theo nghĩa điều được biết tới và tuệ theo nghĩa hành vi hiểu biết đó. Như vậy nên nói: ‘Tuệ xác định hành xử là trí về sự khác biệt trong hành xử’.



[CHƯƠNG XVIII – CẢNH GIỚI]

396. Thế nào là tuệ xác định bốn cõi là trí về sự khác biệt trong cảnh giới?

397. Có bốn cảnh giới: dục giới, sắc giới, vô sắc giới và cõi không được kể đến.

398. Cõi dục giới là gì? (đọc Dhs 1280)

Kể từ địa ngục Avīci phía dưới cho đến cảnh giới chư thiên Paranimmitavasavatti phía trên, các tập hợp, các yếu tố, các nền tảng, vật thể, cảm nghiệm, nhận thức, tạo lập tâm trạng và thức hiện hữu trong khoảng cách này, có giới vức của chúng ở đây, được tính kể ở đây: đây là cõi dục giới.

399. Cõi sắc giới là gì? [84] (đọc Dhs 1282)

Kể từ Thế giới Brahmā phía dưới cho đến cảnh giới chư thiên Akaniṭṭha phía trên, các trạng thái tâm và tâm phụ tùy trong người đã chứng [cảnh giới đó nhờ thiền định] hay người đã được tái sanh [ở đó] hay vị [như arahant] đang trú [ở đó] trong an lạc ở ngay đây và ngay bây giờ, thuộc các trạng thái có giới vức của chúng ở đây, được tính kể ở đây: đây là cõi sắc giới.

400. Cõi vô sắc giới là gì? (đọc Dhs 1284)

Kể từ chư thiên cõi không gian vô biên phía dưới cho đến cảnh giới chư thiên cõi không có nhận thức cũng không phải không có nhận thức phía trên, các trạng thái tâm và tâm phụ tùy trong người đã chứng hay đã được tái sanh hay đang trú trong an lạc ở ngay đây và ngay bây giờ, thuộc các trạng thái có giới vức của chúng ở đây, được tính kể ở đây: đây là cõi vô sắc giới.

401. Cõi không được tính kể đến là gì? (đọc Dhs 1291)

Các đạo lộ và quả vị của các đạo lộ không được tính kể đến và các trạng thái không được tạo thành: đây là cảnh giới không được tính kể đến.*

Đây là bốn cảnh giới.

apariyāpannā (không được tính kể đến, đứng riêng ngoài), đó là: 4 đạo lộ, 4 quả vị và niết bàn. Đọc Dhs. đoạn 583, 992, 1287ff.

402. Bốn cảnh giới khác: bốn nền tảng của quán niệm, bốn chánh tinh tấn, bốn nền tảng của thần thông (con đường đưa đến năng lực), bốn jhānas, bốn trạng thái vô lượng, bốn chứng đạt cõi vô sắc giới, bốn vô ngại giải, bốn loại tiến triển (D iii 228), bốn đối tượng phụ trợ (Vbh 332), bốn truyền thống của Bậc Thánh (D iii 224)*, bốn giềng mối gìn giữ (D iii 232)2*, bốn điềm lành (A ii 32)3*, bốn bước của Giáo Pháp chân chánh (A ii 29)4*.

Đây là [mỗi một cho] bốn cảnh giới.

ariyavaṁsā (thánh chủng):·hài lòng với bất cứ tấm y cũ nào, ·hài lòng với bất cứ thực phẩm cúng dường nào, ·hài lòng với bất cứ chỗ ở nào, ·thích và hoan hỉ trong việc từ bỏ & trong tu tập. Đọc thêm A ii 27.

2* saṅgaha-vatthūni·bố thí, ·nói lời hòa nhã, ·làm điều ích lợi, ·không thiên vị. Đọc thêm A ii 32, D iii 152.

3* là: ·sống nơi thích hợp, ·giao kết với bậc Thánh, · tự biết mình (đọc D iii 254), ·đã làm phước từ trước.

4* là: ·không tham, ·không sân, ·chánh niệm, ·chánh định.

403. Trí theo nghĩa điều được biết tới và tuệ theo nghĩa hành vi hiểu biết đó. Như vậy nên nói: ‘Tuệ xác định bốn cõi là trí về sự khác biệt trong cảnh giới’.



[CHƯƠNG XIX – CÁC Ý NIỆM]

404. Thế nào là tuệ xác định chín ý niệm là trí biết sự khác biệt giữa các ý niệm?

405. Hành giả xác định các ý niệm như thế nào?

Vị ấy xác định các ý niệm cõi dục giới là thiện, vị ấy xác định các ý niệm cõi dục giới bất thiện, vị ấy xác định các ý niệm cõi dục giới bất định. Vị ấy xác định các ý niệm cõi sắc giới là thiện, vị ấy xác định các ý niệm đó bất định. Vị ấy xác định các ý niệm cõi vô sắc giới là thiện, vị ấy xác định các ý niệm vô sắc giới ấy bất định. Vị ấy xác định các ý niệm không được kể đến là thiện, vị ấy xác định các ý niệm không được kể đến ấy bất định. [85]

406. Vị ấy xác định các ý niệm cõi dục giới là thiện, vị ấy xác định các ý niệm cõi dục giới bất thiện, vị ấy xác định các ý niệm cõi dục giới bất định như thế nào?

Vị ấy xác định mười lộ trình của nghiệp là thiện, vị ấy xác định mười lộ trình của nghiệp là bất thiện. Vị ấy xác định [tâm] cõi sắc thể và [tâm] quả của hành động và [tâm] duy tác là bất định. Đây là cách vị ấy xác định các ý niệm cõi dục giới là thiện, vị ấy xác định các ý niệm cõi dục giới bất thiện, vị ấy xác định các ý niệm cõi dục giới bất định.

Vị ấy xác định các ý niệm cõi sắc giới là thiện, xác định các ý niệm cõi sắc giới bất định như thế nào?

Vị ấy xác định bốn jhānas là thiện cho các vị ‘an cư lập nghiệp’ ở đây [nhờ tái sanh trong cõi dục giới], vị ấy xác định bốn jhānas là bất định cho các vị tái sanh ở đấy [trong cõi vô sắc giới]. Đây là cách vị ấy xác định các ý niệm cõi sắc giới là thiện, xác định các ý niệm cõi sắc giới bất định.

Vị ấy xác định các ý niệm cõi vô sắc giới là thiện, xác định các ý niệm cõi vô sắc giới là bất định như thế nào?

Vị ấy xác định bốn thành tựu ở cõi vô sắc giới là thiện cho các vị ‘an cư lập nghiệp’ ở đây, vị ấy xác định bốn thành tựu ở cõi vô sắc giới là bất định cho các vị tái sanh ở đấy. Đây là cách vị ấy xác định các ý niệm cõi vô sắc giới là thiện, xác định các ý niệm cõi vô sắc giới là bất định.

Vị ấy xác định các ý niệm không được tính kể đến là thiện, xác định các ý niệm không được tính kể đến là bất định như thế nào?

Vị ấy xác định bốn đạo lộ là thiện. Vị ấy xác định bốn quả vị sa môn và nibbana là bất định. Đây là cách vị ấy xác định các ý niệm không được tính kể đến là thiện, xác định các ý niệm không được tính kể đến bất định.

Đây là cách vị ấy xác định các ý niệm.

407. Chín trạng thái bắt nguồn từ hân hoan: Khi hành giả chú ý [đến đối tượng] là vô thường, hân hoan khởi lên trong vị ấy; khi vị ấy hân hoan, hỉ lạc khởi lên trong vị ấy; khi tâm hỉ lạc, thân* của vị ấy trở nên thư thái; khi thân thư thái «tâm của» vị ấy cảm thấy dễ chịu; khi cảm thấy dễ chịu, tâm của vị ấy được định; khi tâm định, vị ấy thấy và biết đúng như thật; khi thấy và biết đúng như thật vị ấy trở nên nhàm chán; khi trở nên nhàm chán, lòng tham của vị ấy phai nhạt. Với lòng tham phai nhạt, vị ấy được giải thoát. Khi vị ấy chú ý [đến đối tượng] là khổ… Khi vị ấy chú ý [đối tượng] là không phải là ngã … với lòng tham phai nhạt, vị ấy được giải thoát.

kāya: theo Rhys Davids, thân ở đây là nāma-kāya, thân tâm thức. Đọc M. Walshe, The Long Discourses of the Buddha, chú thích 1079, 1155 trang 618, 619, 624.

408. Khi vị ấy thấy vật thể là vô thường, hân hoan khởi lên trong vị ấy… Khi vị ấy thấy cảm nghiệm… nhận thức… tạo lập tâm trạng… thức là vô thường… là khổ… là không phải là ngã, hân hoan khởi lên trong vị ấy; … Với lòng tham phai nhạt, vị ấy được giải thoát.

Khi vị ấy thấy mắt là vô thường, hân hoan… [và cứ thế lập lại như ở đ. 407 cho các ý niệm còn lại của 201 ý niệm được liệt kê ở đ. 5 cho đến]… Khi vị ấy thấy già và chết là [86] vô thường, hân hoan … Với lòng tham phai nhạt, vị ấy được giải thoát.

Đây là chín trạng thái bắt nguồn từ hân hoan.

409. Chín trạng thái bắt nguồn từ suy xét kỹ lưỡng* [đối tượng] là vô thường, hân hoan khởi lên trong vị ấy; khi vị ấy hân hoan, hỉ khởi lên trong vị ấy; khi cảm nhận hỉ, thân của vị ấy trở nên thư thái; khi thân thư thái, vị ấy cảm thấy dễ chịu; khi cảm thấy dễ chịu, tâm của vị ấy được định; khi tâm định, vị ấy hiểu đúng như thật: ‘Đây là khổ’, vị ấy hiểu đúng như thật: ‘Đây là nguồn gốc của khổ’, vị ấy hiểu đúng như thật: ‘Đây là sự diệt khổ’, vị ấy hiểu đúng như thật: ‘Đây là con đường đưa đến diệt khổ’. Khi vị ấy suy xét kỹ lưỡng [đối tượng] là khổ… Khi vị ấy suy xét kỹ lưỡng [đối tượng] là không phải là ngã … hân hoan khởi lên trong vị ấy; … vị ấy hiểu đúng như thật: ‘Đây là con đường đưa đến diệt khổ’.

yoniso manasikāra: suy xét kỹ lưỡng theo nghĩa suy nghĩ hợp với sự thực, theo tinh thần phát sanh do tùy thuộc (paṭiccasamuppāda) nói ở M iii 142; S ii 105. Nó là cội nguồn của giải thoát. Đọc ÑāṇamoliThe Guide, PTS [Oxford, 1977], chú thích 46/2 trang 17.

Trái lại là ayoniso manasikāra, suy xét không đúng với sự thực. MA nói nó là cội nguồn của điên đảo, dẫn đến quan điểm sai lạc, khổ đau như ở M i 7. Đọc Ñāṇamoli và Bhikkhu Bodhi, sđd, chú thích 33, trang 1169.

410. Khi vị ấy thấy vật thể là vô thường, hân hoan khởi lên trong vị ấy… Khi vị ấy thấy cảm nghiệm… nhận thức… tạo lập tâm trạng… thức là vô thường… là khổ… là không phải là ngã, hân hoan khởi lên trong vị ấy; … vị ấy hiểu đúng như thật: ‘Đây là con đường đưa đến diệt khổ’.

Khi vị ấy thấy mắt là vô thường, hân hoan… [và cứ thế lập lại như ở đ. 409 cho các ý niệm còn lại của 201 ý niệm được liệt kê ở đ. 5 cho đến]… Khi vị ấy thấy già và chết là vô thường, hân hoan … vị ấy hiểu đúng như thật ‘Đây là con đường [87] đưa đến diệt khổ’.

Đây là chín trạng thái bắt nguồn suy xét kỹ lưỡng.

411. Chín loại khác biệt. (D iii 289; cf. đ. 89)

Vì có khác biệt về yếu tố*, nên khác biệt về xúc khởi lên. Vì có khác biệt về xúc, nên khác biệt về cảm giác khởi lên. Vì có khác biệt về cảm giác, nên khác biệt về nhận thức khởi lên. Vì có khác biệt về nhận thức, nên khác biệt về tư duy khởi lên. Vì có khác biệt về tư duy, nên khác biệt về ước muốn khởi lên. Vì có khác biệt về ước muốn, nên khác biệt về ám ảnh2* khởi lên. Vì có khác biệt về ám ảnh, nên khác biệt về tìm cầu khởi lên. Vì có khác biệt về tìm cầu, nên khác biệt về lợi lộc khởi lên.

khác biệt về yếu tố là khác biệt về bản chất nội tại [bản chất ‘trống không’ và ‘không phải là sanh linh’] của các hiện tượng. Đọc Bhikkhu Bodhi, The Connected Discourses of the Buddha, Vol. I, [Wisdom Publications, Boston, 2000], chú thích 223, trang 788. Đọc thêm Dhātusaṁyutta S. ii 140 ff.

2* ám ảnh [pariḷāha] dịch theo Maurice Walshe, sđd, trang 521. Nđ. cơn sốt nhiễm lậu.

Đây là chín loại khác biệt.