Kinh Đại Bảo Tích

Kinh Đại Bảo Tích

Trương Văn Chiến 45

XII. PHÁP HỘI BỒ TÁT TẠNG THỨ MƯỜI HAI
Hán Dịch: Nhà Đường, Pháp Sư Huyền Trang
Việt Dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

3. PHẨM THÍ NGHIỆM BỒ TÁT THỨ BA
(Hán Bộ Phần Sau Quyển 36)

Lúc bấy giờ Ngài Xá Lợi Phất đứng dậy trịch y uất đa la tăng vai hữu, gối hữu chấm đất chắp tay cung kính bạch rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Nay tôi có chút việc để hỏi. Mong Ðức Như Lai Ứng Cúng Ðẳng Chánh Giác xót thương hứa khả vì tôi mà giải thuyết”.

Ðức Phật phán: “Cho phép ông hỏi . Nay Ðức Như Lai sẽ giải thuyết khiến lòng vui mừng”.

Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Bạch Ðức Thế Tôn! Ðại Bồ Tát thành tựu mấy pháp mà thân ngiệp không lỗi, ngữ nghiệp không lỗi, ý nghiệp không lỗi. Thành tựu mấy pháp mà thân nghiệp thanh tịnh, ngữ nghiệp thanh tịnh, ý nghiệp bất động, chẳng bị thiên ma và chúng ma quân lay chuyển. Tù lúc mới đầu phát tâm nhứt thiết trí tu hành chánh hạnh, từng bực tăng thắng, thiện xảo phương tiện vì tất cả chúng sanh mà làm đạo sư thù thắng, đạo sự cùng khắp, làm đuốc sáng lớn, làm cây thang lớn làm cầu, làm thuyền, làm người tế độ, làm bờ kia, làm nhà, làm người cứu vớt, làm chỗ về, làm chỗ đến, mà vẫn có thể chẳng bỏ tâm nhứt thiết trí?”.

Ngài Xá Lợi Phất muốn tuyên lại nghĩa ấy nên nói kệ bạch Phật:

“Bồ Tát có nghĩa gì
Mà ở đại Bồ Ðề
Sao gọi đức và pháp
Do đó ngộ vô thượng
Lại làm những hạnh gì
Lợi ích các chúng sanh
Ðã tu tập pháp gì
Thành Phật Nhơn Trung Tôn
Phục ác ma thế nào
Ở Bồ Ðề tối thắng
Chấn động câu chi cõi
Ngộ Vô thượng Chánh giác
Bồ Tát là nghĩa gì
Câu ấy là thế nào
Thế nào là Bồ Ðề
Và vô thượng Phật pháp
Thế nào đi trong đời
Lợi ích các chúng sanh
Chẳng nhiễm như hoa sen
Giải thoát câu chi chúng
Thế nào là Thiên, Long
Và Phi Nhơn cúng dường
Những điều tôi thưa hỏi
Xin từ bi giải thuyết”.
Ðức Phật bảo Ngài Xá Lợi Phất: “Lành thay, lành thay! Nay ta sẽ phân biệt giải thuyết.

– Nầy Xá Lợi Phất! Ðại Bồ Tát thành tựu một pháp có thể nhiếp thọ những pháp của ông đã hỏi và vô lượng vô biên Phật pháp khác.

Thế nào là một pháp?

Ðó là Bồ Ðề tâm và tín nguyện đầy đủ.

– Nầy Xá Lợi Phất! Ðó gọi là Ðại Bồ Tát thành tựu một pháp thì có thể nhiếp thọ vô biên Phật pháp”.

Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Bạch Ðức Thế Tôn! Thế nào là tín nguyện đầy đủ. Lại do nghĩa gì mà gọi là Bồ Ðề tâm?”.

Ðức Phật phán: “Nầy Xá Lợi Phất! Tín nguyện đầy đủ đó là bền chắc chẳng thể phá hoại được, là nói vững vàng chẳng thể động được. Nói chẳng động là vì không đánh mất. Vì không đánh mất thì có thể khéo an trụ. Vì khéo an trụ nên chẳng thối chuyển. Vì chẳng thối chuyển nên quan sát chúng sanh. Vì quan sát chúng sanh nên đại bi nẩy nở. Vì đại bi nẩy nở nên chẳng mỏi mệt. Vì chẳng mỏi mệt nên thành thục chúng sanh. Vì thành thục chúng sanh nên biết tự vui. Vì biết tự vui nên không hi vọng. Vì không hi vọng nên chẳng nhiễm trước đồ dùng. Vì chẳng nhiễm trước nên làm chỗ dựa cho chúng sanh . Vì làm chỗ dựa cho chúng sanh nên săn sóc các chúng sanh hạ liệt. Vì săn sóc chúng sanh hạ liệt nên làm người cứu tế. Vì làm người cứu tế nên làm chổ về đến. Vì làm chổ về đến nên chẳng vội gấp. Ví chẳng vội gấp nên khéo quan sát. Vì khéo quan sát nên không oán ghét. Vì không oán ghét nên khéo điều nhiếp tín nguyện. Vì khéo điếu nhiếp tín nguyện nên không chỗ để còn. Vì không chổ để còn nên khéo thanh tịnh. Vì khéo thanh tịnh nên trắng láng tốt . Vì trắng láng tốt nên rời cấu uế nơi trong. Vì rời cấu nơi trong nên khéo thanh tịnh nơi ngoài.

– Nầy Xá Lợi Phất! Bền chắc khó phá hoại nhẫn đến trong thì rời cấu uế ngoài thì khéo thanh tịnh như vậy, đó gọi là tín nguyện đầy đủ.

– Lại nầy Xá Lợi Phất! Bồ Ðề tâm có tướng gì mạo gì?

– Nầy Xá Lợi Phất! Bồ Ðề tâm đó không có lỗi lầm vì chẳng bị tất cả phiền não làm ô nhiễm. Bồ Ðề tâm ấy nối nhau chẳng tuyệt vì chẳng chứng quả trong các thừa khác. Bồ Ðề tâm ấy bến chắc khó động chuyển vì chẳng bị dị luận nó lôi kéo lấn đoạt. Bồ Ðề tâm ấy chẳng thể phá hoại vì Thiên ma chẳng khuynh đảo được . Bồ Ðề tâm ấy thường hằng chẳng biến đổi vì là chỗ chứa họp tư lương căn lành. Bồ Ðề tâm ấy chẳng lay động được vì quyết có thể độc chứng các Phật pháp. Bồ Ðề tâm ấy khéo an trụ vì khéo an trụ nơi bực Bồ Tát.

Bồ Ðề tâm ấy chẳng gián đoạn vì chẳng bị các pháp khác đối trị. Bồ Ðề tâm ấy như kim cương vì khéo có thể xuyên suốt Phật pháp sâu xa. Bồ Ðề tâm ấy thắng thiện bình đẳng vì đối với các thứ dục giải của chúng sanh không gì chẳng đồng đều. Bồ Ðề tâm ấy tối thắng thanh tịnh vì tánh nó chẳng ô nhiễm. Bồ Ðề tâm ấy không có trần cấu vì phát sanh trí huệ sáng. Bồ Ðề tâm ấy rộng rãi vô ngại vì gồm nhận tánh tất cả chúng sanh. Bồ Ðề tâm ấy rộng lớn vô biên vì như hư không. Bồ Ðề tâm ấy không có chướng ngại vì khiến trí vô ngại đi khắp tất cả vô duyên đại bi chẳng đoạn tuyệt. Bồ Ðề tâm ấy đáng nên thân cận vì được hàng trí giả khen ngợi . Bồ Ðề tâm ấy dường như hạt giống vì có thể sanh tất cả các Phật pháp. Bồ Ðề tâm ấy nó hay gầy dựng vì hay gầy dựng tất cả sự hỉ lạc. Bồ Ðề tâm ấy phát sanh các nguyện vì do nơi giới thanh tịnh . Bồ Ðề tâm ấy khó xô diệt được vì do an trụ nơi nhẫn. Bồ Ðề tâm ấy chẳng bị chế phục vì do chánh tinh tiến. Bồ Ðề tâm ấy rất tột tịch tịng vì y cứ tất cả đại thiền định. Bồ Ðề tâm ấy không có kém thiếu vì huệ tư lương khéo viên mãn.

– Lại nầy Xá Lợi Phất! Bồ Ðề tâm ấy tức là căn bổn giới định huệ giải thoát và giải thoát tri kiến của Ðức Như Lai.

Bồ Ðề tâm ấy lại là căn bổn thập lực tứ vô úy mùười tám pháp bất cộng của Ðức Như Lai”.

Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Bồ Ðề tâm ấy là nói vì tâm ấy dùng Bồ Ðề làm sanh thể nên gọi là Bồ Ðề tâm”.

Ðức Phật phán: “Ðúng vậy . Nầy Xá Lợi Phất! Vì chư Ðại Bồ Tát thành tựu tín nguyện Bồ Ðề tâm nên gọi là Bồ Ðề Tát đỏa, là Quảng Ðại Tát Ðỏa, là Cực Diệu Tát Ðỏa, cũng gọi là thân nghiệp không lỗi, ngữ nghiệp không lỗi, ý nghiệp không lỗi, thân nghiệp thanh tịnh, ngữ nghiệp thanh tịnh, ý nghiệp thanh tịnh, thân nghiệp vô động, ngữ nghiệp vô động, ý nghiệp vô động. Vì Ðại Bồ Tát có đủ các nghiệp thanh tịnh như vậy nên chẳng bị thiên ma và chúng ma quân phá rối, từ lúc ban đầu phát tâm nhứt thiết trí, tu hành chánh hạnh, từng bực tăng thắng, thiện xảo phương tiện chẳng bị tất cả thế pháp ô nhiễm, có thể vì chúng sanh mà làm đại đạo sư, thắng đạo sư, phổ đạo sư, làm đuốc sáng lớn, nấc thang lớn, làm cầu, làm thuyền, làm người tế độ, làm bờ kia, làm nhà, làm người cứu, làm chỗ về chỗ đến.

– Nầy Xá Lợi Phất! Ðại Bồ Tát phát tâm nhứt thiết trí như vậy thì ma và quân ma không khuynh động được”.

Ðức Phật lại phán dạy Ngài Xá Lợi Phất: “Chư Ðại Bồ Tát do đủ tín nguyện thanh tịnh như vậy phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề xong thì nhiều lòng tin thanh tịnh, thìch thấy các bực hiền thánh, ưa nghe chánh pháp, chẳng bỏn sẻn, mở rộng lòng và tay mà bố thí lớn, vui thích sự xả bỏ và sự bố thí đồng đều. Ðối với tất cả chúng sanh, lòng Bồ Tát không chướng ngại, không nhơ đục, không rối loạn, chẳng xen tạp. Ðối với nghiệp nhơn và nghiệp quả báo, lòng Bồ Tát rất phụng kính không nghi ngờ không lo lắng, biết pháp thiện ác quả báo chẳng hư mlất, dầu gặp lúc nạn nguy đến tánh mạng cũng chẳng sanh khởi điều ác, chẳng sát sanh trộm cướp tà dâm vọng ngữ ly gián ngữ ác ngữ ỷ ngữ tham nhiễm sân hận và ngu si tà kiến. Vì dứt nghiệp đạo bất thiện như vậy mà Bồ Tát phụng hành mười nghiệp đạo lành . Do vì đủ lòng tin nên đối với các Sa Môn, Bà La Môn chánh chí hạnh đủ đức giới, tâm Bồ Tát thuần thanh tịnh thành tựu pháp điều thuê(n, đầy đủ đa văn, siêng học hỏi tu chánh tác ý điều thiện tịch tịnh, gần gũi tịch diệt chẳng phát khởi tránh tụng sai trái những lời thô ác, khéo biết tín nguyện chẳng phải là chẳng khéo biết, tương ưng với thiện pháp, lìa xa ác pháp, chẳng cao ngạo bồng bột, tánh rời lìa tháo động, tánh rời lià lời thô ác, lời nói không phù tạp, giữ chánh niệm, tâm an trụ nơi diệu định, khéo dứt gốc sanh tử chẳng trúng tên độc, rời bỏ gánh nặng vượt khỏi nghi ngờ lo lắng và thân sanh tử đời sau. Ðối với những thiện hữu tri thức như chư Phật Thế Tôn, Ðại Bồ Tát, Thanh Văn và Duyên Giác, khi đã biết rõ rồi thì thân cậnkính ngưỡng thờ phụng. Lại đem pháp thí nhiếp thọ tuyên thuyết diệu pháp chỉ dạy vui mừng. Những là nếu thật hành đàn na thì được giàu có lớn, nếu thật hành thi la thì được sanh lên trời hưởng lạc, nếu thích đa văn thì được trí huẽ lớn, nếu tu thiền thì rời hệ phược. Lại mở bày nhiều thứ pháp thù thắng vi diệu thanh tịnh: đây là bố thí, đây là báo bố thí, đây là bỏn sẻn, đây là báo bỏn sẻn, đây là thi la, đây là báo thi la, đây là phạm giới, đây là báo phạm giới, đây là nhẫn nhục, đây là báo nhẫn nhục, đây là sân hận, đây là báo sân hận, đây là chánh cần, đây là báo chánh cần, đây là giải đãi, đây là báo giải đãi, đây là tịnh lự, đây là báo tịnh lự, đây là loạn tâm, đây là báo loạn tâm, đây là trí huệ, đây là báo trí huệ, đây là ác huệ, đây là báo ác huệ, đây là thân diệu hạnh, đây là báo thân diệu hạnh, đây là thân ác hạnh, đây là báo thân ác hạnh, đây là ngữ diệu hạnh, đây là báo ngữ diệu hạnh, đây là ngữ ác hạnh, đây là báo ngữ ác hạnh, đây là ý diệu hạnh, đây là báo ý diệu hạnh, đây là ý ác hạnh, đây là báo ý ác hạnh, đây là thiê(n đây là bất thiê(n, đây nên làm, đây chẳng nên làm, đây nếu được làm rồi thì mãi mãi lợi ích an vui, đây nếu làm rồi thì mãi mãi bị khổ không lợi ích.

– Nầy Xá Lợi Phất! Vì hàng thiện hữu, hành giả tuyên thuyết những phápo như trên để được lợi mừng rồi, biết rõ người kham làm đại pháp khí thì liền khai thị pháp không thậm thâm vi diệu, đó là pháp không, pháp vô tướng, pháp vô nguyện, pháp vô hành, pháp vô sanh, pháp vô khởi, pháp vô ngã, pháp không sát thủ, pháp không thọ mạng, pháp không chúng sanh. Lại khai thị duyên khởi thậm thâm: đó là do vì đây có nên kia có, đây sanh nên kia sanh, vô minh làm duyên cho hành, hành làm duyên cho thức, thức làm duyên cho danh sắc, danh sắc làm duyên cho lục xứ, lục xứ làm duyên cho xúc, xúc làm duyên cho thọ, thọ làm duyên cho ái, ái làm duyên cho thủ, thủ làm duyên cho hữu, hữu làm duyên cho sanh, sanh làm duyên cho lão tử sầu thán ưu khổ thân tâm nhiệt não, các thứ sanh khởi khối thuần khổ to lớn như vậy.

Lại đây không nên kia không, đây diệt nên kia diệt, đó là vô minh diệt nên hành diệt, hành diệt nên thức diệt, thức diệt nên danh sắc diệt, danh sắc diệt nên lục xứ diệt, lục xứ diệt nên ái diệt, ái diệt nên thủ diệt, thủ diệt nên hữu diệt, hữu diệt nên sanh diệt, sanh diệt nên lão tử diệt nhẫn đến sầu thán ưu khổ thân tâm nhiệt não, các thứ sanh khởi khối thuần khổ to lớn diệt.

– Nầy Xá Lợi Phất! Lại nên diễn nói trong ấy không có một pháp nào là có thề được có mà diệt được. Tại sao? Vì các pháp kia đều từ nhơn duyên sanh không có chủ tể không có tác giả không có thọ giả theo nhơn duyên chuyển đổi. Lại cũng không có một pháp nào lưu chuyển đổi. Lại cũng không có một pháp nào lưu chuyển xoay vần, cũng không chuyển vận theo. Chỉ do vì si vọng mà giả lập ba cõi theo phiền não khổ mà lưu chuyển, chỉ là giả đặt để.

Lúc hành giả như thiệt quán sát si vọng, không có một pháp nào có thể tạo ra pháp khác, trong ấy không có tác giả vì tác giả bất khả đắc, nhẫn đến không có một pháp lưu chuyển xoay vần vì lưu chuyển bất khả đắc vậy.

– Nầy Xá Lợi Phất! Hành giả nếu nghe pháp thậm thâm như vậy rồi mà không nghi không lo, khéo nhập vào tánh vô chướng ngại của các pháp, thì hành giả nầy chẳng chấp trước nơi sắc uẩn, chẳng trước nơi thọ tưởng hành thức uẩn, chẳng trước nhãn sắc và nhãn thức, chẳng trước nhĩ thanh, tỷ hương, thiệt vị, thân xúc, ý pháp và nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, vì tất cả đều bất khả đắc vậy.

– Lại nầy Xá Lợi Phất! Ðại Bồ Tát tín thọ pháp tánh không như vậy rồi thì chẳng thối thất sự thấy Phật nghe Pháp và phụng Tăng. Ðời đời sanh ra nơi đâu đều chẳng rời sự thấy Phật, nghe Pháp và phụng Tăng, mà sanh ra trước chỗ Ðức Phật chuyên cần tinh tiến chí cầu pháp lành. Người ấy an trụ chánh cần rồi chẳng luyến ở nhà với nam nữ quyến thuộc tôi tớ và tài sản. Người nầy chẳng bị dâm dục làm phiền nhiễu, ở đời hiệntại mau bỏ sự lạc thú của tuổi trẻ, dùng lòng tịnh tín ở trong Phật pháp mà xuất gia nhập đạo. Sau khi xuất gia được các bực thiện tri thức thầy lành bạn lành, tư duy lành, tín nguện lành. Do vì tín nguyện lành nên khéo nghe học chánh pháp kiên quyết tu hành, chẳng phải chỉ có ngôn thuyết là trọn đủ. Người nầy giác huệ thành tựu ưa thích học hỏi nhiều không chán đủ. Dùng tâm vô nhiễm đem pháp đã được nghe mà giảng nói cho người. Ðối với lợi dưỡng danh dự cung kính không có lòng hi vọng. Chẳng bao giờ bỏ chánh nghĩa mà vọng thuyết pháp. Ðúng nhê pháp đã nghe, đúng như pháp đã an trụ mà giảng thuyết . Ðối với chúng nghe pháp thì sanh lòng đại từ . Ðối với chúng sanh thì sanh lòng đại bi.

– Nầy Xá Lợi Phất! Hành giả vì có đa văn trí huệ như vậy nên chẳng đoái thân mạng thiểu dục tri túc tịnh thơ thới, dễ cung cấp dễ nuôi, thường thích vắng lặng rảnh rang suy gẫm ý nghĩa chánh pháp đã được học. Y theo thiệt nghĩa mà chẳng theo văn. Người nầy làm chỗ y chỉ cho Trời, Người, A Tu La v. v… Chẳng chuyên vì mình mà vì các chúng sanh cầu đại thừa như là Phật trí, vô đẳng trí, vô đẳng đẳng trí, thắng xuất Tam giới trí.

– Nầy Xá Lợi Phất! Ta nói người ấy được pháp chẳng phóng dật đệ nhứt.

– Nầy Xá Lợi Phất! Thế nào gọi là pháp chẳng phóng dật? Ðó là các căn tịch tịnh.

Những gì là các căn tịch tịnh? Ðó là mắt thấy sắc chẳng lấy tướng mạo, như thiệt biết rõ sắc say đắm, sắc họa hoạn và sắc xuất ly.

Như vậy, tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân giác xúc, ý biết pháp chẳng lấy tướng mạo, như thiệt biết rọ pháp say đắm pháp họa hoạn và pháp xuất ly.

– Nầy Xá Lợi Phất! Ðó gọi là tâm chẳng phóng dật.

Lại chẳng phóng dật là điều phục tự tâm khéo hộ tâm người trừ lòng thích phiền não mà thích chánh pháp. Chẳng mống khởi quan niệm tham dục sân hận tàn hại. Chẳng phát khởi ba căn bất thiện, tham sân và si. Chẳng phát khởi thân ác hạnh, ngữ ác hạnh và ý ác hạnh. Chẳng phát khởi tác ý chẳng đúng lý . Chẳng phát khởi tất cả pháp ác bất thiện. Ðây thì gọi là chẳng phóng dật vậy.

– Nầy Xá Lợi Phất! Chư Ðại Bồ Tát ấy đã chẳng phóng dật, siêng tu tập tác ý đúng pháp, nếu pháp là có thì biết có đúng thiệt. Nếu pháp là không có thì biết đúng thiệt là không có. Quán sát trong ấy những gì là có, những gì là không có, liền dùng sức trí huệ liền biết đúng thiệt.

Nếu chánh tu tập thì thánh giải thoát có. Nếu tà tu tập thì thánh giải thoát không có.

Không nghiệp báo đó, đây là có.

Có nghiệp báo đó, đây là không có.

Lại nữa, nhãn là có, còn có nhãn là không có . Nhẫn đến ý là có, còn có ý là không có.

Lại nữa, sắc là pháp vô thường khổ biến dị, đây là có. Còn sắc là thường trụ chẳng biến chẳng hoại, đây là không có.

Nhẫn đến thọ tưỡng hành và thức vô thường khổ biến dị, đây là có. Còn thọ tưởng hành và thức thường trụ chẳng biến chẳng hoại n đây là không có.

Lại nữa, vô minh là duyên thì có các hành . Nếu không vô minh thì các hành là không có.

Nhẫn đến dùng sanh làm duyên thì có lão tử. Nếu không sanh thì lão tử là không có.

Lại nữa, bố thí cảm giàu có, đây là có . Còn bố thí cảm bần cùng, đây là không có.

Trì giới sanh thiên, đây là có . Còn phạm giới sanh thiên, đây là không có.

Chánh văn sanh đại trí huệ, đây là có . Các ác huệ mà hay sanh đại trí huệ, đây là không có.

Tu chánh định rời lìa hệ phược, đây là có . Tu chánh định mà bị hệ phược, đây là không có.

Lại nếu tác ý đúng lý mà có hệ phược và tác ý chẳng đúng lý mà rời hệ phược thì cả hai đều không có.

Nếu chư Bồ Tát phát khởi chánh cần thì có Bồ Ðề, nếu phát khởi giải đãi thì không có Bồ Ðề.

Nếu không kiêu mạn xuất gia thọ ký đây gọi là có, nếu kiêu mạn thì không có tịch diệt.

Lải khắp tất cả chỗ tánh không, đây là có . Khắp tất cả chỗ có ngã, sát thủ, chúng sanh, thọ mạng, trượng phu v. v… đây là không có.

– Nầy Xá Lợi Phất! Nếu chư Ðại Bồ Tát thật hành chẳng phóng dật, có thể khéo tu tập, tác ý đúng lý, người trí thế gian đồng biết là có thì thi thiết là có, người trí thế gian đồng biết là không có thì thi thiết là không có.

– Nầy Xá Lợi Phất! Nếu quyết định nói có thì chẳng phải chánh liễu tri, nếu quyết định nói không có cũng gọi là chẳng phải chánh liễu tri. Tại sao? Vì thiệt nghĩa được chư Phật Thế Tôn tuyên nói, có thể liền hiểu rõ được.

– Nầy Xá Lợi Phất! Chư Phật Thế Tôn đủ sức đại trí tổng nhiếp các pháp đặt trong bốn thứ ô đà nam.

Những gì là bốn thứ?

Ðó là tất cả hành vô thường, tất cả hành khổ, tất cả pháp vô ngã, Niết Bàn tịch diệt.

– Nầy Xá Lợi Phất! Tất cả hành vô thường được diễn nói, đó là Ðức Như Lai vì các chúng sanh quan niệm thường còn mà dứt trừ quan niệm thường còn của họ.

Tất cả hành khổ được diễn nói, đó là Ðức Như Lai vì các chúng sanh quan niệm vui mà dứt trừ quan niệm vui của họ.

Tất cả pháp vô ngã được diễn nói, đó là Ðức Như Lai vì các chúng sanh quan niệm ngã mà dứt trừ quan niệm ngã của họ.

Pháp Niết Bàn tịch diệt được diễn nói, đó là Ðức Như Lai vì các chúng sanh hữu sở đắc điên đảo mà dứt trừ tâm hữu sở đắc điên dảo của họ.

– Nầy Xá Lợi Phất! Chư Ðại Bồ Tát ấy nếu nghe Ðức Như Lai nói tất cả hành vô thường thì có thể nhập vào rốt ráo vô thường . Nếu có nghe tất cả hành khổ thì có thể phát khởi tâm chán lìa mong muốn. Nếu có nghe tất cả pháp vô ngã thì có thể tu tập pháp môn chánh định diệu giải thoát. Nếu có nghe nói tịch diệt Niết Bàn thì có thể tu tập chánh định vô tướng mà chẳng phi thời nhập vào chơn tế .

– Nầy Xá Lợi Phất! Nếu chư Ðại Bồ Tát khéo tu tập được pháp như vậy thì trọn chẳng thối thất tất cả pháp lành và mau viên mãn tất cả Phật pháp”.