Chương IX-a
A Nan Ða lúc Phật gần nhập Niết Bàn
Những mẩu chuyện (phần nhiều dưới hình thức đối thoại) của A Nan Ða và đức Phật, vài ba tháng trước khi Phật nhập Niết Bàn, đã được nhiều học giả Phật giáo, xem như những tài liệu lịch sử, diễn tả các biến cố quan trọng liên quan đến phần cuối cùng của đời sống đức Phật.
Theo Maha Parinibbana Sutta (Ðại Niết Bàn Kinh) ghi trong Digha Nikaya 16 (Trường A Hàm số 16) thì A Nan Ða đã đóng một vai trò chính các bài pháp do đức Phật thuyết trước khi nhập Niết Bàn.
Những bài pháp này thường mang am hưởng “lời giáo huấn cuối cùng” và diễn tả cả sắc thái buồn bã của A Nan Ða, khi biết Phật sắp Nhập Diệt.
Theo một số nhà nghiên cứu Phật giáo thì những bài kinh ấy đã gián tiếp tiên đoán tuổi thọ của Phật Pháp Thích Ca (chỉ có 5000) thôi, cũng như báo trước những hình thức suy đồi trong Phật giáo về sau như Tăng chúng xa dần nếp sống phạm hạnh, gương giải thoát bị biến mất v.v .. cho đến khi một vị Phật giáo mới ra đời.
Những Kinh Di Giáo này hầu hết cũng nêu rõ những pháp thực tiễn, khuyên dạy các hàng đệ tử càng gia tăng tinh tấn, thực hành pháp giải thoát trong lúc đức Phật tại tiền, kẻo một khi Phật đã viên tịch, thì ơn ích duy nhất ấy xem như đã vuột mất.
Ðồng thời, toàn thể nội dung các kinh Di Giáo còn phản ảnh qua nhân vật chính, đóng vai đối thoại là A Nan Ða, một đặc sắc giải cứu mà chúng tôi sẽ cố gắng trình bày trong những trang sách sau đây:
Phần thứ nhất của kinh Ðại Niết Bàn (Maha Parinibbana Sutta) có thể xem như bắt đầu tại Vương Xá thành (Rajagaha), kinh đô xứ Ma Kiệt Ðà (Magadha) nơi Ðề Bà Ðạt Ða trước đó bảy năm đã hại Phật và chia rẽ Tăng Già.
Thuở bấy giờ, vua A Xà Thế (Ajatasattu) đang trị vì xứ Ma Kiệt Ðà. Còn vua Ba Tư Nặc (Pasenadi) thì mới bị lật đổ, đồng thời vương tộc Thích Ca cũng vừa trải qua một thảm kịch ghê gớm, cả dòng họ bị tàn sát. Hoàng tử Mahanama (anh em duy nhất còn tại gia của A Nan Ða) đã bị giết.
Lúc ấy ba sứ quân đầy thế lực cai trị ba lãnh địa nằm ở phía bắc sông Hằng (Ganga) gần núi Hy Mã Lạp Sơn là Koliyas, Mallas và Vajjians đang tuyên bố độc lập, không thần phục đại vương A Xa Thế nữa.
Nhằm lúc vị vua này cũng có tham vọng đánh chiếm rồi sát nhập ba lãnh địa ấy vào ba lãnh thổ của mình, Ðặc biệt là vua A Xà Thế dự định sẽ chinh phục vùng Vajjians trước tiên.
Nếu trong thảm kịch của dòng họ Thích Ca vì nghiệp nặng của những người bà con, đức Phật đã không che chở được gì, thì đối với ý định xâm lăng bộ tộc Vajjians của vua A Xà Thế, Ngài đã cứu giúp rất nhiều. Sau đó Ngài còn gián tiếp che chở cho dân chúng trong bộ tộc Mallas nữa.
Ðây chính là bối cảnh có sắc thái chính trị vào những năm cuối cùng của đời sống đức Phật.
Soạn giả xin nhắc lại tượng trưng một số biến cố như sau:
Nhà vua có máu xâm lăng A Xà Thế đã ra lệnh cho một quan đại thần tên Vassakara đến yết kiến đức Phật và báo cho Phật hay rằng đại vương có ý định đem quân đi chinh phục lãnh địa Vajjians.
Khi Vasakara nêu lên ý định của nhà vua và xin lời Phật dạy, thì đức Phật quay sang Tôn Giả A Nan Ða (lúc đó đang đứng hầu sau lưng đấng Bổn Sư). Phật hỏi A Nan Ða:
– Này A Nan Ða! Dân tộc Vajjians có bảy phẩm hạnh trong đời sồng hằng ngày như thế nào?
A Nan Ða liền trả lời:
– Bạch Ðức Thế Tôn:
– Thứ nhất dân chúng bộ tộc Vajjians rất thường hội họp và thảo luận một cách nhất trí mọi vấn đề.
– Thứ hai dân chúng Vajjians không bao giờ hủy bỏ những luật lệ cũ.
– Thứ ba dân chúng Vajjians thường xuyên nghe lời khuyên nhủ của các bậc lão thành.
– Thứ tư dân chúng Vajjians không bao giờ xâm phạm tiết hạnh của phụ nữ.
– Thứ năm dân chúng Vajjians luôn luôn tôn trọng những nơi thờ phượng.
– Thứ sáu dân chúng Vajjians tiếp tục hiến dâng của cải đến những cơ sở tín ngưỡng.
– Thứ bảy dân chúng Vajjians lúc nào cũng sẵn sàng che chở và hộ trì những bậc tu hành chân chính.
Chờ A Nan Ða trả lời xong, đức Phật liền phán rằng:
– Với bảy đức tính như thế không ai có thể phủ nhận được sự thịnh vượng, hùng mạnh của dân chúng Vajjians.Và bảy đức tính đó trước đây họ đã không có nên họ mới bị suy đồi, nghèo đói. Chính Như Lai đã dạy dỗ cho họ thấm nhuần được bảy phẩm hạnh ấy! một dân như thế là một dân tộc có thể bảo vệ được gia sản, vật chất cũng như tinh thần của họ một cách dễ dàng.
Nghe Phật dạy dứt lời, quan đại thần Vasskara cũng khen ngợi rằng:
– Không cần phải có đến bảy đức tính như thế! chỉ cần một đức tính thứ nhất mà thôi, cũng đủ làm cho bộ tộc này phát triển mạnh mẽ. Ngày nào dân chúng Vajjians còn tiếp tục có bảy đức tính đó thì ngày ấy họ không thể bị xâm lăng. Ai muốn chinh phục họ phải chờ cho đến khi nào họ chia rẽ và có nội phản.
Ðoạn quan đại thần ấy kiếu từ đức Phật Với ý định sẽ về tâu lên nhà vua rằng: cử binh đi chinh phục lãnh thổ Vajjians trong lúc này là một điều thất sách.
Trong xã hội Ấn Ðộ thuở bấy giờ, sự tin tưởng vào sức mạnh tinh thần của một sân tộc rất quan trọng. Chỉ cần làm cho một thế lực xâm lăng hiểu rõ điều đó, cũng đủ giúp cho đức Phật ngăn ngừa một cuộc chiến tranh.
Mãi về sau, khi đức Phật đã nhập Niết Bàn, xứ Vajjians mới bị thôn tính, bởi vì dân tộc xứ này đã dần dần bỏ rơi và xa lìa những đức tính cũ, trở thành chia rẽ, không còn sức mạnh nhất trí, nên đã chẳng giữ được biên cương lãnh thổ của họ.
Về phần đức Phật, lúc gián tiếp cản ngăn được ý định xâm lăng của vua A Xà thế, Ngài đã rút tỉa được một bài học chính trị và đem áp dụng vào cộng đồng giáo hội. Ngài dạy A Nan Ða triệu tập Tăng chúng để đề cao bảy đức tính nói trên: Nếu nhờ bảy đức tính ấy mà một dân tộc được hùng mạnh, khiến cho ngoại bang không dám xâm lăng như thế nào,thì bảy đức tính ấy cũng làm cho Giáo Hội vững chắc như thế ấy.
Nghĩa là:
– Thứ nhất, Tăng chúng nên thường xuyên hội họp, thảo luận mọi vấn đề chung trong cộng đồng một cách nhất trí. Dù có những bất đồng ý kiến cũng phải đả thông một cách ôn hòa với nhau.
– Thứ hai, không nên đặt ra những luật lệ mới (Vì quyền làm luật sẽ bị phân bì, rồi ai cũng muốn chế luật mới hết).
– Thứ ba là nên tuân lời những bậc trưởng lão.
– Thứ tư, phải tôn trọng Giáo Hội Tăng Già
– Thứ năm, cần suy gẫm đến mọi lời khuyên dạy của các hàng Tôn Túc
– Thứ sáu, tinh tấn diệt trừ tham vọng và phát triển tính ưa thích thanh tịnh.
– Thứ bảy, nên luôn luôn biết mình để thấy được sự an lạc của các hàng Thánh nhân, lúc nào cũng sống trong sự biết mình ấy.
Sau khi liệt kê bảy pháp lành cho Tăng chúng nhớ xong, đức Phật đã cô đọng thành một đoạn pháp (về Giới – Ðịnh – Tuệ) mà sau này chúng ta thường tìm thấy nhiều nơi trong Tam Tạng kinh điển như sau:
– Ấy là giới đức! Ấy là sự an trụ! Ấy là trí tuệ! Khi có an trụ và giới đức thì kết quả giải thoát sẽ vững chắc. Rồi khi có trí tuệ phối hợp với an trụ và giới dức thì kết quả giải thoát không những vững chắc mà còn vĩ đại nữa. Và khi có sự biết mình thì tâm hồn sẽ được trí huệ giữ cho luôn luôn trong sạch, tránh khỏi mọi ô nhiễm, mọi dục lạc và vô minh.
Phần thứ hai của Kinh Ðại Niết Bàn là sau những lời giáo huấn đó, đức Phật đã bắt đầu cuộc du thuyết cuối cùng của mình. Nơi nào có người hữu duyên đón mừng Tháp Bảo để thấm nhuần chân lý giải thoát là Ngài dừng chân để ban bố ơn lành. Hoặc nơi nào có những sức mạnh cuồng bạo manh nha gây chiến thì Ngài cũng dừng chân lại ở nơi đó, để dùng pháp giác ngộ, dập tắt ngòi lửa chiến tranh.
Trong cuộc hành trì lịch sử này, trước tiên đức Phật đã hướng về vùng châu thổ sông Hằng, xuyên qua địa phận Na Lan Ða, nơi đó về sau có một trường đại học Phật Giáo nổi tiếng. Ðịa phận này cũng là nơi sinh quán của Thánh Tăng Xá Lợi Phất (Sàrìputta). Chính ở đây, Trưởng lão Xá Lợi Phất đã chia tay đức Phật, không tiếp tục cuộc hành trình với đức Bổn Sư nữa, để quay về cứu độ mẹ mình, rồi viên tịch luôn trong ngôi làng mà ông đã sinh ra.
Lúc nhìn đức Phật lần cuối cùng, Trưởng lão Xá Lợi Phất đã thốt ra những lời vĩnh biệt, nhân danh là một đại tông đồ như sau:
– Bạch Ðức Thế Tôn! Bạch đấng Giác Ngộ! Dù cò muôn triệu lời để ca ngợi ân đức của Ngài cũng không bằng bốn chữ Trí tuệ giác ngộ.
Sau đó đức Phật cùng với đông đảo chư đệ tử tiến về thành Vesali. Ðây là thủ đô của xứ Vajjians, mà đức hạnh của dân tộc xứ này Ngài đã từng khen ngợi. Và một cuộc chiến tranh suýt do vua A Xà Thế gây ra, tàn phá nước ấy cũng đã được Ngài dùng pháp lành dập tắt.
Người ta có thể tự hỏi:” Tại sao đức Phật trong lúc tuổi về chiều, lại đến đây, để nhập hạ lần thứ 45 của cuộc đời một vị Phật Tổ?”
Nếu chúng ta chịu khó suy nghĩ một cách sâu xa thì sẽ thấy rằng sự có mặt của đức Phật trong lãnh thổ này (Vajjians) không có mục đích gì khác hơn là dùng ân đức của Ngài để can ngăn vua A Xà Thế đem quân đánh chiếm một nước nhỏ lân cận.
Và tại thành Vesali, đức Phật đã thọ trọng bệnh. Một thân nghiệp tự nhiên và sau cùng của một đời người. Ngài đã dùng sức mạnh thiền định để đánh tan mọi đau đớn. Ðồng thời Ngài cũng không muốn viên tịch mà chưa triệu tập đầy đủ các hàng đệ tử một lần sau cùng. Vả, nhục thân của bất cứ một nhân sinh nào trên đời này, vốn không tránh khỏi bốn định luật: Sinh, Lão, Bệnh và Tử.
A Nan Ða thấy đức Thế Tôn nhuốm bệnh và biết rõ ấy là một căn bệnh ngặt nghèo, thì buồn khổ vô cùng. Ông lo sợ đến nổi mất hết sáng suốt. Rồi để tự an ủi, A Nan Ða đã tưởng tượng và nói với đức Phật rằng;
– Bạch Ðức Thế Tôn! Dù bệnh hoạn có nguy kịch cỡ nào, một vị Phật chắc chắn cũng không bao giờ nhập Niết bàn một cách bất ngờ, khi chưa triệu tập đủ mặt chư đệ tử và ban bố những lời di chúc tối hậu.
Nhưng đức Phật bỗng hết đau đớn, thần thái tươi tỉnh nói:
– Này A Nan Ða! Như lai không có gì để di chúc tối hậu cả! Những điều đáng truyền lại cho các hàng đệ tử, Như Lai đã thuyết ra hết rồi. Hiện tại không còn một pháp nào có thể gọi là bí mật để di chúc tối hậu. Như Lai từ khi Thành Ðảo đến giờ đã tiếp tục hiện hữu là nương vào “thân Phật”. Ông chớ hiểu lầm có một vị Phật đang sống để lãnh đạo Giáo Hội, và trước khi viên tịch, vị Phật ấy phải chuẩn bị mọi lời di chúc để chuyển giao quyền hành như các hàng vua chúa còn mắc dính trong bản ngã phàm tình. Thân Như Lai hiện giờ giống như một cỗ xe đã cũ. Ở cái tuổi 80 thân Phật của Như Lai chỉ được yên ổn khi tâm thường an trú trong các bậc Thiền, nhất là Thiền Phi Tửơng và Vô Sở Hữu Xứ (animitta céto vimutti). Và khi ra khỏi hai bậc thiền ấy nhục thân Như Lai cũng chịu mọi trạng thái tàn hoại của luật vô thường.
– Này A Nan Ða ! Ông hãy tự xem mình là nơi nương nhờ của chính ông. Ông hãy xem trí tuệ chơn chánh của mình là pháp cứu rỗi duy nhất, vì một đệ tử thấm nhuần Phật giáo không bao giờ mong cầu nơi tha lực để giải thoát sự sinh tử luân hồi của chính mình.
Phần thứ ba của kinh Ðại Niết Bàn (Mahà Parinibbàna Sutta), cũng được thuyết tại Vesali, thuật lại giai thoại:
– Ở đó đức Phật đã đừng chân để tu dưỡng một mùa hạ. Một hôm đức Thế Tôn bảo A Nan Ða lấy tọa cụ và theo Ngài đến đại tịnh xá Capala để hành thiền. Sau khi Phật và A Nan Ða an toạ, đức Thế Tôn thay vì lập tức Nhập Ðịnh, Ngài lại quan sát khung cảnh thanh tịnh, và đẹp đẽ xung quanh, rồi Phật nói như cảm khái với A Nan Ða rằng:
– “Những nơi phụ cận trong vùng cũng có sắc thái xinh đẹp, thanh tịnh như thế này. Như Lai nên an trú ở đây, hay lần lượt đến những nơi đó ?”
Hành động của đức Phật khi ấy vốn có một nguyên do, nhưng A Nan Ða đã không hiểu. Ông chẳng tìm thấy một ngụ ý nào trong lời Phật nói cả.
Và theo kinh điển, mãi về sau các học giả Phật giáo mới nhắc đến câu nói ấy của Phật để phân tích, khi họ đối diện với những đoạn khác đầy minh chứng trong Tam Tạng Pháp Bảo.
Vì một đấng Phật Tổ mà thốt lên lời cảm khái hay tỏ ra ưa thích cảnh đẹp như thế(dù là cảnh đẹp thanh tịnh) là một điều rất hiếm và dường như mâu thuẫn với phẩm cách không còn dính mắc thế gian của một bậc hoàn toàn giải thoát.
Nhưng Phật đã xuất khẩu nói ra, tất phải có lý do. Và lý do duy nhất chỉ là báo hiệu sự gần Nhập Diệt của Ngài. Không phải vì Phật lưu luyến cảnh đẹp, mà vì lòng thương xót chúng sanh. Lần đầu tiên non 45 năm về trước sau khi Ðắc Ðạo, nhận thấy Phật giáo quá cao thâm và vì sự nghiệp chướng của chúng sanh lại sâu dày, Ngài đã chần chờ, thì Phạm Thiên đã xuất hiện thỉnh Phật thuyết pháp.
Giờ đã trải qua 45 năm truyền đạo giải thoát, nếu duyên lành của nhân loại còn thuận hành thì có kẻ tịnh tâm sẽ yêu cầu Ngài khoan Nhập Diệt.
Rồi đức Phật lại nói” Ai phát triển được bốn thần lực tuyệt đối (Iddhipàda) là An định (hay nhất tâm) tinh tấn, nhẫn nại, và sát minh, thì người ấy có thể làm chủ hoàn toàn được vận mạng của chính mình. Nếu muốn kéo dài tuổi thọ, họ cũng có thể làm được”.
Có nghĩa là một vị Phật còn hơn thế nữa, vì Ngài đã dư đủ bốn thần lực ấy, nên khi có ai yêu cầu Phật tiếp tục sống để cứu độ chúng sanh thì Ngài cũng có thể thực hiện một cách dễ dàng.
Theo chú gỉải kinh nói về kiếp sống (€yu kappastta) thì bốn thần lực của một vị Phật có khả năng làm cho nhục thân của Ngài kéo dài tuổi thọ bằng một kiếp trái đất. Còn nếu Phật dùng thần lực, mà Ngài chỉ áp dụng thiền định. Ngài cũng có thể sống đến 120 tuổi. Trường hợp thân Phật bị dư nghiệp hiện kiếp phát tác, chẳng hạn như Ngài bị vi trùng công phá, sinh bệnh, thì Ngài cũng có thể dùng pháp Ðại Bát Nhã để sống lâu theo ý muốn. Tức là kéo dài kiếp sống cho đến khi nào các tế bào cuối cùng trong thân Ngài bị vi trùng phá hủy. Và trong thời gian dùng Ðại Bát Nhã pháp để kéo dài sự sống, một vị Phật chỉ biết Thuyết Pháp và Nhập Ðịnh mà thôi chứ Ngài không còn những sinh hoạt phàm tình khác.
Ðức Phật không phải chỉ nói điều ấy với A Nan Ða một lần, mà Ngài đã nhắc lại đến lần thứ hai, rồi lần thứ ba. Nhưng A Nan Ða vì quá âu lo, bối rối, đã không hiểu rõ nghĩa lý của lời Phật dạy.
Sự bối rối đến trở thành tăm tối đó của A Nan Ða vốn đã do hai nguyên nhân;
– Thứ nhất A Nan Ða lúc ấy chưa đạt Thánh quả A La Hán.
– Thứ hai có sự quấy nhiễu của Ma Vương (Màra)
Theo thuật truyện (Màrajàtaka) thì Ma Vương không phải chỉ mới bắt đầu khuấy phá sức khoẻ của Phật, và những ai gần gũi Phật khi tuổi đời Ngài ở giai đoạn xế bóng, mà hắn đã xuất hiện yêu cầu Phật hãy bước ra khỏi Tam giới (tức là hãy nhập Niết bàn) lúc Ngài vừa đắc quả Chánh Ðẳng Chánh Giác dưới cội cây Bồ dề.
Phật bị nhuốm bệnh chính là lúc A Nan Ða, dù lo lắng cũng phải bình tĩnh, chăm chỉ và cẩn thận. Nhưng ông đã trở nên đãng trí, bối rối là một hiện tượng khác thường. Hiện tượng ấy của A Nan Ða trước đó tuy đã từng xảy ra, nhưng chỉ xảy ra trong những lúc đức Bổn Sư và chư tông đồ gần Phật, được an toàn tự tại. Và nhất là chỉ xảy ra khi Ma Vương không lởn vởn xung quanh để che mờ trí sáng suốt của ông. Nhờ vậy tuổi thọ của Phật giáo mới không bị rút ngắn hơn nữa (dưới 5000 năm) chứ nếu không, cõi Ta Bà này đã không có đủ 45 năm hưởng thụ ơn ích của một vị Phật Tổ và hiện thời thế gian vì không có Phật giáo chắc phải mang một bộ mặt khác. Bộ mặt lấy sự bạo động làm” chân lý” rồi ân oán triền miên, đau khổ không bao giờ chấm dứt.
(Lấy oán báo oán, oán sẽ chất chồng. Lấy ân báo oán, oán lại tiêu tan. — Theo Pháp Cú kinh).
Là những Phật tử muốn nghiên cứu rõ ràng lịch sử Phật Ðà, chúng ta thử phân tích biến chuyển tâm lý của A Nan Ða đã trong khi ấy: Phải chăng ngoài việc bị ông Ma VƯơng che mờ trí sáng suốt, còng những nguyên nhân nào khác?
Số là tối hôm sau khi Phật muốn bệnh lần thứ nhất A Nan Ða được Phật gọi lên ngồi sát bên mình ở hàng toạ cụ đầu (Trứơc cả các vị Ðại Tôn Túc) để tụng kinh khuya. Rồi sau thời kinh, đức Phật lại ra lệnh cho chư Tăng ai về chỗ nấy để tu niệm. Còn A Nan Ða Ngài bỗng bảo cầm toạ cụ đi theo Ngài đến tịnh xá Capala để hành thiền. Một sinh hoạt tu thiền chung với đức Bổn Sư, một vị Phật Tổ, mà A Nan Ða từ non 45 năm trường gần Phật không bao giờ dám ngờ là mình sẽ có được một diễm phúc như thế.
(Thường lệ, trước khi nhập định, đức Phật chỉ bảo A Nan Ða chuẩn bị tọa cụ trong tịnh thất cho một mình Ngài. Rồi Phật vào Nhập Ðịnh. Còn A Nan Ða muốn hành thiền ở đâu tuỳ ý, miễn đừng quá xa Phật, hầu khi cần, đức Bổn Sư sẽ không phải đi tìm. Thói quen này làm cho A Nan Ða có thể tiên đoán thời gian Nhập Ðịnh của Phật kéo dài bao lâu, để ông hoặc hành thiền trong tinh thất của mình hoặc lẳng lặng đi làm những công tác khác, như giặt giũ y phục của Phật, hay đến chăm sóc những Sa môn già yếu, bệnh hoạn).
Nhưng lần này, đức Phật lại bảo ông cùng đi hành đạo với Ngài, nên A Nan Ða cảm thấy một nỗi vui sướng khó tả tràn ngập trong lòng.
Nhất là trong khi ấy thần sắc của Phật rất bình thường, dường như trong ngày hôm đó Ngài không nhuốm trọng bệnh chi cả. (A Nan Ða nào biết rằng Phật đã dùng Ðại Bát Nhã pháp để quân bình thân bệnh). Nỗi vui sướng của A Nan Ða hiển nhiên là một loại hạnh phúc biết rằng ông sắp hành thiền trong hào quang và định lực của một vị Phật.
Rồi trong một chốc sung sướng, hân hạnh, A Nan Ða lại nghe đức Phật khen ngợi cái khung cảnh vừa xinh đẹp vừa thanh tịnh xung quanh đại Thiền xá Capala, trong rừng vắng, nên ông càng thêm cản khái, quên mất trước đó không lâu một biến cố tối quan trọng xảy ra: Ðức Phật đã nhuốm trọng bệnh! Ðây có lẽ là lý do thứ hai của sự “Tăm tối”, lý do vì từ lâu A Nan Ða hằng thương kính đức Phật mà chưa bao giờ có được những giây phút gần gũi thân thiết êm đềm như thế!(Nói theo kiểu phàm tình, vì A Nan Ða lúc đó chưa đạt được Thánh quả A La Hán). Nên ông đã không ngờ bổn phận “Thỉnh Phật khoan Nhập Niết Bàn” chính là bổn phận của ông, và hiện tại đang đòi hỏi ông phải làm bổn phận đó, mà ông không biết.
Có gì đáng tiếc cho bằng A Nan Ða chính là người sợ Phật Nhập Niết Bàn sớm nhiều nhất mà khi đến lúc, ông lại không biết thỉnh Phật tiếp tục sống tại thế gian. Phải chăng sự yêu thương, ái mộ phàm tình vốn là nguyên nhân đưa tâm linh của con người đi vào nẻo tăm tối?
Dẫu sao, nếu Ma Vương (Màra) không ám ảnh thì A Nan Ða đã hiểu rõ ngụ ý trong lời Phật dạy rồi. Ông không phải chỉ yêu cầu một lần, mà cho đến một nghìn lần, ông cũng sẽ sẵn sàng vui vẻ năn nỉ Phật tiếp tục trên thế gian này để cứu độ chúng sanh. Và chỉ cần một lời yêu càu thôi, lóng từ bi vô lượng của đức Phật sẽ tỏa rộng và Ngài sẽ không sớm nhập Niết bàn.
Sự cần thiết phải có người yêu cầu Phật “Khoan nhập Niết Bàn” như thế, là một điều thần bí trong kinh điển Pàli (Phạn ngữ). Người Phật tử khi nghiện cứu về khía cạnh siêu hình trong đạo Phật sẽ thấy nhức óc. Xưa nay chúng ta vẫn hiểu rằng: Tuổi thọ của một kiếp người là do kết quả của toàn thể những cộng nghiệp (thiện ác lẫn lộn) mà người ấy đã tạo ra trong kiếp trước.
Nhưng trường hợp của đức Phật thì hơi khác. Vì kiếp thành Phật là kiếp chót, nên tuổi thọ của một vị Phật là di quả lưu lại của hằng hà sa số kiếp trước. Có thể có những di quả phi thiện hay trung hòa quá yếu nào đó, nằm trong vô thỉ kiếp xa xưa đã không đuổi theo kịp tiền thân Phật, nên Ngài chưa trả, thì khi thành Phật Ngài phải trả. Người ta gọi những di quả quá yếu ấy là quả Tuỳ nhân duyên. Nghĩa là khi có lý do chính đáng đức Phật có thể chuyển hóa chúng được. Do đó tuổi thọ của một vị Phật sẽ ngắn hay dài vốn tùy theo sự chuyển hoá các di quả Tùy nhân duyên ấy.
Và lý do chính đáng vừa nói chính là phải có người thiện tâm yêu đức Phật tiếp tục cuộc sống trên thế gian để độ cứu chúng sanh. Khi nghe lời yêu cầu ấy lòng từ bi của một vị Phật sẽ tự động tỏa rộng đến vô cực và làm chuyển hóa mọi hiệu lực của quả Tùy nhân duyên kia.
Cũng có người nói rằng: Ðức Phật là một bậc toàn tri. Ngài biết rõ mọi điều mong ước của tất cả chúng sanh, nên không cần ai yêu cầu, Ngài vì lòng từ bi sẽ tự động sống lâu trên thế gian để độ đời!
Ðiều này rất đúng, nhưng chỉ đúng khi thân Phật nằm trong trạng thái bình an, không thọ bệnh. Còn khi nhục thân bị trọng bệnh hoành hành, và tâm Phật nằm trong các bậc thiền, nhất là thiền Bát Nhã Vô Sắc, thì linh quang của Phật chỉ chiếu xung quanh thân Ngài mà thôi, chứ không tỏa đi xa để thấu đến những ai hữu duyên cần được cứu rỗi.
Trở lại trường hợp A Nan Ða bị Ma Vương làm cho tăm tối, chúng ta thử đọc tiếp trong Tam tạng:
“Khi ấy A Nan Ða vâng lời Phật, vừa đến ngồi Nhập Ðịnh dưới một tàng cây to, cách chỗ Phật không xa, thì Ma Vương (Màra) hiện ra. Y nhắc lại những điều đức Phật đã hứa trước đó 45 năm, khi Ngài mới đắc quả Chánh Ðẳng Chánh Giác. Nghĩa là Ma Vương muốn đức Phật Nhập Diệt càng sớm càng tốt, để Ngài đừng bao giờ Chuyển Pháp Luân trên thế gian này. Nhưng đức Phật đã trả lời rằng: Ngài không thể Viên Tịch khi đạo giải thoát chưa được phổ biến đầy đũ, và bốn hạng người lành (Tỳ khưu, Tỳ khưu Ni, thiện nam, tín nữ ) chưa thấm nhuần Chánh Pháp, cùng chưa vững tiến trong đời sống phạm hạnh.
Ma Vương nhắc xong rồi nói; “Hiện tại những việc đó Phật đã hoàn thành, vậy Ngài hãy giữ lời hứa và phải Nhập Diệt”.
Ðức Phật trả lời;”Chúng sinh còn thiện duyên với Như Lai! (Ngài không nói duyên lành ít hay nhiều). Như Lai sẽ vào Niết Bàn trong khoảng ba tháng nữa…!”
Một câu hỏi có thể đặt ra; “Tại sao đức Phật lại tuyên bố Ngài sẽ Nhập Diệt trong vòng ba tháng tới, trước mặt Ma Vương, mà Ngài không tuyên bố lời ấy, trước mặt một ai khác?”
Chúng ta thử phân tích về điểm này: Theo điển cố thì Ma Vương là chủ tể của cái vòng sinh tử luân hồi, gồm Tam giới (Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới). Ảnh hưởng mạnh nhất của Ma Vương là cõi Dục giới. Tất cả những sắc thân từ vật chất ô trược (Như đặc, lỏng, mủ, máu, hữu cơ v.v…) cho đến vật chất thể bền và thể hơi (như sắt, đá, cương tinh, gió, lửa và các thứ khí v. v…) đều là sản phẩm độc quyền chế tạo của Ma Vương.
Khi một chúng sanh ra đời trong Tam giới, bất luận thuộc hạng nào, có thể từ thấp sinh, noãn sinh, hay thai sinh, lên đến hóa sinh, như từ thú rồi người và trời v.v… là chúng sinh ấy đã chịu “nương” vào sản phẩm của Ma Vương để mà sống.
Tất cả chúng sanh mang thân nghiệp có thể ví như người ở trọ mà Ma Vương là chủ nhà. Tiền thuê nhà phải trả cho Ma Vương trong trường hợp này là nuôi dưỡng tham, sân, si. Một vị Phật hay một vị A La Hán là những bậc không còn thiếu nợ đối với chủ nhà xác thân họ nữa. Hay nói cách khác là các hàng ấy đã đứt khoát không chịu: ”thuê nhà” kiếp sau của Ma Vương nữa. Các vị ấy không chịu nuôi dưỡng tham, sân, si thì không còn tái sinh nữa, nên Ma Vương nổi giận muốn đuổi người “ở trọ” thánh thiện ấy đi, để lấy nhà ô trược lại càng sớm càng tốt. Tuổi chết (ví như hạn kỳ thuê nhà) của một bậc Giác Ngộ, dù chưa đến, Ma Vương cũng tìm đủ mọi cách làm cho nó đến sớm, kẻo bậc Giác Ngộ càng có mặt lâu trên cõi Ta bà nàythì số người Giác Ngộ càng tăng, khuyến khích nhau tận diệt tham, sân, si… bước ra khỏi Tam giới, không còn ai thuê nhà kiếp sau do Ma Vương chế tạo nữa.
Thí dụ một cách khác thì Ma Vương có thể ví như một người xây nhà để bán cho chúng sinh luân hồi. Còn đức Phật có thể ví như người Mua nhà lần cuối cùng. Khi ngôi nhà ấy (ám chỉ xác thân) trở nên cũ kỹ, sắp sập, Ngài quyết định không để cho Ma Vương xây nhà mới nữa, nên Ma Vương nổi giận tìm đủ mọi cách đuổi Phật ra khỏi ngôi nhà cũ, (tức phải chết) càng sớm càng tốt!
Do đó Ma Vương chính là kẻ đầu tiên biết Phật không còn cần đến y nữa. Nhưng năng lực của Phật muốn lưu lại trong ngôi nhà cũ, (ám chỉ xác thân) do y đã cất, không biết đến bao giờ mới cạn, nên y cứ tìm cách hỏi Phật chừng nào Ngài Nhập Diệt? Ma vương cũng tự biết rằng: Thánh quả Toàn Giác, tuy rất hiếm, nhưng cũng có thể xuất hiện trên thế gian bất cứ lúc nào. Không có một năng lực chi có thể ngăn cản được. Cũng như thành quả Chánh Ðẳng Chánh Giác ấy muốn kưu lại trong Tam giới bao lâu tùy nhân duyên chứ Ma Vương không làm sao biết trước hay xua đuổi được.
Nhưng dù sao, đức Phật sau khi Ðắc Ðạo, Ngài đã quyết định không sống một kiếp người dài bằng tuổi thọ trái đất. Ngài đã không vận dụng những thần lực để biến mình thành trường sinh bất tử. Những thần lực này vốn có sẵn trong tâm Phật. Ngài có thể phát triển bất cứ lúc nào ngài muốn. Nhưng Ngài đã không phát triển.
Và khi đối diện với Ma Vương, Phật thản nhiên tuyên bố Ngài sẽ Nhập Diệt trong vòng ba tháng nữa, tức là một cách Phật gián tiếp xác nhận Ngài sẽ không sử dụng thần lực trường sinh bất tử, nên quả đất phải rung chuyển và phong vũ sấm sét đã nổi dậy… Vì những sức mạnh phi thường bao quanh địa cầu là kết tinh của hào quang chiếu và nhục thân của đức Phật.
Những sức mạnh phi thường ấy đã từ lâu chờ đợi tâm Phật phổ ra để biến thành kim cương mà bảo vệ một vị Phật Chánh Ðẳng Giác cho đến mãn kiếp trái đất. Nhưng những linh lực ấy đã không được Phật làm hành điểm để hội tụ, thành thử chúng hiển lộng ra như thế!
Khi A Nan Ða chứng kiến một cách kinh hãi cảnh mặt đất rung động, đồng thời trên không trung sấm sét, cuồng phong nổi lên như thế. Ông lập tức bạch Phật hỏi nguyên nhân, thì được đức Thế Tôn trả lời rằng:
– Có tám nguyên nhân làm cho mặt đất rung động và bầu khí quyển bị xáo trộn là:
”Một, có một sinh vật khổng lồ bước đi. Hai, có một đạo sĩ đắc Thiền đạt thần thông Vô sắc. Ba, có một đại Bồ Tát giáng sinh vào lòng mẹ. Bốn, có một đấng cứu thế ra đời. Năm, có một đức Phật Thành Ðạo. Sáu, có một bậc Chánh Ðẳng Chánh Giác bắt đầu Chuyển Pháp Luân. Bảy, có một vị Phật Tổ từ chối sự trường sinh bất tử. Và tám, có một lời hứa Phật sẽ nhập Niết Bàn”.
Khi đọc đến đoạn này, chúng ta sẽ thấy rằng: Sự hiện hữu của một vị Phật Tổ, trên thế gian vốn có nhiều liên quan với càn khôn vũ trụ, chứ không đơn giản như một cuộc sống phàm tình mà chúng ta thường lầm tưởng.
Ðối với các nhà khảo cứu thì những bài kinh nói về tám điềm lạ, hay nói đến tám trình độ tinh thông hoặc nói đến tám bậc Giải Thoát là những đề tài chính trong kinh Ðại Niết Bàn. Và chúng ta ai cũng biết rằng: trong 3 lần 8 là 24 ấy, chỉ có tám pháp nói về điềm lạ (hay còn gọi là tám hiện tượng kinh cảm vũ trụ), như vừa kể trên là thỉnh thoảng được nhắc đến mà không có lý giải. Còn 16 loại đề tài kia, gồm tám trình độ tinh thông và tám bậc Giải Thoát, thì thường được Tạng kinh và Tạng luận phân tích rõ ràng.
Ai muốn biết rõ ba nhóm kinh, mỗi nhóm tám chi này, mời quí vị hãy đọc cuốn, Những ngày cuối cùng của Ðức Phật bằng tiếng Anh (The Last Day of the Buddha), do Bánh Xe Pháp xuất bản (Wheels Publication, Sri Lanka).
Trên thực tế, tám điềm lạ, (tức tám nguyên nhân làm cho mặt đất chuyển động và phong vũ sấm sét nổi lên) vốn chứa lắm điều bí ẩn đặc biệt. Ðức Phật dẫu có tiết lộ trước đó, phàm tuệ của A Nan Ða cũng không thể nào thấu hiểu nổi. Cho nên Phật Tổ đã không nói ra và chỉ có những hiện tượng nhiệm màu làm cho A Nan Ða bị kinh cảm, mới khiến cho ông sực nhớ biết chắc Ðức Phật sắp đi vào Niết bàn. Và cảnh quả địa cầu đã không chịu nỗi sự mất mát phúc đức vô lượng, tức sắp mất đi một vị Phật, nên đã chuyển động khiến vạn vật rung rinh một cách kỳ lạ mà không làm tổn hại đến A Nan Ða một sợi lông, đủ chứng minh cái sắc thái thần bí muôn đời giữa đức Phật và vũ trụ dó.
Trở lại câu chuyện của đức Phật và A Nan Ða tại Thiền Ðịnh Ðạo Tràng Capala: Sau khi quả địa cầu kinh cảm chấm dứt, đức Phật liền đích thân dạy cho A Nan Ða các phương pháp hành thiền thích hợp với các căn cơ ông nhất để A Nan Ða mau tiến hóa.
Ðoạn đức Thế Tôn thuật lại cho A Nan Ða nghe những gì ngài đã hứa với Ma Vương 45 năm về trước. Ngài lập lại câu nói ”Một vị Phật không thể Nhập Niết Bàn trước khi chưa ban bố pháp Giải Thoát đầy đủ trong Tam Giới”.
Rồi Phật tiếp:
– Nhưng trải qua 45 năm chờ đợi. Vừa rồi Ma Vương đã hiện ra nhắc rằng: Hiện tại Như Lai đã công bố đầy đủ tám muôn bốn ngàn pháp môn rồi. Tại sao Như Lai chưa nhập Diệt? Và Như Lai đã hứa với y là Như Lai sẽ nhập Niết Bàn trong ba tháng tới.
Và Phật kết thúc câu chuyện:
– Khi tâm Phật hướng vào Niết Bàn mà thân Phật chưa biến thành kim cương thì quả địa cầu, phải rung động. Hiện tượng ấy không phải lúc nào cũng có, mà nó chỉ xảy ra đúng ba tháng trước khi Phật nhập Niết Bàn.
A Nan Ða nghe thế liền hốt hoảng quỳ lạy thiết tha yêu cầu Phật hóa thành Kim thân để sống lâu độ đời. Ông yêu cầu lần thứ nhất, rồi lần thứ hai, vẫn thấy đức Thế Tôn ngồi yên, im lặng.
Ðoạn Phật hiền từ nhìn A Nan Ða cho biết rằng:
– Này A Nan Ða! Bây giờ thì quá muộn, vì tâm Phật đã hướng về Niết Bàn rồi và đã tự dứt bỏ các phép nhiệm mầu Trường Sinh Bất Tử.
Nhưng khi A Nan Ða yêu cầu đến lần thứ ba thì đức Phật chợt nghiêm nghị hỏi A Nan Ða:
– Này A Nan Ða! Vậy ông có tin tưởng vào phẩm hạnh hoàn toàn của một bậc đã ra khỏi Tam Giới không?
– Bạch Ðức Thế Tôn! Ðệ tử tin tưởng như thế!
Rồi đức Phật dạy tiếp:
– Nếu tin tưởng như thế, tại sao ông lại nài nỉ Phật làm một việc đã quá thời đến ba lần?
A Nan Ða biện hộ rằng:
– Bạch đức Thế Tôn! Sở dĩ đệ tử yêu cầu đức Thế Tôn đến ba lần, là vì đệ tử đã nghe đức Thế Tôn nói một vị Phật luôn luôn có đầy đủ bốn thần lực tuyệt đối, dư khả năng hóa thân thành kim cương, kéo dài tuổi thọ.
Ðức Phật liền hỏi A Nan Ða:
– Này A Nan Ða! Mà ông có tin điều Như Lai nói, về bốn thần lực ấy, là sự thật không?
– Bạch đức Thế Tôn! Ðệ tử tin sự ấy có thật.
Ðức Phật bèn giải rõ:
– Này A Nan Ða! Dịp may độc nhất đã qua rồi không bao giờ trở lại! Lời ông yêu cầu Phật hóa thân trường sinh bây giờ đã quá trễ! Ông chỉ có thể yêu cầu Phật hóa thân trường sinh bây giờ đã quá trễ! Ông chỉ có thể yêu cầu Phật chấp nhận kim thân bất tử khi nào tâm Phật chưa bắt đầu hướng vào Vô Dư Niết Bàn. Và hiện tại thì hy vọng ấy của ông không còn nữa.
Rồi Phật giảng thêm:
– Này A Nan Ða! Nếu trước đây ông đã cung thỉnh Như Lai hóa thân trường sinh độ đời đúng lúc, thì lời yêu cầu của ông đã được Như Lai chấp nhận rồi! Ông quên rằng chính Phật đã gợi ý cho ông làm điều đại thiện ấy nhiều lần, nhưng ông vì tăm tối đã để trôi qua. Phật không phải đã chỉ nhắc ông một lần mà Ngài đã nhắc ông đến mười lăm lần tại năm địa điểm khác nhau rằng: Một vị Phật khi thân thể suy tàn, nếu có kẻ thiện tâm yêu cầu, Ngài vì lòng từ bi sẽ hóa thân trường sinh độ đời.
Ðoạn đức Phật nhắc lại năm địa điểm gần thành Vesali, nơi đó ngài đã gợi ý để A Nan Ða thỉnh Phật đừng nhập Niết bàn (mỗi địa điểm Phật nhắc đến ba lần, tổng cộng thành mười lăm lần), nhưng A Nan Ða vẫn im lặng, không phản ứng gì cả.
Sau cùng đức Phật khuyên nhủ A Nan Ða rằng vạn vật trong Tam giới luôn bị chi phối bởi luật Vô thường. Và một bậc Toàn Giác không bao giờ làm ngược lại với duyên phận của chúng sinh trên cõi thế. Phật đã hứa với Ma Vương trong ba tháng nữa sẽ Nhập Diệt, là một cách để cho những ai hữu duyên còn sót lại, có thể sẽ được ngài giải cứu độ.
Tiếp theo đức Phật bảo A Nan Ða tập họp chư Tăng đệ tử trong vùng để ngài thuyết một bài pháp tán dương trước cộng đồng xuất gia sự phát triển nội tâm (thiền định) và trao dồi Minh sát tuệ (vipassanà), vì chỉ có hai phép tu tập này mới làm cho đời sống phạm hạnh được duy trì vững chắc, và mang lại hạnh phúc cho tất cả mọi người.
Phần cuối bài pháp, đức Phật dùng để công bố giữa Tăng hội rằng Ngài sẽ nhập Niết Bàn trong vòng ba tháng nữa.
(Lời của dịch giả: Lúc Phật tuyên bố câu ấy nhằm ngày 15 tháng giêng Âm lịch. Bởi vậy về sau này theo truyền thống Nam tông, mỗi năm chư Phật tử hằng tổ chức lễ kỷ niệm ”Phật hứa với Ma Vương” – hay Ngày Phật Di Chúc – vào ngày trăng tròn tháng thứ nhất).
Tuyên bố thời điểm nhập Niết Bàn xong, đức Phật bèn thốt ra nhiều bài kệ, mà một trong các bài ấy được tạm dịch như sau:
Như Lai tuổi đã về chiều,
Niết Bàn sẽ nhập là điều tất nhiên.
Khuyên hàng đệ tử cần chuyên,
Rèn tâm, trì giới tạo duyên lấy mình.
Luân hồi bao nẻo đăng trình,
Khổ, vui, thăng, đọa.. tự mình mà thôi.
Giới mà giữ đúng không rời,
Ðịnh mà vững chắc là đời thánh nhân.
Minh tâm kiến tánh càng tăng,
Giác duyên sẽ kết, thiện căng sẽ dày.
Sa môn hành những lời này,
Ngày sau thoát cảnh đọa đày chẳng sai.
(N.Ð dịch thành thơ)
Phần thứ tư của kinh Ðại Niết Bàn thuật lại chuyện đức Phật tóm lược những chuyến hành trình của Ngài sau mùa nhập hạ, và tuyên bố ngài muốn trở về Vesali.
Rồi trên đường đi Vesali, Phật còn lập lại cho các hàng đệ tử những lời dạy mà ngài đã thuyết, và họ đã được nghe. Nội dung đại khái như sau:
– Chúng sanh sở dĩ phải tiếp tục luân hồi trong cái vòng Sinh Diệt bất tận, là bởi họ đã không thấm nhuần bốn Pháp học. Bốn Pháp học ấy trước đó Ngài đã gọi là Tứ Diệu Ðế (Catu ariyasaccàni: Khổ đế, Tập đế, Ðạo đế và Diệt đế) thì bây giờ lại được Phật gọi là bốn pháp hành đạo cao thượng gồm có:
1. Giới đức cao thượng.
2. Ðịnh tâm cao thượng.
3. Trí tuệ cao thượng.
4. Giải thoát cao thượng.
Riêng phần Ðịnh tâm cao thượng còn được Phật lặp đi lặp lại và nhấn mạnh nhiều lần trong chuyến trở về Vesai này. Ðặc biệt Ngài còn chỉ rõ rằng nền tảng của định tâm cao thượng chính là giới đức cao thượng (ám chỉ thân nghiệp và khẩu nghiệp hoàn thành trong sạch).
Và tại một địa điểm dừng chân khác, cũng trên lộ trình ấy, đức Phật đã giải cho các hàng Tăng chung nghe một phương pháp tìm hiểu Phật ngôn, hầu phòng khi có đệ tử sơ cơ nào, chưa thấu rõ lời Phật dạy, sẽ có tiêu chuẩn mà học hỏi Phật giáo, nhất là sau khi Ngài Tịch Diệt.
Những ai khảo cứu kinh Ðại Niết Bàn, muốn nắm vững nội dung đoạn pháp nói về “Phương cách tìm hiểu Phật ngôn” trên, họ có thể tìm thấy sự dẫn chứng trong Tạng Luật, và lời cắt nghĩa trong Tạng Kinh.
Trường hợp đoạn kinh ấy được ghi lại quá sâu sắc, tế nhị và cô đọng, khiến họ khó tìm ra nghĩa lý, rồi phát sinh nghi ngờ về thuật sự đó, thì soạn giả xin mời họ hãy đọc chương “Bốn Pháp Quyền Vĩ Ðại” bằng tiếng Anh (The Great Autorities), quyển “Những ngày cuối cùng của đức Phật (The Last Days of The Buddha)”, trang 46 thì sẽ rõ.
Lời dạy về “Phương pháp để hiểu Phật ngôn” này ngày nay rất quan trọng,vì nó là nền tảng giữ đức tin của các hàng Phật tử, khi họ đối diện với một số bản kinh khác nhau, mà những ngườI “làm chủ” các bản kinh ấy ai cũng đề cao bản văn của mình và tài liệu Phật ngôn chính thống. Nhất là người Phật tử có thể nhớ lại lời Phật dạy ấy để phân biệt những Phật ngôn do chính đức Bổn Sư thuyết ra khi còn tại tiền, với những “Phật ngôn” được ghi lại trong kinh điển sau này.
Ngày cuối cùng
Kế đó, đức Phật thân hành hương đến xứ Mallas, quê hương của một bộ tộc thuộc giai cấp chiến sĩ, nằm dưới chân núi Hy Mã Lạp Sơn (Himalaya). Vào thời đó, dường như biên giới của xứ Mallas cách không xa thành Xá Vệ (Savatthi) lắm; cho nên tin Trưởng lão Xá Lợi Phất (Sàrìputta) vừa viên tịch được loan truyền trong thành Xá Vệ đã thấu đến tai Phật.
Và tại xứ Mallas, một lãnh thổ kề cận với quê quán dòng họ Thích Ca (Sakyans) của đức Phật, mà đấng Bổn Sư bị ngã bệnh trầm trọng, sau khi dùng bữa ăn có “đĩa nấm”, do ông thợ bạc Cunda hiến dâng.
Thuật sự còn ghi rõ ràng: Khi đức Phật nhìn thấy “đĩa nấm” ấy thì bảo ông Cunda chỉ dâng cho một mình Ngài mà thôi đừng phân phối ra các hàng Tăng chúng. Ngài khuyên ông Cunda hãy dâng cho họ những món khác. Ăn xong Phật còn dạy ông Cunda lập tức đem thức ăn còn lại của Ngài chôn đi, vì chỉ có một vị Phật mới tiêu hóa nổi những thực phẩm như thế.
(Lời dịch giả: Theo một số sử liệu khác thì thức ăn mà ông Cunda đã dâng cho Phật không phải là nấm, mà là một thứ thực phẩm dự trữ cho những người thợ săn đem bán. Quý độc giả có thể tìm hiểu thêm trong cuốn “The last days of the Buddha” — Những ngày cuối cùng của đức Phật. Hoặc quý vị có thể đọc các bài khảo cứu của ông Arthur Waley, cũng viết về đề tài này, dựa trên những nguồn tài liệu chữ Trung Hoa. Ðặc biệt là các bài ông viết về “Những kệ ngôn cuối cùng” của đức Phật, và một số bài ông viết về vinh danh Phật nhập Niết bàn.
Tuy nhiên dù theo tài liệu nào đi nữa, thì chúng ta cũng nhận thấy có một điểm chung: Ðó là một món ăn rất độc mà đức Phật phải dạy ông Cunda tuyệt đối không đem dâng cho ai khác. Ngài tránh cho họ sự nguy hiểm đến tánh mạng. Còn bản thân Ngài, vì Ngài sắp nhập Niết bàn, nên độc vật đối với Ngài không đặt thành vấn đề nữa.)
Lần ngã bệnh thứ hai này, đức Phật bị chứng tiêu chảy rất trầm trọng. Tuy sự công phá của độc trùng càng lúc càng tăng, nhưng tâm vô ký của một vị Phật quá mạnh. Ngài lúc nào cũng thản nhiên, thanh tịnh, và minh mẫn tiếp tục cuộc hành trình…
Người ta có cảm tưởng như lúc đó không phải họ đang chứng kiến cảnh xác thân bệnh hoạn làm cho đức Phật đau đớn, mà họ đang chứng kiến cử chỉ siêu phàm của một vị Phật trực diện, quan sát cái khổ trong thân Ngài, như quan sát một cái gì “tầm thường”, “xa lạ”, chẳng liên quan gì đến Ngài cả. Thật là một hành động phi thường!
Lúc ấy thân thể Phật rất yếu và lời nói rất nhỏ. Ngài bảo A Nan Ða trải y Tăng Già Lê cho Ngài nằm và hãy tìm nước cho Ngài uống. Nhưng A Nan Ða chần chờ vì chưa tìm ra một giòng sông để có nước trong hơn, chứ nước trong giòng suối bên cạnh đang đục ngầu, bởi một đoàn năm trăm xe bò mới băng qua.
Khi đức Phật bảo múc nước đến lần thứ ba thì A Nan Ða vâng lời. Cực chẳng đã, ông phải lấy bát bước lại bên giòng suối, thì lạ thay nước nơi đó liền trở nên trong suốt. A Nan Ða vô cùng kinh cảm, vội múc nước lên dâng Phật. Và ông chợt nhớ rằng đây không phải là lần thứ nhất ông chứng kiến một phép lạ như thế, mà trước đó không bao lâu, ông đã từng múc nước đục trong một cái giếng sập, đem dâng Phật thì nước trở thành trong.
Một hôm đức Phật gặp Hoàng tử xứ Mallas tên Pukkasa, một tông đồ của giáo chủ Alàra Kàlàma (một trong sáu trường phái mạnh nhất thuở bấy giờ). Hoàng tử này đã từng theo học đạo với Alàra Kàlàma trước đó trong vòng mười lăm năm.
Vừa trông thấy đức Phật, Hoàng tử Pukkusa đã mở đầu câu chuyện bằng những lời tán dương:
– Thật là quá ngạc nhiên! Thật là đáng khâm phục vẻ thanh tịnh và cao thượng của những hàng Sa môn đã thoát ly gia đình; đời sống an lạc phạm hạnh.
Rồi Hoàng tử tiếp:
– Chính thầy của bản vương tử (ám chỉ Alàra Kàlàmara) một lần nọ cũng đã nhập định một cách vững chắc đến độ không nghe thấy năm trăm cỗ xe đi ngamg qua, mà tiếng động đó có thể đánh thức một người ngủ say cũng phải thức dậy.
Vì biết Hoàng tử Pukkusa có nhân duyên sắp được Ngài tiếp độ, nên sau khi nghe thế đức Phật bèn hỏi rằng:
– Này Pukkusa! Nếu so sánh giữa sự định tâm của Alàra Kàlàma với sự định tâm của một Sa môn nhập thiền giữa cơn mưa bão sấm chớp vang trời, gió cuốn rừng cây, nước trôi như thác, thì sự nhập định của vị nào khó hơn?
– Bạch Ðức Cồ Ðàm! Ðịnh lực của Sa môn dắc thiền khó làm hơn.
Nhân đó mà đức Phật mới thuật lại, không phải để cho Hoàng tử Pukkusa nghe, mà còn để cho tất cả hàng đệ tử biết: Ngài đã nhiều lần Nhập định trong cảnh mưa bão, sấm sét như thế! Nhất là Phật còn kể thêm rằng: Khi xả thiền Ngài mới hay có rất nhiều trâu bò, súc vật, cùng dân quê bất hạnh đã bị sấm sét giết chết.
Pukkusa vốn là người rất tin vào quyền lực nên đức Phật đã dùng Thiền lực dể “thuyết phuc” như thế. Kết quả vị Hoàng tử này đã tự động xin quy y và xác nhận Phật giáo là con đường chắc chắn đưa dến thật pháp và cứu cánh giải thoát. Ðây là người đệ tử cuối cùng của đức Phật.
Hoàng tử Pukkusa sau đó đã dâng đến đức Phật hai lá y màu hoàng kim. Ðức Thế Tôn nhận một y rồi bảo ông đem tặng lá y kia cho A Nan Ða. A Nan Ða khi nhận lá y ấy, ngẫu nhiên nhìn lên thân Phật thì thấy màu da đức Bổn Sư chợt sáng lạn vô cùng, ông ngạc nhiên liền nói:
– Bạch Ðức Thế Tôn! Sao kỳ lạ quá! Làn da của đức Thế Tôn tự nhiên óng ả vô cùng, có thể nói là còn đẹp hơn lá vàng y này.
Ðức Phật chậm rãi trả lời rằng:
– Này A Nan Ða! Có hai trường hợp mà dung mạo của một vị Phật bỗng sáng lạn khác thường. Ðó là khi Phật Ðắc Ðạo và khi Ngài sắp nhập Niết bàn. Trong trường hợp thứ hai Như Lai sẽ Nhập Diệt vào nữa đêm ngày mai.
A Nan Ða nghe Phật tuyên bố câu ấy thì rụng rời chân tay. Vì suốt ngày hôm đó, và trọn ngày hôm trước Phật tuy ở trong tình trạng bệnh hoạn, nhưng Ðức Thế Tôn lúc nào cũng tươi tỉnh, tinh anh. Phật hết nói pháp cho người này nghe thì Ngài tiếp dộ cho người khác, nên A Nan Ða hy vọng, do lòng từ bi Phật còn kéo dài sự sống.
Bây giờ nghe Phật bảo trước giờ nhập Niết bàn, ông đâm ra hốt hoảng. A Nan Ða tự động thầm trách người thợ bạc Cunda đã vô tình dâng thức ăn độc địa đến Ðức Bổn Sư.
Ðức Phật biết rõ điều đó, nên sau khi Ngài tìm một ao nước tắm rửa sạch sẽ trở lại, bèn nói với A Nan Ða rằng:
– Này A Nan Ða! Ông không nên thầm trách người thợ bạc Cunda! Nhất là đừng hiểu lầm đức Phật phải tịch chỉ vì đã thọ một bữa ăn của thí chủ ấy. Trên thực tế: Có hai lần cúng dường quý báu nhất là cúng dường đầu tiên khi Bồ Tát Thành Ðạo, và lần cúng dường sau cùng trước khi Phật Nhập Niết Bàn. Cunda nhờ phúc đức cúng dường ấy mà ông sẽ được kéo dài tuổi thọ, của cải cùng danh thơm cũng sẽ gia tăng. Và khi mãn kiếp, ông sẽ gặt hái quả lành tái sinh vào cõi trời.
Phần thứ năm của kinh Ðại Niết Bàn bắt đầu từ lúc đức Phật yêu cầu A Nan Ða dìu đưa ngài đến vùng Kusinàrà, vào tận trong công viên của vua Mallas. Khi đến nơi đức Phật bảo A Nan Ða nâng Ngài nằm dài trên một phiến đá, quay đầu về hướng Bắc, giữa hai cây Song Long Thọ giao cành. Mặc dù lúc ấy không phải mùa hoa, nhưng những búp Song Long Thọ bỗng nhiên hiện ra, nở rộ, và rải vô số nhụy thơm trên thân thể đức Phật.
Sử chép: Hoa Mạn Ðà La (Mandarava) cũng tự nhiên từ không trung rơi xuống, chen cách với hoa Song Long Thọ, mang theo hương thơm thiên giới và nhạc trời.
(Một học giả Nhật Bổn, ông D.T SUZUKI đã so sánh cái hình ảnh thanh thoát, siêu phàm trong những giờ phút cuối cùng của cuộc đời một vị Phật với đoạn chót của chúa Ky Tô, đã làm cho mọi người thấy rằng: Trong cả hai trường hợp, hai vị Giáo Chủ đã để lại những tấm gương sáng cho các thế hệ tin tưởng nơi họ sau này).
An ngọa xong, đức Phật liền nhập định và các đệ tử kề cận thay phiên nhau hầu Phật. Khi đến lượt Trưởng lão Upavàna đứng quạt hầu thì đức Phật bỗng dạy:
– Này các Sa môn! Sự cúng dường bằng hầu hạ, bằng thiên nhạc, bằng hương thơm, bằng tràng hoa, hay bằng bất cứ vật dụng gì quý nhất trên thế gian đến Như Lai, cũng không bằng cúng dường bằng cái phẩm hạnh Thực hành đúng cái giáo lý giải thoát mà Như Lai đã dạy! Nghĩa là Sa môn nào sống đúng theo đạo cao thượng của đức Phật là Sa môn ấy cúng dường Như Lai ấy một cách thành thật.
Ðoạn đức Thế Tôn bảo Trưởng lão Upavàna đứng sang một bên. A Nan Ða lấy làm lạ, liền bạch Phật hỏi lý do, thì đươc Phật trả lời rằng:
– Này A Nan Ða! Bởi vì có vô số chư Thiên đến từ bốn phương tám hướng để chiêm bái toàn diện bậc Chánh Ðẳng Chánh Giác. Nhưng Sa môn Upavàna đã đứng trước mặt Phật Như Lai, và tâm lực của vị Sa môn này làm giảm hào quang của chư Thiên nên họ không dám đến gần để chiêm bái. Bởi vậy Như Lai mới yêu cầu ông đứng sang một bên!
Tuy A Nan Ða đang buồn, nhưng nghe nói có chư Thiên (vô hình) đến thăm liền bị kinh cảm, tò mò hỏi Phật về họ, thì cũng được đức Bổn Sư mô tả tóm tắt:
– Này A Nan Ða! Các hàng chư Thiên ấy, hạng nào còn dục căn thì khóc than thảm thiết, kể lể rằng: Ðức Phật đã xuất hiện trên thế gian từ 45 năm qua, mà bây giờ họ mới được thấy nhục thân lần đầu, và cũng là lần chót! Còn hạng chư Thiên nào đến từ hai cõi Sắc giới và Vô sắc giới, thì thần diện tỏ ra thanh tịnh hơn, nhưng vẻ luyến tiếc sắp mất một vị Phật của họ, cũng không che dấu được.
Ðoạn đức Phật; nhân nghe các hàng chư Thiên bàn bạc với nhau rằng sau khi đâng Toàn Giác Tịch Diệt rồi thì mỗi ngày (tương đương với 100 năm của thế gian), từ thiên giới họ sẽ xuống cõi người để chiêm bái những nơi có liên quan đến đức Phật, một lần, Phật bèn nói với A Nan Ða:
– Này A Nan Ða! Có bốn chỗ động tâm, tượng trưng cho hình ảnh của Phật Tổ Thích Ca là:
1. Ðịa điểm Ðản Sinh, trong vườn Lumbini (gần thành Xá Vệ: Sàvatthi).
2. Ðịa điểm Thành Ðạo, ven rừng tuyết lãnh Uruvela (gần sông Ni Liên).
3. Ðịa điểm Nói Pháp Lần Ðầu Tiên (Chuyển pháp luân) trong vườn Lộc Dã, gần thành Benares.
4. Và địa điểm nhập Niết Bàn, (trong vườn Song Long Thọ Mallas gần thành Kusinàrà).
Về sau nếu có kẻ thiện tâm, tưởng nhớ đến đức Phật thì họ cứ tìm đến chiêm bái một trong bốn (hay cả bốn) địa điểm này. Và quả phúc cho sự chiêm bái ấy sẽ đưa kẻ thành tâm, sau khi hết tuổi thọ, được sinh vào cõi trời. Ðặc biệt là những ai từ phương xa lặn lội đến Thánh tích sẽ hưởng quả phúc nhãn tiền: thân thể khỏe mạnh, tật bệnh tiêu trừ.
Một điều đáng chú ý là tất cả bốn Thánh địa này đều nằm trong một ngôi vườn, cạnh rừng, gần thành phố, chứ không ở trong thành phố. Ðể cho những đoàn hành hương trong tương lai có thể tìm thăm các “dấu tích” của đức Phật tại những nơi vừa thanh tịnh (gần rừng), vừa dễ lui tới (gần thành phố).
Lúc đó A Nan Ða như sực nhớ ra một diều gì liền buồn bã hỏi Phật:
”Bạch đức Thế Tôn! Sau khi Phật Tịch Diệt, thì một Tỳ khưu Tăng phải đối xử với các đệ tử nữ lưu như thế nào?
– Này A Nan Ða! Như Lai đã dạy kỹ việc đó đến ông rồi. (Mời quý độc giả hãy đọc lại đoạn trước, chương số 5).
A Nan Ða lại rưng rưng nước mắt hỏi tiếp:
– Bạch đức Thế Tôn! Nhưng khi đức Bổn Sư đã An Tịnh Vô Dư Niết Bàn, thì chúng đệ tử sẽ gìn giữ nhục thân của Ngài ra làm sao?
– Này A Nan Ða! Ðó là nhiệm vụ của các hàng cư sĩ, các bậc vua chúa. Còn bổn phận của chư Tỳ khưu Tăng là phải tinh tấn phát triển tâm linh, bất thối trên con đường giải thoát.
A Nan Ða nài nỉ:
– Bạch Ðức Thế Tôn! Nhưng chúng đệ tử muốn biết thánh ý của Phật về tang lễ dành cho nhục thân của một bậc Chánh Biến Tri?
Hào quang trên mình Phật chợt sáng rực, rồi Ngài trả lời:
– Này A Nan Ða! Nhục thân của một Chánh Biến Tri sẽ được hỏa táng theo vương lễ. Và tro tàng cũng như Xá lợi sẽ được các vua chúa chia đều để dựng tháp phụng thờ.
– Này A Nan Ða! Có bốn hạng người trên thế gian xứng đáng để cho chư Thiên và nhân loại bảo vệ hài cốt trong các bảo tháp (Cetiyas) là: Phật Toàn Giác (Sammà Sambuddha), Phật Ðộc Giác (Paccekabuddha), A La Hán (Arahatta) và Chuyển Luân Thánh Vương (Cakkavatti Ràjà). Ai có duyên lành lễ bái hài cốt của bốn hạng người ấy sẽ được phúc đức vô cùng.
(Lời phụ chú của dịch giả: Các danh hiệu như: Toàn Giác, Chánh Ðẳng Chánh Giác, Chánh Biến Tri, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Thế Gian Giải, Minh Hạnh Túc, Vô Thượng Sĩ, Ứng Cúng, Thiện Thệ, Thế Tôn v.v… đều chỉ để ám chỉ đức Phật Thích Ca Mâu Ni, tức là một vị Phật, từ vô lượng kiếp làm Bồ Tát, đã có hạnh nguyện đem giáo lý độ đời).
Còn danh hiệu Ðộc Giác ám chỉ một bậc Giải Thoát đã tự tu, tự độ, kiếp chót không cần nghe pháp của ai và cũng không dạy pháp đến kẻ khác.
A La Hán Phật thường được gọi là Thinh Văn Giác, tức những đệ tử đã đắc đạo Bất Lai (không còn luân hồi nữa), của một vị Phật Toàn Giác.
Cả ba loại danh hiệu vừa kể trên đều dành cho các bậc thoát ly gia đình, đắc đạo Vô Thường, Giải Thoát. Riêng danh hiệu Chuyển Luân Thánh Vương ám chỉ một hiền nhân sống trong cung vàng điện ngọc.
Ấy là một vị Hoàng đế ơn ích vô lượng, lấy đức lành để trị dân, và không ngừng phổ biến thiện pháp ở trong nước cũng như ở ngoài nước. Các vị Chuyển Luân Thành Vương hầu hết đã đắc quả Thánh, kể từ bậc Tu Ðà Hườn (Sotàpattimagga) trở lên.
Theo phong tục cổ Ấn Ðộ, nhất là thời Phật còn tại thế, thì những vĩ nhân sau khi nhắm mắt, hài cốt của họ thường được tôn thờ trong những mộ thất (Stupas), hay trong những bảo tháp (Cetiyas).
Riêng đối với những cổ Chuyển Luân Thánh Vương thì di cốt còn được an trí cùng với những tùy vật rất quý giá, đồng thời phía trên mộ tháp luôn luôn có một chiếc lọng.
(Người ta gọi hài cốt của đức Phật là Ngọc Xá Lợi và ngày nay các hàng Phật tử có thể đến chiêm bái Ngọc Xá Lợi tại những tháp thờ lớn, hay những Bảo tàng viện Trung ương trong các nước Phật giáo).
Khi ấy A Nan Ða vì quá khổ não, bước ra phía sau chỗ Phật nằm, ôm một cây cột, than khóc thảm thiết. A Nan Ða khóc vì biết rằng quả Thánh A La Hán ông chưa đạt được, lòng ông còn dục vọng, mà đức Bổn Sư, người duy nhất có thể giúp ông vượt qua biển khổ lại sắp sửa nhập vào Niết bàn.
Với một tâm lý còn ít nhiều phàm tình,A Nan Ða chắc tự hỏi rằng: ”kết quả của 25 năm trường hầu Phật là như vậy sao?”.
Hình ảnh một A Nan Ða ngồi khóc ấy, về sau này thường được miêu tả bằng nghệ thuật hội họa, hay bằng những nét điêu khắc của văn hóa Phật giáo, tại những trung tâm chiêm bái lịch sử, khiến cho các nhà khảo cứu quốc tế liên tưởng đến hình ảnh các tông đồ của Jésus Christe gục đầu bên thập tự giá, sau Phật khoảng 600 năm.
Phật không thấy A Nan Ða bên cạnh, bèn hỏi nguyên do, rồi cho người gọi ông đến mà dạy rằng:
– Này A Nan Ða! Ông chớ nên buồn khổ! Như Lai đã từng giảng cho ông nghe nhiều lần rồi: Mọi vật đều vô thường. Có cái gì đã sinh ra, thay đổi theo thời gian, mà không có ngày suy tàn, tiêu hoại ?
– Này A Nan Ða ! Ðức tính hầu Phật của ông từ 25 năm qua, vốn vui vẻ, giản dị, nhạy cảm và nghiêm túc. Với một sự phục vụ hết lòng kính yêu đức Phật, bằng hành động, bằng lời nói, cũng như bằng ý nghĩ, ông đã tạo cho mình một công đức vô lượng, to lớn hơn bất kỳ ai trong giáo pháp của Như Lai. Tại sao ông không nhớ đến những công đức ấy để mà thỏa mãn, để mà tin tưởng quả giải thoát sẽ đến trong kiếp này.
– Này A Nan Ða ! Như Lai khuyên ông hãy tinh tấn thêm chút nữa, thì các bợn nhơ trong tâm ông sẽ được tẩy sạch.
Rồi để làm tăng thêm niềm tin vào công đức của A Nan Ða, đức Phật bèn thuật lại trong một tiền kiếp xa xưa, khi Bồ Tát tiền thân Phật Thích Ca được đức Chánh Ðẳng Chánh Giác quá khứ thọ ký, thì tiền thân A Nan Ða, cũng được thọ ký rằng ông sẽ chứng quả Giải Thoát trong giáo pháp của vị Phật tương lai ( Theo Jataka 307: Túc Sinh truyện số 307). Ðây là lần tiên đoán thứ nhất. Và giờ đây, trước khi nhập Niết Bàn, đức Phật lại tiên đoán ”A Nan Ða sẽ Giải Thoát” lần thứ hai.
Sau khi an ủi và khuyến khích A Nan Ða xong, đức Thế Tôn quay sang các hàng Tỳ khưu Tăng, và một lần nữa Phật lại thớt lên những lời khen ngợi có liên quan đến A Nan Ða rằng:
– Không phải chỉ riêng Như Lai mới có một đệ tử thân cận xứng đáng, mà chư Phật trong quá khứ, và chư Phật trong kiếp vị lai cũng có những đệ tử như thế. Sự bặt thiệp của A Nan Ða đối với các hàng Phật tử cũng rất đáng ngưỡng mộ. Mỗi lần Tăng chúng tụ họp để nghe ông nói pháp là mỗi lần tất cả đều thỏa mãn, vui mừng, và họ cứ muốn nghe ông nói pháp thêm nữa. A Nan Ða là một Sa môn mà tiếng tốt đã đạt được đến mức ít ai sánh bằng! Ngoài ông ra, chỉ có một vị Chuyển Luân Thanh Vương mới có uy tín cỡ đó.
Không riêng gì trong kinh Ðại Niết Bàn mà trong các kinh khác, chúng ta cũng thấy cách khuyến khích và dạy dỗ A Nan Ða này của Ðức Phật: Một mặt đức Thế Tôn khen ngợi những đức tánh có thật của A Nan Ða trước các hàng Tăng chúng, đặc biệt là những ai yêu mến ông. Mặt khác Phật nhắc nhở ông hãy cố gắng đoạn trừ những phiền não cuối cùng.
Nhân được đức Bổn Sư khen ngợi như thế tâm tư A Nan Ða chợt lóe lên một niềm hy vọng: Ông đề nghị đức Phật không nên Nhập Diệt trong vườn Mallas, dưới hai cây Song Long Thọ, mà Ngài nên di chuyển đến Nhập Niết Bàn trong một thủ đô lớn hơn, như Sàvatthy (Xá Vệ), Ràjagaha (Vương Xá), Kosambi hay Bènares chẳng hạn!
Riêng Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu), thủ đô quê quán của đức Phật, là nơi thích hợp và gần xứ Mallas nhất, nhưng A Nan Ða không đề nghị là vì thủ đô này vừa mới bị xâm lăng, cướp phá và thiêu hủy bởi một Hoàng tử con vua Pasenady.
Còn một thủ đô khác là Vesaly, A Nan Ða cũng không nhắc đến, vì trước đó không bao lâu, đức Phật đã tuyên bố là Ngài sẽ không quay lại thành phố này.
A Nan Ða sở dĩ đề nghị đức Phật nên nhập Niết Bàn trong một thành phố lớn, vì ông nghĩ rằng ở đó lễ Trà Tỳ có thể được tổ chức long trọng hơn và số người đến dự gieo duyên lành với Phật lần cuối cùng cũng sẽ được đông đảo hơn.
Nhưng đức Phật nằm yên trên giường sắp Nhập Diệt, hiểu rõ thâm tâm của ông, đã cắt nghĩa cho A Nan Ða đầy đủ lý lẽ và nhân duyên tại sao Ngài chọn thành Kusinara để làm nơi an nghỉ cuối cùng.
Sau khi A Nan Ða nghe xong lời Phật dạy thì ông mới biết chỗ Phật nằm, chuẩn bị Nhập Diệt, là nơi chứa đầy nhân duyên nhất số là đức Phật, trong một kiếp xa xưa, đã xin làm một vị Chuyển Luân Thánh Vương tên là Maha Sudassana, đã đem ân đức cai trị vùng này, làm cho bá tánh hưng thịnh, hạnh phúc một thời.
Tiền thân đức Phật khi hết tuổi thọ đã tái đầu thai làm Chuyển Luân Thánh Vương ở đó ít nhất là sáu lần, và kiếp chót này ngài đến viên tịch nơi đây là lần thứ bảy.
Tuy sự lộng lẫy và thái bình về vật chất của vương quốc thời xa xưa ấy bây giờ đã tiêu hoại, biến mất và trở thành số không. Nhưng đối với một bậc thông rõ quá khứ, vị lai thì ý nghĩa và giá trị lịch sử của nó vẫn còn. Mặt khác, căn cứ theo Pháp Bảo của chư Phật thì nó còn là địa điểm chứng minh rõ ràng chân lý vô thường: một vương quốc đã được thịnh trị qua ân đức của pháp lành đến sáu đời Chuyển Luân Thánh Vương, mà còn bị mai một như thế, thử hỏi những xã hội chỉ biết làm lành năm, bãy năm hay một thế hệ nào đó, thì ỷ lại vào đâu để có thể dễ duôi, tưởng phước lành của mình sẽ không cạn?
Trong Tôn Túc Kinh (Theragàthà) còn có một câu kệ nổi tiếng về vương quốc xa xưa ấy như sau:
”Hạnh phúc lành tuy cũng là sự thật!
Nhưng đã vì tái hợp, tất ly tan,
Vạn vật sinh ra vốn để suy tàn.
Dẫu Thánh pháp củng có ngày biến mất,
Ðược,thất,suy,hưng,ảo hình vật chất,
Với thời gian, tất cả chỉ là phù du.
Chấm dứt duyên sinh ấy phá ngục tù,
Tâm cực lạc là tâm ngoài sinh thú”
– Thoát dịch theo câu số 1159 trong Theragàthà. Nội dung của bài kệ nói trên cũng được diễn tả dưới thể văn xuôi trong các kinh: Trường A Hàm (Digha Nikàya 16.6,17),Tạp A Hàm (Samyutta Nikàya) 15-20/S:1.11/S:6.15/S:9.6) và Túc Sinh truyện (Jàtaka 307).
Câu chuyện vị Chuyển Luân Thánh Vương Mahà Sudassana (tiền thân Phật) có thể xem là câu chuyện cuối cùng mà đức Phật kể cho A Nan Ða nghe.
Sau đó đức Thế Tôn bảo A Nan Ða loan tin Phật sắp nhập Niết Bàn và mời dân chúng Mallas trong thành phố Kusinàrà cu hội, dể họ có thể chiêm bái Phật lần chót.
Trong số những người đến thăm vĩnh biệt đức Phật ấy, có một đạo sĩ du phương tên là Subhadda, đang dừng chân tại thành Kusinara, và nghe tin Phật sắp Niết Bàn, ông cũng đến thăm.
Subhadda vốn có một vấn đề nan giải trong tâm, nên ông nghỉ rằng ”Rất khó mà gặp một vị Phật, vậy ta nên mau đem việc bí ẩn này hỏi Phật, nhờ Ngài giải rằng, kẻo chậm trễ thì sẽ muộn”.
Khi Subhadda yêu cầu A Nan Ða để ông đến gần Phật, thì A Nan Ða từ chối, nói rằng: ”Hãy để cho đức Thế Tôn an nghỉ, không ai được quấy rầy!”. A Nan Ða từ chối đến ba lần như vậy, nào biết rằng hành động của ông đã trái với lòng từ bi của đức Phật.
Ðức Thế Tôn nghe A Nan Ða từ chối dến lần thứ ba như thế, liền dạy:
– Này A Nan Ða! Ông hãy để cho du sĩ Subhadda đến gần Như Lai đi, vì ông ấy có một vấn đề thắc mắc trong tâm, mà không thể nào giải tỏa. Ông đến để cầu được soi sáng, chứ không phải để quấy rầy Như Lai đâu”.
Subhadda vô cùng mừng rỡ, liền tiến lên, chắp tay, bạch với Phật rằng:
– Thưa đức Cô Ðàm! Có một vấn đề mà du sĩ này hằng thắc mắc là: làm sao để nhận ra chân lý, khi các giáo chủ hiện nay đều thuyết giảng những điều trái nghịch nhau, mà biện luận của vị nào nghe củng thông suốt?
Ðức Phật thanh tịnh trả lời:
– Này Subhadda! Hãy nghe pháp bảo của Như Lai, rồi ông sẽ rõ: Khi một người hành động cao thượng, nhất là sống theo Bát Chánh Ðạo, thì người ấy sẽ tự mình nhận thấy giáo lý thoát tục, tự mình tìm thấy bốn quả lành của bậc xuất gia. Rồi khi một Sa môn càng tinh tấn trong phạm hạnh thì họ càng thấy rõ Thánh quả hiện dần.
– Này Subhadda! Nhu Lai đem phép lành ban bố trên thế gian đã bốn mươi lăm năm qua, đây là lần đầu tiên ông mới được nghe! và ngoài pháp lành ấy, ông không thể nào tìm ra chân lý ở nơi khác.
Lời dạy ngắn ngủi ấy của Phật, quả đủ để cho Subhadda, (cũng như trường hợp của Hoàng tử Pukkasa),thể nhận được Chánh Pháp một cách sâu sắc, Subhadda, sau đó đã xin quy y Phật, và tình nguyện gia nhập cộng đồng Tăng lữ. nhưng theo luật lệ mà đức Thế Tôn đã chế định: Một đạo sĩ du phương muốn gia nhập Phật giáo phải ”thử hạnh” trong vòng bốn tháng. Trong thời gian này, nếu họ đổi ý, họ có thể trở về môn phái cũ của họ.
Subhadda liền vui mừng vâng lời. Ông còn nói: ”…Nếu Phật bảo ông tập tành trong vòng bốn năm, rồi mới được chính thức thừa nhận vào Giáo Hội, ông cũng sẵn sàng làm”.
Trước sự quyết tâm ấy, đức Phật đã cho phép Subhadda quy y, và đây là người môn đệ sau cùng của đức Toàn Giác. Có một điều đáng ca ngợi là vị đệ tử cuối cùng này, chẳng bao lâu sau đó, đã đắc quả A La Hán (Arahatta: Bất Lai).
Phần thứ sáu (mà cũng là phần chót) của kinh Ðại Niết Bàn chứa đựng những lời di huấn tối hậu của đức Phật. Chúng ta có thể liệt kê như sau:
Thứ nhất chư Tỳ khưu Tăng chớ nên nghĩ rằng: Sau khi đức Thế Tôn Tịch Diệt, cộng đồng đệ tử sẽ không còn ai là thầy. Bởi vì toàn thể kinh và luật của đức Bổn Sư để lại, chính sẽ là tiêu chuẩn hướng đạo, được xem như một vị thầy. Những gì Ðức Phật đã thuyết ra, hoặc đã chế định để ngăn ngừa phàm nhân phạm điều tội lỗi, sau đó sẽ được các đệ tử tôn túc kết tập thành văn bản, có hệ thống, hầu ổn định nền tảng giáo lý đức Phật cho những thế hệ tương lai.
Thứ hai, sau khi Phật nhập Niết bàn, chư Tỳ khưu Tăng không được gọi nhau một cách vô trật tự: Chẳng hạn như không được gọi nhau bằng ”đạo hữu”, mà phải tôn trọng thứ bậc, tuổi tác, phải gọi nhau bằng những tiếng ”Thưa Ngài” và tự xưng là ”bần đạo”, nếu mình lớn hơn hay ngang hàng, phải tự xưng là tiểu đệ, nếu mình nhỏ hơn hết. Trong tiếng Pali, một vị Tỳ khưu nhỏ hạ gọi một Tỳ khưu lớn hạ là Bhante (“Hạ” là công hạnh an cư kiết hạ, một đơn vị thâm niên trong Phật giáo).
Luật lệ này được gìn giữ mãi đến ngày nay, như một truyền thống tượng trưng cho sự hòa hợp và tôn trọng đức hạnh trong các hàng Tăng lữ. Một vị niên trưởng trong Phật giáo phải luôn luôn giử nết gương mẫu. Và những Tỳ khưu trẻ tuổi hằng ý thức rằng ”Tôn trọng các bậc đạo hạnh tôn túc trong Giáo Hội là tôn trọng Ðức Phật”.
Thứ ba, Phật cho phép chư Tỳ khưu Tăng, sau khi Ngài Tịch Diệt, có thể hủy bỏ những luật lệ nhỏ nhặt, ít quan trọng, chỉ liên quan đến phép xã giao và nghi lễ trong thời trước, mà không còn lưu hành trong thời sau. Tuy nhiên sự hủy bỏ này phải do đại Hội đồng Tăng chúng hợp lại rồi quyết định, chứ không do một cá nhân phổ biến.
Sự hủy bỏ đó cũng không được làm giảm hiệu lực của những luật lệ chính trong đời sống phạm hạnh. Trường hợp nếu có Sa môn nào, không muốn hủy bỏ những điều luật ”vụn vặt” mà cố gắng giữ đủ, thì Sa môn ấy không phạm tội bất tuân Giáo Hội.
Thứ tư, Phật lưu lại lời dạy sau cùng để phạt một Tỳ khưu bất phục thiện nặng hơn, dành cho thẩm quyền Giáo Hội. Ðiềy này có liên quan đến Tỳ khưu Channa, một tu sĩ cứng đầu không chịu sửa hạnh kiểm xấu. Khi Ananda hỏi Phật cách thi hành điều luật ấy, thì được trả lời như sau:
– Không ai được tiếp xúc, nói chuyện, khuyên nhủ hay dạy dỗ Channa nữa! Cứ để mặc ông làm chi thì làm, và đừng chú ý đến ông gì cả.
Sau đó, Phật cũng không quên dạy cho A Nan Ða những phương pháp căn bản, để đối ngoại trong những ngày sắp tới, khi ông tiếp xúc với đủ mọi hạng người. Rồi đức Thế Tôn quay qua hỏi toàn thể đệ tử rằng:
– Này chư Tỳ khưu! Cho đến nay, các ông còn điều gì thắc mắc có liên quan đến hành động và giáo thuyết của đức Giác Ngộ không? Nhất là thắc mắc về nội dung cùng ý nghỉa của Pháp Bảo. Thắc mắc cề tổ chức Giáo Hội? Và trên hết là thắc mắc về những pháp môn mà các ông đang dùng để tụ tập? Bốn loại thắc mắc ấy nếu có, các ông nên nêu ra để được giải tỏa, khi Như Lai còn tại thế, kẻo về sau các ông sẽ lấy làm tiếc lúc Như Lai đã Nhập Diệt rồi.
Sau khi Phật gạn hỏi đến ba lần, mà toàn thể đệ tử hiện diện đều im lặng, thì A Nan Ða vội nói:
– Thật là đáng mừng, chư Tỳ khưu Tăng ở đây không ai thắc mắc điều gì cả.
Ðức Phật liền chữa lời ông:
– Này A Nan Ða! Khi ông thốt câu ấy, ông có chắc chắn là ở đây thực sự chẳng có Tỳ khưu nào còn những điều thắc mắc chăng? Ông nên biết rằng, rất có thể có nhiều thắc mắc, mà một Tỳ khưu không muốn nói ra! Hoặc cũng có thể có quá nhiều câu hỏi mà họ không biết phải nêu vấn đề nào trước?
Những lòi dạy ấy của Ðức Phật đến A Nan Ða chứng tỏ rằng Ngài biết rõ phẩm hạnh của năm trăm đệ tử đang có mặt nơi đó, chỉ có một thiểu số đắc quả Thánh tử Tu Ðà Hườn trở lên, thì không còn hoài nghi trong Phật Giáo. Nhưng hơn phân nửa còn lại, Thành tâm chưa được nảy nở! Và lời dạy ấy của Ngài cũng vốn để nhắc nhở A Nan Ða chớ nên chớ nên dùng sự suy đoán thông thường căn cứ theo bên ngoài của mình, mà ấn định trình độ hiểu biết của cộng đồng Tăng chúng.
Rồi một lần cuối cùng, Ðức Thế Tôn lại quay sang năm trăm người đệ tử để thốt những lời vĩnh biệt và chúc lành như sau:
– Giờ đây! Này chư Tỳ khưu! Như Lai nhắc lại lần chót rằng bản chất của mọi vật có hình dạng là sẽ tiêu hoại, tan rã. Các ông hãy cố gắng thêm lên! Ðừng để Giác Tâm bị che mờ, bị bao phủ, bị cầm tù bởi xác thân ngũ uẩn này.
Nói xong những lời tối hậu ấy, đức Phật liền nhập Ðịnh: Ngài bắt đầu từ Nhất thiền, Nhị thiền, Tam thiền, rồi Tứ thiền… để bước vào thiền Vô sắc. Chỉ trong chốc lát, tâm Phật đã trụ vững trong bậc an định Vô sở hữu xứ. Ngài không còn khái niệm, hay cảm giác gì về ngũ căn và thế gian nữa.
Phật an định như thế qua năm khắc đồng hồ (khoảng 2 giờ) mà phong lực (ám chỉ hơi thở) trong thân thể của Ngài chưa gián đoạn, nên Ngài tiến lên các cõi thiền cao hơn là Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng, Thức Vô Biên Xứ, rồi Không Vô Biên Xứ.
Trong bốn cõi thiền Vô sắc vừa kể: Khi an trụ ở hai bậc đầu, đức Phật không còn Tâm sở vi tế nữa, và khi an trụ ở hai bậc sau, Tâm vương(hay tâm Phật) tự động trở nên vô lượng vô thượng, và vô cực, chẳng những vượt qua vạn pháp và vũ trụ hạn chế, mà Ngài còn vượt qua vạn pháp vũ trụ vô hạn chế nữa.
Trong khi dức Phật đang nhập định trên thạch sàng(tảng đá dùng làm giường) thì A Nan Ða thỉnh thoảng hỏi sư huynh Anuruddha, một người anh em ruột của ông, và cũng là một Thiền sư có định lực siêu dẳng, gần bằng đức Phật, xem đức Thế Tôn đã nhập Niết Bàn chưa? A Nan Ða đã gọi Anuruddha là đại huynh( bhante), mặc dù hai anh em cùng xuất gia, thọ giời trong một ngày.
Anuruddha lúc ấy đang ngồi thiền, sử dung định luật để theo dõi đức Phật. Thỉnh thoảng ông xả thiền để thông báo cho chư tông đồ biết tình trạng tâm linh của đức Bổn Sư ra sao.
Khi Anuruddha nghe A Nan Ða hỏi câu: ”Bạch sư huynh! Ðức Thế Tôn đã Nhập Diệt chưa?”, thì ông trả lời rằng:
– Này sư đệ A Nan Ða! Tâm Phật còn đang ở cõi Thiền Không Vô Biên Xứ, tức là Phẩm Vô Sinh đã kết quả trong Ngài, còn Phẩm Bất Diệt mới vừa ”chớm nở”. Nghĩa là đức Phật đang kề sát Niết Bàn, chứ chưa Viên Tịch.
Anuruddha trả lời như vậy, vì ông đã sử dụng tối đa thiền lực của mình. Ông chỉ có thể “theo Phật” lên tới cõi thiền thứ tám rồi dừng ở đó, chứ không thể ”đi cao” hơn nữa.
Về phần đức Phật, sự nhập Niết bàn của Ngài quả là một điều kỳ diệu. Phật không bắt buộc mình phải chết. Ngài cũng không cố ý kéo dài sự sống. Khi tâm Phật vượt qua Tam giới, lên đến cõi Thiền thứ chín rồi, mà hơi thở trong nhục thân chưa tắt, một số tế bào của xác thịt còn hoạt động, thì Ngài quay lại cõi thiền thứ nhất, để cho chúng nó (những tế bào còn “sống”) được cân hữu với tâm linh mà hoạt động. Rồi Ngài lần lượt tiến lên các cõi thiền cao hơn, từ thứ hai, thứ ba, thứ tư..v..v cho đến tuyệt đích nhập Niết Bàn. Cứ như thế mà Phật tuần tự, hết lên rồi xuống, hết xuống rồi lên, chờ đợi các cơ quan trong thân thể của Ngài hết tuổi thọ, tự động chấm dứt.
Và khi nhóm tế bào cuối cùng trong thân thể Phật ngưng hoạt động, thì thiền tâm Phật đang ở cõi định thứ tư, Ngài ung dung phủi sạch bụi luân hồi, tiến lên các bậc thiền cao hơn thứ năm, thứ sáu, thứ bảy, thứ tám, thứ chín rồi Nhập Diệt!
Lần chót này Anuruddha cũng tận dụng thiền định theo Phật, để làm bổn phận thông tin. Nhưng khi ông lên đến cuối bậc thiền thứ tám, thì ông không còn tiếp xúc với thần quang của đức Phật nữa. Anuruddha thận trọng quay lại các bậc thiền thấp hơn để “tim” Phật, nhưng chẳng thấy Ngài đâu cả, ông mới biết chắc rằng đức Bổn Sư đã Nhập Niết bàn.
Lúc ấy vào đúng nữa đêm, ngày trăng tròn tháng tư âm lịch! Vầng trăng khuya đã chênh chếch về phương Tây.
Khi toàn thân của đức Phật thực sự ngừng hoạt động thì…bỗng nhiên quả đất rung rinh, bầu khí quyển chuyển động, sấm sét nổi lên trên không trung. Ðúng như lời tiên đoán của dấng Toàn Giác!
Phạm Thiên Sahampati, bậc đã đắc quả Bất Lai mà cũng là vị trời đã yêu cầu Phật thuyết pháp lần đầu tiên thế gian(trước đó 45 năm) liền xuất hiện để cung dường Phật bằng câu kệ:
”Luật vô thường hằng chi phối vạn vật,
Ngay cả một vị Phật còn không tránh khỏi”.
Vua trời Ðế Thích cũng hiện ra hình và lập lại ý nghĩa một câu Phật ngôn mà vua đã từng nghe rằng:
”Tử sinh là cõi phù du,
Sinh còn, tử mất, công phu luân hồi”.
Vua trời Ðế Thích vốn là một vị tiên đã đắc quả Nhập Lưu, nên ông thuộc lòng rất nhiều Phật ngôn.
Người thứ ba cúng dường Phật là Anuruddha. Ông ứng khẩu mấy câu kệ ngôn như sau:
”Thanh tịnh thay là giờ Nhập Diệt,
Ðấng từ bi thanh khiết vô lường.
Buồn vui, sướng khổ không còn,
Vượt ra tam giới mười phương Niết bàn”.
Nhưng A Nan Ða thì âu sầu, than tiếc, nói:
”Còn chi khi đã mất thầy,
Cõi trần vô nghĩa, thân này vô duyên”.
Sau cùng là toàn thể năm trăm Tỳ khưu đệ tử Phật, vì hầu hết chưa đắc quả Thánh, tâm tư còn chứa rất nhiều phàm tình, ái dục, nên họ dồng loạt khóc lóc, thương tiếc đức Phật một cách thảm thiết, chẳng kém gì A Nan Ða.
Trưởng lão Anuruddha thấy vậy liền khuyên nhủ, nhưng chư phàm Tăng chẳng vơi được nỗi buồn. Anuruddha là một thiền sư có Thần nhãn, nên ông thấy tất cả các hàng thiên chúng cũng đang than khóc. Ông bèn nhắc lại lời dạy của Phật về định luật vô thường cho chư phàm Tăng nghe. Ðoạn để lôi kéo sự chú ý của họ, hầu giảm bớt nỗi đau đớn, ông cũng nói cho các phàm Tăng biết hiện có đông đảo chư Thiên đang lui tới lễ bái nhục thân đức Phật…
Suốt đêm hôm đó Anuruddha nói chuyện không ngưng về Pháp Bảo với mọi người. Ðối với A Nan Ða, suốt 45 năm trường, sống đời sống xuất gia, và cùng có chung một Bổn Sư, ông chưa bao giờ có những giây phút “đàm đạo” thân thiết, cởi mở, như trong trường hợp này. A Nan Ða quả thật vô cùng khổ não và cần sự an ủi của ông, một người anh ruột, mà cũng là một đạo huynh trong đời sống phạm hạnh.
Khi trời gần sáng thì Anuruddha bảo A Nan Ða mang tin tức Phật đã nhập Niết Bàn, truyền rao trong quần chúng Mallas. Giữa giới những đại tông đồ của đức Phật, hiện diện nơi ấy, Anuruddha được coi là bậc huynh trưởng, nên đương nhiên ông phải gánh vác nhiệm vụ đôn đốc mọi việc.
Sau đó, dân chúng Mallas từ thành Kusinàrà đã mang đến đầy đủ, mọi vật dụng cần thiết, để tổ chức đại lễ Trà Tỳ hỏa táng cho đức Phật. Họ đã tuyển chọn những tràng hoa trầm hương, gỗ quý, vải đẹp và thảm mầu tốt nhất, để thiết lễ trong bảy ngày. Những điệu nhạc dành an táng các hàng vua chúa và những vũ khúc cao trọng nhất cũng được họ trình diễn cúng dường Phật.
Ngoài ra, dân chúng Mallas, trong khi nói chuyện họ chỉ bàn bạc với nhau xung quanh những vấn đề có liên quan đến đức Phật mà thôi. Chẳng hạn như họ nói: ”Chúng ta ngưỡng mộ đức Phật thì phải tổ chức lễ hỏa táng thật trọng thể. Chứ buồn bã hối tiếc có ích gì?”. Một số người thì nói: ”Suốt cuộc lễ Trà Tỳ này, chúng ta phải thường trực dâng hương bằng vũ điệu, và đọc kinh bằng kệ ngâm, để nói lên sự cung kính của chúng ta”. Còn có những người trí thức thì bảo rằng: ”Ðức Phật xuất hiện trên đời là mang ơn ích lại cho toàn thể chúng sanh! Ngài đã đi khắp đó đây cả nước Ấn Ðộ để ban bố pháp Giải Thoát, và bây giờ Viên Tịch, Ngài còn để lại cho chúng ta, cộng đồng Tăng lữ gương mẫu,và tám muôn bốn ngàn Phật ngôn là quý báu lắm rồi!”
Vào ngày thứ bảy thì họ dựng lên một dàn hỏa để thiêu thân đức Phật.
Khi ấy, đại Trưởng lão Ca Diếp (Mahà Kassapa.Người trước đó không có mặt trong cuộc hành trình cuối cùng của đức Phật, bỗng được linh tính xui khiến, dẫn một đoàn tùy tùng hướng về thành phố Kusinàrà. Ðại Ca Diếp lúc gặp một tu sĩ Lão Thể hỏi tin tức về đức Phật thỉ mới hay đức Bổn Sư đã nhập Niết Bàn cách đó 7 ngày.
Một lần nữa, người ta lại chứng kiến cảnh những phàm Tăng trong đoàn tùy tùng của Ðại Ca Diếp bắt đầu khóc lóc, thương tiếc đức Phật.
Tuy nhiên, trong số này, có một Tỳ khưu mới xuất gia, lòng trần chưa dứt, không muốn khép mình vào giới luật nhà Phật. Ông hay tin ấy liền tỏ ra mừng rỡ, tuyên bố rằng: ”Như vậy là từ nay về sau không còn ai coi chừng hạnh kiểm nữa, chúng ta có thể làm bất cứ chuyện gì chúng ta thích. Ðức Thế Tôn qua đời chính là một sự giải thoát cho chúng ta!”.
Và điềm báo hiệu Phật giáo sẽ suy đồi cũng bắt đầu từ đó. Tỳ khưu này là tượng trưng của khát vọng, của sân hận và của si mê tăm tối. Tỳ khưu ấy đã bị chư phàm Tăng trong đoàn tùy tùng của Trưởng lão Ðại Ca Diếp gọi là ”kẻ phá hoại” quả thật không sai!
Khi vua và toàn dân Mallas được mời mỗi người đốt một que diêm bỏ lên giàn thiêu nhục thân đức Phật thì tất cả đều vụt tắt, không có ai có thể mồi lửa được. Anuruddha biết rõ nguyên nhân bèn tuyên bố rằng: ”Hiện tượng ấy là do chư thiên đã ngăn cản,vì cuộc lễ hỏa táng phải được Trưởng lảo Ðại Ca Diếp chủ tọa.
Anurudda nói mây câu ấy không bao lâu thì đoàn tăng lũ đo Ðại Ca Diếp dẫn đầu cũng vừa đến.Ngài dẫn đoàn Tỳ khưu Tăng túy tùng đi xung quanh linh cữu của đức Phật ba vòng, thì lửa tự nhiên bốc cháy. (Hành động đi xung quanh nhục thân của đức Phật ba vòng là một việc làm tượng trưng cho sự kính trọng cao nhất thuở bấy giờ).
Khi đốm lửa sau cùng của giàn thiêu tắt, người ta chỉ tìm thấy thân Phật biến thành những hạt nhỏ màu trắng, mà không có tro tàn trong linh cữu bằng sắt chứa Ngài.
Khi các quốc vương của mấy nước lân cận hay tin Phật đã nhập Niết bàn, gần thành Kusinàrà. Họ lập tức gởi nhiều sứ giả dến chia phần hài cốt (hay Xá Lợi) của Phật để đem về xây tháp phụng thờ.
Vua bộ tộc Mallas, lấy lý do đức Phật đã nhập Niết bàn trong lãnh thổ của ông, nên ông không muốn phân chia Xá Lợi cho bất kỳ ai khác. Lý lẽ của ông đã gây ra một sự tranh cãi sôi nổi, suýt gây chiến tranh.
Lúc bấy giờ có một đạo sĩ hiền triết thuộc giai cấp Bà la môn thất tình hình căng thẳng như thế, vội can gián rằng: ”Thật là vô lý phải dùng chiến tranh để giải quyết sự giữ phần hài cốt của một bậc trọn đời chỉ biết gieo rắc hạt giống hòa bình? Bần đạo đề nghị Xá Lợi nên chia đều ra tám phần: bãy phần cho bảy vị sứ giả và một phần cho quốc vương Mallas”.
Nhờ thế mà cuộc tranh cãi đã trở thành êm dịu. Và để cám ơn sự trọng tài của đạo sĩ hiền triết Bà la môn kia, quốc vương Mallas liền tặng cho ông chiếc bình bằng đá, dùng đựng Xá Lợi Phật trước khi chia. Còn tro tàn của các loại củi và trầm hương làm lò thiêu thân Phật, sau đó được trao cho một giai cấp Phật tử đến muộn.
Kết quả: về sau có đến mười Thánh tích, mười bảo tháp tôn thờ hài cốt của đức Phật. (tức là tám phần Xá Lợi cộng với phần thứ chín là cái bình và phần thứ mười là tro tàn của củi quý).