Kinh Thủ Lăng Nghiêm Trực Chỉ Đề Cương

Kinh Thủ Lăng Nghiêm Trực Chỉ Đề Cương

Trương Văn Chiến 16

CHƯƠNG VI

1. Do nhĩ căn được viên thông

1a. Bồ Tát Quán Thế Âm trần thuật pháp tu chứng của mình

1b. Do từ tâm Bồ Tát Quán Thế Âm hiện 32 ứng thân

2. Do bi tâm Bồ Tát Quán Thế Âm thành tựu 14 đức vô úy
3. Quán Thế Âm có 4 đức nhiệm mầu không thể nghĩ bàn
4. Phật bảo Văn thù so sánh chọn căn ưu việt nhất
5. So sánh sự ưu khuyết của sáu trần, năm căn, sáu thức và bảy đại

5a. Nhược điểm của sáu trần

5b. Nhược điểm của năm căn

5c. Nhược điểm của sáu thức

5d. Nhược điểm của bảy đại

5e. Sự ưu việt của nhĩ căn

6. Sự chuyển biến tốt sau khi nghe và nhận thức tánh ưu việt của nhĩ căn
7. Phật khai thị về ba môn vô lậu học và bốn điều cơ bản xuất trần

7a. Ba môn vô lậu học
7b. Bốn điều cơ bản xuất trần

7b.1. Đoạn tâm dâm dục
7b.2. Trừ tâm sát sanh
7b.3. Dứt tâm thâu đạo
7b.4. Bỏ tâm vọng ngữ

DO NHĨ CĂN ĐƯỢC VIÊN THÔNG
BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM TRẦN THUẬT PHÁP TU CHỨNG CỦA MÌNH

Khi bấy giờ Bồ Tát Quán Thế Âm đứng dậy cung kính chấp tay thưa: Bạch Thế Tôn! Tôi nhớ hằng hà sa kiếp trước, có Đức Phật ra đời hiệu là Quán Thế Âm và tôi đã phát Bồ Đề tâm thời ấy. Đức Phật Quán Thế Âm dạy tôi phương pháp nghe, suy nghĩ và tu để được thể nhập tam ma đề (chánh định).

Bạch Thế Tôn! Trước hết tôi sử dụng tánh nghe: Nghe động và nghe tĩnh, rồi tôi xóa đi ý niệm động tĩnh ấy; từ đó sức tịch tĩnh tăng dần, tôi dứt được năng văn và sở văn. Sức tịch tĩnh không dừng ở đó bấy giờ giác tánh tôi lại hiển hiện ra. Tôi tiếp tục tư duy: Dù là giác tánh nhưng tánh “năng giác”, “sở giác” hãy còn, tôi bèn xóa đi về ý niệm giác; bấy giờ tâm tánh tôi rỗng rang lặng lẽ như hư không. Tôi lại diệt đi cái giác tri “như hư không” ấy. Cuối cùng tôi diệt cả cái khái niệm “diệt”. Khi tôi diệt hết khái niệm vi tế về “diệt sanh, sanh diệt” bỗng dưng tôi nhận thấy toàn thể pháp giới trong mười phương chỉ còn là cảnh giới “bất nhị” tịch diệt hiện tiền. Tâm tánh của tôi viên mãn khắp giáp mười phương vượt hẳn tầm nhận thức thường tình của thế gian, tôi được hai món thù thắng: Một là tâm tôi hợp với bản giác nhiệm mầu của mười phương Như Lai, đồng một từ tâm hướng hạ cứu độ chúng sanh. Hai là hợp với tâm của lục đạo chúng sanh trong mười phương, đồng một bi tâm hướng thượng cầu vô thượng Bồ Đề.

DO TỪ TÂM BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM HIỆN 32 ỨNG THÂN

Bạch Thế Tôn! Do tôi cúng dường Quán Thế Âm Như Lai, được Phật truyền thụ cho tôi như huyễn văn huân văn tu kim cang tam muội nên thân tôi thành tựu 32 ứng thân vào các cõi nước.

Bạch Thế Tôn!

1. Nếu các Bồ Tát vào tam mà đề tiến tu pháp vô lậu, thắng giải viên mãn, tôi hiện thân Phật vì họ mà thuyết pháp khiến cho được giải thoát.

2. Nếu các hàng hữu học tu pháp tịch tĩnh diệu minh viên mãn, tôi hiện thân Độc Giác vì họ mà thuyết pháp.

3. Nếu các hàng hữu học đoạn 12 nhơn duyên, phát ra thắng tánh viên mãn, tôi hiện thân Duyên Giác vì họ mà thuyết pháp.

4. Nếu các hàng hữu học được pháp không của tứ đế, tu đạo đế, thể nhập diệt đế, thắng tánh viên mãn, tôi hiện thân Thanh Văn vì họ mà thuyết pháp.

5. Nếu chúng sanh muốn tâm tỏ ngộ, không vướng vào ngũ dục, muốn thân được thanh tịnh, tôi hiện thân Phạm Vương vì họ mà thuyết pháp.

6. Nếu chúng sanh muốn làm thiên chủ thống lãnh chư thiên, tôi hiện thân Đế Thích vì họ mà thuyết pháp.

7. Nếu chúng sanh muốn thân được tự tại dạo khắp mười phương, tôi hiện thân Tự Tại Thiên vì họ mà thuyết pháp.

8. Nếu chúng sanh muốn thân được tự tại, bay đi trên hư không, tôi hiện thân Đại Tự Tại Thiên vì họ mà thuyết pháp.

9. Nếu có chúng sanh thích thống lãnh quỷ thần cứu quốc hộ dân, tôi hiện thân Thiên Đại Tướng Quân, vì họ mà thuyết pháp.

10. Nếu chúng sanh muốn thống lãnh quỷ thần, cứu giúp cõi nước, tôi hiện thân Thiên Đại Tướng Quân vì họ mà thuyết pháp.

11. Nếu các chúng sanh muốn sanh ở thiên cung, tôi hiện thân Thái tử, con Tứ Thiên Vương vì họ mà thuyết pháp.

12. Nếu các chúng sanh muốn làm vua cõi người, tôi hiện thân Vua vì họ mà thuyết pháp.

13. Nếu các chúng sanh muốn làm chủ gia đình danh tiếng, thế gian kính nhường, tôi hiện thân Trưởng giả vì họ mà thuyết pháp.

14. Nếu các chúng sanh thích luận lời hay, giữ mình trong sạch tôi hiện thân Cư sĩ vì họ mà thuyết pháp.

15. Nếu các chúng sanh muốn kinh bang tế thế, tôi hiện thân Tể quan vì họ mà thuyết pháp.

16. Nếu các chúng sanh thích chú thuật toán số, thu nhiếp nhân tâm, tôi hiện thân Bà La Môn vì họ mà thuyết pháp.

17. Nếu các thiện nam muốn xuất gia tu học, tôi hiện thân tỳ khưu vì họ mà thuyết pháp.

18. Nếu có người tín nữ muốn xuất gia, tôi hiện thân tỳ khưu ni vì họ mà thuyết pháp.

19. Nếu có người thiện nam muốn giữ giới tu hành, tôi hiện thân ưu bà tắc vì họ mà thuyết pháp.

20. Nếu có người tín nữ, muốn thọ năm giới tập tu, tôi hiện thân ưu bà di vì họ mà thuyết pháp.

21. Nếu có người nữ thích đường chánh trị phụ quốc an bang tôi hiện thân mệnh phụ phu nhân, thân nữ chúa vì họ mà thuyết pháp.

22. Nếu có chúng sanh nam căn chưa ô nhiễm, tôi hiện thân đồng nam vì họ mà thuyết pháp.

23. Nếu có người nữ thích thân xử nữ, tôi hiện thân đồng nữ vì họ mà thuyết pháp.

24. Nếu có hàng chư thiên muốn ra khỏi loài trời, tôi hiện thân Chư Thiên vì họ mà thuyết pháp.

25. Nếu có rồng muốn ra khỏi loài rồng, tôi hiện thân rồng vì họ mà thuyết pháp.

26. Nếu có dược xoa muốn ra khỏi loài mình, tôi hiện thân dược xoa vì họ mà thuyết pháp.

27. Nếu có càn thát bà muốn thoát khỏi loài mình, tôi hiện thân càn thát bà vì họ mà thuyết pháp.

28. Nếu có a tu la muốn ra khỏi loài mình, tôi hiện thân a tu la vì họ mà thuyết pháp.

29. Nếu có khẩn na la muốn thoát khỏi loài mình, tôi hiện thân khẩn na la vì họ mà thuyết pháp.

30. Nếu có ma hầu la già muốn thoát khỏi loài mình, tôi hiện thân ma hầu la già vì họ mà thuyết pháp.

31. Nếu có chúng sanh thích làm người, tôi hiện thân người vì họ mà thuyết pháp.

32. Nếu có loài phi nhân hoặc có hình hoặc không hình, hoặc có tưởng hoặc không tưởng, muốn thoát khỏi loài mình, tôi hiện thân như họ vì họ mà thuyết pháp.

Đó là 32 ứng thân nhiệm mầu có thể hiện vào các cõi nước trong mười phương, do kết quả của văn huân văn tu tam muội mà thành tựu sức nhiệm mầu “vô tác” như vậy.

TRỰC CHỈ

Ở đoạn kinh trước, Phật gạn hỏi đại chúng về nguyên nhân của sự đạt đạo được viên thông, thứ lớp trước sau có 25 vị Thánh đệ tử, mỗi người đều trình bày cái nguyên nhân chứng đắc của mình.

Như chúng ta đã biết, 6 căn, 6 trần, 6 thức và 7 đại đều là dữ kiện tạo nên Thánh quả chứng đắc viên thôngNhĩ căn viên thônglẽ ra phải được theo thứ lớp mà trình bày ở trong nhóm người dựa trên 6 căn được viên thông ở đoạn kinh trước. Nhưng ở đây trái lại, nhĩ căn viên thông được Bồ Tát Quán Thế Âm trình bày sau rốt. Đó không phải là một sự kiện bình thường càng không nên hiểu đó là sự ngẫu nhiên hay do sơ sót, mà đó là tánh chất trọng đại của nhĩ căn, ta sẽ thấy rõ ở đoạn kinh sau.

Hằng hà sa số kiếp trước có Phật ra đời hiệu là Quán Thế Âm, đến thời Phật Thích Ca lại có Bồ Tát cùng hiệu Quán Thế Âm. Điều này nhằm dạy cho mọi người đệ tử Phật phải hiểu rằng: Cùng là nhĩ căn năng văn; cùng là âm trần sở văn, mà người sử dụng khác nhau thì hiệu quả giải thoát giác ngộ cũng khác nhau.

Quán là trí quán niệm của con người.

Âm là đối tượng nghe, là thang trần đó.

Niệm quán âm là chỉ cho lúc trí năng quán và âm văn sở quán chưa được thường xuyên liên tục. Khi con người vận dụng trí năng quán và âm văn sở quán không gián đoạn, chính lúc đó là Quán Thế Âm Bồ Tát hiện thân trong ta, thuyết pháp cho ta nghe rồi đó.

Kinh nói: Bồ Tát hiện 32 ứng thân vào các cõi nước khắp mười phương thuyết pháp cho chúng sanh theo sở thích đáp ứng theo yêu cầu của họ. Sự kiện này phải được hiểu rằng tất cả chúng sanh trừ ba hạng người ác nghiệp cực trọng ở loài địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh, còn lại tất cả mọi hạng người từ phàm phu đến Thánh vị đều có thể được Bồ Tát Quán Thế Âm hiện thân cứu độ. Nói một cách khác là những bậc thượng căn phát tâm tu hành cầu thành Phật quả cho đến những người hạ trí, nhơn và phi nhơn đều có khả năng quán niệm về âm văn để được có an lành, tự tại giải thoát và giác ngộ theo khả năng trình độ của chính bản thân mình.

Nếu có ít nhiều thiền định tư duy nếu biết dụng ý lắng nghe người ta có thể nghe trong mọi nơi chốn, mọi trường hợp những âm văn thanh tịnh giải thoát. Âm văn đó, nghe được nhiều hay ít là do ta vận dụng quán trí của ta nó liên tục được ít hay nhiều. Cho nên kinh nói: Quán Thế Âm hiện thân thuyết pháp cho chúng sanh bằng “Vô tác diệu lực“nghĩa là bằng sức mầu nhiệm “không có làm”. Nói “hiện thân” nhưng kỳ thực chẳng tốn sức “thần biến” “hóa hiện” ra thân. Nói “thuyết pháp” kỳ thực chẳng tốn một tí hơi và một âm thanh nào vang dội. Quán Thế Âm hiện thân bằng chính bản thân của mọi người. Quán Thế Âm thuyết pháp bằng chính âm thanh thanh tịnh trong lòng trong sáng của mọi người, khi người đó biết sử dụng tánh nghe.

Quán Thế Âm là Diệu âm; Quán Thế Âm là Phạm âm; Quán Thế Âm là Hải Triều âm; Quán Thế Âm còn là âm thanh vượt hơn những âm thanh của thế gian thường nghe và xưng gọi ấy nữa. Quán Thế Âm là Thánh của thanh tịnh, của giải thoát và giác ngộ; vì tánh quan trọng tàng ẩn một chân lý thẩm sâu, nên đặt cách để vấn đề nhĩ căn viên thông của Bồ Tát Quán Thế Âm rốt sau 25 vị Thánh.

DO BI TÂM BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM THÀNH TỰU 14 ĐỨC VÔ ÚY THÍ

Bạch Thế Tôn! Do vô tác diệu lực VĂN HUÂN VĂN TU kim cang tam muội cho nên tôi và tất cả lục đạo chúng sanh trong mười phương ba đời cùng có một bi tâm hướng thượng cho nên tôi và tất cả chúng sanh thành tựu được 14 thứ công đức vô úy:

1. Tôi không quán âm thanh đối tượng mà tôi quán cái tâm năng quán của mình, khiến cho chúng sanh khổ não trong mười phương quán âm thanh như vậy thì được giải thoát.

2. Tôi xoay tri kiến của mình soi rọi nội tâm, khiến chúng sanh dù vào trong lửa mà lửa không đốt cháy (lửa dâm, lửa sân, lửa hận thù…)

3. Tôi quán tánh nghe xoay vào nội tâm, khiến chúng sanh dù có bị nước to cuốn đi mà không hề bị chìm đắm (nước ái, nước nhẹ dạ yếu lòng, nước yêu thương mù quáng…).

4. Tôi đoạn diệt hết vọng tưởng, không còn tâm sát hại, khiến chúng sanh dù phải vào trong cõi nước của quỷ, quỷ cũng không hại được (quỷ sát, quỷ đạo, quỷ dâm, quỷ thấy ác… nghe ác và làm ác…).

5. Tôi huân tập cái tánh nghe, nghe vào tự tánh. Tánh thấy, tánh ngửi, tánh nếm, tánh xúc, biết cũng như vậy, khiến chúng sanh đang khi bị hại dao mác, vũ khí gãy rơi từng khúc chẳng xúc phạm được (dao hai lưỡi, dao ưu sầu, dao tâm…).

6. Tánh nghe, tôi huân tập đến độ tinh thuần, sáng suốt khắp trùm pháp giới; tất cả những gì đen tối không tồn tại được, khiến cho chúng sanh dù ở gần bên với ác quỷ: Dược xoa, cưu bàn trà, tỳ xá xà, phú đơn na v.v… mà chúng không nhìn thấy được (quỷ thô bạo, quỷ bất nghĩa, quỷ vô lương…).

7. Tánh năng văn tôi quán xoay vào, thanh trần đối tượng tiêu vong, khiến chúng sanh xa tránh tất cả gông cùm xiềng xích không vương chạm đến thân (gông luật pháp, cùm hận thù vay trả, thích đấu tranh thị phi ân oán giang hồ…).

8. Tôi diệt âm thanh đối tượng, tánh nghe viên mãn sanh sức từ cùng khắp, khiến chúng sanh đi qua đường hiểm mà giặc cướp không thể cướp được (giặc phiền não có 6 thằng túc trực phục kích ở mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý để cướp của báu công đức của ta).

9. Do tôi huân tập tánh nghe được thanh tịnh, tách khỏi trần tướng. Sắc, thanh… không cám dỗ được, khiến cho những chúng sanh đa dâm xa lìa được lòng tham dục nặng nề.

10. Tôi chỉ lưu lại thuần một viên âm thanh tịnh, không còn đối tượng thanh trần, căn cảnh viên dung, dứt đối đãi năng văn sở văn khiến chúng sanh xa lìa được tham sân si phẩn nhuế.

11. Tiêu diệt thanh trần đối tượng tôi xoay cái nghe về tánh bản minh, thân tâm cảnh giới trong sáng như lưu ly, chẳng vương chút trần ai vọng chấp, khiến chúng sanh xiển đề mê tối xa lìa câm điếc tối tăm (nói không chơn lý là câm, không nghe nổi chơn lý là điếc, không nhận được chân lý là tối tăm).

12. Viên dung các hiện tượng, tôi xoay tánh nghe trở về bất động. Hài hòa thế gian mà không hủy hoại thế gian; cúng dường Như Lai mười phương như số vi trần, tôi ở bên mỗi mỗi Phật làm Pháp Vương Tử, khiến trong pháp giới những chúng sanh không con, cầu có con trai, sanh được con trai phúc đức trí tuệ (phúc đức trí tuệ chính là con trai đó!).

13. Sáu căn tôi viên thông, soi sáng không hai, khắp trùm thập phương thế giới, đứng trước đại viên kính ở trong Như Lai tàng, tôi vâng lãnh những pháp môn bí mật của thập phương Như Lai như vi trần không hề thiếu sót, khiến cho trong pháp giới những chúng sanh không con, cầu có con gái, sanh được con gái tướng tốt đoan chính, phúc đức và dịu dàng được nhiều người kính quý.

14. Trong tam thiên đại thiên thế giới này các Pháp Vương Tử đông như số cát 62 sông Hằng. Trí tuệ và phương tiện giáo hóa chúng sanh mỗi Ngài đều khác. Vậy mà chúng sanh chấp trì một danh hiệu của tôi, bằng ngang với công đức chấp trì danh hiệu số lượng Pháp Vương Tử nói trên.

Bạch Thế Tôn! Sở dĩ tôi được những điều ưu việt như vậy là do tôi tu tập pháp văn huân văn tu kim cang tam muội, cho nên tôi được tánh viên thông chơn thật, gọi đó là 14 đức vô úy thí đem lại phúc lành cho tất cả chúng sanh.

TRỰC CHỈ

Nếu mọi người đệ tử Phật biết quay về quán chiếu cái âm văn của chính mình thì Quán Thế Âm Bồ Tát thể nhập vào thân ta rồi vậy. Thân tâm ta lúc bấy giờ trở thành Quán Thế Âm Bồ Tát vì chính ta là người đang quán cái âm văn mầu nhiệm thanh tịnh sẵn có ở lòng mình.

Kinh nói: “Do vô tác diệu lực văn huân văn tu kim cang tam muội cho nên tôi và tất cả lục đạo chúng sanh trong mười phương ba đời cùng có một bi tâm như nhau, cho nên tôi và tất cả chúng sanh thành tựu được 14 thứ công đức vô úy thí”.

Rằng do 14 đức “vô úy thí” của Quán Thế Âm mà khiến cho chúng sanh xa lìa các khổ nạn…, nhưng xét thâm nghĩa tàng ẩn bên trong giáo lý, ta thấy: “Không phải do Quán Thế Âm có 14 đức vô úy thí rồi Bồ Tát đem bố thí để thay thế để cứu khổ cứu nạn chúng sanh. Sự thật, Kinh đã nói: Quán Thế Âm và tất cả chúng sanh trong mười phương cùng có lòng Bi như nhau, ý chí hướng thượng như nhau (Bi ngưỡng); cho nên nói rằng Quán Thế Âm có, đồng nghĩa với tất cả chúng sanh cũng đã có. Quán Thế Âm tu pháp văn huân văn tu Kim Cang tam muội đã được tự tại giải thoát thì chúng sanh hành theo pháp văn huân văn tu… rồi cũng được giải thoát xa lìa tất cả khổ ác là lẽ tất nhiên.

Là đệ tử Phật hãy chín chắn tư duy. Đừng để thói quen ỷ lại nơi cái gọi là “tha lực” siêu hình ám ảnh, trông cậy Quán Thế Âm bằng những ý niệm mong chờ mòn mỏi, những ngôn ngữ cầu khẩn thiết tha mà thiệt mất một đời: “vào biển tính số cát, đến ngân khố đếm tiền” vô ích cho bản thân một kiếp!

Ðức Thế Tôn ta hy sinh cả cuộc đời vương giả, đi tìm chân lý chẳng ngại gian lao… Rồi 49 năm dài, rày đây mai đó thuyết giáo độ sanh nói hẹp, nói rộng, nói biệt, nói viên, nói tiệm, nói đốn, vận dụng vô vàn phương tiện, để lại cho chúng ta ba kho tàng giáo lý. Đó không phải là “Tha lực Phật” gia bị cho chúng ta là gì? Là đệ tử Phật mà phủ nhận “Tha lực Phật“”Tha lực Bồ Tát“gia bị là bọn con cái của ma, nhưng toàn bộ giáo lý Phật trước sau như một, không có vấn đề ân sủng ô dù, vì ô dù ân sủng là hành động phản bội quy luật nhân quả phát triển khách quan của hiện tượng vạn hữu trong vũ trụ.

QUÁN THẾ ÂM CÓ BỐN ĐỨC NHIỆM MẦU KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN

Bạch Thế Tôn! Tôi được viên thông vô thượng cho nên có bốn đức vô tác nhiệm mầu không thể nghĩ bàn:

1. Tôi xoay tánh nghe để nghe tiếng mầu nhiệm của nội tâm. Tánh nghe này không chút nhiễm ô. Tôi ngăn dứt tất cả âm thanh đối tượng của nhĩ căn; bấy giờ tánh thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc, biết của sáu căn còn là một tánh giác thanh tịnh có thể dùng thay thế cho nhau mà không ngăn ngại. Tôi còn có thể hiện ra nhiều hình tướng và nói vô số chân ngôn bí mật; từ 1 đầu, 3 đầu, 5 đầu, 7 đầu, 9 đầu, 11 đầu, 108 đầu, 1.000 đầu, 10.000 đầu cho đến 84.000 đầu. Tôi có thể hiện ra 2 tay, 4 tay, 6 tay, 12 tay, 14 tay, 16 tay, 18 tay, 20 tay, 24 tay, 108 tay rồi 1.000 tay, 10.000 tay cho đến 84.000 tay uyển chuyển. Tôi có thể hiện ra 3 mắt, 4 mắt, 9 mắt, 108 mắt, rồi 1.000 mắt, 10.000 mắt, cho đến 84.000 mắt thanh tịnh, hoặc từ, hoặc uy, hoặc định, hoặc tuệ cứu độ chúng sanh được đại tự tại.

2. Tánh nghe và suy nghĩ của tôi thoát ngoài sáu trần, như âm thanh luồn xuyên qua vách. Do sức nhiệm mầu vô tác, tôi hiện nhiều hình tướng nói nhiều chơn ngôn đem lại cho chúng sanh sức vô úy. Vì vậy cõi nước trong mười phương nhiều như vi trần đều gọi tôi là vị Bồ Tát “thí vô úy”.

3. Sự tu tập của tôi là phát huy căn bản thanh tịnh sẵn có nên tôi được viên thông mầu nhiệm. Đi đến thế giới nào, chúng sanh cũng xả thân, hy sinh trân bảo cầu được tôi thương xót.

4. Tôi có được Phật tâm, chứng ngộ đến chỗ cứu cánh cho nên có thể đem các thứ trân bảo cúng dường thập phương Như Lai. Đến như lục đạo chúng sanh trong pháp giới muốn cầu trường thọ được trường thọ, cho đến cầu đại niết bàn cũng được đại niết bàn.

Bạch Thế Tôn! Nay Phật hỏi nguyên nhân chứng đắc viên thông xin thưa rằng: Tôi từ cửa ngõ nhĩ căn quán chiếu đến tột cùng viên mãn về âm văn (nghe và tiếng) mà được tam muội. Đối với tôi, tư duy và quán chiếu tánh nghe và tiếng của nhĩ căn là ưu việt nhất.

Bạch Thế Tôn! Đức Quán Âm Như Lai từ thuở xa xưa ấy đã khen tôi khéo được pháp môn viên thông, ở trong đại chúng, Phật thọ ký cho tôi danh hiệu Quán Thế Âm bởi vì tánh nghe và thấy tròn sáng châu biến mười phương, danh hiệu Quán Thế Âm cũng phổ cập trong lục đạo chúng sanh mười phương thế giới.

TRỰC CHỈ

Như chúng ta đã biết, Quán Âm hay Quán Thế Âmchỉ là nhân cách hóa một pháp môn chỉ quán mà lục đạo chúng sanh trong mười phương ai cũng sẵn có cái khả năng chỉ quán như vậy để được chứng viên thông. Người đệ tử Phật có tư duy yên tĩnh có thực hành chỉ quán sẽ nghe được tiếng lương tâm mầu nhiệm của mình, không cần có thanh trần đối tượng. Chừng nào hành giả nghe được âm vang đó thường xuyên liên tục ở lòng mình thì 32 ứng thân, 14 đức vô úy, 4 diệu đức nhiệm mầu chỉ là sự biểu hiện vô tác, không cần gắng sức dụng công mà tự có, như ánh sáng sẵn có của mặt trời rạng rỡ buổi ban mai.

Nhiều đầu tất nhiên nhiều óc. Có được nhiều bộ óc, con người sẽ có khả năng tư duy nhận thức nhiều. Người không có tư duy không thể là người thông minh được. Nhận thức chân lý, đòi hỏi phải nhiều tư duy hơn cả người thông minh của thế trí. Do vậy, Bồ Tát cần có nhiều đầu, nhiều bộ óc để tư duy.

Mắt để mà thấy. Thấy để mà nhận biết. Muốn thấy nhiều cần có mắt nhiều. Là đệ tử Phật, phàm phu cũng như thánh vị, phát chí tu nhân, ai cũng mong giác ngộ chân lý giải thoát vô minh, cho nên cần thấy nhiều để nhận thức, biết nhiều để quán sát tư duy. Một tướng lãnh ở thời đại văn minh khoa học quan sát chiến trường cần có viễn vọng kính để tầm quan sát được rộng xa, để nhận thức đánh giá lực lượng tương quan giữa quân ta và quân địch. Sự “hóa hiện” nhiều mắt của Bồ Tát Quán Thế Âm nhằm dạy bảo mọi người đệ tử Phật về sự cần thiết: thấy xa và hiểu rộng.

Tay để mà làm việc. Mọi thành tựu cụ thể trong cuộc sống con người là do tay. Nói cách khác, tay là công cụ hữu hiệu nhất để thực hiện, cụ thể hóa nguồn trí tuệ thông qua bộ óc điều khiển của con người. Trí tuệ, tài năng hay sự khéo léo… không thể không biểu lộ qua sự thực hiện của tay.

Bồ Tát là người đang đi trên đường tìm chân lý, vì cần tư duy nhiều nên nói Bồ Tát đầu nhiều; vì cần thấy biết nhiều nên nói mắt nhiều; vì cần thực hành nhiều nên nói tay nhiều; vì cần tri hành hợp nhất cho nên nói Bồ Tát nhiều đầu, nhiều mắt và nhiều tay.

Sự thật tất nhiên, không thể có một con người đầu, mắt loạn khởi, tay mọc tua tủa, nhìn qua như trái lôm chôm. Nếu có một con người thật như vậy thì quả là một quái thai vô tiền khoáng hậu!

Đức Thích Ca Mâu Ni là một Đức Phật. Phật là đấng lưỡng túc tôn, lưỡng túc tề tôn. Chẳng lẽ Quán Thế Âmvượt ngoài hàng “lưỡng túc” của thập giới thánh phàm ? Người đệ tử Phật hãy sử dụng lý trí mà tư duy. Đừng để cho Phật đau lòng chỉ vì “Y Kinh giải nghĩa mà hàm oan cho ba đời chư Phật”.

PHẬT BẢO VĂN THÙ SO SÁNH CHỌN CĂN ƯU VIỆT NHẤT

Bấy giờ, Ðức Thế Tôn ngồi trên tòa sư tử, ngũ thể đồng phóng ra ánh sáng báu soi sáng trên đảnh của thập phương Như Lai, các pháp vương tử, các Bồ Tát như số vi trần. Chư Như Lai trong mười phương cũng phóng ánh sáng như vậy soi đến đảnh Phật Thích Ca và các Bồ Tát các chúng Thanh Văn trong đại hội. Rừng cây ao hồ đều diễn ra tiếng pháp, ánh sáng của chư Phật giao xen như lưới tơ báu. Tất cả đại chúng được cái chưa từng có. Trời mưa hoa sen báu đủ màu: Xanh, vàng, đỏ, trắng xen lộn lẫn nhau. Thập phương hư không thành màu thất bảo. Cõi Ta bà bỗng nhiên không hiện chỉ còn thấy vi trần quốc độ trong mười phương hợp thành một cõi, tiếng ca ngâm thanh thoát tự nhiên dìu dặt nổi lên.

Phật bảo Bồ Tát Văn Thù: Ông hãy xét nghiệm thành quả tu chứng viên thông của 25 vị Bồ Tát và Thanh Văn vừa đã trình bày. Vẫn biết rằng lục căn, lục trần, lục thức, thất đại đều là những dữ kiện tu chứng viên thông, nhưng nay Như Lai muốn cho ông A Nan nghe và nhận xét để tự chọn một pháp môn tu thích hợp. Như Lai cũng cần một pháp môn phương tiện để dạy cho chúng sanh mạt thế cõi Ta bà, những người đại thừa cầu vô thượng đạo một phương pháp tu hành tu hành hiệu quả tốt, chóng thành công phổ biến mọi căn cơ sau Như Lai diệt độ.

Bồ Tát Văn Thù vâng từ chỉ của Phật cung kính chấp tay, nói bài kệ kính dâng lên Phật:

Biển giác tánh lặng trong
Vốn nhiệm mầu trong sáng
Tánh bản minh chiếu ra như “sở
Chấp tướng “sở“mất tánh bản minh
Do phân biệt vọng thấy hư không
Tựa hư không hình thành thế giới
Chủng tử vô tri thành cõi nước
Sắc tâm minh liễu tức nhơn sinh
Hư không sanh trong “Đại Giác”
Như bong bóng nổi giữa đại dương
Cõi nước hữu lậu như vi trần
Sanh khởi trong bầu hư không ấy
Hư không chưa ví tày nước bể!
Thì sá chi ba cõi vốn bọt bèo
Về nguồn không hai đích
Phương tiện có nhiều đường
Quả chứng chẳng ngại nhau
Thuận nghịch là phương tiện
Sơ tâm vào tam muội
Mau chậm chẳng đồng nhau.

TRỰC CHỈ

Phật Thích Ca ở cõi Ta bà cùng chư Phật mười phương đồng phóng ra ánh sáng báu… Hiện tượng này nhằm nói lên chân lý: Phật và chư Phật đã biểu đồng tình. Chơn lý mà Phật Thích Ca nói cũng tức là chơn lý của mười phương chư Phật nhất trí với nhau rồi. Nói Phật phóng ra ánh sáng thất bảo, có nghĩa rằng: Trí tuệ giác của Phật là trí tuệ tuyệt trần vô thượng, chẳng còn thứ trí tuệ nào hơn. Tuy nhiên, Bồ Tát, Thanh Văn, La Hán và tất cả chúng sanh hằng tắm mình trong ánh sáng trí tuệ ấy. Trí tuệ của chúng sanh chưa chiếu sáng, ví như bóng đèn khói đóng quá nhiều. Ngày nào lau sạch khói đen thì cùng những ánh đèn rực rỡ xen lộn lẫn nhau lung linh màu sắc.

Vô thường, khổ, vô ngã và bất tịnh, chúng sanh bị dày vò, đau khổ, ở trên mặt đất này. Thường, lạc, ngã, tịnh của Niết bàn Phật có, cũng ở trên mặt đất này. Với tâm hồn thanh tịnh thể nhập bản giác tịnh minh thì nhìn đâu cũng là hoa, nghe đâu cũng là nhạc.

Phật thì biết quá rõ Căn nào ưu việt đối với chúng sanh cõi Ta bà rồi. Nhưng Phật bảo Bồ Tát Văn Thù so sánh để rồi “lựa”, cốt cho hợp tinh thần dân chủ và khách quan. Đức Phật hy sinh một cuộc đời vương giả, đấu tranh giai cấp để xóa bỏ áp bức bất công cho xã hội mà còn độc tài phi dân chủ thì phí đi cái lý tưởng “vị nhân sinh” cao đẹp thuở ban đầu.

Qua lời kệ mở đầu của Bồ Tát Văn Thù, ta có thể nhận thấy: Tất cả chúng sanh vốn có tánh giác minh trong sáng nhiệm mầu. Trong tánh giác minh không có tướng “Sở“, tướng “Năng“, không có ai là chủ thể, gì là đối tượng. Hữu tình, vô tình cùng một bản thể chơn như nhiệm mầu trong sáng ấy. Hư không sanh trong giác tánh như chiếc bong bóng nổi giữa đại dương. Hư không chỉ là một hiện tượng đối đãi có không sanh diệt (… tứ sở hiển thị cố…) tam hữu sanh trong hư không càng nói rõ cái vai trò ảo hóa. Thành đô Niết bàn là đích đến phương tiện di chuyển có chậm mau. Máy bay, tàu thủy, ô tô hay đi bộ còn tùy người sử dụng.

SO SÁNH SỰ ƯU KHUYẾT CỦA SÁU TRẦN, NĂM CĂN, SÁU THỨC VÀ BẢY ĐẠI

1. Nhược điểm của sáu trần

Sắc bị vọng tưởng tác động vào thanh trần làm mất đi cái hồn nhiên như thị khách quan của sự vật, khó mà tu chứng viên thông.

Thanh âm kết hợp bởi ngữ ngôn, biểu hiện cụ thể của âm thanh là danh ngôn và cú nghĩa. Tác dụng của âm thanh còn phiến diện khó mà tu chứng viên thông.

Hương có hợp mới thành tác dụng; nếu để ly ra, dù hương có cũng như không. Hương trần không tương tục hiện hữu, khó mà tu chứng viên thông.

Vị không phải đương nhiên tự có, cần phải nếm mới biết có vị. Đối với vị giác cũng không liên tục, nên khó mà tu chứng viên thông.

Xúc có vật chạm mới biết, nếu không biết xúc không thành. Xúc trong lúc hợp, chẳng xúc được lúc ly, khó mà tu chứng viên thông.

Pháp còn gọi là nội trần. Trần là đối tượng “Sở tri”. Năng sở khổ là một khó mà tu chứng viên thông.

2. Nhược điểm của năm căn

Tánh thấy vốn rỗng rang bao quát nhưng chỉ thấy được phía trước chẳng thấy được phía sau; bốn hướng tám phương mất đi một nửa, khó mà tu chứng viên thông.

Mũi thở ra thở vào, chặng giữa không có thở; không dung thông, còn cách trở, khó mà tu chứng viên thông.

Lưỡi không vị, tánh nếm không thành. Vị không phải lúc nào cũng sẵn có nên khó mà tu chứng viên thông.

Thân biết xúc, nhưng phải có đối tượng. Năng sở xúc không thường liên tục thì khó mà tu chứng viên thông.

Ý căn thường xen với vọng tưởng. Loạn tưởng dừng thì chẳng thấy biết gì. Tưởng niệm không dễ gì dứt bỏ thì khó mà tu chứng viên thông.

3. Nhược điểm của sáu thức

Cái thấy của mắt phải có căn trần. Cạn xét tột cùng nó không tự thể; không tự thể thì không có gì nhất định nên khó ma tu chứng viên thông.

Sử dụng cái nghe, nghe suốt mười phương hàng sơ tâm không dễ dàng thực hiện khó mà tu chứng viên thông.

Quán điểm trắng ở tỷ căn đó chỉ là quyền phương tiện, nhằm thu nhiếp để trụ tâm. Trụ mà trở thành “sở trụ” thì khó mà tu chứng viên thông.

Thuyết pháp vận dụng âm thanh văn tự chỉ khai ngộ cho những ai Phật chủng đã trồng sâu. Danh cú, văn tự không phải là vô lậu thì khó mà tu chứng viên thông.

Giữ giới chỉ c âu thúc cái thân, ngoài cái thân lấy gì câu thúc? Giới và thân vốn không cùng khắp thì khó mà tu ch ứng viên thông.

Thần thông do tập nhân từ trước, không dính dáng với ý thức phân biệt pháp trần. Niệm lự, không rời sự vật thì khó mà tu chứng viên thông.

4. Nhược điểm của bảy đại

Đất, tánh của nó là ngăn ngại, nếu quán cái tánh của địa đại thì không thể thông suốt. Vả lại pháp hữu vi không là giác tánh thì khó mà tu chứng viên thông.

Nước do quán mới thấy có. Nếu quán thủy đại cần vận dụng nhiều quán trí. Đã là quán thì không phải chơn, chưa đạt đến như như phi giác quán, thì khó mà tu chứng viên thông.

Lửa đem so sánh với nỗi khổ của dâm tâm, nếu quán hỏa đại để trừ lửa dâm ở nội tâm, đó chỉ là người chán cái khổ hoành hành, chưa phải là viễn ly chơn thật. Đó là phương tiện không phải phát xuất bởi tâm ban đầu nên khó mà tu chứng viên thông.

Gió lúc động lúc yên, nếu quán cái tánh của phong đại thì chỉ là pháp đối đãi. Còn đối đãi thì không là tánh giác minh vô thượng, khó mà tu chứng viên thông.

Không thì rỗng suốt chẳng có gì, nếu quán cái tánh của không đại thì đồng như vô tri vô giác. Vô tri vô giác trái với bồ đề thì khó mà tu chứng viên thông.

Thức thì sanh diệt không thường, nếu quán cái tánh của thức đại chỉ là quán sự phân biệt diệt sanh hư vọng, khó mà tu chứng viên thông.

Kiến là tánh thấy, kiến đại biểu hiện qua tưởng niệm. Tất cả các hành đều vô thường, tưởng niệm vốn trong vòng sanh diệt. Đem nhân sanh diệt, cầu được quả chân thường bất diệt, khó mà tu chứng viên thông.

5. Sự ưu việt của nhĩ căn

Tôi nay kính bạch Thế Tôn:
Phật ra đời ở cõi Ta Bà
Trong cõi này giáo môn thích ứng
Hiệu quả tốt ở: nói và nghe
Muốn thành tựu được tam ma đề
Phải vận dụng tánh nghe mà nhập
Lìa khổ được giải thoát
Hay thay Quán Thế Âm
Kiếp số như cát sông Hằng
Vào cõi nước vi trần Phật độ
Sức tự tại không thể nghĩ lường
Vô úy bình đẳng thí chúng sanh
Quán Thế Âm là Diệu Âm
Quán Thế Âm tức Phạm Âm
Quán Thế Âm, hải triều âm đó
Cứu thế vững an khang
Xuất thế hằng thường trú
Tôi kính bạch Như Lai
Như lời Quán Âm nói
Ví như ngồi chỗ tĩnh
Mười phương cùng đánh trống
Mười hướng thảy đồng nghe
Đấy là viên chơn thật
Cách vách nghe âm tưởng
Xa gần có thể nghe
Năm căn không sánh được
Thông chân thật
, nhĩ căn
Tiếng chuông, tánh nghe không diệt
Tiếng có, chẳng phải mới sanh
Có không, không quan hệ
Thường chơn thật
 của nhĩ căn
Dù có đang say ngủ
Chẳng vì ngủ không nghe
Tánh nghe ngoài suy nghĩ
Thân ý chẳng so bằng
Hiện tại cõi Ta Bà
Thanh luận
 được biểu dương
Mê muội đối với tánh nghe
Bị thanh trần cuốn theo dòng lưu chuyển
Dùng tánh nghe trú trì Phật Pháp
Hãy tự mình nghe lấy tánh nghe
Xoay cái nghe thoát khỏi thanh trần
Tánh nghe ấy là tánh nghe thường trú
Một căn đã xoay về bản tánh
Thì năm căn sẽ được giải thoát theo
Sắc thanh… trần như bệnh lòa huyễn hóa
Ba cõi dường hoa đốm trong không
Xoay tánh nghe là trừ hết bệnh lòa
Trần tưởng diệt, giác tâm hiển hiện
Tột thanh tịnh trí quang thông suốt
Tịch như mặt trời chiếu tợ thái dương
Quay nhìn xem hiện tượng thế gian
Như vật sắc chiêm bao chẳng khác
Ma Đăng Già há không là mộng huyễn
Thì còn ai quyến rũ! Hởi A Nan?
Như các huyễn sư khéo tạo hình người
Giỏi trang điểm làm ra trai hay gái
Dù các căn có cử động rung rinh
Do cái máy giật dây điều khiển
Động cơ nghỉ, tứ chi “người” tê liệt
Trò múa men đến lúc trở thành không
Tư duy kỹ, sáu căn người cũng thế
Phát xuất từ một thể tánh tịnh minh
Chia ra thành sáu thứ “hợp” “hòa”
Một đã tịch thì sáu căn đều thanh tịnh
Trần cấu còn thì gọi là học vị
Giác tột cùng thì gọi đó Như Lai
Hởi A Nan! Và đại chúng hiện tiền
Hãy chỉ tức nghe thanh trần điên đảo
Xoay tánh nghe, nghe tự tánh của mình
Nghe tự tánh
 là thành Vô Thượng Giác
Xin đảnh lễ như lai tàng tánh
Gia bị cho mạt thế chúng sanh
Đủ khả năng làm chủ lấy nhĩ căn
Giàu nghị lực sống với viên thông thường ba chơn thật tánh

SỰ CHUYỂN BIẾN TỐT SAU KHI NGHE VÀ NHẬN THỨC TÍNH ƯU VIỆT CỦA NHĨ CĂN

Ông A Nan và đại chúng được sự hướng dẫn rõ ràng của Bồ Tát Văn Thù, mọi người cảm thấy khinh an sảng khoái, tâm trí sáng bừng, nhận thức rõ: Rằng Bồ Đề Niết Bàn Phật là gia bảo chung của tất cả chúng sanh, mọi người đều có quyền thừa hưởng. Từ lâu mình tự bỏ cha bỏ nhà đi hoang, biến mình thành những kẻ lạc loài cùng khổ, xa quê hương rời nguyên quán, đánh mất gia tài cự phú vô tận của cha ông. Nay đại chúng nhận rõ: Rằng dù họ chưa về nhưng đã biết đường về và tin ở khả năng trở về của họ. Họ xác định rõ cái quyền thừa hưởng của họ đối với sự nghiệp vĩ đại của cha ông mình.

Hàng hữu học vô học nhị thừa, hàng sơ phát tâm Bồ Tát đông như số cát mười sông Hằng, xa lìa trần cấu được pháp luân thanh tịnh. Vô lượng chúng sanh phát tâm cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

TRỰC CHỈ

Chúng ta đã biết 25 vị đại đệ tử Phật đều tu chứng viên thông dựa trên cơ sở trần, căn, thức, đại. Qua nhãn quan của bực đại trí, ở đoạn kinh này Bồ Tát Văn Thù phân tách rõ chỗ ưu khuyết của 25 dữ kiện.

Nhìn bên bản thể, trần, căn, thức, đại vốn là hiện tượng biểu hiện từ Như Lai tàng. Tự tướng của chúng không có cái nào làm nên tội lỗi và cũng không có món nào là nguyên nhơn của tội lỗi. Tuy nhiên, đứng bên hiện tượng mà nhìn thì mỗi mỗi khác nhau, sự tác động qua lại của căn trần thức không đồng, công dụng biểu hiện có hơn kém từ sự phản vọng quy chân có ưu khuyết là lẽ đương nhiên vậy.

Nói một cách khác, Bồ Tát Văn Thù “phê phán” là đứng bên phương diện “tục đế” để mà tỉ giảo chọn lấy cái tối ưu. Nếu đứng bên “chơn đế” mà nhìn thì: “Một là tất cả, tất cả là một”, không còn có vấn đề hơn kém.

Do đó, vấn đề ưu khuyết của trần, căn, thức, đại vẫn là sự thật có trở ngại trên đường tu chứng viên thông. Tuy nhiên cái có thể trở ngại, không thích hợp với người này lại là dữ kiện thuận lợi cho một căn cơ khác. Mã tiền, thạch tín ai cũng biết là độc dược, nhưng cũng chính chúng là diệu dược cứu tử bệnh nhơn khi sử dụng đúng người, đúng bệnh và đúng liều.

Người học hãy ý thức rằng: Sự “phê phán” của Bồ Tát Văn Thù không phải “phê phán” để mà “phê phán”. Mà phê phán nhằm để giới thiệu tính ưu việt của nhĩ căn:

“Ngã kim bạch Thế Tôn
Phật xuất Tà Bà giới
Thử phương chân giáo thể
Thanh tịnh tại âm văn
Dục thủ tam ma đề
Thực tùng văn trung nhập”.

PHẬT KHAI THỊ VỀ BA MÔN VÔ LẬU HỌC VÀ BỐN ĐIỀU CƠ BẢN XUẤT TRẦN

Ba môn vô lậu học

Trước Phật và đại chúng. Ông A Nan sửa áo chỉnh tề, chấp tay thưa: Bạch Thế Tôn! Tôi nay đã nhận thức rõ pháp môn thành Phật không còn nghi hoặc. Tôi từng nghe Phật dạy: tự mình chưa được thành Phật mà phát tâm cứu độ chúng sanh, đó là chỗ phát tâm của các bậc Bồ Tát. Tự mình giác ngộ viên mãn rồi giáo hóa khiến cho người khác cũng được giác ngộ, đó là sự ứng thân vị nhân thế của các Như Lai. Tôi tuy chưa giác ngộ hoàn toàn song tôi nguyện độ chúng sanh đời mạt pháp. Chúng sanh cách Phật ngày xa, tà sư ngụy thuyết càng nhiều, nếu muốn cho đệ tử Phật được tam ma đề (chánh quán niệm) thì phải học thế nào để khỏi rơi vào ma sự, không thoái thoát bồ đề tâm?

 Phật bảo: A Nan! Lời thưa hỏi của ông có lợi lạc cho chúng sanh hậu thế.

A Nan! Trong giáo pháp của Như Lai các ông hãy siêng năng thu nhiếp tâm mình. Người thu nhiếp làm chủ được tâm gọi là người có giới. Nhân nơi giới mà có được định tâm. Nhân nơi định tâm mà phát sanh trí tuệ. Đó là ba môn học làm cho những người phát tâm tu hành không lọt rớt trong lục thú tam đồ.

TRỰC CHỈ

Giáo, lý, hành, quả, là một quá trình liên tục không thể tách rời trong toàn bộ giáo lý Phật. Từ chương một mở đầu cho đến đây, ông A Nan và đại chúng tiếp thu có kết quả tốt. Toàn chúng nhất trí nói lên cảm nghĩ và nhận thức của mình đối với quả Bồ Đề Niết Bàn Vô Thượng: Rằng đến sớm hay muộn chỉ còn là vấn đề tinh tấn đi nhanh hay giải đải lang thang, bằng lòng làm người “cùng tử”; còn đường đi và đích đến, đại chúng đã nói lên sự quả quyết rằng đã nắm vững lộ trình. Đó là kết quả bước đầu của Đức Phật trong sự nghiệp giáo hóa chúng sanh trên chặng đường giáo lý của thời pháp Thủ Lăng Nghiêm.

Ba môn vô lậu học, bốn điều cơ bản… Đức Phật đang dạy và sẽ dạy cho ông A Nan mở đường cho giai đoạn hành quả cuối cùng để đến thành đô Niết bàn Phật. Giới định tuệ tương quan mật thiết với nhau, ví như bóng đèn, ngọn đèn và ánh sáng của cái đèn dầu. Nhờ bóng mà ngọn đèn đứng yên. Nhờ ngọn đèn đứng yên mà tỏa ra ánh sáng. Nhơn giới sanh định, nhơn định phát tuệ đó là nền tảng để xây dựng lâu đài Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Trong quá trình tu học: “Lý tuy đốn ngộ, sự nải tiệm trừ”. Hiểu thì có thể hiểu nhanh, nhưng hành phải có quá trình tu tập. Ở đoạn kinh này ông A Nan cầu Phật chỉ dạy phương pháp tu hành tế độ quần sanh, kiến lập đạo tràng… càng xác định rõ: hành quả không thể không có giáo lývà giáo lý không phải để thỏa mãn cho sự hiểu biết suông!

BỐN ĐIỀU CƠ BẢN XUẤT TRẦN

1. Đoạn tâm dâm dục

A Nan! Người có thu nhiếp cái tâm thì tâm được thanh tịnh. Phật gọi đó là người có giới. Giới là phương tiện thù thắng ngăn dứt những hậu quả khổ đau. Gốc rễ của khổ đau, dâm dục là một trong những mầm nhân gây ra khổ quả. Ông và các chúng sanh tu tập tam ma đề là nhằm xa lánh mọi nghiệp nhân bất thiện để mong ra khỏi trần lao. Nhưng nếu các ông không đoạn tâm dâm thì trần lao không sao ra khỏi được. Dù có thiền định trí tuệ rốt cuộc cũng lạc vào con đường của ma. Hạng ưu thành ma vương, hạng giữa thành ma dân, hạng thấp thành ma nữ. Các bọn ma kia cũng có đồ chúng và tự xưng mình thành đạo vô thượng. Sau khi tôi diệt độ có nhiều bọn ma này sôi nổi trong thế gian ra sức ngợi khen về dâm dục, dụ dỗ người đời sa vào cạm bẫy dâm dục. Họ tự xưng là thiện tri thức mê hoặc nhiều người sa vào hầm ái kiến sẽ mất nẻo bồ đề, dấn thân mãi vào hang sâu ái dục đen tối khổ đau.

 A Nan! Ông phát tâm muốn cứu thế nên dạy cho những người tu tập pháp tam ma đề đoạn hẳn cái tâm đắm nhiễm dâm dục. Đó là lời dạy chân chính, điều cơ bản thứ nhất của các Như Lai Thế Tôn. Nương đó mà tu tập sẽ được Niết bàn vô thượng. Nếu nói ngược lại lời dạy của Như Lai là lời của bọn ma ba tuần không nên tin mà lầm lạc!

2. Trừ tâm sát sanh

A Nan! Sát sanh đoạn mạng người là biểu hiện của tâm hung ác. Muốn tu tập tam ma đề, tạo nhân giải thoát giác ngộ mà không trừ bỏ tâm sát sanh thì không thể nào ra khỏi trần lao. Dù có tu tập thiền định trí tuệ mà còn tâm háo sát rốt cuộc lạc vào thần đạo. Bậc thượng thành đại lực quỷ, bậc trung thành phi hành dạ xoa, bậc hạ thành địa hành la sát. Các loài quỷ đó cũng có môn đồ đệ tử và cũng tự xưng là thành đạo vô thượng. Sau Như Lai diệt độ có nhiều quỷ thần loại này xuất hiện sôi nổi trong thế gian. Họ rao giảng cho môn đồ rằng: Giết hại chúng sanh cũng được đạo bồ đề.

A Nan! Ông nay phát tâm tế độ chúng sanh, hãy dạy cho những người ham tu tập pháp tam ma đề phải trừ bỏ hung hăng giết hại. Đó là lời dạy chân chính, là điều cơ bản thứ hai của các Như Lai Thế Tôn. Nếu nói ngược lại lời dạy của Như Lai là lời của ma ba tuần, không nên tin mà lầm lạc!

3. Dứt tâm thâu đạo

A Nan! Tất cả chúng sanh trong thế gian nếu không dứt bỏ tâm trộm cướp thì dòng sanh tử còn tương tục để trả đền. Những người ham tu tập tam ma đề nhằm ra khỏi trần lao, dứt dòng sanh tử cần phải diệt hẳn tâm tham lam trộm cướp. Nếu tâm trộm cướp còn dù có tu thiền định trí tuệ thì cũng lạc vào tà đạo. Hạng trên thì thành tinh linh, hạng giữa thành yêu mị, hạng dưới thành người tà đạo bị các loài quỷ dựa vào. Các bọn tà đạo kia cũng có môn đồ đệ tử và cũng tự xưng mình thành đạo vô thượng. Sau Như Lai diệt độ, trong hậu thế có nhiều yêu mị, tà đạo ấy sôi nổi trong thế gian. Chúng gian dối tự xưng mình là thiện tri thức, là người đã được pháp thượng nhân, lừa gạt những kẻ dễ tin đe dọa tinh thần, lôi kéo đi theo con đường tín ngưỡng xằng bậy làm cho một số yếu lòng long lay chánh tín đối với đạo vô thượng. Những người tin theo chúng lần lần tài sản hao mòn, gia đình tan nát, vì những lời rao giảng bịp bợm không có chân lý. Chúng mượn cách phục sức của đạo Phật, hình thức dáng vẻ của sa môn, buôn bán danh nghĩa Như Lai, tạo nhiều nghiệp ác.

4. Bỏ tâm vọng ngữ

A Nan! Lục thú chúng sanh, giả sử dứt hết được sát sanh, trộm cướp và dâm dục nhưng nếu mắc phải đại vọng ngữ thì tu tập tam ma đề cũng không thành tựu.

Thế nào là đại vọng ngữ? Rằng chưa đạt đạo tự khoe mình đạt đạo, chưa chứng quả tự tuyên bố rằng mình chứng quả… Rằng ta đã thành A La Hớn, là Bồ Tát, Phật, Như Lai… Những người đáng thương ấy chỉ vì lợi dưỡng, vì sự lễ bái cúng dường của tín thí đàn việt, họ tự hủy diệt hạt giống Phật, thành nhất xiển đề trong Phật Pháp, sẽ bị chìm đắm mãi trong biển khổ luân hồi không lượng được ngày ra.

Như Lai dạy các hàng Thanh Văn Duyên Giác, Bồ Tát trong mạt thế tương lai có thể hiện thân qua các dạng người: Hoặc sa môn, bạch y cư sĩ, vua, đồng nam, đồng nữ, quả phụ, dâm nữ, thậm chí dạng người trộm cướp để đồng sự với chúng sanh, để khen ngợi Phật thừa, hướng dẫn những người lầm lạc trở về chánh đạo, thành tựu tam ma đề. Nhưng tuyệt đối không được tự xưng là: A La Hớn, Bồ Tát, Phật Như Lai…

A Nan! Ông đã phát tâm vì chúng sanh hậu thế, nên dạy cho những người ham tu tập tam ma đề bỏ dứt tâm đại vọng ngữ. Đó là lời dạy chân chính, là điều cơ bản thứ tư của các Như Lai Thế Tôn. Nếu nói ngược lại lời dạy của Như Lai là lời của ma ba tuần, không nên tin mà lầm lạc.

TRỰC CHỈ

“Bốn điều cơ bản xuất trần”, nói cách khác là “bốn trọng giới trong muôn giới luật”. Trong quá trình thuyết giáo độ sinh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, giáo lý Ngài dạy gồm trong hai nội dung: tri và hành. Nội dung thứ nhất nhằm đào tạo bồi dưỡng cho con người có nhiều kiến giải để nhận thức chân lý của vũ trụ thiên nhiên. Thành tựu nội dung đó không có cách nào khác hơn là cần phải có trí để tri, để mà tư duy nhận thức. Cho nên Phật vận dụng nhiều ngôn từ, nhiều thí dụ, nhiều phương tiện trong suốt quá trình giáo hóa độ sanh. Những tư tưởng, ngôn từ, phương tiện đó được ghi chép để lại hậu thế, người ta gọi là kinh tàng.

Nội dung thứ hai nhằm hướng dẫn cho người chịu học theo nền giáo lý Phật phải thực hiện những điều đã học hỏi, đã nhận thức về chơn lý, cần cải tạo đời sống cho sáng sủa hơn, an lành hơn, hạnh phúc hơn và đỉnh cao của cuộc sống là giác ngộ và giải thoát. Để hiện thực hóa lý tưởng đó, Đức Phật dạy cho các đệ tử về môn giới luật. Thực hiện giới luật tức là pháp hành. Hành theo quy tắc, hành trong khuôn khổ, hành trong giới luật không cho sai phạm những điều Phật đã chế ra để làm cái hàng rào ngăn cách những hố sâu tội lỗi. Những điều ngăn cấm đó, được ghi chép để lại, hậu thế gọi đó là luật tàng.

Bốn điều cơ bản xuất trần, phát xuất từ nội dung thứ hai, nó thuộc về giới học, là một trong tam vô lậu học.

Giới có giới trọng giới khinh, nói cách khác là có tánh giới và giá giới.

Bốn điều cơ bản này thuộc về tánh giới. Tánh giới là giới trọng. Tánh giới có Phật ra đời hay không có Phật ra đời; Phật chế ra hay không đề cập đến, nếu một người nào trong xã hội phạm phải những điều đó thì luật pháp của xã hội cũng kết tội và trừng trị.

Phật chế giới dâm là ngăn cấm người xuất gia làm việc dâm dục. Dâm dục và thực dục là hai thứ đam mê làm cho con người đam mê hơn tất cả. Theo Phật học vì đam mê dâm dục và thực dục cho nên gọi người đó là người ở trong cõi dục. Cõi dục mà chưa ra khỏi thì làm sao hy vọng giải thoát giác ngộ của quả Vô Thượng Bồ Đề. Cho nên điều cơ bản thứ nhất Phật dạy đoạn dâm dục và đoạn cả tâm móng khởi đam mê dâm dục. Có vậy mới có tâm hồn thanh tịnh tu chỉ quán để thành tựu tam ma đề.

Sát sanh đoạn mạng là hành động biểu hiện của con người tham sân cực độ. Phật dạy tu tập tam ma đề mong ra khỏi trần lao phải trừ bỏ tâm tham sát sanh đoạn mạng, đó là chơn lý tất nhiên.

Trộm cướp là hành động của con người mạt hạng vô lương trong xã hội. Tu cốt để tiến lên thánh quả đến giải thoát giác ngộ đến Vô Thượng Bồ Đề Niết Bàn mà còn trộm cướp hay còn tâm trộm cướp thì quả là điều phi lý, ai cũng biết; vì nhân quả tương phản rõ ràng như trắng với đen vậy.

Vọng ngôn, ỷ ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu gọi chung là vọng ngữ. Người thế gian phạm phải vọng ngữ luật pháp xã hội quy thành hành động “bội tín” rồi. Bội tín là một cái tội, luật pháp xã hội không dung tha; người đệ tử Phật phạm phải thì còn gì để gọi là tu với hành được nữa!

Đến như đại vọng ngữ lại còn tệ hại hơn nhiều. Ngoài cái tội vọng ngôn bội tín của xã hội, đại vọng ngữ còn mắc thêm cái tội lạm xưng danh nghĩa Bồ Tát… Phật… để dối bịp chúng sanh, bán buôn Bồ Tát, Phật để làm nghề sanh nhai bất chánh.

Nói rút lại dâm, sát, đạo, vọng là tánh giới, là trọng giới cơ bản trong muôn giới luật. Đó là pháp hành, là cụ thể hóa về những nhận thức của triTri hành hợp nhất được biểu hiện qua giáo lý vị tằng hữu thuyết về thiên thủ thiên nhãn của Quán Thế Âm Bồ Tát ở đoạn kinh trước.