Kinh Thủ Lăng Nghiêm Trực Chỉ Đề Cương

Kinh Thủ Lăng Nghiêm Trực Chỉ Đề Cương

Trương Văn Chiến 15

CHƯƠNG VIII

1. Phật dạy ba món tiệm thư

2 . Các địa vị trong tiến trình tu chứng
3 . Kinh Thủ Lăng Nghiêm có nhiều tên gọi
4 . Những mối nghi ngờ sâu sắc có tính phổ biến được Phật dạy bày.
5. Do những tập nhân bất thiện tự chiêu cảm các ác quả khổ đau.

6. Sáu thứ khổ báo là kết quả của bất thiện nghiệp phát xuất từ lục căn và lục thức của con người.
7
 . Nói về các dư báo sau khi ra khỏi địa ngục
8
 . Mười thứ Tiên do tu Dị nhân kết thành Dị quả
9
 . Trời Dục giới

I – PHẬT DẠY BA MÓN TIỆM THỨ

Thế nào là ba món tiệm thứ?
Một là tu tập, trừ các trợ nhân.
Hai là chân tu, trau dồi chánh tánh.
Ba là tăng tiến, ngược dòng hiện nghiệp.
Thế nào là trừ các trợ nhân?

Nầy A Nan! Mười hai loại chúng sanh trong thế giới không thể tự toàn thánh thiện, cần phải nương theo bốn cách ăn mà được tồn sinh. Đó là đoạn thực, xúc thực, tư thực và thức thực. Vì vậy, Như Lai nói tất cả chúng sanh nhờ ăn mà được sống còn.

Đoạn thực là ăn các thứ ngũ cốc, ngũ quả, ăn từng nắm vắt, từng miếng, từng cái, mà chúng sanh thọ dụng hàng ngày.

Xúc thực là nhờ sự tiếp xúc của căn và trần sanh ra cảm thọ vui buồn, như coi hát, xem phim… làm cho con người thấy khỏe khoắn kéo dài sự sống.

Tư thực là nhớ nghĩ những điều thích thú đã qua, hy vọng gì toại lòng sắp đến, cũng là cách giúp cho sự sống tồn sinh.

Thức thực là A lại da thức duy trì dòng sanh mệnh, làm chỗ y chỉ cho tiền thất thức.

Chúng sanh các ông đã quay về đạo vô thượng của Như Lai, thì hãy khéo léo điều hòa các cách ăn của mình, đừng để rơi vào tửu nhục bê tha, sắc thanh phóng túng, hy vọng đảo điên với một tâm hồn đen tối, trong một thể xác buông trôi trong biển đời ô trược.

Hãy chủ động các cách ăn, gọi là tu tập trừ các trợ nhân. Đó gọi là món tiệm thứ tu hành tăng tiến thứ nhất.

Thế nào là trau dồi chánh tánh?

A Nan! Hành giả muốn vào tam ma đề, trước hết phải giữ gìn giới luật cho thanh tịnh. Phải đoạn tâm dâm và tâm sát. Người tu hành không dứt tâm tham dâm hiếu sát mà mong ra khỏi ba cõi là điều không thể có. Phải giữ tứ trọng và bát khí của Thanh văn tiến lên hành trì tam tụ tịnh giới của Bồ tát. Giữ giới dâm được thanh tịnh thì cắt đứt nghiệp nhân sanh nhau, giết nhau ở thế gian. Giữ giới trộm cướp thanh tịnh thì không còn nợ trần vay trả kiếp nầy kiếp nọ trong lục thú. Thành tựu tam ma đề thì cái nhục thân cha mẹ sanh ra không cần thiên nhãn tự thấy được thế giới trong mười phương, thấy Phật, nghe pháp, chính mình vâng lãnh thánh chỉ của Phật, được đại thần thông dạo khắp thập phương thế giới… Đó gọi là món tiệm thứ tu hành tăng tiến thứ hai.

Thế nào là ngược dòng hiện nghiệp?

A Nan! Người giữ giới cấm thanh tịnh, tâm ý trong sáng, tam nghiệp điều thuận, không rong ruổi theo lục trần và tự biết tánh bản nguyên. Trần chẳng tương duyên thì tâm không bị dính mắc buộc ràng, đi ngược dòng hiện nghiệp trở về thể tánh tịnh minh; sáu thức trong sáng như pha lê, nhìn cõi nước trong mười phương một màu trong suốt như ngọc lưu ly toàn bích có ánh trăng tròn sáng ảnh hiện vào trong. Thân tâm hành giả, bấy giờ khinh an khoan khoái trong thể tánh nhiệm mầu và mười phương Như Lai một thời cùng hiện, hành giả chứng nhập pháp nhẫn vô sanh. Sự tu tập từ đó dần dần tăng tiến, rồi dựa trên mức độ giải thoát giác ngộ của hành giả mà an lập địa vị thánh hiền. Đó là món tiệm thứ tu hành tăng tiến thứ ba.

   

TRỰC CHỈ

“Tiệm” và “đốn” là hai thuật ngữ của đạo Phật. Tiệm có nghĩa là dần dần, tu dần dần, học hiểu dần dần và dần dần chứng đắc, từ quả vị thấp đến quả vị cao. “Đốn” là nhanh chóng, thẳng tắt vượt bậc. Như nghe pháp liễu nghĩa đại thừa, liền tỏ ngộ một cách sâu sắc, không bị sự phân vân đấu tranh trong quá trình nhận thức chân lý. Do đó, sự giải thoát giác ngộ vượt bậc không hạn cuộc bởi thời gian và pháp môn tu tập nào. Luận xét về căn cơ của chúng sanh thì có nhiều hạng. Có người chỉ tu tập pháp “tiệm tu tiệm ngộ”. Có người thì “đốn ngộ” nhưng cần phải “tiệm tu”. Có người thì “đốn tu” mà “tiệm ngộ”. Chỉ có hạng “đốn ngộ đốn tu” là hạng người “bạt tục siêu quần, vạn trung vô nhất”.

Cùng một đích đến, mà phương tiện di chuyển khác nhau thì sự hiện diện sau trước khác nhau. Ai đi máy bay thì đến trước, sử dụng ô tô thì phải chịu hạng nhì, cỡi xe gắn máy thậm chí với người đi bộ, trước sau vẫn đến, nhưng sự có mặt hoàn toàn lệ thuộc với thời gian. Vấn đề đốn tiệm trong việc tu hành tiến bộ chậm mau hoàn toàn tùy thuộc căn cơ và chủng tánh.

Phật dạy ba môn tiệm thứ nhằm mở rộng cửa Niết bàn, đón nhận hết mọi chủng tánh, căn cơ.

Địa vị Hiền, Thánh, Đẳng giác và Phật, cả thảy 55 bậc. Tiêu chuẩn xét đoán đều căn cứ nơi “tâm” và “hạnh” mà ước định quả vị ở vào thứ bậc nào. Thứ bậc có trên dưới, quả vị có thấp cao, người đệ tử Phật uyên thâm giáo lý, hiểu ngay rằng: Đó là phương tiện giả lập. Tâm hạnh của người đạt đạo làm sao lấy thước mà đo ? Người chứng đắc đạo quả, thấy rằng mình có chứng đắc vốn là đã là sai. Nói có địa vị thấp cao, phải hiểu đó là phương tiện của Như Lai vận dụng!

II – CÁC ĐỊA VỊ TRONG TIẾN TRÌNH TU CHỨNG

1. Địa vị càn tuệ

Phật bảo: A Nan! Khi có người thiện nam phát ý tu hành đến giai đoạn ái dục khô cạn, căn cảnh không còn dính mắc nặng sâu, tâm luyến ái được vơi nhẹ, nhờ vậy họ thường giữ tâm trụ ở chỗ rỗng không và trong sáng. Họ chỉ sử dụng thuần một mặt lý trí mà quan sát mà đánh giá nhận thức hiện tượng vạn pháp trong thế giới mười phương. Họ khô cạn hết những tập khí dục nhiễm luyến ái ở cõi đời, nhưng họ chưa tiếp thu được dòng nước pháp hỉ khinh an của Như Lai, họ chỉ có một thứ lý trí khô khan, cho nên gọi là CÀN TUỆ ĐỊA.

   

TRỰC CHỈ

Dựa trên công dụng chuyển mê khải ngộ của con người, Như Lai phương tiện triển khai các thành vị. Càn tuệ địa nói dễ hiểu là những hạng người tu hành bắt đầu khô khan tình cảm của thế gian. Họ chinh phục và chiến thắng được những dục nhiễm luyến ái của thường tình, họ bắt đầu sống nghiêng nặng về mặt lý trí trong sáng, cứng rắn.

Người phát tâm tu hành, công việc đầu tiên phải học tập và tự huấn luyện cho mình sống nhiều lý trí. Vì đỉnh cao của lý trí chính là địa vị CÀN TUỆ nầy.

Con người tâm hồn ướt át, tình cảm rạt rào mà mong học tu đạo giải thoát, chẳng khác nào đào giếng tìm nguồn nước để uống với một nhát cuốc đầu tiên tung tóe mịt mù cát bụi!

2. Địa vị thập tín

* Tín tâm. Từ địa vị Càn tuệ phát huy tánh nhiệm mầu tròn sáng của chơn tâm, ức chế các vọng tưởng, hướng tâm vào chân lý trung đạo.

* Niệm tâm. Có tín tâm chân chánh, chánh trí phát sanh ngũ ấm, lục nhập, thập nhị xứ, thập bát giới không còn là những chướng ngại ngăn che mà còn có thể nhớ lại những việc xa xưa của đời mình trong nhiều kiếp.

* Tinh tấn tâm. Chánh trí ngày càng hiển hiện, tập khí bất thiện vô thỉ bị đồng hóa theo tánh tịnh minh và giữ vững tánh tịnh minh tiến dần đến chỗ chân tịnh.

* Tuệ tâm. Tâm tánh tịnh minh được liên tục hiện tiền, thường sống và tư duy trong trí tuệ.

* Định tâm. Duy trì và phát huy trí tuệ đã có. Tâm ý an trụ trong cảnh tịch tĩnh và sanh ra một định lực trong sáng.

* Bất thối tâm. Do định lực phát sanh trí tuệ ngày một tăng tiến mà không có thoát thất.

* Hộ pháp tâm. Định tuệ tự nhiên tăng trưởng theo đà tiên tiến, hành giả giao tiếp từng phần phước, trí hùng lực của thập phương Như Lai.

* Hồi hướng tâm. Thường giác tỉnh trong tánh giác minh. Xoay tánh giác minh an trú nơi trí quang Phật, như hai tấm gương đối chiếu, những hình ảnh trong gương y hệt nhau.

* Giới tâm. Xoay về an trú nơi trí quang Phật. Nhờ vậy, tâm càng thêm thanh tịnh an trụ trong tịch tĩnh vô vi, xa rời những lối sinh hoạt hình thức hữu vi.

* Nguyện tâm. Giới tâm đã tự tại cho nên hành giả có thể vân du khắp cõi nước mười phương tùy nguyện của mình.

3. Địa vị thập trụ

* Phát tâm trụ: Hành giả vận dụng phương tiện phát khởi mười tâm ở hàng thập tín cho đến khi tâm tánh ấy còn ròng rặc một thể tịnh minh, viên dung thành một chân tâm sáng suốt viên mãn.

* Trị địa trụ: Nương nơi tâm trong sáng đã có trau dồi sửa trị cái tâm hiện tại khiến cho chân tâm trong sáng càng trong sáng hơn như khối lưu ly trong suốt và trong đó hiện ra vàng ròng.

* Tu hành trụ: Tâm địa thông suốt, công dụng nhận thức của sáu căn không còn bị ngăn ngại bởi sáu trần, tri kiến của hành giả có khả năng vận dụng quán sát khắp mười phương không có gì ngăn ngại.

* Sanh quí trụ: Đạt đến chỗ hạnh đồng như Phật và tiếp thụ từng phần Bồ đề Niết bàn của Phật, gia nhập dòng dõi của Như Lai, như thân trung ấm tìm cha mẹ âm tín đã thầm giao cảm với nhau rồi.

* Phương tiện cụ túc trụ: Đã vào đạo thai, nhờ sự nuôi dưỡng của giác tánh ví như bào thai đã thành hình đầy đủ.

* Chánh tâm trụ: Hình dung giống Phật, tâm tưởng cũng vậy.

* Bất thối trụ: Thân tâm đều thanh tịnh và sự thanh tịnh ngày một tăng mà không có lui sụt.

* Đồng chơn trụ: Mười thân có đủ trong một thời (1).

* Pháp vương tử trụ: Ví như hình vóc đã trưởng thành ra khỏi bào thai. Và chính mình đã trở thành con của đấng Pháp vương.

* Quản đảnh trụ: Ví như vị hoàng tử đã đến tuổi lớn khôn, nhà vua truyền trao quốc sự cho Thái tử bằng một nghi lễ, xối nước bốn biển gội đầu.

4. Địa vị thập hạnh

* Hoan hỉ hạnh: Người thiện nam tử khi đã trở thành Phật tử rồi, có đầy đủ những đức tánh nhiệm mầu của Như Lai, bấy giờ có thể hoan hỉ và tùy thuận tất cả.

* Nhiêu tích hạnh: Người Phật tử khéo biết làm lợi ích cho tất cả chúng sanh.

* Vô sân hận hạnh: Hai hạnh tự giác và giác tha của người Phật tử đồng nhau và không chống trái nhau.

* Vô tận hạnh: Tùy loại chúng sanh mà hiện thân hóa độ, ba đời bình đẳng mười phương thông suốt cho đến cùng tận vị lai.

* Ly si loạn hạnh: Có trí tuệ trong sự nhận thức: Các pháp dị, hợp, thành, đồng. Pháp Phật nhiều vô lượng, nhận thức không còn sai lầm.

* Thiện hiện hạnh: Các pháp đồng phân giải ra dị, nhiều pháp dị tổng hợp thành đồng.

* Vô trước hạnh: Đồng có thể hiện dị, dị có thể hiện đồng. Mỗi vi trần hiện mười phương thế giới, mỗi thế giới hiện mười phương hư không, hiện vi trần, hiện thế giới, hiện hư không mà không ngăn ngại gì nhau.

* Tôn trọng hạnh: Nhận thức rằng tất cả sự vật hiện tượng trước mắt đều là đệ nhất ba la mật đa.

* Thiện pháp hạnh: Nhận thức mọi hiện tượng vạn pháp viên dung tương tức tương nhập và sự nhận thức đó phù hợp thành một qui tắc chung của chư Phật mười phương.

* Chân thật hạnh: Nhận thức rằng tất cả pháp đều là thanh tịnh vô lậu, là vô vi trong pháp giới nhất chân. Vì tánh của các pháp vốn là như vậy.

5. Địa vị thập hồi hướng

* Cứu hộ nhất thiết chúng sanh ly chúng sanh tướng hồi hướng: Người Phật tử đầy đủ thần thông thành tựu Phật sự, thân tâm trong sáng, xa lìa các lỗi lầm, bấy giờ ra làm việc độ sanh mà diệt bỏ quan niệm năng độ sở độ, chỉ xoay tâm vô trụ chấp hướng về Niết bàn tịch tĩnh.

* Bất hoại hồi hướng: Hành giả có khả năng hoại những thứ cần diệt hoại. Có khả năng viễn ly những gì cần viễn ly. Năng giữ bản tâm trong sáng của mình.

* Đẳng nhất thiết Phật hồi hướng: Tánh bản giác trong sáng của hành giả hiển hiện như ngang bằng với Phật.

* Chí nhất thiết xứ hồi hướng: Phát minh tận cùng cái chân giác, tâm địa của hành giả gần như tâm Phật.

* Vô tận công đức tạng hồi hướng: Thế giới và Như Lai, trước mắt hành giả chỉ là một, chân lý và chân trí dung hợp nhau không có khoảng cách năng sở.

* Tùy thuận bình đẳng thiện căn hồi hướng: Nhận thức rằng: tâm địa Phật và tâm địa của chúng sanh vốn đồng và trong chỗ đồng phát huy các nhân thanh tịnh riêng khác để thủ đắc Niết bàn.

* Tùy thuận đẳng pháp nhất thiết chúng sanh hồi hướng: Căn bản trí đã hiển lộ, nhận thức rằng: chính mình và tất cả chúng sanh đồng một bản thể chân như thanh tịnh.

* Chân như tướng hồi hướng: Nhận thức rằng: Tất cả là một, một là tất cả. Ly nhất thiết tướng mà không ly tướng nào. Ly và tức viên dung vô ngại.

Vô phược giải thoát hồi hướng: Đã thể nhập chân như lý, hành giả tự tại trước mọi hiện tượng vạn pháp trong mười phương.

Pháp giới vô lượng hồi hướng: Thành tựu viên mãn công đức thanh tịnh trong thể tánh chân như, bấy giờ trước mắt hành giả, pháp giới trở thành “nhất chân”, quan niệm ranh giới cách ngăn không còn nữa.

6. Địa vị tứ gia hạnh

A Nan! Người đệ tử Phật vượt qua các địa vị Hướng, Hạnh, Trụ, Tín và Càn tuệ 41 tâm ấy rồi tiến lên tu tập bốn địa vị gia hạnh nầy.

* Noãn vị: Hành giả liên tục phát huy cái tuệ giác Phật làm tâm mình, ví như dùi gỗ lấy lửa để đốt gỗ, lửa sắp phát ra mà chưa phát.

* Đảnh vị: Hành giả lấy tâm mình làm chỗ nương để phát huy tuệ giác Phật, giống như nương mà không phải nương, ví như người leo lên đảnh núi, thân đã vào hư không, nhưng chân còn bám một tí núi chưa rời khỏi.

* Nhẫn vị: Tâm ta và tâm Phật như nhau, khéo nhận thức lý trung đạo, ví như người biết nhẫn, không phải ôm vào cũng không phải xua ra.

* Thế đệ nhất vị: Tâm hành giả đạt đến chỗ vô sở trụ, diệt hết những phân biệt danh ngôn, xóa bỏ hết những gì thuộc về lượng số. Vấn đề mê, giác, trung đạo đối với hành giả như chẳng còn giá trị gì.

7. Địa vị thập địa

Phật dạy: A Nan! Dựa trên công dụng tu hành, căn cứ thành quả giải thoát giác ngộ, thì quả vị thập địa gồm có những hạng người như sau:

* Hoan hỉ địa: Người đệ tử Phật đối đại Bồ đề thông suốt sâu sắc, tuệ giác của họ gần như Phật, có khả năng nhận thức tột cùng cảnh giới của Phật.

* Ly cấu địa: Tất cả tánh dị biệt của vạn hữu hành giả nhận thấy là chung cùng, tánh chung cùng hành giả không thấy có cái chung cùng chơn thật, vì đó chỉ là hợp lại của những tánh dị biệt kia.

* Phát quang địa: Tâm thanh tịnh của hành giả đến độ tột cùng, bấy giờ trí tuệ trong sáng tự nhiên sanh ra mà hành giả không cần khởi công vận dụng.

* Diệm tuệ địa: Trí tuệ sáng suốt tột cùng, hành giả thường sống trong giác tỉnh trong mọi nơi chốn, mọi thời gian.

* Nan thắng địa: Khái niệm đồng dị, thân sơ, bĩ thử đối với hành giả không còn.

* Hiện tiền địa: Thể tánh tịnh minh vốn có nay đã hiện bày tỏ rõ, tâm thường trú hiển lộ trong cuộc sống của hành giả thường xuyên.

* Viễn hành địa: Nhận thức rõ tột về bản thể chân như và sống hợp với bản thể chân như ấy.

* Bất động địa: Hành giả thể nhập với bản thể chân như.

* Thiện tuệ địa: Thể nhập bản thể chân như rồi, hành giả vận dụng chân như biểu hiện ra diệu dụng của chân như.

* Pháp vân địa: Hạnh tu tập đã xong, công đức viên mãn, lợi mình và tùy ý làm lợi cho người, ví như bóng mây lành che mát khiến cho chúng sanh vui chơi lặn lội trong biển Niết bàn.

8. Quả vị đẳng giác và diệu giác

Nầy A Nan! Như Lai thì ngược dòng ngoảnh lại. Bồ tát thì thuận dòng mà tu tập tiến tới. Tuệ giác của hai đường giáp tuyến gặp nhau. Ở vào giai đoạn đó gọi là địa vị ĐẲNG GIÁC.

A Nan! Từ địa vị Càn tuệ đến địa vị Đẳng giác là 53 địa vị. Tột cùng của địa vị Đẳng giác gọi là Kim Cang tâm. Ngoảnh nhìn lại trên quá trình tu tập từ ban đầu chặng giữa chẳng có chút gì sai khác: Lấy mười thí dụ làm đối tượng để tư duy quán chiếu. Đến khi CHỈ QUÁN quân bình là tột cùng quả Diệu Giác viên mãn thành tựu VÔ THƯỢNG BỒ ĐỀ.

A Nan! Thành tựu Bồ đề Niết bàn Vô thượng, mười phương Như Lai cũng dựa vào ba món tiệm thứ mà tu hành tăng tiến rồi khéo bồi dưỡng và phát huy theo quá trình tiệm tiến trải qua 55 địa vị ấy mà đến vô thượng Bồ đề.

Người Phật tử tu học hiểu như thế là đúng chánh pháp, tin hiểu khác đi là người ngoại đạo, tu tập sai lầm sẽ không có ngày thành tựu.

   

TRỰC CHỈ

Sau Càn tuệ địa, tiến lên: Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, rồi Đẳng giác và Diệu giác 52 địa vị. Diệu giác là vị cao tột, tức là quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Sự giác ngộ giải thoát thực ra chẳng có lấy gì để đo chính xác được và cũng chẳng có tên gì để gọi cho đúng đắn được. Tất cả những tên gọi ấy chỉ là những phương tiện giả đặt của Như Lai. Cái danh tiêu biểu phần nào của hạnh, dựa trên hạnh mà giả đặt cái danh. Người tu hành không nên chấp nê quả vị hay khởi ý mong cầu. Người nấu nước, chỉ cần đun lửa tốt thì ấm nước tự sôi, vấn đề độ nóng bao nhiêu… chỉ là phương tiện danh ngôn giả lập.

Như Lai thì ngược dòng trở lại. Từ địa vị giác ngộ chân lý hoàn toàn, vì thương chúng sanh mà sống và sinh hoạt như chúng sanh để có cơ hội hướng dẫn cải tạo những mê mờ đau khổ của chúng sanh, còn Bồ tát thì thuận dòng, từ bể khổ sanh tử vươn lên, phát huy trí tuệ. Càn tuệ địa là điểm khởi hành. Trải qua 51 địa vị, đó là thời gian khai thác nhất thiết trí, đạo chủng trí, nhất thiết chủng trí, vô sư trí và tự nhiên trí của mình. Cuối cùng giao điểm giữa Phật và Bồ tát gặp nhau ở quả vị được gọi là đẳng giác.

Ở vào địa vị Đẳng giác, Bồ tát có được thứ trí Kim cang. Dùng trí Kim cang chiếu phá sạch những bóng đen sanh tướng vô minh vi tế tối hậu. Sanh tướng vô minh dứt sạch. Bồ đề, Niết bàn tự tánh hiện ra. Bồ tát nhìn lại quá trình tu tập trải qua giống như người vừa tỉnh giấc chiêm bao. Những chuyện khổ, vui, tội phước, tiêu trưởng vinh hư là chuyện của một cơn trường mộng! Đời là diệu dụng biểu hiện từ bản thể chân như. Bồ tát nhìn hiện tượng vạn hữu có mà không phải có thật, không mà chẳng phải thật không. Tất cả đều là như vật sắc trong chiêm bao, như hình ảnh khóc cười trên màn bạc, như trăng đáy nước, như hoa đốm trong không, như càn thát bà thành, như bóng trong gương, như mù sương buổi sáng, như điện nhoáng lưng trời, như bong bóng dưới cơn mưa… Nhờ vậy, Bồ tát tự tại và nhẹ nhàng tiến bước trên con đường Bồ đề Niết bàn vô thượng, rồi nhìn lại, thì ra chính mình chẳng có được gì!

… “Đáo dĩ hoàn lai vô biệt sự
Lô sơn vân vũ chiết giang triều”.

III – KINH THỦ LĂNG NGHIÊM CÓ NHIỀU TÊN GỌI

Đáp lời thưa hỏi của Bồ tát Văn Thù, Đức Phật dạy: Kinh nầy có thể gọi nhiều tên:

* Đại Phật đảnh tất đát đa bát đát ra, vô thượng bảo ấn, thập phương Như Lai thanh tịnh hải nhãn.

* Cứu hộ thân nhân độ thoát A Nan cập thủ hội trung tánh tỳ kheo ni đắc Bồ đề tâm nhập biến trí hải.

* Như Lai mật nhơn tu chứng liễu nghĩa.

* Đại phương quảng Diệu Liên Hoa vương thập phương Phật mẫu đà la ni chú.

* Quán đảnh chương cú, chư Bồ tát vạn hạnh Thủ Lăng Nghiêm.

Văn Thù, các ông nương theo đó mà phụng trì. Đại chúng nghe lời Phật dạy, liền tỏ ngộ diệu lý thiền na, tâm được rỗng rang, nhiều người dứt trừ được hoặc kiến tư, cắt đứt nhân sanh tử ưu bi trong tam giới.

IV – NHỮNG MỐI NGHI NGỜ SÂU SẮC CÓ TÍNH PHỔ BIẾ N ĐƯỢC PHẬT DẠY BÀY

Bấy giờ ông A Nan đứng dậy cung kính chấp tay thưa:

Bạch Thế Tôn! Theo lời Phật dạy, chân tâm vốn trong sáng nhiệm mầu, xưa nay tròn đầy khắp giáp và núi sông đất liền cỏ cây hoa lá điểu thú côn trùng đều cùng chung một bản thể chân như, tất cả đều là những dữ kiện tu hành thành tựu Phật quả của các Như Lai, hàng Thanh văn hữu học chúng tôi chưa dứt được mối nghi ngờ sâu sắc ấy!

Bạch Thế Tôn! Bản thể chân như ấy vốn đã chân, cớ gì lại sanh ra các nẻo: Trời, người, A tu la, địa ngục, quỉ thần và súc sanh? Sáu đường ấy bản lai tự có hay do những nghiệp thiện của chúng sanh chiêu cảm mà hiện khởi sanh ra? Còn sự kiện Tỳ kheo ni Bảo Liên hương, lén lút làm việc dâm dục rồi lý luận sai lầm phá kiến giới của Phật, hiện đời bị địa ngục là thế nào ? Sự kiện vua Lưu Ly tận diệt giòng họ Cù đàm rửa oán, đối với sự hiểu biết thông thường của nhiều người vẫn còn là điều bí ẩn! Vấn đề Thiện Tinh tỳ kheo bác không nhân quả, chủ trương đoạn diệt, hiện thế sa vào ngục A tỳ, thật tế phải hiểu như thế nào? Các địa ngục vốn có sẵn để hình phạt những chúng sanh ác hay sau khi những chúng sanh kia tạo ác, địa ngục mới có ra để hình phạt những con người bất thiện?

Phật khen những câu hỏi của ông A Nan có ý nghĩa sâu xa, nhờ đó những chúng sanh đời sau khỏi rơi vào tà kiến.

Nầy A Nan! Phật dạy, chân tánh của chúng sanh vốn chân vốn tịnh. Do nhận thức sai lầm chân lý, sống theo thói quen trái chân lý làm cho tánh chân tịnh bị chi phối mà sanh ra tình niệm chủ quan và tưởng niệm khách quan.

Tình niệm chủ quan là phần trong của con người. Do sự ái nhiễm của vọng tâm mà sanh ra vọng tình. Tình chứa mãi không thôi bèn sanh ra một thứ nước, gọi đó là nước, “ái”. Vì vậy mà tâm chúng sanh khi nhớ đến thức ăn thì miệng nước bọt chảy ra, tâm nhớ người thương, con mắt lệ tràn, tâm nhớ giận đứa con hư cũng sụt sùi trào tuôn nước mắt, nước mũi, tâm nghĩ tưởng sự ân ái, hai căn nam nữ tân dịch tiết ra…

A Nan! Ái có nhiều thứ khác nhau nhưng cái tánh ứa nước, chảy nước giống nhau. Tánh ướt thì nặng, tánh nước thì chảy xuống không thể cất lên, đó là tánh tự nhiên của nó.

A Nan! Tưởng niệm khách quan là phần ngoài của con người. Do thèm muốn khát vọng mà phát sanh ra lý tưởng. Tưởng chứa mãi không thôi bèn sanh ra một thứ khí thù thắng. Do vậy, tâm chúng sanh có giữ giới hạnh thanh tịnh thì người nhẹ nhàng sảng khoái, tâm chuyên trì chú ấn thì đôi mắt ngó có thần, tâm muốn sanh thiên, hành thập thiện nghiệp, chiêm bao thấy mình nhẹ nhàng, bay bổng trong không, tâm chuyên niệm hướng vào cõi Phật thì cảnh giới trang nghiêm thanh tịnh đẹp đẽ hiện ra, tâm phụng sự thiện tri thức, thì tự xem rẻ thân mình.

A Nan! Tưởng có nhiều thứ khác nhau, nhưng cái tánh nhẹ nhàng cất lên thì đồng. Tưởng nhẹ có tánh cất lên là tánh tự nhiên của nó.

A Nan! Tất cả thế gian sống chết nối nhau. Sống thì bằng lòng, chết thì nghịch ý. Khi con người sắp chết, lúc hơi nóng chỉ còn hâm hấp mong manh, bấy giờ hành động thiện ác cả một đời đều hiện ra như trước mắt. Sự sống và sự chết hai tập khí mãnh liệt cạnh tranh đối kháng trước phút giây con người từ giã cõi đời. Thuần tưởng thì bay lên được sanh vào các cõi trời, nếu có phúc đức, trí tuệ, có chí nguyện thanh tịnh thì tự nhiên tâm được sáng suốt thấy được cõi nước thanh tịnh của chư Phật trong mười phương, rồi tùy ý của mình mà sanh vào thế giới đó.

Tình ít tưởng nhiều, cất lên được nhưng không xa. Hạng nầy thành đại lực quỉ vương, phi hành dạ xoa, địa hành la sát. Họ có thể đi khắp bốn cõi trời Tứ thiên vương, nếu có nguyện lành hộ trì Phật pháp, bảo vệ người trì giới, người tu thiền thì họ được thân cận dưới pháp tọa của Như Lai.

Tình và tưởng bằng nhau, thì sanh làm người ở nhân gian. Do có phần tưởng sáng suốt nên có chất thông minh, vì có phần tình mê ám nên có lẫn lộn phần ngu độn.

Tình nhiều tưởng ít sanh vào loại bàng sanh, nặng nghiệp xấu sanh làm giống lông mao, nhẹ nghiệp hơn sanh làm giống lông vũ.

Bảy phần tình ba phần tưởng có thể chìm tận thủy luân hoặc sanh nơi mé hỏa luân chịu sự nóng đốt của lửa hừng hoặc thân thành ngạ quỉ thiêu nướng. Có gặp được nước, nước nóng như lửa, cho nên trải trăm ngàn kiếp không được uống ăn.

Chín phần tình một phần tưởng sa rớt suốt thấu hỏa luân, đến giữa ranh giới phong luân, nhẹ thì rơi vào địa ngục hữu gián, nặng thì rơi vào địa ngục vô gián.

Thuần một thứ tình hắc ám thì sa vào địa ngục A tỳ, nếu có thêm tội hủy báng đại thừa, đả phá kiến giới của Phật, tạo tội ngũ nghịch thập ác thì sa vào địa ngục A tỳ từ kiếp này sang kiếp khác luân chuyển khắp thế giới mười phương.

A Nan! Tùy ác nghiệp của chúng sanh đã tạo, mỗi người tự cầm lấy cái khổ địa ngục của riêng mình. Nhưng vì chúng sanh tạo ác nghiệp có giống nhau nên chịu quả khổ địa ngục cũng giống nhau, vì vậy mà địa ngục in tuồng như có chỗ định sẵn.

   

TRỰC CHỈ

Thể tánh của con người vốn tịnh minh, vì ai cũng có chân tâm thường trú. Chúng sanh hữu tình hay chúng sanh vô tình đều là hiện tượng tùy duyên trong bản thể chung cùng bất biến, cũng như những ngọn sóng lung linh màu sắc dưới ánh trăng vàng nghìn sai muôn khác đều phát khởi từ một thể nước phẳng lặng của một đại dương. Hội nhập được ý nghĩa hiện tượng không ngoài bản thể, ứng thân là diệu dụng của pháp thân. Thiền Lão, một thiền sư Việt Nam thời Lý đã nói:

Trúc biếc mai vàng, trăng thanh mây bạc là diệu dụng của bản thể chân như biểu hiện qua hai câu thơ:

“Túy trúc huỳnh hoa phi ngoại cảnh

Bạch vân minh nguyệt lộ toàn chân” Phật dạy: Sáu nẻo luân hồi không do một bàn tay, một đấng thiêng liêng nào sắp đặt cả. Cái động cơ quay lăn trong sáu nẻo dựa trên tiêu chuẩn: “Tình” và “Tưởng” nhiều ít của chúng sanh. Tình là sự biểu hiện của tâm ái nhiễm sâu nặng. Nặng về tình người ta dễ mất hết lý trí, sống theo thói quen dục vọng. Đã đam mê dục vọng thì không còn đủ trí tuệ để nhận thức chân lý. Vì vậy, con người rất sợ chết và rất muốn sống. Trái lại, người giác ngộ chân lý, vấn đề sống và chết không tham mà cũng chẳng sợ, vì biết rõ rằng sự sống chết của kiếp người, sự diệt sanh của vạn pháp, nó đã thành qui luật đối với người trí, nó là chân lý khách quan đối với thiên nhiên vũ trụ. Sợ chết, chỉ đem vào cho đầu óc, cho tâm trí con người một thứ khổ sở ghê gớm mà lẽ ra con người không có và không nên có. Vì mê mờ chân lý, chúng sanh rất tham sống và sợ chết, vì vậy khi sắp chết: thoi thóp với một tí khí nóng chưa tàn, hai luồng tư tưởng đấu tranh mãnh liệt. Và vì quá sợ chết nên sự kinh hoàng, sự hốt hoảng, sự tiếc thương, sự hối hận, sự oán ghét, sự tuyệt vọng, sự luyến ái… đã huân tập tích lũy cho một đời hiển hiện ra đầy đủ, giống như cuộn phim Vidéo đã được quay từ trước, nay đến lúc đem ra chiếu lại…

Tất cả những cảnh tượng khổ đau ở địa ngục chỉ là những hậu quả phản ảnh của tâm độc ác, mê mờ u tối của kiếp sống mê tình, vọng tình và si tình mà tác giả cõi địa ngục chính là con người đang chịu khổ đau dày vò trong địa ngục ấy.

Tưởng nhiều thì dễ sanh trí tuệ. Có trí tuệ dễ nhận thức chân lý và sống hợp chân lý. Có phước đức, trí tuệ mới trông thấy được cảnh giới trang nghiêm thanh tịnh trong mười phương, rồi tùy phước nghiệp mà cảm nhận mà thọ sanh vào cảnh giới đó.

Cảnh giới trang nghiêm thanh tịnh của chư Phật trong mười phương phải do phước đức và trí tuệ mới được thấy. Trái lại, cảnh khổ đau địa ngục do tích lũy cực tham, cực sân, cực si và bất thiện nghiệp mà hiện ra. Không có phước đức trí tuệ sẽ không thấy được cõi Phật thanh tịnh. Không có những cực ác nghiệp sẽ không tìm đâu có cảnh địa ngục khổ đau. Nhiều người càng tạo nhân phước trí tuệ giống nhau nên cùng thấy cõi Phật thanh tịnh giống nhau; Vì vậy cõi Phật in tuồng như có sẵn. Nhiều chúng sanh tạo những bất thiện nghiệp giống nhau, nên cùng bị hình phạt đau khổ ở địa ngục giống nhau, vì vậy mà địa ngục cũng in tuồng như có sẵn.

Cái từ “Na lạc ca” dịch ý có nghĩa là “địa ngục”. Địa ngục có nghĩa là: khả yểm, khả cụ, khả khí, bất lạc. Có thể tóm gọi là “cảnh giới của sự khổ đau cùng cực, không một chút xíu tạm an”. Người đệ tử Phật đừng bao giờ hiểu địa ngục như “một thành trì” “một cơ quan” có phương sở nhất định:

Kinh Hoa Nghiêm nói:

“Nhược nhơn dục liễu tri
Tam thế nhất thiết Phật

Ưng quán pháp giới tánh

Nhất thiết duy tâm tạo…”

Ai muốn hiểu rõ hết
Tất cả Phật ba đời

Nến quán tánh tướng các pháp giới

Tất cả duy tâm tạo.

Tất cả pháp giới đều do tâm tạo. Vì vậy, địa ngục chỉ là do tâm cực ác của ai đó tự tạo nó ra!

V – DO NHỮNG TẬP NHÂN BẤT THIỆN TỰ CHIÊU CẢM ÁC QUẢ KHỔ ĐAU

Thế nào là những tập nhân bất thiện?

A Nan! Tập nhân thứ nhất là thói quen dâm dục. Do sự giao hợp với nhau sanh ra sự cọ xác, cọ xác nhiều sanh ra khí nóng. Ví như người dùng hai tay chà xác thì cảm giác nóng sanh ra. Do lửa dục đốt mà có hiện tượng giường sắt nóng, cột đồng nung… cho nên Phật, Bồ tát xa lánh dâm dục như lánh xa hầm lửa.

Tập nhân thứ hai là thói quen tham cầu. Do tâm tham cầu so đo hơn thiệt hút vào, hút mãi thành ra hơi lạnh, lạnh cực thành băng, ví như người hút gió thì có cảm xúc lạnh, do sự tham cầu mà có âm thanh lạnh run phát ra tiếng: tra tra tra, ba ba ba… vậy nên Phật, Bồ tát tránh tham cầu như tránh biển độc.

Tập nhân thứ ba là thói ngã mạn. Do ngã mạn đi đến ỷ thế cậy quyền mà có sự bôn ba sôi nổi. Sự sôi nổi nầy ngưng đọng thành nước. Ví như miệng nhai vị thì nước miếng tự chảy ra. Do vậy mà có sông tuyết, cát nóng, biển độc, nước đồng sôi… cho nên Phật và Bồ tát tránh ngã mạn như tránh vực thẳm.

Tập nhân thứ tư là thói quen giận dữ. Do giận dữ sanh ra chống đối, xung đột. Lửa giận nung đốt hóa thành kim khí, vì vậy mà có núi dao, rừng gươm, gậy sắt, cưa xẻ, búa chặt, ví như người bị hàm oan thì sát khí bừng lên. Do vậy có hiện tượng cắt, chém, thiến, chặt, đâm, dùi đập, đánh… cho nên Phật, Bồ tát tránh sự giận dữ như tránh chỗ chém giết.

Tập nhân thứ năm là thói quen giả dối. Do giả dối lường gạt nhau đưa đến lôi kéo, xô đẩy nhau cho nên có hiện tượng cây cọc, dây thừng, thòng lọng, ví như nước thấm ướt mộng thì cỏ cây sanh trưởng. Do vậy hiện ra gông cùm, xiềng xích, roi đánh, gậy đập, côn đần, mác chém, cho nên Phật, Bồ tát tránh sự giả dối như tránh cọp beo.

Tập nhân thứ sáu là thói quen lường gạt, lừa đảo. Lường gạt lừa đảo mãi gây thành điều gian dối. Vì vậy cảm ác quả nhơ nhớp như đất bụi, đại tiểu tiện và những sự chìm đắm, bay rơi, trôi lăn, cho nên Phật và Bồ tát nhận xét sự lừa đảo gian dối như dẫm lên rắn độc.

Tập nhân thứ bảy là thù oán hiềm khích nhau. Do ôm ấp lòng thù oán mà cảm thấy ác quả như quăng đá, ném gạch, hộp nhốt, cũi giam, bình đựng. Ví như người hiểm độc ôm ấp điều ác. Vì vậy thập phương Như Lai, Bồ tát nhận xét sự thù oán như là quỉ vi hại, như uống nhầm rượu độc.

Tập nhân thứ tám là ác hiểm, chấp thủ, tranh cãi với nhau về thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ và giới cấm thủ, cho nên cảm thấy có quan lại chứng thực, nắm giữ giấy tờ, có các việc khám xét, tra khỏi, có đồng tử cầm sổ ghi chép việc thiện ác. Vậy nên, thập phương Như Lai nhận xét ác kiến như hầm sâu, Bồ tát xem như hố độc.

Tập nhân thứ chín là vu vạ, làm hại cho nhau. Do sự vu vạ hại người cảm ra ác quả như núi ép, đá kẹp, cối nghiền, cày sắt, ví như kẻ sàm tặc áp bức vu oan người lương thiện, đồng thời cảm thấy sự áp giải, đánh đập, ép huyết, lóc thịt. Vì vậy Phật và Bồ tát trong mười phương nhận xét sự vu vạ như cọp điên, như sấm sét.

Tập nhân thứ mười là kiện cáo. Kiện cáo cãi vã lẫn nhau phát sanh sự che đậy. Do vậy, cảm thấy có gương soi, đuốc rọi như giữa ban ngày không dấu bóng được, thấy có ác hữu trình bày tội lỗi, nghiệp kính hiện rõ những bất thiện nghiệp đó. Vậy nên thập phương Như Lai, Bồ tát nhận xét sự che đậy là giặc trong bóng tối, như đội núi cao lội trong biển lớn.

VI – SÁU THỨ KHỔ BÁO LÀ KẾT QUẢ CỦA BẤT THIỆN NGHIỆP PHÁT XUẤT TỪ LỤC CĂN VÀ LỤC THỨC CỦA CON NGƯỜI

Phật bảo: A Nan! Tất cả chúng sanh tạo ác nghiệp thì phải nhận lấy ác quả. Sự tạo nghiệp và trả quả như vậy là do sáu căn và sáu thức của chính mình, chớ không do nơi ai khác. Vì vậy, con người có thể tạo thiện nghiệp hay ác nghiệp mà chiêu cảm thiện báo hay ác báo đều tùy thuộc ở nơi mình.

Thế nào là sáu thứ khổ báo?

Một là ác báo do tánh thấy của nhãn thức. Tánh thấy của người hằng ngày tiếp xúc và huân tập những cảnh bất thiện nghiệp, ác đức, nhiễm ô… lúc sắp chết họ sẽ thấy toàn lửa rực trời cháy khắp mười phương. Thần thức của người nầy bay lên theo khói rồi rơi xuống sa vào địa ngục. Ở nơi địa ngục thần thức chỉ còn thấy hai hiện tướng: sáng và tối. Thấy sáng thì thấy những cảnh kinh hoàng, bạo ác, mọi vật trở thành cảnh sợ hãi, chết chóc. Thần thức vô cùng khủng khiếp khổ sở đớn đau, không một chỗ nơi có thể nương tựa hoặc kêu gào cầu cứu. Khi thấy tối thì một màu đen lặng lẽ bao trùm, thần thức cực độ đau thương, tuyệt vọng.

Tánh thấy bất thiện tác hợp với những tánh nghe, ngửi, nếm, xúc, biết hiển hiện ra: vạc dầu sôi, nước đồng chảy, lửa rực, khói đen, hoàn sắt nóng, lò than, sao lửa rưới khắp đầy ngập cõi hư không, khiến cho thần thức người chết khổ sở đớn đau cùng cực.

Hai là ác báo do tánh nghe của nhĩ thức. Cái tánh nghe của con người trong cuộc sống hằng ngày tiếp xúc và huân tập nghe những điều ác đức, hiểm độc, lúc sắp chết nghe và thấy sóng cuộn ngập trời. Thần thức người chết bị cuốn trôi theo dòng nước mà vào địa ngục. Ở nơi địa ngục thần thức chỉ còn nghe hai hiện tướng: rõ và điếc. Nghe rõ thì nghe những tiếng rít khủng khiếp, những tiếng nghiến rợn người làm cho thần thức rối loạn, sợ hãi, khổ đau cùng cực. Lúc nghe điếc thì lặng lẽ im lìm như màn đêm nơi hoang vu, như cõi chết khiến cho thần thức cực kỳ sợ hãi đau thương

Tánh nghe độc hại đau thương nầy tác động hỗn hợp vào các tánh thấy, ngửi, nếm, xúc, biết của năm thức kia tạo thành lời trách mắng tra hỏi, sấm sét, hơi độc, mưa mù và rưới các thứ sâu độc đầy khắp thân thể, tưới các thứ máu mủ hôi tanh, các thứ phẩn tiểu nhơ nhớp; còn hóa ra tia chớp kinh hồn, sấm rang long óc, mưa đá đập đè, thần thức người chết khổ sở không sao kể xiết!

Ba là ác báo do tánh ngửi của tỷ thức. Cái tánh ngửi của con người trong cuộc sống tiếp xúc và huân tập những thứ hương trần không lành mạnh, lúc sắp chết cảm nghe mùi độc khí khắp mọi nơi. Thần thức người chết tự thấy mình từ đất trổi lên, rồi lại rơi vào địa ngục. Ở nơi địa ngục, thần thức cảm nhận hai hiện tướng: thông và nghẹt. Khi ngửi thông thì hít phải toàn ám khí độc hại, ngột ngạt, thần thức vô cùng khổ đau rối loạn, lúc ngửi nghẹt thì lăn lộn vật vã, chết thì không được mà sống cũng không xong.

Cái tánh ngửi độc hại nầy tác động hỗn hợp vào với các tánh thấy, nghe, nếm, xúc, biết hóa thành lửa dữ, thiêu đốt, nước sôi nung nấu, sóng to nhận chìm, hóa thành núi, thành gạch to, đá lớn bay rớt đập nát thân thể làm cho người chết đau khổ tột cùng…

Bốn là ác báo do tánh nếm vị của thiệt thức. Cái tánh nếm vị của con người trong cuộc sống hàng ngày huân tập thói quen những thức ăn có tánh tàn hại giết chóc, ác đức bất nhân thì lúc sắp chết thần thức thấy khắp cõi không gian bao trùm bằng một thứ lưới sắt nung đỏ. Thần thức người chết từ dưới đất tung lên, bị vướng lưới lộn đầu rơi xuống sa vào địa ngục, thần thức còn nhận biết có hai hiện tướng: nuốt vô và mửa ra. Nuốt vô thì cảm nhận toàn băng giá lạnh tê tái, lạnh nứt nẻ cả thân thể; mửa ra thì rừng rực thứ lửa dữ bay ra và tự đốt cháy thân thể của chính mình.

Cái tánh nếm tội lỗi ác hại nầy tác động hỗn hợp với các tánh: thấy, nghe, ngửi, xúc và biết hóa thành sự xác nhận, sự tự thú. Lại hóa thành binh khí sắc bén, đâm chặt, lồng sắt nung đỏ nhốt, cung tên bắn vào thân làm cho thần thức người chết đau đớn cùng cực, cầu sống không được, muốn chết cũng không được.

Năm là ác báo do tánh cảm xúc của thân thức. Tánh cảm xúc của con người hằng ngày tiếp xúc và huân tập những ác hạnh, lúc sắp chết thần thức thấy núi lớn bốn mặt hợp lại ép vào mà không có lối thoát; lại thấy cái thành sắt lớn đầy chó lửa, rắn lửa, cọp, beo, lang, sói, sư tử lửa như chực muốn ăn nuốt; lại thấy ngục tối đầu trâu, mặt ngựa, tay cầm gươm giáo lùa đẩy thần thức người chết tống vào địa ngục – Ở nơi địa ngục, thần thức chỉ còn thấy hai hiện tướng: Hợp và ly. Hợp thì thấy núi ép thân thể xương thịt nát tan. Ly thì thấy giáo gươm đâm chỉa vào mình, thi thể ruột gan banh nát…

Tánh xúc ác hại tác động hỗn hợp với các tánh: Thấy, nghe, ngửi, nếm và biết hóa thành người săn đuổi, người bắn giết, người xử tội; hóa thành sảnh đường, tòa án; hóa thành đốt, nung, đập, nhốt, trói buộc, chặt ném; hóa thành té ngã, bay lên, hóa thành nấu luộc… làm cho thần thức đau đớn không sao kể xiết…

Sáu là ác báo do sự suy nghĩ của ý thức. Ý thức của con người trong cuộc sống huân tập những tư tưởng bất thiện, lúc sắp chết thấy cuồng phong tàn bạo thổi cõi nước tan tành, thần thức người chết bị thổi bay trên không, xoáy lốc theo gió, lại rơi xuống sa vào địa ngục. Bấy giờ thần thức chỉ còn cảm nhận hai hiện tướng: Mê sảng và tỉnh biết. Lúc mê sảng thì kinh hoàng, sợ hãi, chạy cuồng, chạy ngong không ngừng nghỉ. Khi tỉnh biết lại bị đốt cháy liên tục đau đớn cùng cực, sống không an, chết không được.

Ý thức bất thiện nầy tác động hỗn hợp với các tánh: Thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc hóa thành phương sở quan thự, đài gương soi, cáo trạng, người chứng, sương giá lạnh, gộp đá to nặng, ngục lửa, tiếng kêu la, gào khóc, thần thức phải chịu muôn lần sống, muôn lần chết trong một ngày khổ đau vô cùng vô cực.

A Nan! Như Lai đã chỉ dạy cho ông mười tập nhân và sáu quả báo ở địa ngục. Nhân quả ấy là do mê vọng của chúng sanh tạo ra. Dựa trên sáu căn ba nghiệp của con người trong sự tạo ác nghiệp mà thần thức có thể đọa vào 8 ngục vô gián hoặc 18 hoặc 36 hoặc 108 ngục khác nhau. Chúng sanh tạo nghiệp thì riêng, nhưng tội trạng, tội danh trùng hợp giống nhau cho nên chịu quả đồng phận như nhau, cảnh giới đó do vọng tưởng sanh ra nó chớ không phải bản lai tự có.

   

TRỰC CHỈ

Dâm dục, tham lam, giận dữ, ngã mạn, giả dối, lường gạt, oán thù, ác kiến, vu cáo, kiện thưa là những nguyên nhân gây ra vô vàn ác khác, Phật gọi đó là mười nhân ác, nó đã thành thói quen trong cuộc sống của con người không có ý thức phản tỉnh hồi quang, trau dồi đạo đức.

Nhân xấu ác thì không thể có quả an vui. Những ác nhân ấy không phải trời xuôi đất khiến mà do chính con người; do thân, miệng và ý của con người; khi con người đánh mất lý trí sáng suốt; con người không còn làm chủ được thân, miệng, ý của mình.

Những ác quả khổ đau cùng cực trong các địa ngục dù khác nhau, nhưng tất cả đều chỉ là những hình ảnh phản chiếu trung thực của nhất tâm của tam nghiệp của căn, trần, thức của con người. Đó là giờ phút “tòa án lương tâm” của con người hành xử cái chức năng: “chí công vô tư” tuyệt đối, tuyệt đối của “thể tánh tịnh minh” vốn có của chính con người.

Ngày, giờ, năm, tháng ở địa ngục không thể tính số theo khái niệm nhận thức ở nhân gian. Ai có nằm mộng và có tư duy về “hoàng lương mộng” có thể hiểu thời gian ở địa ngục tương đối dễ dàng hơn. Giấc mộng khoảng một tiếng đồng hồ hơn kém, vậy mà đối với lư sinh là cả 80 năm thăng trầm vinh nhục, 80 năm ân oán giang hồ, bừng tỉnh dậy thì ra mình vẫn là một thư sinh thi trượt, đang mơ màng bên quán trọ với tâm trạng âu sầu, thất vọng trên đường trở lại cố hương.

Cái khổ lâu dài ở địa ngục của những “linh hồn” đã tạo nhiều ác nghiệp, một giờ hấp hối trong phút sắp lâm chung biết đâu đó chẳng là 80 năm đau khổ nghiệp cảm tội hành do hậu quả trong một đời tích lũy!

VII – NÓI VỀ CÁC DƯ BÁO SAU KHI RA KHỎI ĐỊA NGỤC

Nầy A Nan! Những người trái phạm luật nghi, phá Bồ tát giới, bất tín tam bảo, chống báng Bồ đề, Niết bàn Phật thì vĩnh viễn họ sống trong địa ngục; còn những người phạm phải những nghiệp phức tạp khác, sau khi chịu khổ quả ở địa ngục mãn rồi, dư báo còn lại phần nhiều luân hồi đọa vào con đường quỷ. Vì vậy, mà quỷ có nhiều loại khác nhau do tạo nhân bất thiện chẳng đồng nhau.

Nặng về tham vật chất, dư báo tham hợp với vật chất thành Quái quỷ.

Nặng về tham sắc dư báo tham hợp với gió thành Bạt quỷ.

Nặng về dối trá dư báo tham hợp với súc vật thành Mỵ quỷ.

Nặng về sân hận dư báo tham hợp các loài sâu thành Cổ độc quỷ.

Nặng về oán thù dư báo tham hợp với vận suy của kẻ thù thành Lệ quỷ.

Nặng về ngã mạn dư báo tham hợp với khí thành Ngạ quỷ.

Nặng về lừa đảo, lường gạt dư báo tham hợp với u ẩn thành Áp quỷ.

Nặng về ác kiến dư báo tham hợp với tinh hoa thành Vọng lượng quỷ.

Nặng về vu oan giá họa dư báo tham hợp với linh hiển thành Dịch sử quỷ.

Nặng về bè phái, ô lọng dư báo tham hợp với con người thành Truyền thống quỷ.

A Nan! Những thần thức đó do nặng tình và thuần tình cho nên phải đọa lạc vào địa ngục và dư báo còn lại phải sanh vào đường quỷ. Như vậy đều do vọng tưởng của tự tâm chuốc lấy, chớ không do ai phạt, ai hành. Nếu có nhân duyên tột tỏ ngộ Bồ đề, Niết bàn tự tánh thì những thứ ác quả khổ đau đó vốn chẳng có thật.

Lại nữa, A Nan!

Quái quỷ theo vật chất, vật chất tiêu, báo hết sinh nơi thế gian phần nhiều thành loài chim kiêu.

Bạt quỷ theo gió, gió tiêu, báo hết sanh nơi thế gian phần nhiều thành các loài Cửu trưng kỳ dị.

Mỵ quỷ theo súc, súc tiêu, báo hết sanh nơi thế gian phần nhiều thành loài chồn, cáo.

Cổ quỷ theo sâu, sâu tiêu, báo hết sanh nơi thế gian phần nhiều thành loài có độc.

Lệ quỷ theo vận suy, vận suy tiêu, báo hết sanh nơi thế gian phần nhiều thành giun.

Ngạ quỷ theo gió, gió tiêu, báo hết sanh nơi thế gian phần nhiều thành loài cung cấp thịt ăn.

Áp quỷ theo u ẩn, u ẩn tiêu, báo hết sanh nơi thế gian phần nhiều thành loài cung cấp đồ mặc.

Vọng lượng quỷ theo tinh hoa, tinh hoa tiêu, báo hết sanh nơi thế gian phần nhiều thành loài chim mùa.

Dịch sử quỷ theo loại linh hiển, linh hiển tiêu, báo hết sanh nơi thế gian phần nhiều thành loại hưu trưng kỳ dị.

Truyền thống quỷ theo người, người chết, báo hết sanh nơi thế gian phần nhiều thành các loại quấn quít bên người.

Nầy A Nan! Những loài như thế đều do quả báo của tự tâm hư vọng của họ. Nếu có duyên lành tỏ ngộ Bồ đề, Niết bàn tự tánh thì đó chỉ là hình ảnh huyễn mộng vốn chẳng có gì!

Nầy A Nan! Những ác quả của bọn Bảo Liên Hương, Lưu Ly, Thiện Tinh Tỳ kheo đều do tự họ gây ra nghiệp nhân tội lỗi. Tội lỗi ấy không phải trên trời cao xuống, không phải dưới đất phát ra, không do người khác làm mà chính do vọng tưởng của họ gây ra rồi tự mình phải chịu quả báo. Đối với tâm tánh Bồ đề, thì đó chỉ là sự kết động vọng tưởng hư huyễn nào có đáng kể gì!

Nầy A Nan! Vấn đề vay trả nợ nần thật là phức tạp: có lúc làm súc sanh để trả nợ cho người; người ít phúc đức hưởng quá phần nợ, phải làm súc sanh trả lại số dư cho người chủ nợ ở kiếp sau. Do vậy, súc có thể thành người, người có thể thành súc để đền đáp nợ nần, vay trả, trả vay. Trừ khi tu tập pháp xa ma tha, tam ma bát đề, thiền na hoặc quay về nương học với Tam bảo thì sự luân hồi vay trả không có lúc ngừng quay.

Nầy A Nan! Loại chim kiêu trả nợ đủ rồi được sanh trong nhơn đạo nó tham hợp với hạng ngoan cố.

Giống Cửu trưng trả nợ đủ rồi được sanh trong nhơn đạo nó tham hợp với hạng quái dị.

Loài chồn, cáo trả nợ hết rồi được sanh trong nhơn đạo nó tham hợp với hạng đần độn, ngu si.

Những loài có độc trả nợ hết rồi được sanh trong nhơn đạo, nó tham hợp với hạng người nham hiểm.

Loài giun trả nợ hết rồi được sanh trong nhơn đạo, nó tham hợp với những hạng hèn nhát.

Loài cung cấp thịt ăn, trả nợ hết rồi được sanh trong nhơn đạo, nó tham hợp với hạng người nhu nhược.

Loài cung cấp đồ mặc, trả nợ hết rồi được sanh trong nhơn đạo, nó tham hợp với với hạng người lao lực.

Loài chim mùa, trả nợ hết rồi được sanh trong nhơn đạo, nó tham hợp với hạng người có văn hóa.

Loài hưu trưng, trả nợ hết rồi được sanh trong nhơn đạo, nó tham hợp với hạng người thông minh.

Loài quấn quít theo người, khi trả nợ hết rồi được sanh trong nhơn đạo, nó tham hợp với hạng người hiển đạt.

A Nan! Những hạng người đó đều do nghiệp bất thiện của họ tạo ra; sanh nhau, giết nhau, ăn nuốt lẫn nhau rồi vay trả, trả vay mà xoay vần như vậy. Nếu không gặp Như Lai, không nghe chánh pháp của Như Lai thì ở trong trần lao máy móc xoay vần không có ngày chấm dứt. Như Lai gọi đó là những chúng sanh đáng thương xót.

VIII – MƯỜI THỨ TIÊN DO TU DỊ NHÂN KẾT THÀNH DỊ QUẢ

Này A Nan! Có những chúng sanh từ loài người, không nương theo cái nhân chánh giác tu tập lại đam mê chuyên luyện những dị nhân; họ hy vọng củng cố hình hài trường sanh bất lão, vào trong rừng núi vắng vẻ những chỗ khó có người đến được họ chuyên luyện dị thuật của mình và kết quả được thành Tiên gồm có mười thứ khác nhau:

Hạng chuyên luyện đồ ăn, tìm các chất bổ dưỡng để ăn, luyện mãi khi “đạo ăn” thành tựu thì gọi là Địa hành tiên.

Hạng chuyên luyện dược tính, tìm thuốc trong các thứ cỏ cây luyện hoài, khi “đạo thuốc” thành tựu thì gọi là Phi hành tiên.

Hạng chuyên luyện đá, vàng, đơn sa, cửu chuyển luyện mãi, khi “đạo hóa chất” thành tựu thì gọi là Du hành tiên.

Hạng chuyên luyện động tác, luyện hoài khi “đạo khí tinh” thành tựu thì gọi là Không hành tiên.

Hạng chuyên luyện nước bọt, luyện mãi khi “đạo thanh nhuận” thành tựu thì gọi là Thiên hành tiên.

Hạng chuyên luyện hấp thụ tinh hoa, luyện hoài khi “đạo hấp thụ” thành tựu thì gọi là Thông hành tiên.

Hạng chuyên luyện phù chú, luyện mãi khi “đạo thuật pháp” thành tựu thì gọi là Đạo hành tiên.

Hạng chuyên luyện về nhớ nghĩ, luyện hoài khi “đạo nhớ nghĩ” thành tựu thì gọi là Chiếu hành tiên.

Hạng chuyên luyện về thủy hỏa giao cấu, luyện mãi khi “đạo cảm ứng” được thành tựu thì gọi là Tinh hành tiên.

Hạng chuyên luyện về biến hóa, luyện hoài khi “đạo biến hóa” thành tựu thì gọi là Tuyệt hành tiên.

A Nan! Các hạng Tiên đó ở ngay trong loài người mà tu luyện. Tuy họ không tu đúng cái nhân chánh giác, nhưng vẫn có được kết quả. Họ có thể sống thọ ngàn, muôn tuổi. Họ ẩn thâm sơn, cùng đảo cách biệt người đời, họ có thú an vui riêng họ. Dù vậy, họ vẫn chưa lóng gạn sạch hết cái nhân luân hồi cho nên khi hết phước vẫn trở lại luân hồi.

IX – TRỜI DỤC GIỚI

Nầy A Nan! Những người thế gian, chưa cầu chánh giác, chưa bỏ được ái ân vợ, nhưng tâm không buông lung trong việc tà dâm. Có chút ít định tâm, sanh ra sáng suốt, sau khi chết sanh vào một cõi ở gần với mặt trời, mặt trăng, gọi đó là Trời Tứ thiên vương.

Hạng người đối với vợ, dâm ái ít ỏi nhưng trong lúc tỉnh tâm chưa hưởng trọn vẹn sự khinh an, sau khi chết vượt ánh sáng trời trăng, ở trên cõi nhân gian, gọi đó là Trời Đao Lợi (2).

Có người gặp cảnh dục lạc tạm theo, nhưng trong lúc thôi không nghĩ tới, ở trong nhân gian, động ít tỉnh nhiều, sau khi chết sáng rỡ và ở yên một cõi trong hư không. Mặt trời, mặt trăng không soi đến cõi nầy. Người cõi trời nầy tự có ánh sáng, gọi đó là Trời Tu Diệm ma (3).

Hạng người lúc nào cũng tỉnh, nhưng khi có những điều cảm xúc đến chưa chống lại được, sau khi chết họ sanh lên cõi tinh vi, không tiếp với cảnh nhân thiên cõi dưới. Tam tai, hoại kiếp không hủy hoại đến cõi nầy. Đây gọi là Trời Đâu suất đà (4) .

Hạng người không có tâm dâm dục chỉ vì đáp ứng với người khác mà làm. Trong lúc hành lạc, cảm thấy vô vị như ăn sáp, người nầy sau khi chết vượt lên và sanh vào cõi biến hóa, gọi đó là Trời lạc biến hóa (5) .

Hạng người không có tâm thế gian chỉ hòa đồng với thế gian làm việc ngũ dục, trong lúc làm việc vẫn là siêu thoát. Sau khi chết họ vượt trên cảnh biến hóa và không biến hóa, gọi đó là Trời Tha hóa tự tại (6) .

A Nan! Sáu cõi trời đó hình thức tuy ít động nhưng tâm không còn vướng mắc nhiều vì vậy gọi đó là cõi Trời Dục (7) .