Chú Giải Bộ Pháp Tụ

Chú Giải Bộ Pháp Tụ

Đỗ Quang Huy 28

Chương XII

GIẢI THOÁT

Giờ đây chính vì tâm thiện thuộc cõi Sắc Giới xuất hiện, không những chỉ bao gồm những thắng xứ, bằng cách chế ngự được những tư thế được gọi là ‘đối tượng’, nhưng còn là những cách thức giải thoát, do đó, trong khi chỉ rõ phương pháp đó, một lần nữa, ở đây ta lại đưa ra câu mở đầu: ‘Thiện pháp đó là gì vậy[92]?’

Ở đây chúng ta nên hiểu từ giải thoát theo nghĩa nào? Thưa theo ý nghĩa của từ adhimuccana. Từ này mang ý nghĩa là gì vậy? Thưa adhimuccana có nghĩa là ‘được hoàn toàn giải thoát’ khỏi các pháp đối nghịch, hoặc có nghĩa là việc tập trung chú ý kéo dài nhờ những hoan hỷ do đối tượng đem lại. Việc giải thoát coi như xảy ra nơi đối tượng[93] khiến cho đối tượng đó không còn bị aùp chế, không lưỡng lự, giống như một đứa trẻ đang ngủ trong lòng bố nó, cho dù đứa bé đó đã lớn hay vẫn con nhỏ, hai tay đứa bé buông thả một cách thoải mái. Chúng ta bắt đầu áp dụng Phương pháp này, để làm rõ tâm thiện thuộc cõi Sắc Giới với những đặc tính như vậy và đạt được giải thoát chính là phương pháp chúng ta nên bắt đầu ứng dụng.

Trong trường hợp đó, ‘có Sắc (rupi) tức là sở hữu những phẩm chất thuộc cõi Sắc Giới (rūpam), nghĩa là Thiền Sắc Giới (rupajhāna), được nẩy sinh có liên quan đến mái tóc v.v… nơi cơ thể riêng của người đó. Bởi vì khi ta bắt đầu nói đến sắc xanh, ta nói như vậy chính là để ám chỉ màu sắc của tóc, hoặc mật, hoặc đồng tử con mắt. [191]

Khi bắt đầu nói về màu vàng, người ta ám chỉ chất béo, màu da, hoặc đốm vàng trong đôi mắt. Khi bắt đầu nói về màu đỏ, người ta ám chỉ thịt, máu, lưỡi, lòng bàn tay hoặc lòng bàn chân, hoặc màu đỏ của đôi mắt. Khi bắt đầu nói về màu trắng, người ta ám chỉ đến bộ xương, răng, móng chân móng tay, hoặc màu trắng của đôi mắt. Chính vì vậy những gì chúng ta đề cập đến là nhằm ám chỉ một con người đã thực hiện lời mở đầu đó, và trong đó chứa đựng Ðịnh tâm khiến ta làm việc đó.

‘Thấy cảnh sắc’ có nghĩa là bằng tầm nhìn-thiền tâm, người đó nhận ra rằng những đề mục đối tượng bên ngoài đó cũng chính là sắc xanh v.v… Qua câu này, thành quả Thiền Ðịnh (Jhāna) được làm rõ bằng cách ám chỉ đến những đề mục đặc trưng thuộc toàn bộ những nền tảng bên trong lẫn bên ngoài.

‘Không tưởng nội sắc[94]’ có nghĩa là chúng ta không do Thiền tạo ra có liên quan đến tóc của chính chúng ta, v.v… Qua cụm từ này, ta có được hiện trạng Thiền Ðịnh (Jhāna) thông qua những (đối tượng) bên ngoài bằng cách thực hiện lời mở đầu theo bên ngoài.

Qua cụm từ ‘Ðẹp tuyệt trần[95]!’, cho thấy Thiền Ðịnh (Jhāna) được tỏ rõ qua đề mục màu sắc, như sắc xanh hoàn toàn tinh khiết. Nơi Thiền Ðịnh (Jhāna) này thực sự chẳng có phân biệt gì nơi hiện trạng bên trong (anto) xinh đẹp say đắm cả. Tuy nhiên, kẻ nào duy trì được làm đối tượng của ý bằng một Ðề mục thanh tịnh và tươi đẹp hoàn hảo, thì người đó có thể trú Thiền chứng đệ nhất thiền, có nghĩa là ‘Ðẹp tuyệt trần!’cùng với Thiền Ðịnh (Jhāna) thuộc các Bậc khác nữa. Ðiều này đã được ấn định trong giáo lý của Ðức Phật.

Giờ đây, trong bộ Vô ngại giải đạo (Patisambhidā-Magga), (có câu hỏi được nêu[96] lên) là: – ‘Chỉ bằng cách suy nghĩ trong lòng ‘điều đó đẹp tuyệt trần!” mà thôi, thì làm sao có lại được giải thoát?[97]. Vậy có sự giải thoát như thế nào?’. Ở đây, trong trường hợp này, Vị Tỳ-khưu tiếp tục biến mãn một phương với tâm từ của mình… Nhờ việc tu tiến tâm từ này, con người ta được giải thoát khỏi mọi hận thù. Lại nữa, chư vị Tỳ-khưu đó tiếp tục biến mãn một phương với tâm bi, tâm hỷ… và tâm xả. Nhờ việc tu tiến Tâm xả này… mà con người ta được giải thoát khỏi mọi hận thù. Chính vì vậy, người đó có thể ghi đậm trong lòng mình những gì là mỹ miều đẹp đẽ. Và chính vì lý do đó, ta được giải thoát trọn vẹn.

Nhưng ở đây, chính vì còn phải đề cập thêm về điều này trong Kinh văn về Các Phạm trú[98], nên người ta đã loại bỏ phương pháp này, và chỉ cho phép nhấn mạnh về mặt thẩm mỹ nhờ những màu sắc, hoàn toàn xanh dương, hoàn toàn vàng, hoàn toàn đỏ, hoàn toàn trắng, xanh trong, màu vàng trong, màu đỏ trong, màu trắng trong. Chính vì vậy Thiền Ðịnh (Jhāna) thuộc cõi Sắc Giới được gọi là ‘đề mục’ hiểu theo nghĩa là nắêm bắt được đối tượng một cách trọn vẹn. Phương pháp ‘thắng xứ, hiểu theo nghĩa chiếm đoạt được đối tượng, và ‘giải thoát’ chính là hướng về đối tượng hoặc chăm sóc đến đối tượng, hoặc giải thoát đối tượng khỏi các pháp thù nghịch. [192]

Nói về những Ðề mục này, ta nên biết rằng giáo lý của Ðức Phật về Ðề mục được diễn giải trong Bộ Vi Diệu Pháp (Abhidhamma), nhưng hai Bài Pháp khác về ‘thắng xứ’ và ‘giải thoát’ lại được coi như là giáo lý Ðức Phật đề cập trong Kinh (Suttana). (Trường bộ kinh (Dīgha Nikāya ii. 110 tt.).

Cho đến nay, đây chỉ là công trình chú giải các từ mới. Ngoài ra, trong khi ta công nhận hai mươi lăm bộ chín nói đến ‘giải thoát’, giống như đã đề cập đến ‘Ðề mục đất’ (device-earth, chúng ta nên hiểu đó chính và về bảy mươi lăm bộ chính.

Ðến đây kết thúc phần  ‘Giải Thoát’.