Chú Giải Thuyết Luận Sự

Chú Giải Thuyết Luận Sự

Đỗ Quang Huy 26

CHƯƠNG XX

I. Ðiểm tranh luận: Tội ác không cố ý. (Asañcicca)

[183] Chính vì những nguyên cớ đối với hình phạt trực tiếp rất nặng và nghiêm trọng,[57] sau khi chết. Một số người, cụ thể là phái Bắc Tông (Uttarapathakas ) cho rằng ngay cả tai ương không cố ý của những tai hoạ như vậy sẽ kèm theo sự trừng phạt trực tiếp sau khi chết. Liên quan đến họ Sakavadin hỏi: “Ngay cả khi không có ý phạm phải hay sao?”phái đối nghịch đồng ý tán thành vì đó là quan điểm của (phái đối nghịch)

“Nếu tôi tình cờ sát sanh thì sao?.”v.v… được nói tới để chứng minh cho phái đối nghịch thấy, những tác nghiệp kèm theo sự trừng phạt trực tiếp chính là những gì liên quan đến cách sống đạo đức. Và nếu như có những ngoại lệ nào đó trong trường hợp hành vi đó được thực hiện một cách không cố ý, thì những hành vi còn lại như sát sanh v.v… cũng có thể phạm phải một cách không cố ý. Những điều khác nên được hiểu theo kinh văn ghi trong Kinh Phật.

“Phải chăng không khi áp dụng vào trường hợp phạm tội giết mẹ?”thì không còn chính xác – một câu hỏi được đặt ra với phái đối nghịch. Sakavadin đồng ý tán thành. Thế trong trường hợp mất mạng khi điều trị y khoa thì sao? v.v… Còn đối với câu hỏi: “Nhưng phải sự kiện không còn nguyên khi mẹ mình bị mất mạng? Sakavadin đồng ý tán thành vì mẹ bị giết do tình cờ mà thôi. Nhưng vì không hiểu như vậy, nên phái đối nghịch đã tỏ lập trường: “Nếu vậy.”v.v… như đã được ghi lại một cách bất cẩn, nên khó lòng thiết lập được quan điểm đó.

Ðây cũng là phương pháp trong trường hợp phạm tội giết cha. v.v..Ṇhưng trong trường hợp Ly giáo thì Sakavadin hỏi: “Phải chăng việc Ly giáo sẽ đem lại hình phạt trực tiếp ngay sao khi chết?”Vì giải thích bất cẩn Lời Ðức Phật dạy, “Kẻ nào giải tán Tăng Ðoàn thì bị phạt lâm vào cảnh khổ hàng thiên niên.[58]”nên phái đối nghịch đã đồng ý tán thành. Còn nữa, đối với câu hỏi “Mọi người đều như vậy hay sao?”(phái đối nghịch) bác bỏ, vì (phái đối nghịch) đang suy tính một người như vậy chắc phải tin rằng mình đang ở phía bên phải; (phái đối nghịch) đồng ý tán thành, trong trường hợp người đó biết bên phải ở phía bên kia.[59] Phương pháp này cũng dùng trong hai câu hỏi liên quan đến người ly giáo đã cố ý cho mình là đúng.

“Phải chăng Ðức Thế Tôn chẳng nói”là đoạn Kinh Phật được trích ra để chứng tỏ rằng, một người ly giáo đã cố ý cho mình là đúng, chắc hẳn hình phạt trực tiếp sẽ xảy đến cho phái đối nghịch ngay sau khi chết. Cũng như trong câu, “Kẻ đó phải gánh chịu tai hoạ, hỏa ngục và khốn nạn.”[60] điều này có ý muốn nói đến kẻ nào không trung thành với Giáo pháp. Nhưng người đó không hiểu ý, nên đã bảo thủ ý kiến của mình. Vì điều này đã được ghi lại một cách bất cẩn, nên khó lòng được công nhận.

Ðiểm tranh luận về lỗi phạm không cố ý kết thúc tại đây.

II. Ðiểm tranh luận: Tuệ giác (Naṇa).

Tuệ giác (nana) có hai loại: Phàm tuệ và Thánh tuệ. Loại phàm tuệ liên quan đến những thành tích đã đạt được, và khi chú ý đến qui trình nghiệp bằng cách thực thi những hành vi bố thí chính đáng. v.v… ; điều thứ hai liên quan đến Chánh Ðạo và Chánh quả. Kiến thức về tuệ giác Chánh Ðạo được học hỏi thông qua phân tích chân đế.[61] Giờ đây một số người, cụ thể là phái Thuyết Nhân Bộ (Hetuvedins), vì không nhận ra sự khác biệt cho rằng chỉ có Kiến-Chánh Ðạo mới chính là Tuệ giác. và những gì còn lại thì không phải; chính vì thế con người bình thường không có tuệ giác. Liên quan đến họ Sakavadin đặt câu hỏi và phái đối nghịch đồng ý tán thành.

“Trí Thông Minh”v.v… cũng được nói đến để chứng tỏ rằng không có tuệ giác. Ðây là điều được giải thích: nếu một người phàm tục không có tuệ giác, họ cũng không có trí thông minh nốt.v.v… nếu người đó có trí thông minh thì cả tuệ giác cũng không nốt. Tại sao vậy? Vì trí thông minh và những gì đại loại như vậy không khác biệt với tuệ giác là bao.

“Sơ đạo tuệ”v.v.. được đề cập đến để chứng tỏ rằng tuệ giác có liên quan đến nhiều thành tích một người đã đạt được. “Phải chăng người đó đang tiến hành đều đặn hay sao.?”v.v… có nghĩa là phải chăng người đó nhận ra Khổ Ðế do nghiệp luân hồi đã thực hiện? Ðiều này chỉ giải thích những Chánh Ðạo tuệ giác siêu phàm mà thôi, chứ không phải tuệ giác siêu phàm đâu.

Ðiểm tranh luận về Tuệ giác kết thúc tại đây.

III. Ðiểm tranh luận: Những lính canh địa ngục (Nirayapāla). [62]

Một số người, cụ thể là phái Andhkas chủ trương rằng nghiệp gây luận phạt nơi địa ngục sẽ Thanh tịnh lính canh địa ngục [63] và không có ai được gọi là người canh cổng địa ngục. Liên quan đến họ Sakavadin đặt câu hỏi, và phái đối nghịch đồng ý tán thành.

“Không có hình phạt trong hoả ngục sao? v.v… là câu hỏi được nêu lên để chứng tỏ cho phái đối nghịch thấy rằng nếu không có kẻ canh gác địa ngục thì cũng không có những phản ứng (hay hình phạt) về hành động của mỗi người.[64] và nếu như có hình phạt thì phải có những người thi hành hình phạt [185].

“Ðiều này có xảy ra trên cõi đời này hay không?”v.v… là điều được nói lên để chính (phái đối nghịch) hiểu được. Ở đây nên hiểu là: chính vì trên cõi đời này tồn tại cả hình phạt và những người thi hành hình phạt đó, thì trong địa ngục cũng như vậy.

Sakavadin đặt câu hỏi: “Ở trong địa ngục cũng xảy ra như vậy hay sao?”Phái đối nghịch đồng ý tán thành.

Phái đối nghịch đã trích đoạn Kinh Phật từ chính học thuyết của mình, “Chẳng phải Vessabhu không phải là vua Quỉ Ðói (peta) sao?”[65] Tuy nhiên Sakavadin công nhận điều đó đã thấy có trong giáo lý của Ðức Phật.

Trong trường hợp này “Vessabhu” có nghĩa là một chư Thiên, còn Vua “Petas” có nghĩa là một vị vua hùng mạnh nơi Cõi Quỉ Ðói (peta) Soma, những gì còn lại đã quá rõ ràng. Ý nghĩa ở đây là: Vessabhu, và những người còn lại không luận phạt ai đã bị sua đuổi khỏi thế gian này, và đến được cõi sau này. nhưng những tác nghiệp do đó mà họ bị đuổi ra khỏi cõi đời này lại thuộc thắng phái đối nghịch và do vậy mà đã phạt họ ở trong chốn hoả ngục. Như vậy công việc tác nghiệp đó đã được giải thích, chứ không phải là thiếu các vị lính canh hỏa ngục.

Về điều này Sakavadin cho biết, “Chẳng phải vậy sao?”Bằng trích một đoạn Kinh Phật, “Hỡi Chư vị Tỳ-khưu, kẻ đó sẽ… ,” v.v… [66]

Ðiểm tranh luận liên quan đến lính canh hoả ngục kết thúc tại đây.

IVÐiểm tranh luận: Súc sinh [nơi cõi bên kia] (Tiracchāna)

Trong số các chư Thiên, cụ thể là Eravana và các con trai của chư Thiên mang hình dạng súc sinh, như thể có kẻ mang hình dạng của con voi, hay con ngựa. Nhưng không có súc sinh nào được tái sanh trong số những kẻ này. Tuy nhiên một số người, cụ thể là phái Andhakas lại cho rằng vì hình dáng này được nhìn thấy rõ ràng vì thế nên[67] súc sinh cũng phải tái sanh nơi các chư Thiên. liên quan đến họ Sakavadin đặt câu hỏi, và phái đối nghịch đồng ý tán thành.

“Phải chăng súc sanh cũng phải tái sanh.”v.v… là câu hỏi được nêu lên để chứng tỏ cho phái đối nghịch thấy, nếu súc sanh cũng phải tái sanh trong số các chư Thiên thì chư Thiên cũng có thể được tái sanh trong số các súc sanh vậy.

“Phải chăng cả những con sâu bướm… ? v.v… là câu hỏi được nêu lên để chỉ cho thấy những thụ tạo đó theo như phái đối nghịch không thấy được.

Ðối với câu hỏi: “Eravana có mặt ở đó không?” Sakavadin đồng ý tán thành vì người ta thấy phái đối nghịch ở trong địa ngục. và không phải vì nó phải tái sanh trong đó như là một súc sanh.

“Thế còn chuồng voi thì sao?” v.v… là câu hỏi được nêu lên để chứng tỏ rằng, nếu những con voi có mặt trong địa ngục, v.v… . chắc phái đối nghịch cũng phải có cả chuồng nhốt voi nữa.v.v… Ở đây “tấm bìa cứng” có nghĩa là [186] một miếng gỗ chứa đầy cỏ. “Người huấn luyện” có nghĩa là người huấn luyện voi và những người khác có thể biết được nhiều mưu mô trong việc huấn luyện. “Người đầu bếp” có nghĩa là những ai nấu đồ ăn cho voi ăn, v.v…

[Sakavadin] bác bỏ: “Chẳng phải vậy đâu” vì ông ta không chấp nhận có những sự việc như vậy xảy ra.

Ðiểm tranh luận về súc sanh kết thúc tại đây.

V. Ðiểm tranh luận: Chánh Ðạo. (Nagga)

Vì cả trong đoạn Kinh Phật sau, “Cho đến giờ này đối với kẻ nào đã được Thanh tịnh trong tác nghiệp thân… tác mệnh trược”[68]v.v… và cũng vì [ba yếu tố không được kể đến -] đó là chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mệnh không được coi là tâm.[69] Một số người, cụ thể là phái Di-sa-tắc bộ cho rằng xét theo những từ chung chung Chánh Ðạo chủ gồm có năm điều mà thôi. Liên quan đến họ sakavadin hỏi: “Phải chăng Chánh Ðạo chỉ gồm có năm điều thôi sao?”Phái đối nghịch đồng ý tán thành.

“Phải chăng Chánh Ngữ là một yếu tố cũng thuộc Chánh Ðạo, nhưng không phải là Chánh Ðạo?”v.v.. là câu hỏi được nêu lên trong các học thuyết của nhiều người. Nơi học thuyết của nhiều người khác, chánh ngữ và những điều đại loại như vậy được chấp nhận như là những yếu tố Chánh Ðạo. đây là vật thể[70] thể chất được giải thích không phải là Chánh Ðạo.

“Phải chăng Chánh Kiến là yếu tố thuộc chánh đạo?” v.v… là câu hỏi được nêu lên để chứng tỏ chẳng có cái gọi là “không chánh đạo”nằm trong chánh đạo.

Trong Kinh Phật có ghi, “Kẻ nào trước đó đã có lòng trong trắng. nơi thân tác nghiệp, chánh ngữ và tác mệnh” Ðây là điều chứng tỏ những người có khả năng thể hiện Chánh Ðạo chỉ gồm những ai có cuộc sống trong trắng chứ không phải những người khác. “Kẻ nào có lòng trong sạch thể hiện ra trong thân tác nghiêp, chánh ngữ và chánh mệnh.”Ðiều này chứng tỏ mọi người phải đạt đến lòng trong trắng nơi Chánh Ðạo, chứ không muốn chứng tỏ sự trong trắng của Chánh Ðạo đâu, không kể ba loại vừa nêu vẫn còn năm yếu tố nữa. Chính vì thế Ðức Thế Tôn nói rằng: “Ðối với kẻ đó. ṭhì Bát chánh đạo thánh thiện này sẽ được tu luyện đạt đến hoàn hảo”[71]

Ðoạn Kinh Phật được trích trên do chính Sakavadin giải thích.[72]

Ðiểm tranh luận về Chánh Ðạo kết thúc tại đây.

VI. Ðiểm tranh luận: Tuệ giác (Nāṇa)

Liên quan đến “mười hai yếu tố cấu thành” trong bài giảng “Quay Bánh Xe Giáo pháp”[73] một số người, cụ thể là [187] phái Pubbaseliyas và Aparaseliyas cho rằng, kiến thức dựa trên mười hai điều trên là kiến thức siêu nhiên. Liên quan đến họ Sakavadin đặt câu hỏi, và phái đối nghịch đồng ý tán thành.

“Phải chăng chỉ có mười hai thôi sao?” v.v… được đặt thành câu hỏi để chứng tỏ cho phái đối nghịch thấy rằng, nếu tuệ giác dựa trên mười hai điều đó thì sẽ có tới mười hai loại Tuệ Chánh Ðạo. (Phái đối nghịch) bỏ, vì như vậy là chối bỏ độc nhất tính (của chánh đạo); rồi (phái đối nghịch) lại đồng ý tán thành, vì có nhiều loại tuệ giác khác nhau. — như tuệ giác thiên nhiên, nhu cầu cần thực hiện, và cần được làm. — liên quan đến mỗi Chân Ðế.[74] Ðây cũng là phương pháp được áp dụng trong câu, “Phải chăng có mười hai Chánh Ðạo đối với Ðấng Nhập Lưu.” v.v…

Câu Kinh Phật, “Phải chăng Ðức Thế Tôn chẳng nói rằng”v.v… chỉ nhằm giải thích tuệ giác rất đa dạng, trước sau chứ không phải chỉ có mười hai tuệ giác nơi bậc Thánh đức.

Chính vì thế điều này chưa thể đi đến kết luận chung cuộc!

Ðiểm tranh luận về tuệ giác kết thúc tại đây.

Ðến đây cũng kết thúc luôn chương thứ tư trong năm mươi chương.