Duy thức học

Duy thức học

Hải 15

LỜI CỦA DỊCH GIẢ

Các Kinh sách trong Đạo Phật có chia làm mười tôn, mà Duy Thức Tôn là một.

Duy Thức Tôn là  một môn học phân tích về hành tướng của tâm lý, hay nhất mà cũng là khó nhất. Khó vì rất nhiều danh từ lạ và phân tích hành tướng của tâm lý rất tinh tế, hơn nữa nó nói lên những việc mà chúng ta chưa quen nghe đến. Ngoài ra nó còn khó vì văn chương khúc chiết, lời lẻ quá tắt gọn, có những câu không biết bao nhiêu nghĩa. Vì vậy mà người học khó thâm nhập, xưa nay các nhà nghiên cứu ai cũng lắc đầu!

Về môn Duy Thức này, chúng tôi dịch ra đây, không phải vì độc giả, mà dành riêng cho những hàng học giả. Nghĩa là: phải người cố tâm nghiên cứu tìm học mới hiểu được môn này, chớ như người chỉ đọc suông qua thì khó mà lãnh hội.

Các sách vở về Duy thức rất nhiều, muốn dễ dàng cho học giả, cố nhiên trước hết phải từ cửa ngõ rồi mới vào nhà; từ nơi phương tiện mới đến chỗ chân thật. Như lời Cổ nhân dạy: “Muốn đi xa phải do nơi gần, muốn lên cao phải từ nơi thấp.”

Vì thế, nên trước hết chúng tôi dịch quyển Duy thức Phương Tiện Đàm của ông Đường Đại Viên, là một nhà học giả ở Trung Hoa đã nhiều năm nghiên cứu uyên thâm về Phật pháp. Oâng có biên ra nhiều loại sách về Duy thức, mà Duy thức Phương Tiện Đàm là một quyển sách rất dễ hiểu cho người mới học. Vì văn chương bình dị, lối trình bày có lớp lang và khoa học, lại dùng những tỷ dụ thông thường rất đại chúng.

Song chúng ta cũng nên nhớ: Duy thức học là một môn học rất khó. Oâng  đường Đại Viên vì muốn cho người dễ hiểu, nên mới phương tiện trình bày. Đã nói “phương tiện” thì chúng ta không nên chấp là chơn thật.

Chúng tôi dịch loại Duy thức này vì muốn cho người dễ hiểu, nên không hoàn tòan dịch sát theo văn chữ  Hán-nghĩa là có đoạn chúng tôi dịch  đúng theo văn, mà cũng có đoạn dịch theo ý, cốt yếu làm sao cho xuôi thuận theo văn chữ Việt, để người đọc được dể hiểu mà thôi.

Có chỗ chúng tôi thêm vào cho rõ nghĩa, mà cũng có đoạn chúng tôi phải tỉa bớt đi cho gọn, xin độc giả chớ chấp theo nguyên bản mà bình phẩm sự phiên dịch của chúng tôi.

Mong chư độc giả cùng chúng tôi đồng hiểu Duy Thức Tướng, đồng nhập Duy Thức Tánh, ngõ hầu cải hoán tự tâm, cải hoán hoàn cảnh, chuyển Bát thức thành Tứ trí, đê trở thành cảnh giới của bậc Đại giác.

Phật Học Đường Nam Việt

Ngày Kỷ niệm Phật A Di Đà (1955)

Dịch giả: THÍCH THIỆN HOA

LỜI NGUYÊN TỰ

Sau khi Phật diệt độ khoảng chím trăm năm, có ngài Vô Trước Đại sĩ ra đời tại Trung Aán Độ, tạo ra bộ Nhiếp Đại Thừa luậnv.v…dùng nghĩa lý Duy thức để xiển dương giáo pháp Đại thừa.

Em của ngài tên là Thế Thân, lại làm lời thích luận (giải thích lại các luận của Ngài) và sáng tác Duy thức Nhị Thập Tụng cùng Duy Thức Tam Thập Tụngv.v…Từ đây Duy thức học mới được đặc biệt lập riêng thành một tôn.

Tiếp theo sau có mười vị Đại luận sư, trước sau tiếp tục giải thích bộ Duy thức Tam Thập Tụng  của Ngài Thế Thân, để phá tà giáo, dựng lập chánh lý. Duy có bộ của ngài Hộ Pháp giải thích, thì hoàn bị hơn cả. Từ đây về sau  môn học Duy thức rất hoàn thành.

Đến đời đường, niên hiệu Trinh Quán năm thứ ba, có ngài Huyền Trang Pháp sư lưu học tại Aán Độ, thụ giáo  với Tổ Huyền Giám, rất tinh thông về môn Duy thức học này.

Sau khi trở về Trung Hoa, ngài Huyền Trang lượm lặt những tinh ba, yếu nghĩa, của mười vị Đại luận sư, thích giải bộ Duy thức Tam Thập Tụng, chung làm một bộ, lại dịch văn Phạn ra văn Hán, lấy danh đề là Thành Duy Thức luận (10 quyển).

Đệ tử lớn của ngài Huyền Trang là ngài Khuy Cơ Pháp sư lại làm bộ Thành Duy thức luận thuật ký, để giải rộng lại những nghĩa trong bộ Thành Duy thức (của Ngài Huyền Trang).

Đến sau có ngài Huệ Chiểu và Trí Châu lần lượt nối nhau phát huy môn học này,   này. Song từ đây về sau, lại dần dần suy đồi chí thậm! Cho đến rốt đời nhà Nguyên, thì các sách vở Duy thức bị tản lạc mất hết, nên về môn học này phải mất tịch bặt tăm!

Đến khi đường biển từ Trung Hoa qua Nhật được lưu thông trở lại, thì người ta mới tìm thỉnh các loại sách về Duy thức học ở Nhật Bản đem về, từ đó việc nghiên cứu Duy thức trở lại nghiên cứu rất thịnh hành, cho đến muốn hơn cả đời Lý Đường.

Nhưng hiềm vì văn nghĩa của Duy thức rất khó, người sơ học không biết do đâu để hỏi han bờ bến; kẻ thức giả thấy thế rất thương tâm!

Ở sông Tương chúng ta, có ông Đường Đại Viên cư sĩ, người đã nhiều năm dày công nghiên cứu về môn học này, nhân cảm thương cái tình tệ ấy, nên mới viết ra quyển Duy  thức Phương Tiện Đàm và giao cho Cư  Sĩ Lâm để xuất bản lưu thông.

Oâng Chứng  Tánh cư sĩ đem đưa cho tôi xem và cậy tôi viết bài tựa. Tôi đọc qua, rất mừng! Vì thấy lời lẽ rõ ràng, lối lập ngôn hay khéo, đáng làm một quyển sách quý cjo người mới vào cửa Duy thức.

Nhân đây, tôi viết đôi lời để thưa với các bạn hữu chí.

Thượng Hải, ngày 27-10 Dân quốc năm thứ 13

Cư sĩ  TỊCH QUANG

LỜI TỰA

CỦA ÔNG PHẠM CỖ NÔNG KHI IN LẠI QUYỂN

DUY THỨC PHƯƠNG TIỆN ĐÀM

Có người khách đến hỏi tôi: “Trong Phật học của ông thường nêu hai câu quan trọng là: “Ba cõi Duy Tâm, muôn pháp Duy thức (1)”.. Riêng tôi hiểu hai câu này, so theo nhà Khoa học thì nói là “Cái tác dụng của tâm lý”. Chẳng biết có đúng như vậy không?.

Tôi trả lời: “Đúng như thế! Nhà Khoa học nói: Cái tác dụng của tâm lý. Tức là bên Phật học nói: Duy tâm hay Duy thức vậy.”

Người khách hỏi tiếp: “Nếu như vậy, thì tôi rất nghi. Bên Khoa học nói: Cái tác dụng của tâm lý, là hoàn toàn chỉ những việc hư huyễn không thật; như người thấy bóng vành chén mà tưởng lầm con rắn (2). Còn ông nói: Ba cõi Duy tâm. Muôn pháp Duy thức . Như vậy các sự vật hiện thật trong thế gian này, cũng đều là cái tác dụng của tâm lý tạo ra, không thật cả sao? Nếu Tâm thức quả thật có cái tác dụng biến hóa  như thế, thì tôi nay muốn dùng sức của Tâm thức, tưởng cái chén hiện tiền ở trước mắt đây biến thành quyển sách, tại sao không được ư?”.

Tôi đáp : “Oâng muốn dùng cái sức của Tâm thức nào, khiến cho cái chén biến thành quyển sách? Oâng nên biết: Cái chén ở trước mặt ông cũng là do Tâm thức tạo thành vậy.”

Nhưng Tâm thức tạo thành cái chén này đâu phải một, mà cả Tám thức. Như: 1. Nhờ có Nhãn thức (cái biết của con mắt) mới tạo được hình sắc của cái chén. 2. Nhờ có Nhĩ thức (cái biết của lỗ tai) mới tạo được cái tiếng của chén. 3. Phải có Tỹ thức (cái biết của mũi) mới tạo được cái mùi của chén. 4. Phải có Thiệt thức (cái biết của lưỡi) mới tạo cái vị của chén. 5. Phải có Thân thức (cái biết của thân) mới có thể tạo cái xúc trần của chén là: trơn, nhám, nặng, nhẹ v.v… 6. Phải có Ý thức mới tạo được pháp trần của chén là: tốt xấu, ưa ghét v.v… 7. Lại phải có Ý thức thứ  Bảy mới phân biệt cái này thuộc của mình hay của người. 8. Lại phải có Tàng thức thứ Tám, mới tạo được bản chất của cái chén (theo Khoa học gọi là nguyên chất). Phải đủ bao nhiêu loại Tâm thức này, mới tạo ra được sự vật.

Vả lại, có những vật chỉ một mình ông tạo ra được, có những vật phải do một số hữu tình chung lại mới tạo được. Chẳng những phải đủ bao nhiêu Tâm thức này, mà còn phải trải qua một thời gian lâu xa, mới có thể tạo thành được.

Những Tâm thức tạo ra cái chén này, chủng loại nó đã nhiều và cái dụng lực của nó cũng phải lâu xa như vậy; thế mà hôm nay ông đem cái dụng lực của một món Ý thức, lại trong thời gian giây phút, mà muốn cho cái chén biến thành quyển sách thì sao được?

Oâng khách nghe xong ngạc nhiên hỏi: “ Cái tác dụng của tâm lý bên trong còn phức tạp như thế ư? Vậy thì bên khoa học nói về tâm lý, không thể bì kịp chỗ sâu xa của Phật học. Song tôi còn nghi: Nếu vậy thì những vật hiện thực trong thế gian đây cũng đều là hư huyễn cả và đồng do tác dụng của tâm lý biến ra, không có một vật gì thật hết sao?”

Tôi đáp: “Chính thế! Vậy ông không nghe trong kinh Kim Cang Phật nói: “Tất cả  những cái gì có tạo tác ra, đều như chiêm bao, như huyễn thuật, như bọt nước và như bóng dáng hay sao?”

Oâng chỉ biết cái tác dụng của một Tâm thức (Ý thức) là hư giả, chớ ông chưa biết cái tác dụng của toàn thể Tâm thức (8 thức) cũng đều hư giả, nên ông chỉ nhận một bộ phận của Ý thức là hư huyễn, mà chấp các bộ phận khác là chơn thật. Nếu ông hiểu thấu được cái tác dụng của toàn thể Tâm thức (của 8 thức), thì ông sẽ biết tất cả vạn vật đều hư huyễn, y như cái tác dụng của một bộ phận Ý thức kia không khác vậy.

Bởi vì người đời đang ngủ mê trong giấc mộng, hôm nay mới thức được giấc mộng con, chớ đâu biết mình vẫn còn ở trong vòng sanh tử đại mộng. Cũng như  người đi thuyền  chỉ biết mình động, không dè thuyền động; trông thấy bờ chạy, mà không ngờ chính là thuyền đi.

Trước khi từ tạ ra về, người khách nói rằng: “Nay tôi mới biết tên Phật học nói về tâm lýthật là hoàn toàn; bên Khoa học chỉ biết được một phần ít thôi. Vậy thì tôi xin sẽ theo ông tìm học Phật pháp.”

Tôi trả lời: “ Nếu ông thật muốn học Phật, tôi xin giới thiệu: quyển Duy thức Phương Tiện Đàm của ông cư sĩ Đường Đại Viên xuất bản đã lâu, vừa được cải chính lại rất hoàn mỹ và in cũng gần xong. Vậy ông nên thỉnh xem sẽ được cái cửa để đi vào Duy thức học.”

Người khách đáp: “Vâng.”

Khi khách về rồi, tôi liền ghi lại câu chuyện này, để dùng thay thế lời tựa.

Trung Hoa Dân Quốc, năm thứ 20 tháng giêng

Viết tại nhà biên tập của Phật học thư cuộc

PHẠM CỖ NÔNG

CHÚ THÍCH

Đại ý trong bài tựa này: ông khách chỉ hiểu có một cái  Ý thức (đệ lục) mà thôi, chớ không biết cả Tám thức; nên ông chấp sự tưởng tượng của ý thức là giả, còn bao nhiêu sự vật là thật. Đến khi nghe ông Phạm Cỗ Nông nói: Thức có tám thức và tất cả sự vật hiện tiền cũng đều do tám thức tạo ra, không thật. Cho nên ông khách mới ngạc nhiên, vì thấy trong Phật học nói về tâm lý sâu xa và rộng rãi quá, không phải như bên khoa học chỉ biết có một cái ý thức mà thôi, nên ông phát tâm để tìm học Duy thức.

(1)   Ba cõi Duy tâm muôn pháp Duy thức.

Ba cõi là: cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc. Muôn pháp là chỉ cho tất cả sự vật hữu hình và vô hình. Nghĩa là tất cả sự vật hữu hình và vô hình ở trong ba cõi, đều không thật có, chỉ do Tâm thức biến hiện mà thôi.

(2)   Người thấy bóng vành chén mà tưởng lầm là rắn.

Thưở xưa về đời Tần có ông Lạc Quảng, mời bạn đến nhà uống rượu, vì ban đêm thắp đèn lờ mờ, cái vành chén chiếu bóng vào chén rượu, người bạn lầm tưởng là con rắn bò. Về sau cứ nghĩ là ông Lạc Quảng thuốc mình, nên tự phát bệnh. Sau khi được cải chính, ông bạn biết đó là do tưởng lầm, nên liền hết bệnh.

Ý nói việc hư huyễn không thật có, chỉ do tâm tưởng tượng mà thôi.

BÀI THỨ NHỨT

DUY THỨC PHƯƠNG TIỆN ĐÀM

QUYỂN THƯỢNG

Tác giả: ĐƯỜNG ĐẠI VIÊN

Dịch giả: THÍCH THIỆN HOA

I. THUẬT LẠI BẢN NGUYỆN TẠO LUẬN

Người đời khi xem đến Duy thức học, thì luôn luôn lấy làm khó khăn; vì danh từ và hành tướng của Thức quá nhiều,không thể nhớ hết; lời lẽ và nghĩa lý lại sâu xa, rất khó tìm hiểu. Cũng có người cố gắng đọc, nhưng đọc một cách rất khô khan, không thú vị; chỉ đọc nửa chừng rồi bỏ dở, không xem hết quyển được.

Người học Phật  phần nhiều tránh nơi khó, tìm chổ dễ; chỉ ưa nói suông mà không chuộng đến thực hành. Bởi thế nên kẻ thế Nho chê là yểm thế, các nhà Vật chất chê là tiêu cực.

Có những người hocï Phật, không hiểu ý Tổ sư nói(1) lại ra sanh ra chấp đoạn diệt: cho tất cả mọi sự việc là không, rồi mọi việc tu hành đều bỏ phế.

Thế nên người học Phật không hiểu Duy thức  nên Phật pháp suy đồi; kẻ thế tục vì không học Duy thức nên khinh báng Phật; Quốc gia vì không hiểu Duy thức nên rối loạn; nhơn loại vì không học Duy thức mới đảo điên.

Duy thức là một môn học rất quan trọng như thế, nhưng muốn truyền bá, lại không biết làm sao! Tôi vì thương cái tình tệ ấy, phát nguyện cứu đời, nên viết ra quyển “Duy thức Phương Tiện Đàm” này, mong cho kẻ trí, người độn khi xem đến, đều biết “muôn pháp Duy thức”, hiểu đặng nghĩa lý Chơn không rốt ráo của Phật Đà. Mọi người hăng hái vui đạo, chăm chăm không biết mõi, lòng người lần hồi âm thầm cải đổi ( cải ác lại thiện); phong tục chẳng cần sửa đổi mà được tốt đẹp, quốc gia không trị phạt mà vẫn được thạnh trị; những tai hoạ lần tiêu, các điềm lành mỗi ngày thêm đến, bậc Thánh trí thạnh hành, chúng Ma vương bặt tích, cả thế giới được hoà bình, cốt yếu là do mỗi người đều hiểu lý Duy thức. Cho nên tôi vui mừng và kính cẩn, trước hết nói một bài tụng để cầu Tam Bảo gia hộ:

Cúi đầu lạy Phật và Bồ tát (2)

Là người đã chứng Duy thức tánh.

Nguyện dùng những lời phương tiện này,

Giải nói nghĩa rốt ráo của Phật.

Lạy Ngài buông tỏa hào quang sáng,

Chiếu phá tối tăm trong thế gian.

Chúng ma nép phục, tai họa tiêu,

Tất cả đồng ở nước  An Lạc.

(1)     Tổ sư nói: “ Tất cả các pháp không thật có, chỉ do thức biến hiện” là Tổ muốn phá trừ các mê lầm chấp thật của chúng sanh. Vì chúng sanh chấp các pháp thật có, nên mới say mê tham luyến, rồi tạo ra các điều tội lỗi. Người học Phật không hiểu ý Tổ, lại sanh ra chấp đoạn diệt: cho không có nhân quả tội phước v.v…

(2)     Câu này trong văn chữ Hán  “Khể thủ mãn phần tịnh”. Chữ  “mãn” là mãn thanh tịnh, tức là Phật. Chữ  “phần tịnh” là phần thanh tịnh tức là Bồ tát.

II. GIẢI THÍCH TÊN “DUY THỨC”

Thức là gì? Sao gọi là Thức? –Đây là câu hỏi của những người chưa hiểu Duy thức học. Nay xin trả lời vắn tắt: Có một động lực (tác dụng) vô hình, nói lớn thì nó trùm cả vũ trụ, còn nói nhỏ thì cũng không chỉ nhỏ bằng; nó có công năng nhận thức phân biệt các sự vật sai khác, nên kêu là Thức. Nếu trong vũ trụ không có cái động lực (tác dụng) này, thì cái gì làm giềng mối chủ trương cho muôn sự  muôn vật. Vậy chúng ta hãy chín chắn suy xét.

HỎI: Sao gọi là “Duy thức”?

ĐÁP:Tất cả sự vật trong vũ trụ này vẫn không có nhứt định là cái gì hay vật gì cả; chỉ do “Thức” này nó có tác dụng, hay nhận thức phân biệt các vật như thế này hoặc như thế kia, in tuồng thật có. Thật ra muôn sự muôn vật đều do Tâm thức biến hiện, chỉ có giả tướng mà thôi. Cũng như người đi ban đêm, thấy cái bóng của mình mà nghi là quỷ v.v…Thế nên phải biết: tất cả sự vật trong vũ trụ nàyđều không thật, duy có Thức mà thôi, cho nên gọi là Duy thức. Nói chữ “Duy” nghĩa là ngoài Thức ra, không co vậtù gì khác nữa.

III. THÀNH LẬP DUY THỨC  HỌC

Người đời thấy núi sông đất nước, người và vật, đều cho là vật hiện thật, có thể thấy và dùng được. Hôm nay nghe nói: “ không thật có, chỉ do Thức biến hiện, cũng như bóng dáng v.v…” thì họ quyết định không tin. Vì muốn cho họ hết nghi ngờ, nên phải cùng người nghiên cứu, trình bày các lý do rõ ràng, thì họ mới chịu tin, như thế gọi là Duy thức học. Chữ “Thức” này là “hiểu biết phân biệt”; hoặc nói gọn lại là “hiểu biết”. Tất cả sự vật trong thế gian, đều là những vật hiểu biết; còn cái “hiểu biết phân biệt” đó lá Thức.

Thức nó không có hình thể, chỉ lấy các vật  có hình sắc trong vũ trụ do Thức biến ra làm thể của nó. Nay muốn nói đến  “Thức”, thì phải căn cứ nơi chúng sanh là vật hữu hình, do Thức biến ra đó, để chỉ rõ cái tác dụng của Thức.

Song chúng sanh có sáu loài không đồng, nay chỉ nương ở nơi loài người để chỉ cái “Thức” thì dễ rõ hơn.

BÀI THỨ HAI

THÀNH LẬP TÁM THỨC

(CÓ BỐN ĐOẠN)

I. THÀNH LẬP NĂM THỨC TRƯỚC

Ai cũng đều biết: mỗi người đều có mắt, tai, mũi, lưỡi và thân. Theo nhà Duy thức  gọi là năm căn thô phù (ở ngoài); nó không thể phát sanh ra Thức (cáibiết) được. Trong năm Căn phô thù, lại có hàm chứa năm Căn tinh tế; năm Căn này mới có thể phát sanh ra Thức. Khi năm căn đối với năm trần (sắc, thinh, hương, vị và xúc) thì phát sanh ra năm thức (năm cái biết), chung lại gọi là 15 giới.

Như khi con mắt đối với sắc trần sanh ra hiểu biết cảnh vật, thì gọi là Nhãn thức. Khi lỗ tai đối với thinh trần  sanh ra hiểu biết tiếng tăm, thì gọi là Nhĩ thức. Khi mũi đối với hương trần sanh ra hiểu biết mùi, thì gọi là Tỹ thức. Khi lưỡi đối với vị trần, sanh phân biệt vị, thì gọi là Thiệt thức. Khi thân đối với xúc trần, sanh ra phân biệt: to, nhỏ, cứng, mềm v.v… thì gọi là Thân thức.

Năm món: sắc, thinh, hương, vị, xúc vì đều có hình chất, nên kêu là “năm trần”; hiệp với năm căn trên, chung gọi là “sắc pháp”. Còn năm Thức không có hìmh chất, chỉ nương theo năm căn khởi ra phân biệt  nên gọi là năm Thức, cũng gọi là Tâm pháp.

II. THÀNH LẬP THỨC THỨ SÁU LÀ Ý THỨC

Năm Thức trước chỉ phân biệt được những cảnh trong phạm vi của nó, chứ không thể vượt ngoài phạm vi của mình, để thay thế cho Thức khác, phân biệt được cảnh vật khác. Cũng như con “mắt” không thể thay thế cho “tai” nghe tiếng đựơc; “tai” không thể thay thế cho “mắt” thấy cảnh được v.v… Chỉ có một cái  “Thức”, không cần ở nơi mắt, tai, mũi, lưỡi và thân, mà thường giúp cho năm chỗ ấy phát sanh hiểu biết. Hoặc có khi năm Thức trước không có phân biệt, mà “Thức” này có thể thay thế cho năm Thức trước khởi ra phân biệt, đó là công dụng của “Ý thức”.

Như trong lúc mắt xem hoa nếu không để ý, thì thấy hoa không rõ; đến chừng để ý, lúc bấy giờ cái thấy mới được rõ ràng. Hay trong lúc nghe tiếng mà không để ý, nên nghe không rõ; đến khi để ý, thì cái nghe đó mới chắc chắn. Đây là những bằng chứng khi “Ý thức” giúp với năm Thức, thời làm cho năm  Thức hiểu biết được rõ ràng.

Ý thức đối với tất cả pháp, đã có công năng phân biệt như thế, thì quyết phải có “Ý căn”. Khi Ý căn đối với pháp trần thời sanh Ý thức; hiệp với năm căn, năm trần và năm Thức trước, cộng thành mười tám giới.

18 giới      1.Nhãn căn      đối với   Sắc trần        sanh ra    Nhãn thức

2.Nhĩ căn        đối với   Thinh trần     sanh ra    Nhĩ thức

3.Tỹ căn          đối với   Hương trần   sanh ra    Tỹ thức

4.Thiệt căn     đối với    Vị trần          sanh ra    Thiệt thức

5.Thân căn      đối với   Xúc trần       sanh ra    Thân thức

6.Ý căn           đối với    Pháp trần     sanh ra    Ý thức

(tâm pháp)

6 căn                        6 trần                           6 thức

Sắc pháp                                                Tâm pháp

III. THÀNH LẬP THỨC THỨ BẢY MẠT NA

“Ý thức”tuy không hình tướng, mà cái tác dụng của nó rất mạnh và phức tạp; cho nên nhà Duy thức đối với nội dung của Thức này, lại chín chắn khảo sát cái bản tánh và hành tướng của nó có ba bộ phận không đồng nhau, cho nên thuận theo thứ lớp sắp: Cái thứ sáu ở ngoài tên là “Ý thức”, cái thứ bảy ở giữa tên là “Mạt Na thức” và cái thứ tám ở trong tên là “A lại da thức”.

Tại sao biết chắc ở ngoài là “Ý thức” thứ sáu, ở giữa là Mạt Na thức thứ bảy và trong là A lại da thức thứ tám?  Về vấn đề này phải nghiên cứu rất nhiều, không thể dùng một vài lời mà giải thích xong được; nay tôi phương tiện trình bày sơ lược.

Thông thường người đời nói “Tâm” là phần nhiều chỉ cho “Ý thức”. Nhưng xét cái “Ý thức” có gián đoạn. Nghĩa là có khi sanh khởi và có khi không. Vậy thì ngoài cái Ý thức này, quyết định phải có một bộ phận không gián đoạn. Nếu không có bộ phận này, thì những người, khi Ý thức của họ bị gián đoạn không sanh, họ phải như người tắt thở, chết. Người tắt thở chết rồi không thể sống trở lại, thì Ý thức khi bị gián đoạn làm sao lại tiếp tục sanh khởi lại được? Vì thế nên biết khi Ý thức gián đoạn, quyết định phải còn một bộ phận không gián đoạn.

HỎI: Làm sao thấy được bộ phận này?

ĐÁP: Do thấy cái “tác dụng” của nó. Không luận một loài vật nào, luôn luôn cũng đều chấp có “Ta”. Như chấp: thân ta, nhà ta, nước ta và tánh mạng ta v.v… Cho đến những người tự  sát hay gần chết, mà vẫn còn nói “Ta liều một phen chết”, hay “Ta sắp chết” v.v…không khi nàohọ rời “cái ta”. Như thế đủ chứng tỏ người  đời bất luận lúc nào hay chỗ nào cũng đền chấp có “Ta”.

Vậy thì cái gì chấp “Ta”?  (cái năng chấp) – Năm Thức trước và Ý thức (thức thứ sáu) vì có khi bị gián đoạn, nên không thể hằng thời chấp ta được. Vậy quyết định phải có cái thứ bảy hằng thời chấp “Ta” là Thức “Mạt na”, Trung Hoa dịch là “Ý”.

HỎI: Tại sao Thức thứ sáu đã gọi là “Ý”, mà Thức thứ bảy cũng gọi là “Ý”, khác nhau chỗ nào?

ĐÁP: Rất khác. Thức thứ sáu hay gọi là “Ý”, song chú trọng ở nơi thức, nên gọi là “Ý thức”, (cái thức của ý căn, cũng như cái thức của nhãn căn). Còn Thức thứ bảy mà gọi là “Ý” là chú trọng về phương diện suy nghĩ lo lắng của Ý, cho nên chỉ gọi là “Ý” mà không gọi là “Ý thức”. (Nghĩa là: cái thứ sáu gọi là “Ý thức”, còn cái thứ bảy chỉ gọi là “Ý”). Vì sợ người lầm lộn, cho nên Thức thứ bảy này mà dịch giả để nguyên văn chữ Phạn là “Mạt na”.

Lại nữa, năm Thức trước đều có căn, thì Thức thứ sáu cũng phải có căn. Vậy Thức Mạt na này là “căn” của Thức thứ sáu, cho nên cũng gọi là “Ý căn”. ( Thức thứ sáu thì gọi là “Ý thức”, còn Thức thứ bảy gọi là “Ý” hay “Ý căn” hoặc gọi là “Mạt na thức”).

IV. THÀNH LẬP THỨC THỨ TÁM LÀ “A LẠI DA THỨC”

Chúng ta nên suy nghĩ kỹ: đã chấp có “ta”, tất nhiên phải có cái “chấp” (năng chấp) và cái “bị chấp” (sở chấp). Cũng như nói: “cầm viết”, thì phải có cái “tay” cầm và “cây viết” bị cầm; nếu thiếu một thì không thành nghĩa “cầm”.  Cái “chấp” (năng chấp) đã là Thức thứ bảy Mạt na, thì cáibị chấp quyết định không phải sáu Thức trước, vì sáu Thức trước đều có gián đoạn. Cái “chấp ta” (năng chấp) bất luận chỗ nào hay lúc nào cũng đều có, không bao giờ gián đoạn, thì cái “ta” bị chấp cũng phải không gián đọan. Bởi thế nên cái “ta” bị chấp, quyết định chỉ có Thức thứ tám, tức là A lại da. Vì Thức này lúc nào cũng có, không hề gián đoạn. Trung Hoa dịch là “Tàng thức” (cái thức chứa).

A lại da mà gọi là “Tàng thức”, vì nó hàm chứa hột giống của tất cả pháp. Hột giống của bảy Thức và hột giống của muôn sự muôn vật, đều từ nơi Thức này mà phát sinh. Nếu không có Thức này chứa đựng, thời bảy Thức trước  không thành; cho nên nhà Duy thức cũng gọi Thức này là “ Căn bản Thức”.

BÀI THỨ BA

NÓI LƯỢC CÁC TÂM SỞ

(CÓ NĂM ĐOẠN)

I. ĐỊNH RÕ TÊN VÀ NGHĨA CÁC TÂM SỞ

Tám Thức đều co ùoai lực rất tự  tại và tự chủ, cũng như ông vua, không có phục tùng một ai cả; cho nên gọi là Tâm vương. Oâng vua tuy có thể ban ra các hiệu lệnh, nhưng phải có các quan, để thi hành các hiệu lệnh ấy, thì mới trị an được. Tâm vương cũng thế, phải có những Tâm sở lệ thuộc về Tâm vương, vâng mạng lệnh của Tâm vương làm tất cả việc, nên gọi là Tâm sở (sở hữu của Tâm vương). Tâm sở với Tâm vương rất hòa hợp nhau và đều không rời “Thức”. Cho nên gọi: “Duy thức” tức là bao trùm cả Tâm vương và Tâm sở.

II. SỰ LIÊN QUAN VÀ HỆ THUỘC GIỮA TÂM VƯƠNG VÀ TÂM SỞ

Tâm vương tuy có quyền làm chủ và giữ gìn, mà không thể tự mình tạo nghiệp được nên phải có các Tâm sở. Nhưng làm chủ nếu không chơn chính, cũng như trên vua hôn quân thì ở dưới quần thần là các Tâm sở, cố nhiên phải làm loạn. Chính như người đời vì Tâm mình không tự  chủ, nên bị tham, sân, si nổi lên, tạo ra các nghiệp trộm cướp, sát hạiv.v… không thể kềm chế được.

Nếu Tâm sở không vâng mạng lịnh của Tâm vương, trái lại còn làm phản loạn thì Tâm vương phải bị nguy hiểm. Như người đời nói: “Vì tham tài lợi, nên trí khôn mờ”. Nghĩa là nói: Do Tâm sở “tham” tạo nghiệp, làm cho trí khôn của Tâm vương phải bị mờ. Hay có chỗ gọi: “Tâm bị sai khiến” tức là chỉ cho Tâm sở tạo nghiệp, sai khiến Tâm vương vậy.

Thế nên phải biết: Tâm sở cùng Tâm vương rất quan hệ mật thiết. Tuy có thượng hạ phân định giai cấp như thế, nhưng đôi khi Tâm sở cướp quyền, thì Tâm vương phải bị nguy hiễm. Cũng như vị Quốc vương bị Quyền thần chấp chính thì không khỏi cái họa mất nước. Một bằng chứng: những người vì quá tham tài hiếu sắc, nên tâm trí của họphải bị cuồng  loạn.

Đức Khổng Tử cũng nói: “Biết được việc nhơn, mà lòng nhơn không giữ  được, tuy được việc phải, rồi cũng mất đó”. Đức Khổng Tử nói như thế, là chỉ cho Tâm vương tuy biết được việc nhơn nghĩa, nhưng không có “thiện Tâm sở” để giúp đỡ giữ gìn thì quyết không thể bảo trì được việc lành.

III. ĐỊA VỊ VÀ SỐ LƯỢNG CỦA CÁC TÂM SỞ

Các “Tâm sở” vì địa vị có thân và sơ, nên chia làm sáu loại, và vì trách nhiệm không đồng nhau, nên phân ra đến 51 món.

Sáu loại Tâm sở

1. Biến hành- 5 món

2. Biệt cảnh-5 món

3. Thiện-11 món

4. Căn bản phiền não- 6 món

5. Tùy phiền não-20 món

6. Bất định- 4 món

Có những Tâm sở rất thân mật với Tâm vương, không luận nơi nào hay giờ phút nào, đều không rời Tâm vương; cũng như ngày trước  chức  “Thừa tướng” thân cận với vua, hay ngày nay các  Bộ trưởng rất mật thiết với Thủ tướng, tức là 5 món Tâm sở Biến hành. Chữ “Biến hành” nghĩa là: đi khắp, giáp tất cả. Có 4:

1. Khắp giáp tất cả thời gian (quá khứ, hiện tại, vị lai).

2. Khắp giáp tất cả Thức (tám thức)

3. Khắp giáp tất cả giới (tam giới)

4. Khắp giáp tất cả địa vị (từ phàm đến Thánh)

IV. NĂM MÓN “BIẾN HÀNH”

Năm món “Biến hành” là: 1. Xúc, 2. Tác ý, 3. Thọ, 4. Tưởng, 5. Tư. Năm món Tâm sở này, bất luận Tâm vương nào khởi lên, nó đều chung khởi cả. Như Nhãn thức Tâm vương khi mới xem hoa; lúc đầu tiên tiếp xúc với cảnh hoa, thế là đã có “Xúc Tâm sở”

Chung cùng rồi. Kế đó có một cái để nhắc nhở Nhãn thức xem hoa, đó là “Tác ý Tâm sở” chung khởi. Rồi cảm thọ cảnh này khổ hay vui tức là “Thọ Tâm sở”. Tiếp đó lại tưởng tượng cái hình tướng của hoa và đặt để những danh từ để kêu gọi: Đây là vật gì? Hoa hay không phải hoa?  Đó là “Tưởng Tâm sở” tương ưng. Rốt sau nghĩ tính toán; hoặc dùng hay bỏ, đó là “Tư Tâm sở” chung khởi.

V. NĂM MÓN “BIỆT CẢNH”

Trong năm món Biến hành, hai Tâm sở, “Tưởng và Tư” tuy đã có cái nền tảng để tạo nghiệp, nhưng chưa thấy rõ rệt sự thực hành; cho nên sau năm món Biến hành lại có năm món Tâm sở  “Biệt cảnh”. Chữ  “Biệt cảnh” nghĩa là: mỗi món đều duyên mỗi cảnh giới và tạo nghiệp  riêng khác. Năm  món “Biệt cảnh” là: 1- Dục, 2- Thắng giải, 3- Niệm, 4- Định, 5- Huệ.

Dục  là: Muốn. Muốn những cái gì mình đang mong mỏi, như thấy quyển sách muốn đọc v.v…

Thắng giải là: Biết rõ. Như khi đọc sách hiểu rõ các nghĩa lý.

Niệm là: Nhớ. Như hôm qua đọc sách, ngày nay nhớ lại.

Định là: Chuyên chú. Như khi đọc sách, chuyên chú không nghĩ nhớ một việc gì khác.

Huệ là: Trí huệ. Khi đọc sách nhờ tâm yên định, nên phát sanh ra Trí huệ.

Về thứ lớp sanh khởi của năm món “Tâm sở” này có liên quan như thế; có thề lấy một việc đọc sách đã thấy rõ. Nhưng nhiệm vụ đều khác, vì mỗi môn duyên mỗi cảnh; cũng như người đời phân công làm việc, mỗi người đều có mỗi trách nhiệm khác nhau.

Căn cứ theo đây mà suy xét, thì Tâm vương hoàn toàn không thể tạo nghiệp được. Cũng như vị Đế vương ở trong chín lớp thành nghiêm nhặt, không làm việc gì được, chỉ ra các sắc lệnh mà thôi. Nhờ năm món “Biến hành” Tâm sở giúp với Tâm vương mới thành cơ sở tạo nghiệp.  Cũng như quan “Thứa tướng” vâng mạng lệnh của Vua, gởi chiếu chỉ xuống các bộ. Rồi do “năm món Biệt cảnh Tâm sở”, mỗi món đều lãnh mỗi nhiệm vụ; cũng như các Bộ lại lãnh sứ manïg rồi tùy thời thi hành.

Năm món Tâm sở “Biến hành” chỉ có nhiệm vụ: 1- Trên, thừa lệnh của Tâm vương; 2- Ban bố xuống cho các cấp dưới. Cho nên nó cùng với tám thức Tâm vương đồng tánh vô ký. Nghĩa là không nhứt định thiện hay ác.

Còn Tâm sở “Biệt cảnh”, vì mỗi món giữ một trách nhiệm cho nên có đủ ba tánh là Thiện, Ác và Vô ký. Ngoài ra còn mười một món Tâm sở “Thiện”, chỉ chuyên môn làm việc lành, cũng như các vị Trung thần. Lại có sáu món “Căn bản phiền não” và 20 món “Tùy phiền não”, chuyên tạo các nghiệp ác, cũng như các Quan lại tham ô. Lại có những Tâm sở không nhứt định thiện hay ác, tức là bốn món “Bất định”: Hối, Miên, Tầm, Tư. Cũng như một  chức Quan có vị lưng chừng để ăn lương, không có chủ trương gì nhất định, ai bảo thế nào cũng cho là phải.

Tên của 51 món Tâm sở:

1. Biến hành Tâm sở, có 5: 1- Xúc, 2- Tác ý, 3- Thọ, 4- Tưởng, 5-Tư  (Dụ như chức “Thừa Tướng”).

2. Biệt cảnh Tâm sở, có 5: 1- Dục, 2- Thắng giải, 3- Niệm, 4- Định, 5- Huệ (Dụ như các Bộ lại).

3. Thiện Tâm sở, có 11: 1- Tín, 2- Tàm, 3- Quý, 4- Vô tham, 5- Vô sân, 6- Vô si, 7- Tinh tấn, 8- Khinh an, 9- Bất phóng dật, 10- Hành xả, 11- Bất hại (Dụ  như các vị Công Thần).

4. Căn bản phiền não, có 6: 1- Tham, 2- Sân, 3- Si, 4- Mạn, 5- Nghi, 6- Ác kiến (Dụ như các vị Gian Thần).

5. Tùy phiền não Tâm sở, có 20: 1- Phẫn, 2- Hận, 3- Phú, 4- Não, 5- Tật, 6- Xan, 7- Cuống, 8- Siểm, 9- Hại, 10- Kiêu, 11- Vô tàm, 12- Vô quý, 13- Trạo cự, 14- Hôn trầm, 15- Bất tín, 16- Giải đãi, 17- Phóng dật, 18- Thất niệm, 19- Tán loạn, 20- Bất chánh tri (Dụ như các quan lại tham ô).

6. Bất định Tâm sở, có 4: 1- Hối, 2- Miên, 3- Tầm, 4- Tư (Dụ như các vị Quan làm việc lưng chừng để ăn lương).

Hai loại Tâm sở, Biến hành và Biệt cảnh tôi đã nói sơ lược rồi; còn Thiện Tâm sở, Căn bản phiền não, Tùy phiền não Tâm sở, Bất định Tâm sở, bốn loại Tâm sở này, xin độc giả nên biết sơ lược danh từ và nghĩa, đợi đến quyển sau tôi sẽ nói rõ hành tướng và công dụng của nó.

BÀI THỨ TƯ

KINH NGHIỆM DUY THỨC

(CÓ NĂM ĐOẠN)

I. ĐEM VIỆC NGÂM THI ĐỂ  CHỈ RÕ LÝ DUY THỨC

Tôi còn nhớ một bài thi của một thi sĩ Đời Đường như vầy:

Thiểu tiểu ly gia lão đại hồi.

Hương âm vô cải tẩn mao thôi;

Nhi đồng tương kiến bất tương thức,

Tiếu vấn khách tùng hà xứ lôi (lai).

DỊCH NGHĨA: “ Khi còn trẻ đi xa quê hương, đến lúc tuổi gìa trở về nhà. Tiếng khóc không khác, nhưng tóc râu lại bạc. Cha con thấy nhau ma ølại chẳng biết nhau. Trẻ con cười hỏi: Oâng từ đâu đến?”

Nay đem ba chữ “Chẳng biết nhau” trong bài thi này, để giải thích chữ  “thức” trong Duy thức. Theo Duy thức , nói chữ  “thức” nghĩa là “hiểu biết phân biệt”. Đứa con đương khi thấy cha tất nhiên phải có cái “hiểu biết phân biệt”, nên mới biết người này chẳng quen biết. Vậy thì chữ “thức” là “hiểu biết phân biệt”.

Trong bài thi này chỉ nói một chử “thức”; nếu chính chắn xét cái ý của bài thi này, cũng có thể chỉ rõ tám thức. Như trước nhất dùng tai nghe tiếng, biết “tiếng nói không khác” đó là Nhĩ thức. Kế đó dùng mắt xem, biết “râu tóc bạc”, đó là Nhãn thức. Khi cha con gặp nhau, mắt thấy tai nghe, đứa nhỏ lại nghi ngờ: “ông này là ai?”. Cái Tâm nghi ngờ là Ý thức. Cho nên chữ  “biết” trong ba chữ “chẳng biết nhau”, đó là cái “Ý thức”.

Cái “Ý thức” này thường cùng với năm thức trước chung khởi, như khi nghe tiếng đó là Nhĩ thức. Khi phân biệt đây là tiếng nói quen hay không quen. Thế là có cái chung khởi rồi. Khi con mắt vừa thấy biết râu tóc, đó là Nhãn thức. Đến lúc phân biệt râu tóc này bạc hay không bạc, đó là Ý thức chung khởi rồi.

Vì cái Ý thức cùng với năm thức trước đồng thời chung khởi, cho nên trong luận Duy thức gọi là: “Ngũ câu ý thức”. Nghĩa là phàm Nhãn, Nhĩ, Tỹ, Thiệt, Thân  năm thức, tùy mmột Thức nào khởi lên, thì liền có Ý thức đồng khởi chung khởi.

II. CHỨNG MINH CÓ “NGŨ CÂU Ý THỨC”

Lấy một việc ngâm thi này  để chứng minh, cũng có thể chia Ý thức ra làm hai loại:

1. Độc đầu ý thức: Nghĩa là chỉ một mình Ý thức khởi lên, không có chung cùng với năn thức trước. Như khi mắt không thấy cảnh, tai chẳng nghe tiếng v.v… mà vẫn khởi vọng tưởng phân biệt các cảnh vật.

2. Ngũ câu ý thức: Nghĩa là Ý thức chung cùng với năm thức trước khởi, như tên đã nói: cũng gọi là Minh liễu ý thức (Ý thức phân biệt rõ ràng).

Độc đầu ý thức hay Ngũ câu  ý thức  mỗi cái lại chia làm năm:

Ý  thức:

1-      Độc đầu ý thức (Đơn độc ý thức):

a)      Mộng trung ý thức (Ý thức trong khi chiêm bao)

b)      Tán vị ý thức (ý thức khi tán loạn)

c)      Định trung ý thức (ý thức trong khi định)

d)      Suy trung ý thứv (ý thức trong khi suy tính)

e)      Cuồng loạn ý thức (ý thức trong khi điên cuồng)

2-      Ngũ câu ý thức (Minh liễu ý thức):

a)      Nhãn câu ý thức (ý thức cùng với mắt chung khởi)

b)      Nhĩ câu ý thức (ý thức cùng với tai chung khởi)

c)   Tỹ câu ý thức (ý thức cùng với mũi chung khởi)

d)      Thiệt câu ý thức (ý thức cùng với lưỡi chung khởi)

e)      Thân câu ý thức (ý thức cùng với thân chung khởi)

Do đây có thể chứng minh năm thức trước không thể  riêng khởi, mà quyết phải có Ý thức đồng thời chung khởi. Bởi vì năm thức trước chỉ có “Tự tánh phân biệt”, nên không thể phân biệt được các giả danh. Duy ý thức mới có”Kế đạt phân biệt” (tính toán so đo). Phàm tất cả vật hòa hợp đều do Ý thức so đo phân biệt, bịa đặt ra các giả danh. Như khi nghe tiếng”, thì cái Nhĩ thức chỉ phân biệt được tiếng  thôi; còn so đo phân biệt các giả danh: tiếng hay tiếng dở, phải quấy v.v… đó là công năng của Ý thức. Cho nên khi Nhĩ thức sanh, thì quyết có Ý thức chung khỡi; còn Tỹ, Thiệt, Thân v.v… các Thức kia khi khởi lên cũng vậy.

III. SUY NGHIỆM CÓ THỨC THỨ BẢY VÀ THỨC THỨ TÁM

Như trên đã nói rõ ba Thức: mắt, tai, ý; nhưng cũng có thể chỉ rõ có Thức thứ bảy và Thức thứ tám. Như người làm thi đã biết: “Khi còn trẻ xa quê hương, đến già rồi mới trở về nhà, tiếng nói không đổi, nhưng râu tóc lại bạc”. Thế là từ trẻ đến già, một dòng sanh diệt tiếp tục, không biết bao nhiêu lần thay đổi, nhưng cái “Ta” vẫn y nguyên; cái “Ta” đó tức là Thức thứ  tám, tên A lại da. Chính trong kinh Giải Thâm Mật nói: “Thức A đà na rất là tinh tế; các chủng tử trong thức này sanh diệt như dòng nước thác…”. Bởi nó hay duy trì chủng tử, căn thân và thế giới cho nên kêu là “A đà na”, Trung Hoa dịch là “Chấp trì”. Vì Thức này giữ gìn thân mạng từ khi còn nhỏ rời nhà, cho đến lúc  già trở về quê hương; “Ta” đã từng chịu một cuộc đời biến đổi phiêu lưu; thì cái “Ta” bị chấp đây là Thức thứ Tám. Còn cái “năng chấp Ta” là Thức thứ Bảy Mạt na.

IV. DÙNG TỶ DỤ ĐỂ CHỈ RÕ THỨC THỨ BẢY VÀ THỨC THỨ TÁM

Thức thứ Bảy không có công dụng gì lạ, chỉ có tài “chấp Thức thứ Tám làm Ta”. Thức thứ Tám như ông chủ  nhà, Thức thứ Bảy như người gác  cửa. Thật ra, ông chủ nhà cũng một người như ai, nhưng vì  người gác cửa chấp người trong nhà đó là ông chủ của mình, cho nên mới thành ra ông chủ. Cũng thế, cái chơn tướng của Thức thứ  Tám vẫn như thường, không có chút gì biến đổi, chẳng qua vì Thức thứ Bảy chấp làm “Ta”, cho nên Thức thứ Tám lại biến thành “Ngã ái chấp tàng”.

V. NGUYÊN DO CÓ NGÃ TƯỚNG

Nhà Duy thức học nghiên cứu đến chỗ cùng tột, mới đặt được cái tên của Thức thứ Tám (A lại da) này. Chúng phàm phu và ngoại đạo nói rằng: “Tôi” hay “thân thể Tôi”, tức là chỉ cho thức A lại da. Thức này tức là Phật tánh, cũng kêu là Như Lai tạng. Do Thức thứ Bảy “chấp Ta”, nên nó biến thành tạp nhiễm, thì kêu là “A lại da” hay “Ngã ái chấp tàng”. Nếu Thức thứ Bảy không chấp “Ta” thì nó lại thanh tịnh, nên gọi là “Như Lai tạng” hay “Phật tánh”.

Thức thứ  Tám

1- Vì Thức thứ Bảy không chấp ngã, nên Thức thứ Tám này được thanh tịnh, gọi là “Như Lai tạng” hay “Phật tánh”.

2-  Vì Thức thứ Bảy chấp ngã, Thức thứ Tám này thành tạp nhiễm, nên gọi là “A lại da” hay “ Ngã ái chấp tàng”.

Sở dĩ thành phàm phu hay ngoại đạo là do Thức thứ Bảy chấp Thức này là chủ nhân (ta). Còn sáu Thức trước là quyến thuộc của ông chủ, ở ngoài giúp ông chủ để tạo tác các nghiệp. Cho nên trong kinh Giải Thâm Mật nói: “Ta (Phật) đối với kẻ phàm phu không giảng nói thức này, vì sợ chúng phân biệt chấp làm “Ngã”. Ý Phật nói kẻ phàm phu như người giữ cửa, không hề thấy ông chủ ở sâu xa bên trong; nếu giảng nói đến phần thâm tế ở bên trong (Thức thứ Tám) thì chúng lại thêm chấp ngã càng lắm, cho nên thà không nói còn hơn.

Bởi thế, nên trong ba tạng mười hai bộ  Kinh, nói phá ngã chấp và trong Duy thức nói phá ngã chấp, pháp chấp, phần lớn là phá cái chấp  của Thức thứ Bảy này. Trong kinh Kim Cang nói bốn tướng: ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng và thọ giả tướng, cũng thuộc về cái chấp tướng của Thức thứ Sáu và Thức thư Bảy. Nếu như phá trừ được cái chấp tướng của Thức thứ  Bảy, cũng như đuổi anh gác, mở cửa đem ông chủ  nhà ra, vì không còn anh gác cửa (tớ) nên không ai gọi ông là ông “chủ” nữa, chỉ kêu ông là “người”, như bao nhiêu người khác. Vì thế trong kinh Phật nói: “Phật và chúng sanh bình đẳng không hai”. Bên Thiền tông nói: “Đập bể thùng keo sơn (phá chấp), khi tỏ ngộ rồi, đồng với khi chưa ngộ”. Một lời nói này có thể giải quyết ít nhiều nghi nan, như nói: “Sanh tử tức là Niết bàn’” hay “Phiền não tức là Bồ đề” v.v… đều có thể lấy đây để suy xét.

BÀI THỨ NĂM

ĐEM VIỆC CHIÊM BAO ĐỂ XÉT NGHIỆM LÝ DUY THỨC

(CÓ BA ĐOẠN)

I. PHÓNG TÂM VỚI DUY THỨC

Một hôm trời gần sáng, tôi nằm chiêm bao thấy một trường học, các học sinh đang làm reo. Thầy giáo nhóm các học sinh tại giảng đường để diễn thuyết và mời tôi lên diễn đàn diễn giảng.

Tôi suy nghĩ chúng học sinh này tính tình nóng nảy bạo động, không thể dùng lý luận mà giải bày được, chi bằng nói một vài câu chuyện có lý thú để cho chúng nghe còn hơn. Lúc bấy giờ tôi mới nói rằng:

-“Đại viên này là kẻ vô học, cũng không có tài diễn giảng, nhưng tôi chỉ nhớ sơ sài được vài câu của Thầy Mạnh như vậy: “ Cái đạo học vấn không gì lạ, chỉ tìm phóng tâm (vọng) trở lại mà thôi”. Vậy thì cái “phóng tâm” rất là hệ trọng! Thân không tu cũng vì phóng tâm, nhà không tề (yên) cũng vì phóng tâm, nước không trị (loạn) cũng vì phóng tâm”. Chính như  ngày hôm nay các trò làm reo, cũng vì không biết tìm cái “phóng tâm” của mình trở lại, thì tức khắc “không có việc gì cả”. Tại sao các trò không biết tìm cái “phóng tâm”? –Vì các trò không biết cái học vấn để tìm “phóng tâm”. Cái học vấn để tìm “phóng tâm” đó, tức là Duy thức học vậy.

Đức Khổng Tử và thầy Mạnh đều có biết Duy thức học, chẳng qua các Ngài không nói đến danh từ Duy thức mà thôi, nên người đời chẳng ai biết.

Như trong Luận ngữ nói: “Lẳng lặng mà ghi đó, học không biết nhàm, dạy người chẳng biết mỏi, đâu có ở nơi Ta ư?” Nói như thế là vì các Ngài đã tinh bác được Duy thức học rồi. Trước ở nơi mình đã âm thầm chứng được, nên học mà không biết nhàm, đến khi học giỏi ra dạy người không biết mỏi.

Được công phu như thế, thì biết rằng các Ngài đã phá được “ngã chấp” rồi, cho nên mới nói rằng: “Đâu có ở nơi Ta ư ?”

Thầy Mạnh sẵn có khí tượng Đại thừa, chẳng qua ý khí còn thô sơ, nên Thầy chỉ giảng đặng sơ sài vài câu. Như nói rằng: “ Muôn vật đều ở nơi Ta…”. Nói như thế, tức là chỉ cho “ Muôn pháp đều về nơi Duy thức.”

Nói đến đây học sinh vui mừng vỗ tay hoan nghinh. Tôi liền giựt mình thức dậy, thì trời còn mờ  mờ chưa sáng. Tôi ngồi  suy nghĩ: giấc chiêm bao này có thể đem ra chứng minh cho lý Duy thức.

II. CẢNH CHIÊM BAO CÓ HAY KHÔNG?

Nếu nói cảnh chiêm bao này thật có, thì giảng đường, người và các vật trong chiêm bao vừa rồi, bây giờ sao không thấy một vật nào cả? Còn nói là không, thì tạis ao đương khi chiêm bao lại thấy đủ hết. Trong Thành Duy thức luận lại nói: “Cũng như người ngủ, do Tâm chiêm bao biến hiện ra các cảnh vật, in tuồng như ở ngoài.”  Người đương lúc chiêm bao vẫn chấp các cảnh ấy thật có và ngoài tâm. Đến khi thức giấc rồi mới biết các cảnh vật này không thật, chẳng qua do Tâm chiêm bao biến hiện mà thôi.

III. CHỨNG NGHIỆM CÓ BA TÁNH

a)      Y tha khởi tánh: Nghĩa là ngoại cảnh tuy không, nhưng Nội thức lại có; ngoại cảnh lại y nơi Nội thức kia mà sanh (Y tha khởi); nếu không có Nội thức thì ngoại cảnh chẳng có. Do đây suy xét, trong thế gian nào là núi, sông, đất liền, người và vật v.v… không có một cảnh nào chẳng y Nội thức biến hiện.

b)      Biến kế sở chấp tánh: (vọng chấp) –Nghĩa là các cảnh vật đều từ Nội thức biến hiện không thật, mà không trở lại điên đảo so đo chấp các cảnh ấy ngoài tâm và thật có. Nếu có người nói các cảnh đó là giả, thì nhứt định không tin, cũng như tôi vừa rồi ở trong chiêm bao thấy giảng đường, người và vật v.v… quyết định nói là thật; đợi đến khi thức giấc  rồi mới tin đó là giả.

c)      Viên thành thật tánh: Nghĩa là nhận thức đúng với lẽ thật. Như người khi thức tỉnh mới biết cảnh chiêm bao là giả.

Theo nhà Duy thức thường dùng ba tánh này mà phê phán tất cả các pháp, cái nào chơn, cái nào giả. Có thể lấy việc chiêm bao trên, để chứng minh 3 món tự tánh này.

Ba món Tự tánh:

_Y tha khởi tánh (các pháp duyên khởi)

_Biến kế sở chấp tự tánh (mê lầm vọng chấp)

_Viên thành thật tự tánh (giác ngộ)

Người đời đang ở trong đêm dài sanh tử, mê mang nơi trường đại mộng, nên thấy nào là quốc gia, chánh trị, nhân vật, tài sảnv.v… đều chấp là thật có, không tin Duy thức biến hiện. Hôm nay giảng về Duy thức học là kêu người sớm tỉnh giấc đại mộng, dùng đủ phương tiện để chứng minh muôn sự  muôn vật đều do Duy thức  biến hiện. Nếu người nhận được rõ lý Duy Thức rồi, thì cũng như tôi tỉnh giấc mộng trước kia, không đợi người nói mà tôi cũng tự biết các vật trong chiêm bao đều không tự có, chỉ do tâm biến hiện mà thôi (Y tha khởi). Khi từ bỏ cái mê lầm vọng chấp thật có rồi, (Biến kế sở chấp) thì các ngài hiểu biết mới đúng sự thật, nên gọi là Viên thành thật.

BÀI THỨ SÁU

LƯỢC GIẢI CÁC LỜI VẤN NẠN CỦA NGOẠI NHÂN

(CÓ SÁU ĐOẠN)

Từ trước đến đây, tôi đã dẫn chứng rất  nhiều chỉ rõ ngoại cảnh không có; nhưng e người đời còn nhiều chỗ nghi ngờ, nên tôi phương tiện lập những lời vấn đáp để giải cho rành rõ.

I. XEM NÚI, DO THỨC BIẾN HIỆN

HỎI: “Nếu quả thật các cảnh vật ở ngoài đều do trong Thức biến hiện, vậy thì khi chúng ta ở chỗ này (như ở Điện Bà) thấy có một quả núi; khi chạy đến một chỗ khác (như biển Ba Động)  cũng dùng Thức này tưởng núi, sao lại chẳng thấy được núi? Và cái “Thức” tưởng núi lúc nào cũng tưởng, sao lại chẳng luôn luôn thấy được núi? – Lại nữa, như nhiều người đồng thời đứng bên núi, chỉ có một người tưởng núi, còn bao nhiêu người không tưởng, tại sao bao nhiêu người cũng đều thấy núi?”

ĐÁP:  “Người vấn nạn được như thế, kể ra cũng đã có học vấn nghiên cứu khá lắm, tôi rất hoan nghinh.

Tôi thong thả hỏi gạn lại rằng: “Oâng khi ngủ chiêm bao thấy các cảnh vật: chỗ này núi, chỗ kia nước, chổ nọ chợ, làng v.v… đâu phải thấy chỗ nào cũng đều núi cả?” Ngoại nhơn trả lời: “Phải”. Tôi hỏi tiếp: “Lại nữa, trong khi chiêm bao, có khi ông thấy núi, có khi không thấy, đâu phải lúc nào ông cũng đều thấy núi?” Ngoại nhơn trả lời:  “Phải”. Tôi liền nói thẳng rằng: “Hiện nay tôi với ông, đồng ở trong vòng sanh tử đại mộng, cho nên phàm thấy núi, sông, đất liền v.v… đều do “Thức” biến hiện, cũng đồng như ở trong giấc mộng  một thứ, cho nên không thể một mình cái Thức của ông, mà biến sanh ra cảnh vật khác được.”

II. CẢNH CHIÊM BAO CŨNG NHƯ CẢNH THỨC, ĐỒNG DO “THỨC BIẾN”

HỎI: “Khi tỉnh, thấy các vật đều thật, như mặc áo thì ngừa được lạnh, ăn cơm được nov.v… còn khi chiêm bao thấy các vật đều không thật. Như chiêm bao thấy ăn, thức dậy bụng vẫn đói, chiêmbao thấy mặc đồ tơ lụa, khi thức vẫn mặc vải bô,v.v… như thế thì làm sao đem cảnh chiêm bao so sánh đồng với cảnh thức?”

ĐÁP: “Oâng đương khi chiêm bao thấy các sự vật  cũng đều thật vậy, như thấy lửa vẫn nóng, thấy nước cũng lạnh, thấy ăn vẫn no v.v… chỉ trừ khi ông thức rồi mới biết cảnh chiêm bao đó là giả. Chúng ta hiện nay cũng thế, hiện đang ở trong vòng phàm phu mê muội, như người ở trong chiêm bao, nên không thể biết chắc được cái nào thật cái nào giả; bao giờ tu hành đến bậc Đại giác (Phật) mới biết cảnh này là giả, chừng đó không còn nghi ngơ ønữa. Cũng như khi ông tỉng giấc mộng rồi, mới biết cảnh chiêmbao đó là không thật”.

III. THỨC BIẾN HIỆN  VÀ KHÔNG BIẾN HIỆN

HỎI: “Oâng nói ngày đêm đều là chiêm bao cả, việc này thôi gác lại, không bàn nữa, tôi xin hỏi qua việc khác. Như lời ông nói: “Muôn pháp đều do Thức biến.” Tại sao có vật, Thức không biến được?”

ĐÁP: “Giải thích vấn đề này rất là phiền phức, nay tôi phương tiện nói sơ lược. Theo nhà Duy thức nói, những cảnh vật do Thức biến hiện, ước lược có hai thứ:

1-     Cộng biến. Nghĩa là do Thức của nhiều chúng sanh chung lại biến ra.

2-     Bất cộng biến. Nghĩa là chỉ do Thức của một chúng sanh riêng biến.

Nếu xét chín chắn, thì có thể chia ra làm bốn phần:

1-     Cộng trung cộng biến. Nghĩa là ở trong một cảnh chung, do nhiều  Thức của chúng sanh chung biến. Như trong vũ trụ này, nào là núi, sông v.v… các vật vô chủ, là do Thức của chúng sanh chung biến.

2-     Cộng trung bất cộng biến. Nghĩa là ở trong một hoàn cảnh mà chẳng chung biến; dụ như những ruộng vườn có chủ, ở trong vũ trụ này.

3-     Bất cộng trung cộng biến. Nghĩa là trong hoàn cảnh không chung, mà lại chung nhau biến. Như 5 căn thô phù là mắt, tai, mũi, lưỡi và thân của mỗi người riêng dùng, nên gọi là “bất cộng”, song người khác có thể thấy được, nên gọi là “cộng biến”

4-     Bất cộng trung bất cộng biến. Nghĩa là trong cái không chung cùng, mà cũng không chung nhau biến ra. Như 5 món Thắng nghĩa căn (thần kinh hệ) núp ở trong 5 căn thô phù (mắt, tai, mũi, lưỡi và thân) chỉ tự mỗi người thọ dụng, người khác không thấy.

Thức biến

1-      Chung biến:

a)      Trong cái chung, lại chung biến. Như núi, sông vô chủ.

b)      Trong cái chung, lại riêng biến. Như  đất, vườn, có chủ.

2-      Riêng biến:

a)      Trong cái riêng, lại chung biến. Như 5 căn thô phù ở ngoài.

b)      Trong cái riêng, lại riêng biến. Như 5 món Thắng nghĩa căn (thần kinh hệ).

Những núi sông v.v… ông vừa hỏi đó, là thuộc về Thức của nhiều người chung biến, nên không thể dùng Thức của một người biến được, tức thuộc về cái nghĩa “cộng trung cộng biến” ở đây. Vì đã do Thức của nhiều người chung biến, cho nên ở tại tỉnh Sơn Đông đã có đa số chúng sanh biến ra núi Thái rồi, thì không thể do một người đến đất Hà Nam biến ra một núi Thái thứ hai nữa được. Đã có đa số chúng sanh tại đất Hồ Bắc biến ra con sông Hớn, thì cũng không thể do một người đến đất Sơn Tây biến thêm  một con sông Hớn nữa được.. Tại sao thế? Vì núi Thái và  sông Hớn, đều do lực lượng các  Thức của nhiều người chung biến, nên không thể do lực lượng một Thức và của một người mà biến thêm nữa được.

IV. THỨC BIẾN HIỆN CÓ TĂNG VÀ GIẢM

HỎI: “Đã do Thức của nhiều người chung biến một quả núi, tại sao các Thức nó chẳng chướng ngại nhau, mà lại hiệp thành một được? Lại nữa, khi có một người đi chỗ khác hoặc chết, thì giảm bớt một Thức rồi, sao chẳng thấy cái núi kia giảm nhỏ lại?” .

ĐÁP: “Thí như nhiều cái đèn, đồng đốt ở trong một nhà, các ánh sáng hoà hợp lại in như một, không có ngại nhau. Nếu như lậy bớt đi một cái đèn thì ánh sánh sáng vẫn khắp đầy cả nhà, không thấy khuyết thũng một phần nào. Song tuy sáng khắp cả nhà, nhưng ánh sáng có phần giảm bớt, không bằng như lúc còn nhiều cái đèn.”

Lấy lý này mà suy nghiệm đến non sông cũng thế. Như trên lịcnh sử, triều đại nào minh quân, thì nước nhà hưng thịnh, những vị hiền tài ra đời rất nhiều, non sông điều  hiện ra những điềm lành. Còn triều đại nào hôn quân, thì các vị hiền thần chết, trong nước hiện ra những điều bất thường như núi lở, sông khô v.v… Đây tức là cái ảnh hưởng vì Thức có thêm và bớt, nên non sông có thạnh và suy.

Lại nữa, như trên lịch sử nói: “Khi vị Thánh nhơn ra đời thì sông Hoàng Hà trong.” Tức là thêm cái “Thức” của vị Thánh nhơn, cho nên biến hiện ra sông Hoàng Hà được trong. Và nói: “ Chỗ nào có người anh kiệt, thì đất đại xứ đó linh thiêng.” Đây cũng có thể chứng nghiệm, do Thức của người anh kiệt nên biến sanh đất đai được linh thiêng. Do đây suy xét những nhà âm dương (địa lý), họ nói: “Phong thủy với nhơn vật rất có liên quan nhau.” Điều này chúng ta có thể tin được. Cho nên người hiểu được Duy thức rồi thì trong thế gian này tất cả những điều kỳ quái, nghi ngờ, khó giải thích, đều có thể phương tiện giải thích được  cả.”

V. BIẾN CHUNG, THẤY RIÊNG

HỎI: “Hiện tiền mắt chúng ta thấy núi, là chỉ thấy cái núi doThức của mình biến ra, hay là cũng thấy được cái núi do Thức của người khác biến? Nếu như chỉ thấy cái núi do Thức của mình biến ra, thì Thức của mình đã tự  biến được núi rồi, cần gì phải đợi Thức của người khác chung biến? Còn như thấy được cái núi do Thức của người khác biến, như thế  thì ngoài tâm mình còn có người khác, thành ra ngoài tâm có pháp, sao thành nghĩa Duy thức?”

ĐÁP: “Muốn giải thích vấn đề này, phải hiểu qua mỗi Thức đều có hai phần:

1-     Kiến phần, tức là phần “thấy”.

2-     Tướng phần, tức là phần “bị thấy” (cảnh). Hai phần này đều ở ngoài, nó có cái tác dụng biến ra “núi” và “thấy núi”. Lại có hai phần ở bên trong:

a)      Tự chứng phần.

b)      Chứng tự chứng phần. Hai phần này làm bản thể cho hai phần ngoài y nơi đó mà phát sanh. Đến quyển sau sẽ nói rõ bốn phần này.

Thức

Ngoài (dụng):

1-      Tướng phần (phần bị thấy: cảnh).

2-      Kiến phần (phần thấy).

Trong (thể):

1-      Tự chứng phần.

2-      Chứng tự chứng phần.

Y theo đạo lý Duy thức  mà luận thì “tướng phần” của Thức A Lại Da, biến ra thân thể và thế giới, rồi Thức này tự dùng “kiến phần” (phần thấy) duyên lấy.

Cái núi ông vừa hỏi trên, là thuộc một phần trong thế giới, cố nhiên phải do “tướng phần” Thức A Lại Da của nhiều người chung biến rồi Thức này dùng  “kiến phần” (phần thấy) duyên lấy làm cảnh. Người khi thấy núi, là do Nhãn thức của họ, nương cảnh núi của A Lại Da đã biến, làm bản chất, rồi nó trở lại biến ra “tướng phần” (phần bị thấy) in như cái núi và tự dùng “kiến phần” (phần thấy) duyên lấy. Nên khi mỗi người thấynúi, là không phải thấy được cái núi do “tướng phần” Thức A Lại Da của nhiều người chung biến; thật ra chỉ thấy được cái núi do Nhãn thức của mình, tự  biến lại mà thôi. Cho biết hiện tiền chúng ta thấy núi, là chỉ thấy được cái núi do Nhãn thức của mình biến ra, chớ không thể thấy được cái núi do  Thức của người khác biến vậy. Bởi thế nên nhà Duy thức nói: Người đời đều có một bầu trời đất;đồng sanh một chỗ mà lại ở riêng, mỗi người đều chẳng thấy nhau.

VI. NƯƠNG BẢN CHẤT RỒI BIẾN LẠI

Thông thường chúng ta thấy núi, sông, đất liền, v.v… tuy do Nhãn thức của mình biến ra, nhưng quyết định phải nương cái  Cảnh của Thức thứ Tám đã biến, làm bản chất. Nếu không có bản chất thì một mình Nhãn thức, cũng không thể gá nương vào đâu để biến lại được. Bởi thế, nên người đời ở  những chỗ không núi, họ không thể tưởng ra núi, nhưng chỗ không nước, họ không thể tưởn g ra nước; vì thiếu bản chất để gá nương vậy. Các nhà Triết học bên Thái Tây, vì không biết được Thức thứ tám này và không hiểu những việc “gá bản chất biến ra ảnh tượng v.v…” cho nên đối với vấn đề vũ trụ, họ bàn cãi lăng xăng mà không thể giải quyết được.

Lại nữa, biến “bản chất” tuy có Thức của người khác chung biến, nhưng cũng là Thức, nên nói là “Duy thức”. Và cái “bản chất” tuy có Thức của người khác biến, nhưng khi khi Nhãnthức thấy, chẳng qua gá bản chất rồi biến lại cảnh thứ hai để duyên,  chớ không thể thấy bản chất; cái cảnh nó thấy được, cũng chỉ ở trong Thức mà thôi, cho nên không phải ngoài tâm có pháp. Cũng như cái bóng trong gương, tuy nhờ có cái hình ở ngoài làm bản chất chiếu vào, nhưng chúng ta chỉ thấy cái bóng trong gương, cho nên vẫn gọi là Duy thức. Do đó có thể chứng minh, nào thế giới, quốc gia, muôn sự muôn vật  đều như cái hoa trong gương, như trăng dưới nước; thế mà người đời không biết các ảnh tượng đều do bản chất biến ra, trở lại chấp là thật có, rồi khởi ra các phiền não mê hoặc tạo nghiệp, tự làm đọa lạc, thật đáng buồn thương! Nếu người ngộ được lý Duy thức rồi, thì hy vọng sẽ tiến đến chỗ  toàn thiện vậy.

BÀI THỨ BẢY

KẾT LUẬN

Lý Duy thức rất sâu xa và mầu nhiệm vô cùng, nếu luận bàn tỷ mỉ thì chẳng những suốt đời không hết, mà lại làm cho người nghe thêm rối loạn, không nắm được mối manh, khiến cho kẻ nói người nghe  đều vô ích. Chi bằng người nói tùy chỗ thấy biết của mình và thừa những lúc hứng thú mà trình bày; còn người nghe thì siêng năng học hỏi, tùy theo trình độ của mình mà tu, như thế ngày qua tháng lại, sự học được mở mang sáng suốt vậy.

Thuở xưa thầy Mạnh , tự thuật lại việc khéo nuôi chí khí “hạo nhiên”, có nói rằng: “Do chứa chất việc “nghĩa” mà sanh ra vậy”. Nay người học Duy thức cũng phải lần chất chứa nghĩa lý mầu nhiệm, chẳng nhàm học nhiều, chứa chất lâu cũng như chí khí “hạo nhiên”, khắp đầy trong trời đất, rất cứng và rất lớn. Được như thế thì cái nghĩa Duy thức mới rộng, cái học Duy thức mới thành. Không lúc nào và chỗ nào mà lại chẳng thấy Duy thức, cũng như lưới ngọc của vị Đế Thích trùng trùng chiếu nhau.

Duy Thức Phương Tiện Đàm về  quyển thứ nhứt này, phần nhiếu căn cứ theo những việc thường thấy và thường nghe của thế gian, để chứng minh muôn vật do Thức biến. Lối trình bày đã gọn mà lại dễ, có thể làm cái cửa ngỏ cho người vào nhà Duy thức. Hay nói dễ hiểu hơn là làm một quyển sách dạy vỡ lòng cho kẻ sơ cấp. Khi học giả đọc kỹ quyển nhứt rồi, mới có thể đọc  tiếp đến quyển thứ hai và sẽ thấy những nghĩa: Chủng tử khởi hiện hành, Hiện hành huân chủng tử; Tâm vương và Tâm sở tương ưng nhau, Căn và Cảnh làm chỗ sở y và sở duyên cho nhau v.v…

Tuy rằng,  quyển nhì lời lẽ cũng như nghĩa lý, có phần sâu xa và khó hơn nhiều; nhưng quý vị đọc kỹ quyển nhứt rồi, tiếp tục đọc quyển nhì thì cũng chẳng khó chi, như người cần dao chẻ tre.

Tuy lý Duy thức rộng rãi và rất tinhnvi, nhưng học giả đọc kỹ tập này, sẽ được cái căn bản, thời đối với sách Duy thức cũng không khó  gì. Như người đi biển có kim chỉ nam, không còn lo ngại biển khơi diệu với. Sau quý vị nghiên cứu đến Thành Duy Thức thuật ký, Du Già Sư Địa luận, Nhiếp Đại thừa luận v.v…  sẽ hiểu được những nghĩa như “Tận sở hữu tánh, chư pháp nhứt thiết tánh; như sở hữu tánh, chư pháp Chơn như tánh…” (cùng tột tánh sở hữu, là tất cả tánh của các pháp, như tánh sở hữu là tánh Chơn như của các pháp).Thế thì từ phượng tiện  mà quý vị cũng có thể đạt đến chỗ cứu cánh.