LI. PHÁP HỘI TỰ TẠI VƯƠNG BỒ TÁT THỨ NĂM MƯƠI MỐT
(Hán Bộ Từ Quyển 126 Ðến Quyển 129)
Hán Dịch: Bắc Lương, Tạm Tạng Đàm Vô Sấm
Việt Dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ Ðức Phật ở thành Vương Xá trong núi Kỳ Xà Quật tại tháp lớn mà từ cổ xưa chư Phật thường an trụ, chư đại Bồ Tát cùng khen ngợi, đất ấy sạch sẽ vi diệu tối thắng, có pháp tọa của chư Phật, hàng Trời, Rồng, Càn Thát Bà v.v… luôn ca tụng. Nơi ấy lại có thể làm tăng trưởng vô lượng thiện căn, thường có ánh sáng vi diệu của chư Phật thành tựu vô lượng vô biên công đức , là chỗ đầy đủ sở hành của chư Phật.
Ðức Như Lai thành đạo Bồ đề rồi chuyển pháp luân vi diệu hàng phục vô lượng vô biên chúng sanh được tự tại nơi tất cả pháp. Ðức Thế Tôn ở trong tất cả pháp được trí huệ vô ngại, khéo biết rõ tất cả chúng sanh căn tánh lợi hay độn, Ðức Phật đã dứt hẳn tất cả phiền não tập khí, trang nghiêm biết rõ tất cả pháp.
Có đại Tỳ Kheo Tăng sáu vạn tám ngàn người đều là Phật tử đã dứt phiền não tập khí, khéo hiểu thâm nghĩa, đều là phước điền, hay dứt sanh tử được quả tịnh giới bất sanh bất diệt.
Còn có vô lượng Bồ Tát Tăng đủ trí vô ngại trí thậm thâm trí vô tri, đại từ đại bi tuôn mưa pháp, hay ban bố tất cả pháp vi cam lộ, đối với tất cả chúng sanh lòng các Ngài như mặt đất tăng trưởng thành tựu các pháp trợ Bồ đề. Trí huệ các Ngài sáng rỡ hay phá tan tối tăm , đều có thể soi rõ đường thiện ác, có thể làm cho hoa sen tâm lành của chúng sanh đều nở, hay làm cho căn lành của chúng sanh thành thục, tăng trưởng mầm lành, làm khô lầy phiền não.Các Ngài có đủ cảnh trí huệ bay trong hư không vô ngại như mặt nhựt. Các Ngài khéo có thể làm cho chúng sanh thêm lành bớt ác như mặt nguyệt. Các Ngài là gốc lành cao vững như núi Tu Di. Lòng các Ngài tịch tĩnh tu hành hạnh thanh tịnh chẳng bị thế luận làm động chuyển, thường an trụ pháp xuất thế vô thượng , thường thấy chư Phật và tất cả Phật độ. Các Ngài chứa tạng pháp lành như biển cả. Các Ngài thành tựu đầy đủ các môn đà la ni, thánh hạnh tịch tĩnh và đại từ bi. Các Ngài trang nghiêm thanh tịnh hai mắt định và huệ. Từ lâu các Ngài đã xa lìa sự sợ hải pháp thậm thâm. Từ vô lượng kiếp các Ngài tu hạnh Bồ đề, pháp nào chưa được rốt ráo thì trọn chẳng thôi nghỉ? Các Ngài đã thành tựu những công đức mà bực Bồ Tát phải có.
Danh hiệu của các Ngài là: Huệ Quang Vô Ngại Nhãn đại Bồ Tát, Kiến Nhứt Thiết Ðiền
Trang Nghiêm Anh Lạc đại Bồ Tát, Bất Ðoạn Như Lai Tánh Xuất Thế Ý Ðại Bồ Tát, Vị Chư Chúng Sanh Thị Hiện Tế Hạnh Thần Túc đại Bồ Tát, Vô Lượng Lạc Thuyết Vô Ngại Thần Túc Tràng Danh Xưng đại Bồ Tát, Tịnh Chúng Quang Tự Tại Vương đại Bồ Tát, Thiện Năng Luận Giải Tự Nghĩa Quảng Thuyết Luận Nghị Thần Túc đại Bồ Tát, Vô Lượng Công Ðức Trí Huệ Trang Nghiêm Trụ đại Bồ Tát, Chư đại Bồ Tát như vậy thường chung ở với Ðức Như Lai. Ðức Như Lai thường vì chư Bồ Tát nầy mà phân biệt tuyên nói các pháp môn mà Bồ Tát thật hành.
Lúc bấy giờ Ðức Như Lai thành Chánh đẳng Chánh giác được mười sáu năm, biết rõ trong đại chúng nhiều người tu phạm hạnh đều đến tập họp có thể thọ trì tạng pháp Bồ Tát.
Bấy giờ Ðức Như Lai nghĩ rằng: Nay ta nên vì vô lượng chúng đại Bồ Tát nầy mà tuyên nói các pháp sở hành của chư Bồ Tát. Ta nên trước thị hiện đạI thần thông lực của chư Phật Như Lai để cho chư đại Bồ Tát biết cảnh giới sâu rộng của chư Phật.
Ðức Thế Tôn liền nhập tam muội. Tam muội ấy có tên là Phật Cảnh Thần Thông Thiệt Kiến Chúng Sanh.
Do công đức oai thần lực của Phật, ở chặng giữa hai cõi Dục và cõi Sắc suất hiện phường đình lớn rộng bằng cả Ðại Thiên thế giới, từ hai sức định và phước làm thành , nơi đây có thể làm chỗ ở của Phật Như Lai. Ðức Phật lại phóng quang minh thanh tịnh lớn chiếu khắp thế giới chư Phật mười phương, Quang minh nầy có thể làm cho chúng sanh được tâm tri túc còn hơn cả ở cung trời, lại có thể khuyến tấn chư Bồ Tát phóng dật ở mười phương.
Phường đình được hiện ra đây, bốn phía giáp vòng có đại thọ bạch lưu ly, tường vách bằng chơn kim , nhà bằng công đức bửu, rèm rũ bằng ngọc mã não, lan can bằng các thứ châu báu, có lưới kết bằng bạch chơn châu giăng trùm lên trên, các thứ phan lọng báu để trang nghiêm, các thứ hương thơm rưới rải trên đất, xông đốt gỗ thơm quý. Bao nhiêu những món thượng diệu trang nghiêm của chúng sanh trong mười phương thế giới đều hiện cả trong ấy.
Trong phường đình được hiện ra ấy đặt để vô lượng trăm ngàn vạn ức pháp tọa sư tử, trải nệm êm dịu vô lượng màu sắc đẹp sáng, ai thấy cũng đều sanh lòng vui thích. Các tứ thiên hạ đều riêng có bốn thềm thang bằng thất bửu, ngang rộng mười do tuần, lúc có người bước đi trên ấy liền phát ra âm thanh vi diệu. Như tứ thiên hạ, cả Ðại Thiên thế giới cũng đều có thềm bực thất bửu như vậy cả.
Bấy giờ Ðức Thế Tôn từ tam muội dậy, cả Ðại thiên thế giới chấn động sáu cách, cũng phóng ra ánh sáng lớn tối thắng. Ðức Thế Tôn cùng các chúng Thanh Văn, Bồ Tát sau trước vây quanh muốn đến phường đình ấy. Tất cả hàng chư Thiên tôn trọng ngợi khen rải các thứ hoa tròi như hoa mạn đà la, hoa ma ha mạn đà la, hoa mạn thù sa, hoa ma ha mạn thù sa, cũng xông đốt các thứ hương thơm, rải các thứ bột hương để cúng dường Phật và Thánh chúng. Quang minh của Ðức Phật phóng ra chấn động cả mười phương, soi sáng khắp mọi nơi vô lượng vô biên thế giới, thị hiện thần thông phước đức của chư Phật.
Lúc bấy giờ, tại núi Kỳ Xà Quật, bỗng nhiên đại chúng chẳng còn hiển hiện, tất cả đều lên thềm bực thất bửu đi trên hư không. Có vô lượng ức Bát Bộ Quỷ Thần, Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La già cùng các chúng Quỷ Thần Vương cũng theo hầu cận Ðức Phật, đều mang hoa trời hương trời để cúng dường.
Tứ Thiên Vương quỳ dài chấp tay hướng lên Ðức Phật nói kệ tán thán:
Như Lai quang minh hơn tất cả
Hay phá tối tăm ba ác đạo
Chúng tôi quy y thích y chỉ
Ðấng vô thượng tát bà tất đạt
Nói kệ xong, Tứ Thiên Vương cùng chúng trời thần của mình liền đứng hầu sau Phật.
Thiên Ðế Thích Ðề Hoàn Nhơn cùng chư Thiên trời Ðao Lợi đem hoa hương cúng dường Ðức Phật mà nói kệ tán thán:
Như Lai đầy đủ mọi thần thông
Ðức đại từ bi không ai hơn
Công Ðức Phật trang nghiêm mười phương
Chúng tôi kính lạy đấng vô thượng
Nói kệ xong, Thiên Ðế cùng chư Thiên trời Ðao Lợi liền đến hầu sau Ðức Phật.
Dạ Ma Thiên Vương cùng chư Thiên trời Dạ Ma đem hương hoa cùng kỹ nhạc trời cúng dường và nói kệ tán thán Ðức Phật:
Trí huệ vô biên vô chướng ngại
Biết việc ba đời của chúng sanh
Một tâm biết rõ vô lượng tâm
Nay tôi kính lạy đấng vô thượng
Nói kệ xong, Dạ Ma Thiên Vương và chư Thiên Dạ Ma đứng hầu sau Phật.
Ðâu Suất Thiên Vương và chư Thiên trời Ðâu Suất đem hoa hương kỹ nhạc trời cúng dường và nói kệ tán thán Ðức Phật:
Phật biết các pháp như ảo huyễn
Không thọ không làm không chữ lời
Thương người nên nói chẳng thể nói
Ghi nói vô ngã biết pháp tánh.
Nói kệ xong Ðâu Suất Thiên Vương và chư Thiên trời Ðâu Suất liền đứng hầu sau Ðức Phật.
Hóa Lạc thiên Vương cùng chư Thiên trời Hóa Lạc đem hương hoa kỹ nhạc trời cúng dường và nói kệ tán thán Ðức Phật:
Như Lai được đầy đủ thập lực
Biết các pháp giới như hư không
Không tướng vì thương mà hiện tướng
Tâm Phật bình đẳng dạy chúng sanh
Như Lai thường làm việc chư Phật
Vì chúng sanh làm việc thế gian
Khai thị pháp giới vô phân biệt
Nay tôi kính lễ Thiên Nhơn Sư.
Hóa Lạc Thiên Vương và chư Thiên trời Hóa Lạc nói kệ xong liền đến hầu sau Ðức Phật.Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương cùng chư Thiên trời Tha Hóa Tự Tại đem hương hoa kỹ nhạc trời cúng dường Ðức Phật và nói kệ tán thán:
Giới hạnh thanh tịnh trụ tịch tĩnh
Thành tựu tam muội tối vô thượng
Trí Phật vô biên vô chướng ngại
Tôi lạy bực cứu cánh giải thoát
Ðại từ đại bi lời vi diệu
Hay biết đúng thiệt đạo phi đạo
Dũng kiện tinh tiến lực vô thượng
Chúng tôi kính lạy đấng vô động
Phật đã thành tựu ba giải thoát
Không ai khen hết công Ðức Phật
Quạ hay dầu chẳng đồng KIM SÍ
Cũng tùy sức mình mà bay liệng
Nay tôi như quạ tùy sức khen
Xin Phật xót thương nhận lời mọn
Không gieo không gặt không kết quả
Chẳng khen Ðức Phật không giải thoát
Từ bi làm cộng trí huệ lá
Chánh định cánh tua giải thoát nở
Ong chúa Bồ Tát hút cam lồ
Nay tôi lạy Phật hoa sen pháp
Ðại bi trí huệ quang minh đủ
Hay phá vô minh của chúng sanh
Giới hạnh thanh tịnh người thích xem
Nay tôi kính lạy Phật pháp nguyệt
Tâm Phật bình đẳng như hư không
Ngợi khen chê mắng lòng không hai
Hay sạch cấu nhơ vô lượng chúng
Nay tôi kính lạy sông Phật pháp.
Nói kệ xong, Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương cùng chư Thiên trời Tha Hóa Tự Tại liền đứng hầu sau Ðức Phật.
Chúng chư Thiên cúng dường nói kệ tán thán xong, Ðức Thế Tôn liền thị hiện vô lượng thần thông đạo lực lần lẩn đến phường đình thất bửu. Như người tứ thiên hạ thấy Ðức Phật đi lên , khắp cả Ðại Thiên thế giới cũng đồng thấy như vậy. Vào phường đình rồi Ðức Phật lên ngự tòa sư tử thất bửu, hàng Thanh Văn và chư Bồ Tát cũng lên ngồi tòa báu.
Lúc bấy giờ Ðức Thế Tôn nhập tam muội. Tam muội ấy có tên là Vô ngại giải thoát. Khắp thân Ðức Phật tất cả lỗ lông đều phóng vô lượng ánh sáng lớn chiếu suốt mười phương vô lượng thế giới. Loài chúng sanh trong các địa ngục nhờ ánh sáng soi đến đều được dứt khổ. Các chúng sanh khác thì trừ lòng tham gian giận thù mê si, mỗi mỗi sanh lòng thương coi nhau như cha với con.
Do công đức của Phật nên trong ánh sáng ấy nói lên lời kệ để khuyến hóa các Bồ Tát phóng dật:
Như Lai tinh tiến vô lượng biên
Quá vô lượng kiếp thường tinh tiến
Ai hay khen Phật quang minh đức
Chỉ có chư Phật ở mười phương
Vì khuyên mười phương chư Bồ Tát
Ưa thích phóng dật chẳng tu thiền
Thích Ca Như Lai phóng quang nầy
Với chư Bồ Tát về đây họp
Thành tựu đầy đủ Phật thập lực
Phá được ma vương các thế giới
Thế giới chẳng nhơ dường hoa sen
Quang minh Phật phóng vô biên lượng
Như Lai chuyển pháp vô thượng nầy
Chư Thiên cùng người không làm được
Vì các chúng sanh chuyển pháp luân
Như xưa pháp luân chư Phật chuyển
Hôm nay Như Lai họp đại hội
Khó thấy dường như hoa ưu đàm
Nếu ai lòng tin được thành tựu
Ðều vì nghe pháp đến chỗ Phật.
Lời kệ tụng trong quang minh của Phật phóng ra vang rộng khắp mười phương khuyên bảo các Bồ Tát làm chấn động tất cả thế giới đại địa, làm cho chúng sanh tất cả đều được an vui, hay sạch tất cả phiền não của chúng sanh, hay phá si tối của tất cả chúng sanh, hay khuất tất cả cung điện của thiên ma. Ánh sáng ấy chiếu khắp mười phương rồi trở về nhập vào đỉnh đầu của Ðức Phật.
Bấy giờ phương Ðông có thế giới tên Vô Lượng Công Ðức Bửu Tụ Thần Thông, Phật hiệu Tịnh Ðại Bửu Hoa Quang Vương, nơi ấy có Bồ Tát hiệu Pháp Tự Tại Công Ðức Hoa. Ðược quang minh chiếu đến, Bồ Tát nầy liền cùng hằng hà sa số đại Bồ Tát đến Ta Bà thế giới trong phường đình báu lớn, đầu mặt lạy chưn Phật Thích Ca Mâu Ni, đi nhiễu Phật một vạn vòng rồi đem hoa hương vi diệu cúng dường ở trước Phật nói kệ tán thán:
Tất cả công đức đều rốt ráo
Thường được mười phương Phật ngợi khen
Danh hiẹu vô ngại khắp mười phương
Ðại từ đại bi Thích Ca Phật
Như Lai pháp giới vô sai biệt
Vì kẻ căn độn nói sai biệt
Tuyên nói một pháp thành vô lượng
Như nhà ảo thuật bày sự ảo
Chư Bồ Tát nói kệ khen Phật xong cúi lạy chưn Phật rồi dùng sức thần thông của mình ở phía Ðông của Ðức Phật hóa ra các tòa báu theo thứ tự mà ngồi.
Phương Nam có thế giới tên là Phật Quang, Phật hiệu là Vô Lượng Công Ðức Bửu. Cõi ấy có Bồ Tát hiệu Bửu Trượng. Bồ Tát nầy được quang minh chiếu đến liền cùng mười hằng hà sa số chúng đại Bồ Tát đồng đến Ta Bà thế giới trong phường đình báu lớn đầu mặt lạy chưn đức Thích Ca Mâu Ni Phật, đi nhiễu bên hữu một vạn vòng rồi dâng cúng hương hoa vi diệu, ở trước Ðức Phật nói kệ khen ngợi:
Ðại từ mây pháp tuôn mưa pháp
Thường nói vô thường không vô ngã
Dùng nước bát chánh dứt lửa kiết
Tăng trưởng căn lành cho chúng sanh
Phật quang hay phá tối vô minh
Khuyên dạy chư Bồ Tát phóng dật
Hay đốt giống ái trong tam giới
Hay dạy chơn thiệt đạo phi đạo.
Nói kệ và đảnh lễ Phật xong, chư Bồ Tát nầy dùng thần lực của mình hóa ra tòa báu ở phía Nam của Ðức Phật rồi theo thứ tự mà ngồi.
Phương Tây có thế giới tên là Quang Minh, Phật hiệu Phổ Quang. Cõi ấy có Bồ Tát hiệu là Xưng Lực Vương được quang minh chiếu đến liền cùng mười hằng hà sa số chúng đại Bồ Tát đồng đến Ta Bà thế giới trong phường đình báu lớn đầu mặt lạy chưn đức Thích Ca Mâu Ni Phật, đi nhiễu bên hữu một vạn vòng, đem hương hoa vi diệu cúng dường, ở trước Ðức Phật nói kệ khen rằng:
Phát nguyện lành trong vô lượng kiếp
Do đây được thân vô lậu tịnh
Công hạnh của Phật như hư không
Âm thanh vô ngại khắp mười phương
Như Lai tiếng phạn như sấm vang
Tiếng nầy vô nghiệp cũng vô nhơn
Không nghe không nhận không chúng sanh
Ðại bi cớ chi vang tiếng nói
Chư đại Bồ Tát nầy nói kệ và đảnh lễ chưn Ðức Phật xong, dùng thần lực của mình ở phía Tây Ðức Phật hóa ra tòa báu rồi theo thứ tự mà ngồi.
Phương Bắc có thế giới tên Bửu Trang Nghiêm, Phật hiệu là Vô Lượng Công Ðức Trang Nghiêm. Cõi ấy có Bồ Tát hiệu là Ðại Hải Trí. Ðược quang minh chiếu đến, đại Bồ Tát Hải Trí liền cùng mười hằng hà sa số đại Bồ Tát đồng đến Ta Bà thế giới trong phường đình báu lớn đầu mặt lạy chưn Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, đi nhiễu bên hữu một vạn vòng, dâng cúng hoa hương rồi nói kệ khen ngợi:
Như Lai vô thượng ánh sáng vàng
Hay phá tối tất cả thế gian
Nếu có chúng sanh gặp sáng nầy
Phiền não liền trừ được an lạc
Dầu ai thân cao quá Ðại Thiên
Thần thông đạo lực vô biên tế
Cũng chẳng thấy được đảnh tướng Phật
Nhiều kiếp Thế Tôn tu hạnh gì.
Nói kệ khen xong, chư Bồ Tát lạy chưn Ðức Phật rồi dùng thần lực của mình hóa ra tòa báu ở phía Bắc Ðức Phật rồi theo thứ tự mà ngồi.
Phương Ðông Nam có thế giới tên Vô Ưu Phật hiệu là Năng Hoại Nhứt Thiết Ám. Cõi ấy có đại Bồ Tát hiệu là Vô Thắng Quang. Ðược quang minh chiếu đến , dại Bồ Tát Vô Thắng Quang liền cùng mười hằng hà sa số chúng đại Bồ Tát đồng đến Ta Bà thế giới trong phường đinh báu lớn đầu mặt lạy chưn Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, đi nhiễu bên hữu một vạn vòng dâng cúng hoa hương rồi nói kệ ngợi khen:
Vô lượng cõi vào một lỗ lông
Cũng chẳng nhiễu hại các chúng sanh
Cảnh giới của Phật khó biết được
Thần thông đạo lực chẳng nghĩ bàn
Hay làm một thân thành vô lượng
Mà chơn thân Phật không tăng giảm
Dầu vì chúng sanh hiện thần biến
Mà nội tâm Phật thường bình đẳng.
Nói kệ xong, chư đại Bồ Tát lạy chưn Ðức Phật rồi dùng thần lực của mình hóa ra tòa báu ở phía Ðông Nam Ðức Phật rồi theo thứ tự mà ngồi.
Phương Tây Nam có thế giới tên là Thiện Kiến, Phật hiệu là Tâm Bình Ðẳng. Cõi ấy có đại Bồ Tát hiệu là Ðại Bi Tâm. Ðược quang minh chiếu đến, đại Bồ Tát Ðại Bi Tâm liền cùng mười hằng hà sa số chúng đại Bồ Tát đồng đến Ta Bà thế giới trong phường đình báu lớn đầu mặt lạy chưn Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, đi nhiễu bên hữu một vạn vòng, đem hương hoa vi diệu cúng dường rồi nói kệ khen rngợi:
Trong vô lượng đời gìn cấm giới
Như mao ngưu quý trọng đuôi mình
Thấy ai phạm giới lòng xót thương
Cũng chẳng kiêu mạn tự khen ngợi
Tâm của Phật như núi Tu Di
Mười phương ma tà không động được
Trí Phật rất sâu không thể lường
Khó nghĩ bàn được như biển cả
Phật tự giải thoát tất cả cõi
Cũng khiến chúng sanh được giải thoát
Ðược quả giải thoát thiệt không khác
Tùy lúc hành đạo có dị biệt.
Nói kệ xong, chư đại Bồ Tát lạy chưn Ðức Phật rồi dùng thần lực của mình hóa ra tòa báu ở phía Tây Nam Ðức Phật rồi theo thứ tự mà ngồi.
Phương Tây Bắc có thế giới tên là Hoại Ám, Phật hiệu là Thần Thông Vương. Cõi ấy có đại Bồ Tát hiệu là Bửu Võng. Ðược quang minh chiếu đến, đại Bồ Tát Bữu Võng liền cùng mười hằng hà sa số chúng đại Bồ Tát đồng đến Ta Bà thế giới trong phường đình báu lớn đầu mặt lạy chưn Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, đi nhiễu bên hữu một vạn vòng, đem hương hoa vi diệu cúng dường rồi ở trước Ðức Phật mà nói kệ ngợi khen:
Như Lai Thế Tôn dường ảo huyễn
Mà vì chúng sanh nói sự huyễn
Vì không vật thiệt nên nói huyễn
Không có chúng sanh nói chúng sanh
Như người chiêm bao thấy các cảnh
Thức dậy thiệt ra không cảnh sắc
Vì độ chúng sanh hiện thế gian
Như Lai chơn thiệt không thế gian.
Nói kệ xong, chư đại Bồ Tát đảnh lễ chưn Ðức Phật rồi dùng thần lực của mình hóa ra tòa báu ở phía Tây Bắc Ðức Phật rồi theo thứ tự mà ngồi.
Phương Ðông Bắc có thế giới tên là Tịnh Trụ, Phật hiệu là Tâm Ðồng Hư Không. Cõi ấy có đại Bồ Tát hiệu là Vô Biên Tịnh Ý. Ðược quang minh chiếu đến, đại Bồ Tát Vô Biên Tịnh Ý liền cùng mười hằng hà sa số chúng đại Bồ Tát đồng đến Ta Bà thế giới trong phường đình báu lớn đầu mặt lạy chưn Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, đi nhiễu bên hữu một vạn vòng dùng hương hoa vi diệu cúng dường rồi ở trước Ðức Phật nói kệ ngợi khen:
Phật biết các pháp thậm thâm
Thường thích tịnh tĩnh tu vô tưởng
Biết rõ tâm tưởng của chúng sanh
Cũng nói các pháp như hư không
Trụ trong một tâm biết tam thế
Cũng biết rõ rằng các chủng nghiệp
Chẳng sanh tâm tưởng chúng sanh tưởng
Vô lượng đời tu vô tướng tưởng
Nói kệ xong, chư đại Bồ Tát đảnh lễ chưn Ðức Phật rồi dùng thần lực của mình hóa ra tòa báu ở phía Ðông Bắc Ðức Phật rồi theo thứ tự mà ngồi.
Hạ phương có thế giới tên là Lạc Quang, Phật hiệu là Bửu Ưu Bát Hoa. Cõi ấy có đại Bồ Tát hiệu là Trang Nghiêm Lạc Thuyết . Ðược quang minh chiếu đến, dại Bồ Tát Trang Nghiêm Lạc Thuyết liền cùng mười hằng hà sa số chúng đại Bồ Tát đồng đến Ta Bà thế giới trong phường đình báu lớn đầu mặt lạy chưn Thích Ca Mâu Ni Phật, đi nhiễu bên hữu một vạn vòng, đem hương hoa vi diệu cúng dường rồi ở trước Ðức Phật nói kệ khen ngợi:
Vô lượng bực trí chơn Phật tử
Số như vi trần trong mười phương
Ở vô lượng kiếp học hỏi Phật
Chẳng hết nghĩa một chữ của Phật
Trí huệ Như Lai rộng vô biên
Công đức tổng trì cũng như vậy
Danh xưng lực thế vô biên tế
Dường như đại hải ở mười phương
Nói kệ xong, chư đại Bồ Tát đảnh lễ chưn Ðức Phật rồi dùng thần lực của mình hóa ra tòa báu ở phương dưới Ðức Phật rồi theo thứ tự mà ngồi.
Thượng phương có thế giới tên là Anh Lạc Trang Nghiêm, Phật hiệu là Ðại Danh Xưng. Cõi ấy có đại Bồ Tát hiệu là Nhứt Thiết Pháp Thần Thông Vương. Ðược quang minh chiếu đến, đại Bồ Tát Nhứt Thiết Pháp Thần Thông Vương liền cùng mười hằng hà sa số chúng đại Bồ Tát đồng đến Ta Bà thế giới trong phường đình báu lớn đầu lạy chưn đức Thích Ca Mâu Ni Phật, đi nhiễu bên hữu một vạn vòng, đem hương hoa vi diệu cúng dường rồi ở trước Ðức Phật nói kệ ngợi khen:
Thân Phật thân nghiệp vô biên tế
Ý nghiệp khẩu nghiệp cũng vô biên
Chỉ Phật biết được Phật ba nghiệp
Người khác chẳng biết như hư không
Như lai đầy đủ vô sư trí
Vì vậy chúng sanh gọi Ðại Sư
Chư Phật pháp giới chẳng nghĩ bàn
Thành đạo chuyển pháp nhập Niết Bàn.
Nói kệ xong, chư đại Bồ Tát đảnh lễ chưn Ðức Phật rồi dùng thần lực của mình hóa ra tòa báu ở phương trên Ðức Phật rồi theo thứ tự mà ngồi.
Trong khoảng một niệm thời gian, vô lượng chư đại Bồ Tát ở mười phương thế giới đồng thời vân tập trong phường đình báu lớn .
Lúc bấy giờ Ðức Thế Tôn từ tam muội an tường dậy, tiếng dặng hắng của Ðức Phật vang suốt mười phương, tất cả chúng sanh đều được nghe, nghe rồi đều sanh lòng kính tin Phật Pháp và Tăng Tam bửu.
Thế giới mười phương có bao nhiêu Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, hoặc là người hoặc hàng phi nhơn nghe tiếng của Ðức Phật rồi thì thân tâm của họ liền tịch tĩnh. Do sức oai thần công đức của Phật nên họ đều ngó thấy những thềm bực bảy báu, trong khoảng một niệm họ đều được lên thềm báu vào trong phường đình báu lớn theo vị thứ của mình mà ngồi.
Nghe thanh âm của Ðức Phật, tất cả chư Thiên: Phạm Chúng Thiên, Phạm Phụ Thiên, Phạm Vương Thiên, Thiểu Quang Thiên, Vô Lượng Quang Thiên, Quang Âm Thiên, Thiểu Tịnh Thiên, Vô Lượng Tịnh Thiên, Biến Tịnh Thiên, Phước Ái Thiên, Phước Sanh Thiên, Vô Tưởng Thiên, Quảng Quả Thiên, , Vô Phiền Thiên, , Vô Nhiệt Thiên, Thiện Kiến Thiên, Thiện Hiện Thiên, Sắc Cứu Cánh Thiên, trong thời gian một niệm đồng đến phường đình báu lớn lễ Phật cúng dường hóa ra tòa báu rồi theo thứ tự mà ngồi.
Thấy đại chúng đã tập họp xong, Ðức Thế Tôn phóng bạch hào tướng quang giữa hai chặng mày. Quang minh nầy có tên là Thị Bồ Tát Lực, xoay quanh đại chúng Bồ Tát bảy vòng rồi nhập vào đảnh đầu chư Bồ Tát.
Trong đại hội có một đại Bồ Tát hiệu là Chư Pháp Tự Tại Công Ðức Hoa Tử nhập tam muội tên là Anh Lạc Trang Nghiêm. Do sức tam muội nầy hóa ra tòa sư tử cao bằng tám vạn ức cây đa la, tòa nầy bảy báu trang nghiêm trải các thứ danh hoa, hay làm cho người thấy phải ưa thích và thâm tâm đều thanh tinh.
Dùng sức tam muội hóa hiện tòa sư tử như vậy rồi, đại Bồ Tát Chư Pháp Tự Tại Công Ðức Hoa Tử xuất định an tường đứng dậy đầu mặt lạy chưn Ðức Phật, cung kính chắp tay ở trước Ðức Phật nói kệ ngợi khen:
Ánh sáng nhựt nguyệt phá hiện tối
Phật quang hay phá tối ba đời
Như Lai đầy đủ sức thần thông
Sáng hơn tất cả ánh sáng trời
Phật rõ pháp giới không tri giác
Như trăng trong nước không khứ lai
Không sanh không thọ không tác giả
Chơn thiệt biết rõ dạy lại người
Biết trong sắc tâm không sắc tâm
Phương tiện dạy người nói sắc tâm
Thần thông Như Lai dường ảo huyễn
Biết các pháp giới cũng ảo huyễn
Tất cả chúng sanh tâm thường tịnh
Có lúc khách trần phiền não nhiễm
Chư Phật Như Lai được giải thoát
Thị hiện thần thông như huyễn ảo
Hư không không nơi không chỗ ở
Tâm Phật rỗng không cũng như vậy
Vì chúng nên Phật lên tòa ngồi
Nói pháp cam lộ như chư Phật
Tất cả đại chúng không khứ lai
Không có người nói nghe nhận lấy
Các pháp thảy đều như hư không
Nguyện Phật tuyên nói pháp chơn thật
Thế Tôn nhận ngồi tòa tôi hiện
Nguyện vì chúng sanh rống sư tử
Thương người nên phát phạm âm thanh
Ðèn sáng trí huệ phá si tối
Ðại chúng mười phương đến nghe pháp
Ðều đã tập họp phường đình nầy
Nguyện Phật ban cho đại pháp thí
Phá khối nghèo cùng vô lượng đời.
Vì lòng đại bi, đức Thhế Tôn lên ngồi trên tòa sư tử báu của đại Bồ Tát Chư Pháp Tự Tại Công Ðức Hoa Tử dâng hiến. Ðức Thế Tôn muốn nói pháp môn vô ngại sở hành của Bồ Tát. Hành pháp môn nầy sẽ được đầy đủ Phật pháp thập lực, tứ vô sở úy, nhập pháp môn tất cả pháp tự tại đà la ni, nhập pháp môn tứ vô ngại trí, nhập pháp môn đại thần thông bất thối chuyển pháp luân, bất thối trụ xứ nhiếp tất cả thừa, nhiếp tất cả pháp giới chơn thiệt pháp giới, vô phân biệt pháp giới, biết rõ tâm căn của tất cả chúng sanh, nhập pháp giới chơn thiệt kiên cố, hay phá tất cả tứ ma, điều phục tất cả ác kiến phiền não, được bất cộng thiện quyền pbương tiện, được tâm bình đẳng vô nhị, được chỗ mà tất cả chư Phật đồng vào, chỗ không chướng ngại vì nói tất cả pháp chơn thiệt, tất cả pháp phi giác phi phi giác, vì nói mười hai nhơn duyên bình đẳng, vì dầy đủ trí huệ đại trang nghiêm, vì trang nghiêm thân Phật và âm thanh Phật, vì ý niệm vô tận hiện hành trí huệ, vì diễn nói tứ Thánh đế chơn thiệt hay làm cho hàng Thanh Văn thân tâm thanh tịnh, hay làm cho hàng Bích Chi Phật phát khởi đại trí, hay làm cho hàng Ðại thừa Bồ Tát được tự tại nơi tất cả pháp, vì nói rộng công đức của chư Phât, vì giải nói chỉ dạy tất cả pháp, vì nói công đức lớn rộng của chư đại Bồ Tát, vì phá rách lưới nghi của chúng sanh, vì dẹp trừ tất cả tà luận, vì tăng trưởng chánh pháp của Như Lai, vì hiển bày thần lực của Phật cho chúng sanh thấy. Vì tất cả nhơn duyên như vậy mà Ðức Thế Tôn lên ngồi bửu tòa sư tử.
Bấy giờ có đại Bồ Tát hiệu là Bửu Trượng thừa thần lực của Ðức Phật mà nhập tam muội Phật anh lạc trang nghiêm, do sức tam muội nầy làm cho đại chúng đều được các thứ anh lạc trang nghiêm.
Thừa thần lực của Ðức Phật, đại Bồ Tát Xưng Lực Vương nhập liên hoa tam muội, do sức tam muội nầy làm cho đại chúng đều được hoa đẹp cúng dường Ðức Phật và chư đại Bồ Tát.
Thừa thần lực của Ðức Phật, đại Bồ Tát Ðại Hãi Huệ Trí nhập diệu hương tam muội, do sức tam muội nầy làm cho đại chúng đều được có hương thơm cúng dường Phật và chư đại Bồ Tát.
Thừa thần lực của Ðức Phật, đại Bồ Tát Bửu Vỏng cũng nhâp quang minh tam muội, do sức tam muội nầy làm cho đại chúng đều được than mình có ánh sáng đẹp.
Thừa thần lực của Ðức Phật, đại Bồ Tát Bi Tâm nhập vô thuấn tam muội, do sức tam muội nầy làm cho đại chúng chiêm ngưỡng Ðức Thế Tôn chẳng hề chớp mắt.
Thừa thần lực của Ðức Phật, đại Bồ Tát Vô Biên Tịnh Ý nhập hỉ lạc tam muội, do sức tam muội nầy làm cho đại chúng vui thích nghe pháp.
Thừa thần lực của Ðức Phật, đại Bồ Tát Trang Nghiêm Lạc Thuyết nhập tịch tĩnh ý tam muội, do sức tam muội nầy làm cho đại chúng xa lìa ngũ cái.
Thừa thần lực của Ðức Phật, đại Bồ Tát Nhứt Thiết Pháp Thần Túc Vương nhập bất vong tam muội, do sức tam muội nầy làm cho đại chúng chuyên nhớ Bồ đề chẳng quên mất.
Thừa thần lực của Ðức Phật, Dũng Kiện đại Bồ Tát nhập vô thắng tam muội, do sức tam muội nầy đều làm cho đại chúng xô dẹp các ma.
Thừa thần lực Ðức Phật, đại Bồ Tát Phá Ma nhập hoại ma tam muội, do sức tam muội nầy mà một ức vị ma vương trong Ðại Thiên thế giới được vời đến tập họp tại phường đình báu lớn, tất cả một ức vị ma vương đầu mặt lạy chưn Ðức Phật, cung kính chắp tay đồng bạch rằng: “Nguyện Ðức Như Lai vì các chúng sanh mà khai thị pháp môn cam lộ. Chúng tôi nhơn sức oai thần của đại Bồ Tát Phá Ma nên sẽ được xa lìa tất cả nghiệp ma không còn có lòng trở ngại đại chúng”.
Ðức Phật nói: “Lành thay lành thay! Các thiện nam tử, nay các ngươi đã lìa được nghiệp ma, do nhơn duyên nầy ở đời vị lai các người cũng lại được lìa tất cả nghiệp ma. Nầy các thiện nam tử! Ví như trong nhà tối trăm năm, được các đèn sáng thì tất cả tối tăm đều mất. Cũng vậy, từ nhiều kiếp các ngươi bị vô minh làm đen tối, nay thì được phá tan mê lầm mà an trụ trong bửu quang nhựt nguyệt tín giới trí huệ thiền định. Các ngươi hôm nay thỉnh Phật thuyết pháp, do nhơn duyên nầy các ngươi sẽ phá được tối vô minh mà làm đèn sáng trí huệ cho các chúng sanh”.
Bấy giờ trong đại chúng có một đại Bồ Tát hiệu là Pháp Tự Tại Vương bạch rằng: ” Bạch Ðức Thế Tôn! Cảnh giới của Ðức Như Lai chẳng thể nghĩ bàn. Tại sao? Vì Ðức Như Lai có tâm muốn thuyết pháp mà có thể làm cho tất cả đại chúng vân tập vì Bồ đề mà làm đại trang nghiêm đại pháp thần thông, vô lượng thế gian được đại danh xưng thân tâm tịch tĩnh được đại giải thoát và được pháp giới bất khả tư nghị, được mười phương chư Phật ngợi khen, đầy đủ tất cả mười Ba la mật, thành tựu thông đạt thiện quyền phương tiện, hay phá rách lưới nghi của tất cả các ma, hay dứt tất cả tà luận của các chúng sanh, hay khéo phân biệt tất cả pháp giới, đến được đầy đủ trí huệ vô ngại, đầy đủ trí huệ niệm ý hành, đầy đủ sức dũng kiện, đầy đủ bốn trí vô ngại, khéo biết các căn lợi hay độn của các chúng sanh, biết rõ chúng sanh giới mà tùy ý thuyết pháp, thường hay tuyên nói pháp giới thanh tịnh, khéo hiểu tất cả ngữ ngôn của các phương thế gian, hay được tất cả phạm âm thanh tịnh, thành tựu đầy đủ tâm đại từ bi, các tà thuyết dị kiến không làm lay động được, như núi Kim Cương không gì phá hoại được, trọn đủ ba tướng, dựng nên tràng pháp, đã qua khỏi sông sâu mười hai nhơn duyên, đã dứt hai biên kiến, hay điều phục đại chúng, trong vô lượng kiếp được khối pháp bất khả tư nghị, hay trị lành các bịnh như đại y vương, làm cho đại chúng nghe pháp thậm thâm không kinh sợ, đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươì vẻ đẹp trang nghiêm thân đã thành tựu viên mãn ba mươi bảy phẩm trợ pháp Bồ đề và đầy đủ tám giải thoát, thân khẩu và ý đã thuần thiện không còn tạp xen có thể khiến tất cả chúng sanh đều mến thích đến nghe pháp, các pháp thế gian không ô nhiễm được, thường thọ an lạc, thường trụ pháp giới, ban cho pháp bửu, với pháp không nhàm, với pháp có không hề nhiễm dính như cánh hoa sen không thấm nước, sáng hơn tất cả nhựt nguyệt đèn châu, trí sâu hơn biển, nối tánh Tam bửu, điều phục chúng sanh giới, hay khai phát Phật tạng, hộ trì Phật pháp, đầy đủ vô lượng công đức trí huệ. Trong vô lượng kiếp tu tập trang nghiêm vô lượng công đức, thường muốn chứng được nhứt hạnh nhứt tâm nhứt sắc nhứt xứ. Chư Bồ Tát có đủ công đức như vậy nay đều đến tập họp nơi pháp hội nầy. Nguyện Ðức Như Lai nói pháp môn vô ngại công hạnh của Bồ Tát để làm lợi ích cho chúng Bồ Tát quá khứ vị lai và hiện tại, để cho hàng sơ phát tâm chẳng thối chuyển, hàng phát tâm lâu thì được tăng trưởng, hàng hành đạo Bồ để thì được ý thanh tịnh, hàng bất thối Bồ Tát thì học pháp Phật, hàng bổ xứ Bồ Tát thì được anh lạc trang nghiêm, hàng tối hậu thân Bồ Tát thì được Vô thượng Bồ đề, chúng sanh định tánh thì thêm lớn nhơn duyên, kẻ chưa định tánh thì làm nhơn duyên kẻ chưa vào Phật pháp thì làm cho họ vào Phật pháp, kẻ vào Phật pháp thì thêm kính Phật pháp, vì người thích ba thừa mà nói nhứt thừa, ban cho thế gian phước lạc trời người.
Bạch Ðức Thế Tôn! Như Lai xuất thế có bao nhiêu sự bất khả tư nghị như vậy?
Bạch Ðức Thế Tôn! Nay trong đại chúng nầy, mỗi vị Bồ Tát đều có thể thị hiện các đại thần thông. Vì vậy nên chư Phật và chư Bồ Tát đều chẳng thể nghĩ bàn.
Bạch Ðức Thế Tôn! Tại sao các chúng sanh vô minh ái nặng dầu được thấy đại thần thông của chư Bồ Tát như vậy mà vẫn sanh lòng ty hạ ham pháp Thanh Văn hay pháp Duyên Giác.
Bạch Ðức Thế Tôn! Lúc mới phát tâm Bồ đề, Bồ Tát đã hơn hàng Thanh Văn và Duyên Giác.
Bạch Ðức Thế Tôn! Ví như có người vứt bỏ ngọc lưu ly mà lượm lấy thủy tinh. Cũng vậy, chúng sanh bỏ Ðại thừa mà thích thừa Thanh Văn và Duyên Giác. Nếu có chúng sanh đã phát hay muốn phát tâm Vô thượng Bồ đề thì sẽ được tất cả công đức thần thông như đã nói ở trên”.
Nghe Pháp Tự Tại Vương đại Bồ Tát bạch Ðức Phật xong, trong pháp hội có ba mươi ức na do tha trăm ngàn muôn ức chúng sanh Trời và Người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Lúc bấy giờ Ðức Thế Tôn đã biết chư Bồ Tát đã vân tập, Ðức Phật nghĩ rằng hôm nay các thiện nam tử nầy đều muốn được nghe thiệt nghĩa của các pháp, họ đều có thể thọ trì tạng pháp thậm thâm của Phật, họ đều muốn nghe pháp môn vô ngại công hạnh của Bồ Tát.
Nghĩ như vậy, Ðức Phật liền phóng bạch hào tướng quang giữa hai chặng mày. Quang minh nầy có tên là vô sở úy nhiễu bên hữu quanh chư đại chúng đủ bảy vòng rồi nhập vào đảnh đầu của đại Bồ Tát Ðà La Ni Tự Tại Vương.
Thừa thần lực của Ðức Phật, đại Bồ Tát Ðà La Ni Tự Tại Vương hóa ra lọng báu lớn khắp đại Thiên thế giới trang nghiêm với bảy thứ báu. Lọng báu nầy che ngay trên pháp tòa của Ðức Phật.
Hóa lọng báu lớn xong, Ðà La Ni Tự Tại Vương đại Bồ Tát đầu mặt lạy chưn Ðức Phật rồi quỳ dài chắp tay cung kính nói kệ tán thán:
Như Lai tự tại tất cả pháp
Phật quang hay phá tối thế gian
Thế Tôn Phật nhãn không chướng ngại
Hay thấy nghĩa chơn thiệt các pháp
Ðầy đủ vô lượng các công đức
Không thầy tự ngộ các pháp giới
Như Lai phóng quang vì chúng sanh
Nhập vào đầu tôi có cớ gì
Trước đây trí biết chưa được tỏ
Mắt đà la ni tôi cũng vậy
Phật quang nay nhập vào thân tôi
Làm tôi biết rõ các pháp giới
Lại thêm thân tâm được thanh tịnh
Thọ vui vô thượng vô biên lượng
Nay tôi đã biết cảnh giới Phật
Cũng được lạc thuyết vô ngại biện
Khó được hầu gần mười phương Phật
Người gặp cũng không thờ làm thầy
Nay vì nương thần lực của Phật
Muốn hỏi chút pháp lợi chúng sanh
Nhơn duyên gì phát Bồ đề tâm
Còn có duyên gì Phật xuất thế
Duyên gì phóng quang chiếu mười phương
Còn duyên gi hiện thần thông lớn
Duyên chi Phật vì chúng thọ ký
Nguyện Phật chỉ dạy cho chúng rõ
Nay đại chúng này bực thắng thượng
Có thể thọ trì Phật pháp giới
Chúng đây không ma không nghiệp ma
Xin Phật khai thị pháp tạng Phật
Trí tôi thiển cận có mé bờ
Ðâu có khả năng thưa thỉnh Phật
Nay hỏi Như Lai vô biên trí
Làm sao biết được các phương tiện
Nguyện Phật dạy bảo hảng đệ tử
Tôi học đã được pháp tự tại
Ðã có khả năng thuyết đại pháp
Sẽ báo ơn chư Phật mười phương.
Bạch Ðức Thế Tôn! Chư Phật Như Lai bất khả tư nghị, công hạnh Bồ Tát không có ngằn mé, vì vậy nên nay tôi kính hỏi đấng Như Lai Vô thượng Pháp Vương đại từ đại bi, để đem lại sự lợi ích cho chúng sanh về pháp thậm thâm.
Thế nào gọi là Bồ Tát hạnh? Dùng gì làm anh lạc trang nghiêm mà công hạnh của Bồ Tát được thanh tịnh? Làm sao có thể phá được tối ngu si? Làm sao có thể dứt hết lòng nghi lầm? Bồ Tát vì chúng sanh tu tâm từ bi thế nào? Bồ Tát ùng hộ chúng sanh thế nào? Thế nào là Bồ Tát hay tu Bồ Tát nghiệp, thiện nghiệp và bất thối nghiệp? Nguyện Ðức Như Lai xót thương tuyên dạy cho. Ðại chúng trong pháp hội nầy đều có lợi căn trí huệ có thể hiểu lời Phật. Có thể biết pháp giới, có thể thấu đạt pháp môn vô ngại sở hành của Bồ Tát, có thể phá hoại tất cả ma và nghiệp ma, có thể trừ hết lòng nghi, có thể hiểu cảnh giới thậm thâm của Phật, có thể biết chúng sanh giới và chúng sanh tâm tánh, có thể thấy vô lượng chư Phật thế giới, có thể hộ trì Như Lai vô thượng chánh pháp, có thể được đại tự tại nơi tất cả pháp”.
Ðức Thế Tôn khen Ðà La Ni Tự Tại Vương đại Bồ Tát rằng: Lành thay lành thay! Thiện nam tử có thể hỏi Ðức Như Lai về những nghĩa thậm thâm, có thể hay thật hành vô lượng Phật hạnh, ông có thể biết hỏi Ðức Phật như vậy. Nay ông nên lắng nghe, Ðức Như Lai sẽ vì ông mà tuyên nói nếu Bồ Tát thành tựu đầy đủ những công hạnh như vậy thì được đại tự tại nơi tất cả pháp.
Nầy thiện nam tử! Bồ Tát có bốn anh lạc trang nghiêm, đó là giới anh lạc trang nghiêm, tam muội anh lạc trang nghiêm, trí huệ anh lạc trang nghiêm và đà la ni anh lạc trang nghiêm.
Giới anh lạc trang nghiêm có một thứ, đó là đối với chúng sanh không có lòng làm tổn hại, nếu Bồ Tát không có tâm ác hại thì tất cả chúng sanh đều vui mừng thích thấy. Còn có hai thứ, đó là đóng bít ác đạo và mở rộng cửa lành. Còn có ba thứ, đó là thân thanh tịnh, khẩu thanh tịnh và ý thanh tịnh. Còn có bốn thứ, đó là sở cầu đều được, sở nguyện đầy đủ, sở nguyện thành tựu, chỗ muốn thì đều có thể làm được. Còn có năm thứ, đó là tín, giới, định, niệm và huệ. Còn có sáu thứ, đó là chẳng phá giới, chẳng lậu giới, chẳng tạp giới, chẳng hối giới, tự tại giới, và vô lậu giới. Còn có bảy thứ, đó bảy thanh tịnh: bố thí thanh tịnh, nhẫn nhục thanh tịnh, tinh tiến thanh tịnh, thiền định thanh tịnh, trí huệ thanh tịnh, phương tiện thanh tịnh và thiện phương tiện thanh tịnh. Còn có tám thứ, đó là tám cụ túc: vô tác cụ túc, địa cụ túc, bất vong tâm cụ túc. bất huởn cụ túc, chư căn cụ túc. Phật thế cụ túc, ly nạn cụ túc và thiện hữu cụ túc . Còn có chín thứ, đó là bất động, bất úy, định trí, tịch tĩnh, chí tâm, thanh lương, kiết huởn, điều tâm và an trụ điều phục địa. Còn có mười thứ, đó là thân thanh tịnh vì có đủ ba mươi hai tướng tốt, khẩu thanh tịnh vì lời nói không hai, ý thanh tịnh vì đã giải thoát, điền thanh tịnh vì làm cho chúng sanh đầy đủ phước đức, tâm thanh tịnh vì điều phục chúng sanh, cõi nước thanh tịnh vì giáo hóa chúng sanh, danh hiệu thanh tịnh vì được công Ðức Như Lai, huệ thanh tịnh vì có đại thần thông, phương tiện thanh tịnh vì phá các ma chúng, và giới thanh tịnh vì có đủ pháp bất cộng. Nầy thiện nam tử, các sự như vậy gọi là giới anh lạc trang nghiêm.
Nầy thiện nam tử! Tam muội anh lạc trang nghiêm có một thứ, đó là vì chúng sanh mà tu tập từ tâm. Còn có hai thứ, đó là chất trực và nhu nhuyến. Còn có ba thứ, đó là chẳng hư dối, chẳng thô bạo và chẳng tà siểm. Còn có bốn thứ, đó là chẳng tham ái, chẳng sân hận, chẳng bố úy và chẳng si mê. Còn có năm thứ, đó là xa lìa năm cái chướng tam muội. Còn có sáu thứ, đó là tu tập lục niệm tam muội. Còn có bảy thứ, đó là tu tập thất giác chi tam muội. Còn có tám thứ, đó là tu tập bát chánh đạo tam muội. Còn có chín thứ, đó là Bồ Tát tu tập tâm Bồ dề và tâm đại từ bi ở nơi tất cả chúng sanh mà tu tập niệm tâm xa lìa tất cả pháp ác dục có giác có quán tịch tĩnh hỉ lạc được Sơ thiền , xa lìa giác quán nội tâm được hỷ lạc chí tâm tư duy vô giác vô quán định sanh hỷ lạc được đệ Nhị thiền, lìa hỷ tu xả đầy đủ niệm tâm không có phóng dật thân thọ an lạc được đệ Tam thiền, xa lìa khổ lạc diệt trừ tâm ưu hỷ, chẳng phải khổ chẳng phải lạc tu tập xả niệm tịch tĩnh, niệm dược đệ Tứ thiền, xa lìa sắc tướng tu tập vô lượng không tưóng, xa lía không tướng tu vô lượng Thức tướng, xa lìa thức tướng tu Vô sở hữu tướng, xa lìa vô sở hữu tướng tu Phi tưởng phi phi tưởng tướng và mặc dầu chưa thành tựu trí thiện quyền phương tiện, mà dùng sức tam muội giáo hóa chúng sanh. Còn có mười thứ, đó là quán pháp không có sai lầm, thành tựu đầy đủ xa ma tha, tinh tiến không ngừng nghỉ, khéo biết rõ thời tiết, chí tâm thọ trì pháp lành, tâm tịch tĩnh, quán thân vô tướng, thường quán pháp giới và tâm được tự tại và chứng được Thánh tánh. Ðây gọi là tam muội anh lạc trang nghiêm.
Nầy thiện nam tử! Trí huệ anh lạc trang nghiêm có một thứ, đó là tâm không còn nghi. Còn có hai thứ, đó là xa lìa tâm nghi và xa lìa tâm sân. Còn có ba thứ, đó là xa lìa vô minh, phá vỏ vô minh và làm ánh sáng lớn. Còn có bốn thứ, đó là biết khổ, dứt tập, chứng diệt và tu hành đạo phẩm. Còn có năm thứ, đó là giới tụ thanh tịnh, định tụ thanh tịnh, huệ tụ thanh tịnh, giải thoát tụ thanh tịnh và giải thoát tri kiến tụ thanh tịnh. Còn có sáu thứ, đó là thanh tịnh bố thí Ba la mật có ba: một là nội thanh tịnh quán pháp như huyễn, hai là chúng sanh thanh tịnh quán pháp như mộng và ba là Bồ đề thanh tịnh chẳng cầu quả báo. Thanh tịnh giới Ba la mật có ba: một là quán thân như bóng, hai là quán khẩu nhu vang và ba là quán tâm như huyễn. Thanh tịnh nhẫn Ba la mật có ba: một là nghe chê chẳng sân, hai là nghe khen chẳng mừng và ba là lúc bị chặt chém giết hại thường có thể quán pháp giới. Thanh tịnh tinh tiến Ba la mật có ba: một là chẳng tưởng, hai là vững chắc và ba là chẳng thấy pháp có tướng. Thanh tịnh thiền Ba la mật có ba: một là chẳng trụ trước các pháp, hai là tâm chẳng thối chuyển, ba là duyên cảnh thanh tịnh. Thanh tịnh phương tiện Ba la mật có ba: một là nhiếp lấy chúng sanh để cho được giải thoát, hai là thanh tịnh đà la ni để thọ trì chánh pháp và ba là sở nguyên thanh tịnh để tịnh Phật quốc độ. Còn có bảy thứ trí huệ anh lạc trang nghiêm, đó là tu Tứ niệm xứ chẳng lấy chẳng chấp, tu Tứ chánh cần chẳng xuất chẳng diệt, tu Tứ thần túc thân tâm thanh tịnh, tu Ngũ căn biết căn không có căn, tu Ngũ lực hay phá phiền não, tu Bồ đề phần biết pháp giới chơn thiệt và tu tập Thánh đạo không có khứ lai. Còn có tám thứ, đó là tu tam muội chánh định để được rốt ráo thanh tịnh, tu tri để phá si ám, tu trí biết ngũ ấm để biết pháp tu, tu trí biết thập bát giới để hiểu pháp giới đồng hư không, tu trí biết thập nhị nhập để biết pháp tánh bình đẳng, tu trí biết Mười hai nhơn duyên để quán vô ngã và không có ngã sở, tu trí biết tứ Thánh đế để phá bốn điên đảo kiến và tu trí phân biệt biết pháp giới để biết chơn thiệt vậy. Còn có chín thứ, đó là quán vô thường, quán vô thường khổ, quán khổ vô ngã, quán ăn bất tịnh, quán thế gian không gì đáng vui thích, quán trong vòng sanh tử có nhiều lỗi họa, quán giải thoát, quán lìa tham và quán tận diệt vậy. Còn có mười thứ, đó là quán các pháp như ảo huyễn, quán các pháp như mộng, quán các pháp như dương diệm, quán các pháp như âm vang, quán các pháp như thân cây chuối, quán các pháp như mặt trăng trong nước, quán các pháp như bóng, quán pháp giới không có tăng giảm, quán các pháp không có đi hay ở và quán các pháp vô vi không có sanh diệt vậy. Ðây là huệ anh lạc trang nghiêm.
Nầy thiện nam tử! Ðà la ni anh lạc trang nghiêm có một thứ, đó là chẳng mất niệm tâm. Còn có hai thứ , đó là trước thì ghi nhận và sau thì rốt ráo có thể giữ vững. Còn có ba thứ, đó là biết nghĩa, biết chữ và biết nói. Còn có bốn thứ, đó là nói lời chơn chánh, nói lời rõ ràng, nói lời vô ngại và nói lời không lầm lỗi. Còn có năm thứ đó là ngũ y chỉ: y chỉ nơi nghĩa chẳng y chỉ nơi chữ, y chỉ nơi trí chẳng y chỉ nơi thức, y chỉ kinh liễu nghĩa mà chẳng y chỉ nơi kinh bất liễu nghĩa, y chỉ nơi chánh pháp mà chẳng y chỉ nơi người và y chỉ xuất thế chẳng y chi thế tục. Còn có sáu thứ, đó là đúng như lời nói chơn chánh mà làm, lời nói ra đều thành thiệt, phát ngôn được người thích nghe, lời nói đầy ý xót thương, lời nói sanh pháp lành và lời nói hạp thời tiết. Còn có bảy thứ, đó là lời nói lợi ích, lời nói trang nghiêm, lời nói vô ngại, lời nói không trệ, lời nói không có hai, lời nói đã có biết trước và lời nói rõ ràng rành rẽ. Còn có tám thứ, đó là biết lời nói của các địa phương, biết lời nói của các quỷ thần, biết lời nói của chư Thiên, biết lời nói của các loài Rồng, biết lời nói của Thần Càn Thát Bà, biết lời nói của hàng A Tu La, biết lời nói của hàng Kim sí điểu và biết lời nói của các loài súc sanh. Còn có chín thứ, đó là lời nói không e sợ, lời nói không rụt rè, lời nói không vấp váp, biết lời nói giải thoát, biết lời nói đúng pháp, biết lời nói rộng rãi, biết lời nói theo thứ tự, biết lời nói thuyết vô thường và lời nói không cùng tận. Còn có mười thứ, đó là lời nói phá lưới nghi, lời nói khai thị về pháp giới, lời nói khai thị về pháp môn, lời nói mở mang trí huệ, lời nói phá mê tối, lời nói hiểu mỗi mỗì chữ, lời nói khen ngợi Phật, lời nói quở trách phiền não, lời nói phân biệt căn tánh lợi hay độn và lời nói vi diệu khai thị công đức của Ðức Phật. Ðây là đà la ni anh lạc trang nghiêm vậy”.
Ðức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa nầy nên nói tụng rằng:
Bốn anh lạc trang nghiêm
Hay trang nghiêm Ðại thừa
Là giới định trí huệ
Và đà la ni vô thượng
Làm cho ba nghiệp tịnh
Mọi người đều mến thích
Dứt hẳn ba ác đạo
Gọi là giới anh lạc
Ðược đầy đủ sở nguyện
Ðược thân người thân trời
Hay tu tập tinh tiến
Gọi là giới anh lạc
Hay tu định vô thượng
Ðược hai thứ giải thoát
Thấy Niết bàn vô thượng
Gọi là giới anh lạc
Giới chẳng phá chẳng lậu
Vô thượng giới chẳng tạp
Hay được đại tự tại
Giới anh lạc trang nghiêm
Giới tịnh hay tịnh thí
Giới tịnh hay tịnh nhẫn
Giới tịnh ngũ độ tịnh
Giới anh lạc trang nghiêm
Tịnh giới tịnh ba cõi
Giới tịnh bất phóng dật
Vô úy tâm chẳng hối
Gọi là giới anh lạc
Giới định được Thánh tánh
Cũng làm thân tâm tịnh
Nhập được vô biên định
Gọi là giới anh lạc
Chẳng kính sợ chẳng động
Chắc được cõi thanh tịnh
Hay dứt dây phiền não
Gọi là giới anh lạc
Hay điều người khó điều
Hay được danh tiếng lớn
Trang nghiêm tâm tự tại
Gọi là giới anh lạc
Hay làm đúng như lời
Hay sạch miệng bốn nghiệp
Xa lìa các phiền não
Giới anh lạc trang nghiêm
Hay thanh tịnh Phật độ
Hay điều phục chúng sanh
Hay tu đại từ bi
Gọi anh lạc trang nghiêm
Chẳng làm các nghiệp ác
Tu các hạnh Bồ Tát
Ðược thập lực vô úy
Gọi anh lạc trang nghiêm
Hay nghiêm đại Niết bàn
Hay được đại nhơn quả
Từ tâm khắp chúng sanh
Gọi anh lạc trang nghiêm
Hay lìa lòng tham dối
Tu tập bốn nhiếp pháp
Dứt ái sân bố si
Gọi anh lạc trang nghiêm
Hay phá năm cái chướng
Tu tập đại niệm tâm
Trợ đạo chẳng phóng dật
Gọi anh lạc trang nghiêm
Ðầy đủ hai phước trí
Ðúng pháp tu duy nghĩa
Lạc hỷ trụ tịch tĩnh
Gọi anh lạc trang nghiêm
Với pháp không có nghi
Cũng không tâm si loạn
Chơn thìệt hiểu tứ đế
Gọi anh lạc trang nghiêm
Trì giới tâm không chấp
Cũng chẳng lòng kiêu mạn
Chẳng thấy giới người giữ
Gọi anh lạc trang nghiêm
Vô thượng huệ tịnh định
Chẳng biết hai tịnh huệ
Hay rõ biết ba cõi
Gọi anh lạc trang nghiêm
Ý tịnh chẳng kiêu mạn
Thấy bất tịnh chẳng khinh
Biết pháp bất khả thuyết
Gọi anh lạc trang nghiêm
Huệ hay trang nghiêm trí
Trí cũng trang nghiêm huệ
Tự tha Bồ đề tịnh
Gọi anh lạc trang nghiêm
Biết pháp như mộng huyễn
Chẳng nói pháp không có
Khéo tùy thuận thế gian
Gọi anh lạc trang nghiêm
Huệ hay trang nghiêm giới
Giới hay trang nghiêm huệ
Thân khẩu Bồ đề tịnh
Gọi anh lạc trang nghiêm
Thấy pháp như thủy nguyệt
Cũng như nắng lúc nóng
Thuyết pháp xem như vang
Như thành Càn Thát Bà
Phi pháp chẳng làm pháp
Gọi là huệ anh lạc
Huệ hay trang nghiêm nhẫn
Nhẫn cũng trang nghiêm huệ
Thân khẩu Bồ đề tịnh
Gọi anh lạc trang nghiêm
Pháp giới chẳng tăng giảm
Biết rồi điều chúng sanh
Chí tâm quán pháp thân
Gọi anh lạc trang nghiêm
Huệ hay trang nghiêm cần
Tinh tiến trang nghiêm huệ
Tâm định chẳng hối động
Gọi anh lạc trang nghiêm
Huệ hay trang nghiêm định
Ðịnh cũng trang nghiêm huệ
Hay thuyết thậm thâm pháp
Ðược vô thắng thần thông
Hay biết các phương tiện
Ðược vô thượng tổng trì
Pháp độ chúng sanh tịnh
Gọi anh lạc trang nghiêm
Biết các căn lợi độn
Phá phiền não các ma
Thân tâm được tự tại
Gọi anh lạc trang nghiêm
Ðạo không có khứ lai
Cũng không người khứ lai
Chẳng quá khứ vị lai
Chẳng hiện tại người tu
Chẳng phân biệt pháp giới
Hay tịnh tất cánh định
Biết các ấm nhập giới
Gọi tên huệ anh lạc
Ấm nhập giới như không
Không ngã không ngã sở
Sanh diệt do mười hai
Gọi là huệ anh lạc
Biết thiệt đệ nhứt nghĩa
Cũng biết ấm nhập giới
Với pháp chẳng tranh luận
Biết tam thế vô ngại
Phân biệt ba khối chúng
Vì họ nói ba thừa
Dùng Tam bửu giáo hóa
Tu ba vô tưóng định
Vô tướng biết nhứt tướng
Chẳng huyễn biết như huyễn
Vô thuyết hay diễn thuyết
Thuyết không nơi bất không
Các pháp phi thường biến
Chẳng hủy hoại pháp giới
Vì nhơn duyên hòa hiệp
Lưu bố trong pháp giới
Ðây gọi là chơn trí
Chẳng phân biệt pháp giới
Biết rõ động bất động
Biết rõ cạn và sâu
Biết rõ thường vô thường
Gọi là đại tịnh trí
Thường chẳng mất tịnh tâm
Biết rõ nơi pháp giới
Biết chữ cũng biết nghĩa
Nơi thế đế không tối
Nghe rồi hay thọ trì
Hiểu rõ tiếng mọi loài
Hay phá các tà đạo
Tu tập trí vô thượng
Y tứ y vô thượng
Là tổng trì anh lạc
Phật nói tràng công đức
Trang nghiêm Bồ đề tâm
Trong chúng vô úy thuyết
Hiểu rõ thiên thần ngữ
Hay phá các lưới nghi
Hay khai các pháp giới
Hay khen ngôi Tam bửu
Khuyên người đồng cúng dường
Kề cận Phật và Tăng
Tu tập trí vô thượng
Phật nói bốn anh lạc
Trang nghiêm Phật Bồ Tát
Nếu người chí tâm tin
Liền được anh lạc nầy.
Lại nầy thiện nam tử! Ðại Bồ Tát có tám ánh sáng lớn, do ánh sáng nầy mà hay phá được các sự tối tăm làm cho công hạnh của Bồ Tát thanh tịnh.
Những gì là tám ? Ðó là niệm quang, ý quang, hành quang, pháp quang, trí quang, thiệt quang, thần thông quang và vô ngại trí quang vậy.
Niệm quang có tám: một là chẳng mất pháp lành quá khứ, hai là làm pháp lành vị lai, ba là nghe pháp chẳng quên, bốn là tư duy thiệt nghĩa, năm là chẳng bị sáu trần nhiễm hư, sáu là nhớ giữ chánh pháp như người giữ của, ngăn pháp ác và vì pháp lành mà giữ cửa thành thiện pháp, bảy là chẳng bị tà pháp gạt lầm và tám là có thể làm thêm lớn những pháp thuần thiện vậy.
Ý quang cũng có tám: một là nghĩa ý chẳng phải ý chữ, hai là trí huệ ý chẳng hình thức ý , ba là chánh pháp ý chẳng phải ý người, bốn là thiệt ý chẳng phải hư ý, năm là Bồ Tát ý chẳng phải Thanh Văn ý, chẳng phải Duyên Giác ý, sáu là thượng ý chẳng phải hạ ý, bảy là Phật ý chẳng phải thối thất ý và tám là lân mẫn ý chẳng phải hại ý vậy.
Hành quang cũng có tám: một là pháp hành, hai là nhứt thiết hành, ba là chúng sanh hành, bốn là chúng sanh tâm hành, năm là thập nhị nhơn duyên hành , sáu là quảng thuyết hành, bảy là công hạnh hành và tám là nhứt thiết Phật pháp hành vậy.
Pháp quang cũng có tám: một là thế pháp quang, hai là xuất thế pháp quang, ba là vô lậu pháp quang, bốn là vô vi pháp quang, năm là giải thoát pháp quang, sáu là tâm giải thoát pháp quang, bảy là tất cánh giải thoát pháp quang và tám là huệ phá vô minh pháp quang vậy.
Trí quang cũng có tám: một là nhập chánh trí quang, hai là Tu Ðà Hoàn trí quang, ba là Tu Ðà Hàm trí quang, bốn là A Na Hàm trí quang, năm là A La Hán trí quang, sáu là Bích Chi Phật trí quang, bảy là Bồ Tát trí quang và tám là Chánh Giác trí quang vậy.
Thiệt quang cũng có tám: một là chánh định hạnh, hai là được quả Tu Ðà Hoàn, ba là quả Tư Ðà Hàm, bốn là quả A Na Hàm, năm là quả A La Hán, sáu là quả Bích Chi Phật, bảy là Bồ Tát và tám là Phật Bồ đề vậy.
Thần thông quang cũng có tám: một là nhãn quang hay thấy chánh sắc, hai là nhĩ quang hay nghe chánh thanh, ba là niệm quang hay nhớ quá khứ vô số kiếp chúng sanh, bốn là tánh quang hay quan sát tâm tánh thanh tịnh của chúng sanh, năm là hư không quang dùng đại thần thông có thể đến vô lượng thế giới mười phương, sáu là phương tiện quang vì đủ có trí vô lậu, bảy là công đức trang nghiêm quang vì lợi ích tất cả chúng sanh và tám là trí huệ trang nghiêm quang vì phá lòng nghi lầm của tất cả chúng sanh vậy.
Vô ngại trí quang cũng có tám: một là trí quang, hai là ý quang, ba là huệ quang, bốn là Phật quang, năm là chánh kiến quang, sáu là làm thanh tịnh tâm chúng sanh quang, bảy là giải thoát quang và tám là tất cánh quang vậy.
Ðức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa nầy nên nói kệ rằng:
Tu tập sáng niệm tâm
Chẳng quên nghiệp thiện ác
Thích nghe tán tụng kinh
Tu tập chẳng phóng dật
Hay điều phục các căn
An trụ trong tịch tĩnh
Thêm lớn các pháp lành
Tu tập niệm quang minh
Hay ngăn dừng pháp ác
Như người giữ thành giỏi
Hay thủ hộ pháp thành
Chẳng cho bốn ma vào
Chẳng chạy theo âm thanh
Thường tư duy chơn nghĩa
Gần kề thiện tri thức
Hỉ lạc trụ đúng pháp
Trí huệ vô biên thượng
Dứt hẳn các phiền não
Tà pháp chẳng động đươc
Ðời ác chẳng sanh chê
Thành tâm niệm Bồ đề
Chẳng nói tâm Tiểu thừa
Thường thích nhớ thượng ý
Vì người phá hạ ý
Chẳng sợ ma phiền não
Tu tập tâm từ bi
Chẳng nghĩ hại chúng sanh
Ðược đủ trí quang lớn
Hay phá các lòng nghi
Hiểu rõ nghĩa thậm thâm
Biết phương tiện chơn thiệt
Tu bốn trí vô ngại
Thích quán mười hai duyên
Là nhơn của chúng sanh
Biết vô tác vô thọ
Hay tu pháp quang lớn
Hay biết các Phật pháp
Tu hạnh thế xuất thế
Hay đến mười phương cõi
Biết rõ nghiệp Nhơn Thiên
Tu tập trí vô thượng
Ba thừa về nhứt thừa
Tu tập bát chánh đạo
Vì phá pháp ba đời
Như thiệt biết rõ rành
Pháp hữu lậu vô lậu
Lợi ích hàng Nhơn Thiên
Dạy họ dứt hữu lậu
Biết rõ đúng chơn thiệt
Pháp hữu vi vô vi
Tịch tĩnh quang vô ngại
Chẳng dính tướng hữu vi
Biết kiết nhập xuất duyên
Biết chúng tâm tánh tịnh
Nếu có Ðại thừa định
Liền biết pháp như vậy
Thích trụ tánh vô lậu
Xong bốn quả Sa Môn
Biết Bồ Tát đạo hạnh
Nên tu vô ngại trí
Phá tà tu thiệt quang
Vào chứng vô sở úy
Thích nói nghĩa chơn thiệt
Vì phá pháp sanh tử
Nhãn nhĩ tịnh không chướng
Thấy nghe sắc thanh chánh
Quá khứ nhớ chẳng lầm
Cũng biết rõ tha tâm
Ðến mười phương vô ngại
Biết pháp như hư không
Ðược vô lậu trí huệ
Vì điều phục chúng sanh
Ðủ công đức trí huệ
Vì lợi ích chúng sanh
Ở trong vô lượng đời
Cầu hai trang nghiêm nầy
Thích thọ trì tịnh giới
Thích thủ hộ Phật pháp
Tu tập chơn thiệt quang
Vì trụ đúng chánh pháp
Phật nói vô lượng quang
Ðể cho chúng sanh được
Có ai tin kinh nầy
Liền được quang như vậy.
Lại nầy thiện nam tử! Ðại Bồ Tát tu tập đại bi có mười sáu sự.
Những gì là mười sáu?
Một là đại Bồ Tát thấy chúng sanh tham trước ngã kiến, do nơi ngã kiến mà sanh ra các kiến chấp nên luôn bị sanh tử trói buộc, vì vậy nên đại Bồ Tát tu tập đại bi, do tâm đại bi mà vì chúng sanh thuyết pháp giáo hóa để phá các kiến chấp hư vọng như vậy.
Hai là đại Bồ Tát thấy các chúng sanh điên đảo nơi thường thì thấy là vô thường, nơi vô thường thì thấy là thường, nơi khổ thấy là vui nơi vui thì thấy là khổ, nơi tịnh thấy bất tịnh nơi bất tịnh thấy là tịnh, nơi ngã thấy vô ngã nơi vô ngã thấy ngã, do đây đại Bồ Tát tu tập tâm đại bi, do tâm đại bi mà vì các chúng sanh tuyên nói pháp yếu để phá bốn thứ mê chấp điên đảo như vậy.
Ba là đại Bồ Tát thấy các chúng sanh có lòng kiêu mạn, thiệt không có vật mà cho là có vật, thiệt không có sự mà cho là có sự; do đây mà họ sanh ra bảy thứ kiêu mạn, do kiêu mạn mà sanh lớn các pháp ác. Vì vậy mà đại Bồ Tát tu tập tâm đại bi, do tâm đại bi đại Bồ Tát tuyên nói pháp yếu để phá trừ lòng kiêu mạn của các chúng sanh.
Bốn là đại Bồ Tát thấy các chúng sanh bị ngũ cái che trùm, vì bị che trùm nên lòng họ sanh nghi với chánh pháp nghĩa thậm thâm họ không hiểu được, vì các chúng sanh nầy mà đại Bồ Tát tu tâm đại bi, do tâm đại bi đại Bồ Tát tuyên nói pháp yếu để phá năm cái chướng của các chúng sanh ấy.
Năm là đại Bồ Tát thấy các chúng sanh chìm trong biển lục nhập: mắt họ duyên lấy tướng hình sắc, tai họ duyên lấy tướng âm thanh, mũi họ duyên lấy hơi hương, lưỡi họ duyên lấy tướng mùi vị, thân họ duyên lấy tướng chạm xúc và ý họ duyên lấy tướng các pháp, sự duyên lấy tướng như vậy gọi đó là bị chìm, vì các chúng sanh nầy mà đại Bồ Tát tu tâm đại bi đại Bồ Tát tuyên nói pháp yếu để vớt chúng sanh khỏi bị chìm trong sáu trần tướng.
Sáu là đại Bồ Tát thấy các chún,g sanh có bảy thứ mạn, đó là mạn, đại mạn, mạn mạn, ngã mạn, tăng thượng mạn, hạ mạn và tà mạn.Vì các chúng sanh nầy mà Bồ Tát tu tâm đại bi, do tâm đại bi, đại Bồ Tát tuyên nói pháp yếu chơn chánh để dứt các thứ mạn ấy của chúng sanh.
Bảy là đại Bồ Tát thấy các chúng sanh rời lìa thánh đạo, họ thích làm thế tục đạo và ác đạo, vì vậy mà đại Bồ Tát tu tâm đại bi, do tâm đại bi đại Bồ Tát tuyên nói pháp yếu để dứt trừ thế tục đạo và ác đạo của các chúng sanh.
Tám là đại Bồ Tát thấy các chúng sanh tạo nghiệp ác đạo, lệ thuộc vô minh ái, bị vợ con trói buộc nên chẳng được tự tại, vì vậy mà đại Bồ Tát tu tâm đại bi, do tâm đại bi đại Bồ Tát tuyên nói chánh pháp để dứt sự hệ phược ấy cho chúng sanh xuất ly ác đạo.
Chín là đại Bồ Tát thấy các chúng sanh gần gũi bạn xấu ác mà xa lìa bạn lành tốt, lòng họ cam đành tạo gây nghiệp ác, vì vậy mà đại Bồ Tát tu tâm đại bi, do tâm đại bi đại Bồ Tát tuyên nói pháp yếu để dứt nghiệp ác của chúng sanh khiến họ xa bạn ác và gần bạn lành.
Mười là đại Bồ Tát thấy các chúng sanh gây tạo nghiệp xan tham nơi vô minh ái không biết nhàm đủ, vì vậy mà đại Bồ Tát tu tâm đại bi, do tâm đại bi đại Bồ Tát tuyên nói chánh pháp để dứt xan tham vô minh và ái của các chúng sanh ấy và ban cho họ trí huệ.
Mười một là đại Bồ Tát thấy các chúng sanh nhiều ngã kiến đoạn kiến, vì vậy mà đại Bồ Tát tu tâm đại bi, do tâm đại bi đại Bồ Tát tuyên nói pháp yếu ban bố cho họ trí huệ chơn chánh mười hai nhơn duyên để dứt ngã kiến và đoạn kiến của các chúng sanh.
Mười hai là đại Bồ Tát thấy các chúng sanh hiện hành vô minh tối tăm vó nhiều kiến chấp, đó là ngã kiến, chúng sanh kiến, thọ mạng kiến, nhơn kiến, dị kiến, tà kiến, thủ kiến, vì vậy mà đại Bồ Tát tu tâm đại bi, do tâm đại bi đại Bồ Tát tuyên nói chánh pháp để dứt trừ các kiến chấp của các chúng sanh, ban cho họ chánh kiến trí huệ.
Mười ba là đại Bồ Tát thấy các chúng sanh ưa thích trong sanh tử, với thân ngũ ấm cho là thân thiết, vì vậy mà đại Bồ Tát tu tâm đại bi, do tâm đại bi đại Bồ Tát tuyên nói chánh pháp để cho chúng sanh thoát khỏi sanh tử trong ba cõi.
Mười bốn là đại Bồ Tát thấy các chúng sanh bị ma trói buộc, vì vậy mà đại Bồ Tát tu tâm đại bi, do tâm đại bi đại Bồ Tát vì chúng sanh tuyên nói chánh pháp để dứt phá lưới ma nghiệp ma của chúng sanh.
Mười lăm là đại Bồ Tát thấy các chúng sanh ưa thích sự khoái lạc hư đối của thế tục mà chẳng biết được sự vui chơn thiệt và nhân của vui chơn thiệt, vì vậy mà đại Bồ Tát tuyên nói chánh pháp chỉ dạy nhơn hạnh của quả vui chơn thiệt cho chúng sanh.
Mười sáu là đại Bồ Tát thấy các chúng sanh cầu cửa vào Niết bàn mà chẳng biết chỗ, vì vậy mà đại Bồ Tát tu tâm đại bi, do tâm đại bi đại Bồ Tát tuyên nói pháp yếu mở cửa Niết bàn cho các chúng sanh.
Nầy thiện nam tử! Do mười sáu nhơn duyên như vậy mà đại Bồ Tát vì các chúng sanh tu tâm đại bi.
Lại nầy Ðà La Ni Tự Tại Vương! Các loài chúng sanh có ba mươi hai nghiệp ác bất thiện. Vì thấy như vậy mà chư đại Bồ Tát tu tập nghiệp thiện để phá trừ các nghiệp ác ấy cho chúng sanh.
Những gì là ba mươi hai nghiệp?
Một là thấy có các chúng sanh nặng về vô minh ngủ nghỉ, đại Bồ Tát vì họ mà tu tập trí huệ để phá vô minh thùy miên ấy.
Hai là thấy có các chúng sanh hiểu biết thấp hạ mong muốn thấp hạ, đại Bồ Tát vì họ mà tu tập hiểu biết thắng thượng chí nguyện thắng thượng để đem pháp Ðại thừa thắng thượng giáo hóa họ.
Ba là thấy có các chúng sanh thích những phi pháp, đại Bồ Tát tu tập chánh pháp để làm cho các chúng sanh ấy được đại tự tại nơi tất cả pháp.
Bốn là thấy có các chúng sanh ưa tà mạng, đại Bồ Tát tu tập chánh mạng để phá trừ tà mạng ấy.
Năm là thấy có các chúng sanh vào trong rừng tà, đại Bồ Tát tu tập chánh kiến để làm cho các chúng sanh và ra khỏi rừng tà.
Sáu là thấy có các chúng sanh ưa phóng dật, đại Bồ Tát tu tập bất phóng dật để làm cho các chúng sanh xa lìa phóng dật.
Bảy là thấy có các chúng sanh ưa thô bạo, đại Bồ Tát tu tập công hạnh đúng chánh pháp để làm cho các chúng sanh xa lìa thô bạo.
Tám là thấy có các chúng sanh tham lam bỏn xẻn, đại Bồ Tát tu tập hạnh bố thí rộng lớn để làm cho cac chúng sanh dứt tham lam bỏn xẻn.
Chín là thấy có các chúng sanh hay hủy phạm cấm giới, đại Bồ Tát tu trì tịnh giới để trừ lòng phá giới của các chúng sanh.
Mười là thấy có các chúng sanh lòng thường giận hờn, đại Bồ Tát tu tâm từ bi nhẫn nhục để phá lòng giận hờn của các chúng sanh.
Mười một là thấy có các chúng sanh đối với chánh pháp thiện pháp lười biếng thật hành, đại Bồ Tát tu tập siêng cần tinh tấn để trừ sự lười biếng ấy của các chúng sanh.
Mười hai là có các chúng sanh tâm tưởng tán loạn, đại Bồ Tát tu tập chánh định để trừ tâm tán loạn của các chúng sanh.
Mười ba là có các chúng sanh tà trí che tâm, đại Bồ Tát tu tập chánh trí để trừ tà trí ấy của các chúng sanh.
Mười bốn là có các chúng sanh nói nghĩa điên đảo, đại Bồ Tát tư duy chánh nghĩa để trừ sự điên đảo ấy của các chúng sanh.
Mười lăm là thấy có các chúng sanh ưa gây tạo sự nghiệp thế tục, đại Bồ Tát tu tập thiện quyền phương tiện để trừ lòng ưa thích tạo nghiệp thế tục ấy của các chúng sanh.
Mười sáu là thấy có các chúng sanh bị phiền não trói buộc, đại Bồ Tát tu tập chánh pháp tự dứt trừ phiền não và để làm cho các chúng sanh cũng dứt trừ phiền não.
Mười bảy là thấy có các chúng sanh bị buộc chặt nơi ngã kiến, đại Bồ Tát trước tự trừ ngã kiến rồi sau trừ ngã kiến của các chúng sanh.
Mười tám là thấy có các chúng sanh các căn chẳng điều phục, đại Bồ Tát tu tập trước tự điều phục các căn rồi sau làm cho các chúng sanh điều phục các căn của họ
Mười chín là thấy có các chúng sanh nói không nghiệp nhơn không quả báo, đại Bồ Tát tuyên nói nghiệp nhơn quả báo để phá trừ tà kiến bác nhân quả của các chúng sanh.
Hai mươi là thấy có các chúng sanh chẳng biết ân nghĩa, đại Bồ Tát tuyên nói về ân nghĩa để trừ lòng chẳng biết ơn của các chúng sanh ấy.
Hai mươi mốt là thấy có các chúng sanh chưa được mà tự cho là đã được, đại Bồ Tát tu tập chánh pháp để trừ lỗi tăng thượng mạn của các chúng sanh ấy.
Hai mươi hai là thấy có các chúng sanh ác khẩu thô bạo, đại Bồ Tát tu tập thiện ngữ dịu dàng để trừ ác khẩu của các chúng sanh.
Hai mươi ba là thấy có các chúng sanh tham lam chẳng biết vừa đủ, đại Bồ Tát tu tập biết đủ để trừ lòng không biết đủ của các chúng sanh.
Hai mươi bốn là thấy có các chúng sanh chẳng cung kính cha mẹ và sư trưởng, đại Bồ Tát tu tập hiếu thuận để làm cho chúng sanh biết cúng dường cung kính tôn trọng các bực cha mẹ sư trưởng.
Hai mươi lăm là thấy có các chúng sanh nghèo cùng khốn khổ, đại Bồ Tát tu tập bảy thánh tài để trừ sự nghèo cùng khốn khổ của các chúng sanh.
Hai mươi sáu là thấy có các chúng sanh bị bốn loại rắn độc làm bịnh, đại Bồ Tát tu tập thân niệm xứ để làm cho các chúng sanh xa lìa bốn loại rắn độc ấy.
Hai mươi bảy là thấy có các chúng sanh hiện hành vô minh tối tăm, đại Bồ Tát tu tập trí huệ để làm cho các chúng sanh ấy thắp đèn trí huệ..
Hai mươi tám là thấy có các chúng sanh thích nhà ngục tam giới, đại Bồ Tát tu tập pháp giải thoát xuất ly để dạy cho các chúng sanh biết xuất ly tam giới.
Hai mươi chín là thấy có các chúng sanh thường hành tà đạo, đại Bồ Tát tu tập chánh đạo để làm cho các chúng sanh trừ bỏ tà đạo.
Ba mươi là thấy có các chúng sanh tham ái thân mạng, đại Bồ Tát tu tập lòng chẳng tham ái thân mạng mình để dạy chúng sanh bỏ lòng tham ái thân mạng.
Ba mươi mốt là thấy có các chúng sanh chẳng biết cung kính cúng dường Tam bửu, đại Bồ Tát tu tập tâm tịnh tín để làm cho các chúng sanh phát lòng tin ngôi Tam bửu.
Ba mươi hai là thấy có các chúng sanh thiệt chẳng phải là Phật Thế Tôn mà tự xưng là Phật Thế Tôn, đại Bồ Tát tu tập sáu chánh niệm để làm cho các chúng sanh ấy biết pháp chơn thiệt vậy.
Nầy thiện nam tử! Trên đây là ba mươi hai nghiệp hữu lậu của chúng sanh, đại Bồ Tát thấy rồi tự mình tu tập pháp đối trị thành tựu đầy đủ pháp lành rồi phá các ác nghiệp khuyên các chúng sanh thật hành thiện nghiệp.
Nầy thiện nam tử! Ðại Bồ Tát có vô lượng công hạnh, tại sao? Vì chúng sanh có vô lượng môn, vì đóng bít vô lượng cửa phiền não ấy mà đại Bồ Tát tu tập vô lượng công hạnh lành.
Nầy thiện nam tử! Như có chúng Thanh Văn và Bích Chi Phật đông bằng số cát sông Hằng, muốn đem số đông nầy so sánh với Bồ Tát sơ phát Bồ đề tâm thì chẳng bằng một phần trăm một phần ngàn, cho đến không thể lấy gì ví dụ được. Tại sao? Vì hàng nhị thừa vì giải thoát cho mình mà quán xét dứt trừ các phiền não. Còn Bồ Tát thì không phải như vậy. Các Bồ Tát luôn vì chúng sanh làm cho họ được giải thoát mà quán xét đối trừ các phiền não.
Nầy thiện nam tử! Các công nghiệp được làm của chư Bồ Tát là rất hơn công nghiệp của các phàm phu và hàng Nhị thừa. Tại sao? Vì việc làm của phàm phu tánh chất nó là phiền não là hữu lậu. việc làm của hàng Nhị thừa dầu tánh chất chẳng phải phiền não là vô lậu nhưng có biên tế, còn việc làm của Bồ Tát vô biên vộ lượng, vì vậy mà công hạnh của Bồ Tát hơn cả hàng Thanh Văn và Duyên Giác”.
Bấy giờ Ðà La Ni Tự Tại Vương Bồ Tát nghe pháp ấy rồi lòng rất vui mừng hớn hở vô lượng mà bạch Ðức Phật rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Rất là lạ lùng rất là đặc biệt, lời Ðức Phật dạy chẳng thể nghĩ bàn.
Ðức Như Lai đã nói Bồ Tát anh lạc trang nghiêm, Ðức Như Lai đã nói Bồ Tát quang minh, Bồ Tát đại bi, Bồ Tát thiện nghiệp.
Nguyện cầu Ðức Như Lai tuyên nói chư Phật quán xét các chúng sanh mà sanh khởi tâm đại bi thế nào? Sao gọi là bi và bi có những công hạnh gì, có những tướng mạo gì, do nhơn duyên gì mà sanh khởi, sao gọi là Phật nghiệp và Phật nghiệp có những công hạnh gì, có những tướng mạo gì, do nhơn duyên gì mà phát khởi lên?
Lành thay Ðức Thế Tôn đấng Nhứt Thiết Trí, xin nói rộng về công nghiệp của Như Lai”.
Ðức Phật phàn bảo: “Lành thay lành thay! Nầy thiện nam tử nay ông nên lắng nghe suy nhớ kỹ, Phật sẽ vì ông mà phân biệt giải nói.
Nầy thiện nam tử! Tất cả chư Phật chỗ có đại bi chẳng phát xuất chẳng hiện hành, tại sao, vì thường chẳng biến đổi, vì trong vô lượng kiếp tu tập mà được đại bi, nên đại bi ấy chẳng hiện hành, chẳng chuyển khởi, chẳng tu tập chẳng rời bỏ mà có khả năng làm lợi ích cho tất cả chúng sanh.
Nầy thiện nam tử! Ðại bi của chư Phật vô lượng vô biên, tâm ấy bình đẳng. Dầu dùng công sức của vô lượng cái lưỡi biện tài trong thời gian nhiều kiếp cũng không thể tuyên nói hết được.
Nầy thiện nam tử! Chư Phật Thế Tôn chưa có lúc nào xa lìa đại bi như vậy. Vô thượng Bồ đề và đại bi ấy, hai pháp như vậy bình đẳng không có sai khác.
Nầy thiện nam tử! Vô thượng Bồ đề của chư Phật Như Lai vô căn vô trụ. Chư Phật Như Lai biết căn biết trụ nên Vô thượng Bồ đề không có căn không có trụ. Tất cả chúng sanh thảy đều không có, không có căn không có trụ. Vì muốn ban cho chúng sanh Vô thượng Bồ đề vô căn vô trụ mà chư Phật Thế Tôn khởi tâm đại bi. Nơi đây, vì muốn cho chúng sanh biết vô căn vô trụ mà Ðức Như Lai tuyên nói chánh pháp.
Nầy thiện nam tử! Luận về Bồ đề là thanh tịnh là tịch tĩnh. Thế nào là thanh tịnh, thế nào là tịch tĩnh? Thanh tịnh gọi là trong, tịch tĩnh gọi là ngoài. Bên trong gọi là nhãn rỗng không , rỗng không gọi là không có ngã không có ngã sở, tại sao, vì tánh là một vậy. Như nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý cũng như vậy, tại sao, vì tánh là một vậy.
Ðã biết nhãn rỗng không rồi thì không trụ trước nơi sắc hình , tâm chẳng trụ trước nơi sắc thì gọi là tịch tĩnh. Như sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp cũng như vậy.
Vì tất cả chúng sanh chẳng biết Bồ đề thanh tịnh tịch tĩnh nên Ðức Phật Như Lai khởi tâm đại bi diễn nói chánh pháp cho họ được biết vậy.
Nầy thiện nam tử! Tất cả chúng sanh tâm tánh bổn lai thanh tịnh. Vì tánh thanh tịnh nên tất cả phiền não kiết sử không nhiễm ô được. Như hư không chẳng thể nhiễm ô, tâm tánh và không tánh đồng nhau không có sai khác.
Chúng sanh vì chẳng biết tâm tánh thanh tịnh nên bị dục tham phiền não trói buộc, vì vậy mà Ðức Phật Như Lai khởi tâm đại bi diễn nói chánh pháp làm cho họ được biết vậy.
Nầy thiện nam tử luận về Bồ đề chẳng thủ chẳng xả. Thế nào là chẳng thủ? Chư Phật Như Lai chẳng thấy tất cả pháp có thử ngạn bỉ ngạn, tại sao, vì tất cả pháp rời lìa thử bỉ vậy. Chư Phật Như Lai biết thật như vậy nên gọi là bất thủ.
Thế nào là bất xả? Tất cả chúng sanh chẳng biết pháp giới, chư Phật Như Lai tuyên dạy cho họ biết rõ pháp giới, đây gọi là bất xả vậy. Vì duyên cớ nầy mà chư Phật Như Lai phát khởi tâm đại bi diễn nói chánh pháp làm cho chúng sanh biết rõ hai pháp bất thủ và bất xả như vậy.
Nầy thiện nam tử! Bồ đề vô tưởng vô duyên . Thế nào là vô tưởng? Chẳng thấy có nhãn thức cho đến ý thức, chẳng thấy có sắc tướng cho đến pháp tướng, đây gọi là vô tướng. Thế nào là vô duyên? Ở trong các pháp như vậy, vì chẳng biết chẳng thấy nên không có thủ trước, đây gọi là vô duyên. Vô tưởng và vô duyên gọi là thánh hạnh. Thế nào gọi là Thánh hạnh ? Vì rằng chẳng hiện hành nghiệp hạnh tam giới vậy.
Nầy thiện nam tử! Chẳng hiện hành nghiệp hạnh giới như vậy gọi là thánh hạnh, tất cả thánh nhơn chẳng hiện hành nơi nghiệp hạnh ấy. Chúng sanh chẳng hiện hành thánh hạnh như vậy, nên chư Phật Như Lai phát khởi tâm đại bi diễn nói chánh pháp cho chúng sanh được biết.
Nầy thiện nam tử! Bồ đề chẳng phải là tam thế. Quá khứ ý, vị lai thức và hiện tại tham đây gọi là ba phần thời gian. Vì biết rõ được ba phần như vậy nên ý với thức và tham không có chỗ an trụ, vì vậy mà chẳng nhớ quá khứ chẳng cầu vị lai chẳng tham ái hiện tại. Nếu thấy tam thế đều bình đẳng thì gọi là chánh kiến. Vì muốn tất cả chúng sanh được chánh kiến bình đẳng như vậy nên chư Phật Như Lai phát khởi tâm đại bi diễn nói chánh pháp.
Nầy thiện nam tử! Bồ đề vô thân vô vi. Thế nào là vô thân? Chẳng phải nhãn thức giới cho đến chẳng phải ý thức giới, đây gọi là vô thân. Thế nào là vô vi? Bất sanh bất diệt bất tận bất trụ, không có ba tướng sanh trụ và diệt, đây gọi là vô vi.
Nầy thiện nam tử! Tất cả pháp tánh là vô tánh, nếu vô tánh thì không có sai biệt gọi là không có hai. Vì vậy nên Bồ đề không có thân không có vi tác. Tất cả chúng sanh chẳng biết Bồ đề vô thân vô vi, vì vậy nên chư Phật Như Lai phát khởi tâm đại bi diễn nói chánh pháp cho họ biết rõ như vậy.
Nầy thiện nam tử! Bồ đề không có phân biệt không có cú nghĩa. Thế nào là không có phân biệt ? Thế nào là không có cú nghĩa?
Vô sở trụ gọi là không có phân biệt, chẳng nhiếp thuộc về chữ gọi là không có cú nghĩa.
Chẳng phải có hai gọi là không có phân biệt, chẳng nhập vào pháp giới gọi là không có cú nghĩa.
Không động dao gọi là không có phân biệt, chẳng biến đổi gọi là không có cú nghĩa.
Vì rỗng không nên gọi là không có phân biệt, vì chẳng thể nói được nên gọi là không có cú nghĩa.
Vì không giác không quán nên gọi là không có phân biệt, vì không có tướng nên gọi là không có cú nghĩa.
Vì chẳng phát khởi nên gọi là không có phân biệt, vì không có nguyện cầu nên gọi là không có cú nghĩa.
Biết chúng sanh giới đồng với hư không gọi là không có phân biệt, không có chúng sanh giới gọi là không có cú nghĩa.
Chẳng sanh gọi là không có phân biệt, chẳng trụ gọi là không có cú nghĩa.
Chẳng diệt gọi là không có phân biệt, vô vi gọi là không có cú nghĩa.
Chẳng hành gọi là không có phân biệt, bình đẳng gọi là không có cú nghĩa.
Biết bình đẳng gọi là không có phân biệt, tịch tĩnh gọi là không có cú nghĩa.
Vì chúng sanh chẳng biết như vậy, nên chư Phật Như Lai phát khởi tâm đại bi tuyên nói chánh pháp cho họ biết rõ các nghĩa ấy.
Nầy thiện nam tử! chẳng thể dùng thân để được, chẳng thể dùng tâm để được, tại sao, vì thân tâm như huyễn vậy. Nếu có thể biết rõ được thân tâm chơn thiệt thì gọi là Bồ đề. Nói gọi là Bồ đề đó là vì để lưu bố thế tục, nhưng tánh và tướng Bồ đề thiệt không thể nói được.
Nầy thiện nam tử ! Luận về Bồ đề thì chẳng thể nói thân, chẳng thể nói tâm, chẳng thể nói pháp, chẳng thể nói phi pháp, chẳng thể nói có, chẳng thể nói không có, chẳng thể nói thiệt, chẳng thể nói rỗng không, tại sao, vì tánh chẳng thể nói được vậy.
Bồ đề không có trụ xứ chẳng thể tuyên nói được dường như hư không. Vì biết thiệt tất cả pháp chẳng thể tuyên nói được, trong chữ không có pháp, trong pháp không có chữ, chỉ vì lưu bố theo thế tục mà tuyên nói. Tất cả phàm phu chẳng biết chơn thiệt, nên chư Phật Như Lai khởi tâm đại bi diễn nói chánh pháp làm cho họ biết chơn thiệt.
Nầy thiện nam tử! Bồ đề vô thủ vô duyên. Thế nào là vô thủ, thế nào là vô duyên?
Biết nhãn chơn thiệt gọi là vô thủ, biết nhãn không có sắc cảnh gọi là vô duyên.
Biết nhĩ chơn thiệt gọi là vô thủ, biết nhĩ không có thanh cảnh gọi là vô duyên.
Biết tỷ chơn thiệt gọi là vô thủ, biết tỷ không có hương cảnh gọi là vô duyên.
Biết thiệt chơn thiệt gọi là vô thủ, biết thiệt không có vị cảnh gọi là vô duyên.
Biết thân chơn thiệt gọi là vô thủ, biết thân không có xúc cảnh gọi là vô duyên.
Biết ý chơn thiệt gọi là vô thủ, biết ý không có pháp cảnh gọi là vô duyên.
Như Lai Thế Tôn do nghĩa như vậy biết Bồ đề vì không có thủ trước nên gọi là không có nhãn, vì không có nhà cửa nên gọi là vô duyên. Nhãn thức chẳng trụ trong cảnh sắc kia gọi đó là không nhà cửa, nhẫn đến ý thức cũng như vậy.
Tất cả chúng sanh tâm không có chỗ trụ ở. Như Lai Thế Tôn như thiệt biết tâm không có chỗ trụ ở. Chỗ trụ ở có bốn thứ, đó là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn và hành uẩn. Nơi bốn thứ nầy tâm không có chỗ trụ ở, đây gọi là tâm không có chỗ trụ ở. Vì vậy mà gọi rằng tất cả các pháp đều không có chỗ trụ ở. Như Lai Thế Tôn như thiệt biết đó, mà vì các hàng phàm phu không thể biết được, nên Như Lai Thế Tôn phát khởi tâm đại bi diễn nói chánh pháp để cho họ được biết chơn thiệt vậy.
Nầy thiện nam tử! Bồ đề gọi là rỗng không, nhưng trong Bồ đề không có tướng rỗng không, đây gọi là rỗng không. Tất cả pháp rỗng không Bồ đề cũng rỗng không, Như Lai Thế Tôn chơn thiệt biết được rỗng không như vậy, nên Như Lai gọi là đấng biết rỗng không. Chư Phật gọi là đấng giác ngộ tất cả các pháp rỗng không trong rỗng không nhưng chẳng có giác tri, cũng hay biết rõ Vô thượng Bồ đề. Rỗng không và Bồ đề là nhứt như, rỗng không cùng Bồ đề là một chẳng phải là hai. Rời rỗng không mà Bồ đề có pháp riêng khác mới được nói là hai. Vì không có hai nên gọi đó là rỗng không, vì không có danh tự nên gọi đó là rỗng không. Vì không có tướng mạo nên gọi đó là rỗng không, vì không có oai nghi nên gọi đó là rỗng không, vì không có tu hành nên gọi đó là rỗng không, vì không có ngôn thuyết nên gọi đó là rỗng không.
Nầy thiện nam tử! Trong đệ nhứt nghĩa không có các pháp thế nào nói là rỗng không. Ví như hư không không có ngôn không có thuyết, vì không có ngôn thuyết nên gọi là hư không. Trong không có ngôn thuyết cũng không có ngôn thuyết, đây gọi là rỗng không.
Tất cả các pháp cũng như vậy, pháp không có danh tự nói là danh tự, danh tự như vậy cũng không có chỗ trụ ở. Nếu danh tự không có trụ ở thì các pháp dưới danh tự ấy cũng không có chỗ trụ ở.
Như Lai Thế Tôn chơn thiệt biết các pháp như vậy không có sanh không có diệt. Vì chơn thiệt biết nên được giải thoát.
Bổn lai không có hệ phược sao lại gọi là được giải thoát? Vì lẽ ấy nên Như Lai Thế Tôn không có hệ phược không có giải thoát.
Các pháp như vậy tất cả hàng phàm phu chẳng có thể biết được, vì thế nên chư Phật Thế Tôn khởi phát lòng đại bi diễn nói chánh pháp cho họ được biết.
Nầy thiện nam tử! Luận về Bồ đề ấy đồng như hư không. Tánh hư không chẳng bằng chẳng thấp, Bồ đề cũng như vậy. Nếu pháp đã là không có tánh thì chẳng thể nói là có bằng có thấp. Như Lai Thế Tôn thiệt biết các pháp không có bằng không có thấp nhẫn đến vi trần không có bằng không có thấp.
Nếu pháp có tánh chính là như thiệt trí. Bực như thiệt trí biết tất cả pháp trước không nay có, đã có lại không, lúc sanh lúc diệt không chỗ hệ thuộc, theo duyên mà sanh, theo duyên mà diệt, do nghĩa nầy mà gọi là đạo. Do dứt đạo nầy nên gọi là Bồ đề.
Vì các hàng phàm phù chằng biết đạo chơn thiệt như vậy, nên chư Phật Thế Tôn phát khởi đại bi tuyên nói chánh pháp cho họ được biết.
Nầy thiện nam tử! Bồ đề gọi là chơn thiệt cú, chơn thiệt cú ấy tức là Bồ đề. Hai cú như vậy đồng nhau không sai khác. Sắc cũng như vậy, thọ tưởng hành thức, địa thủy hỏa phong, nhãn giới sắc giới nhãn thức giới, nhĩ giới thanh giới nhĩ thức giới, tỷ giới hương giới tỷ thức giới, thiệt giới vị giới thiệt thức giới, thân giới xúc giới thân thức giới, ý giới pháp giới ý thức giới cũng đều như vậy, đây gọi là pháp lưu bố theo thế tục.
Như Lai chơn thiệt biết rõ các ấm nhập giới pháp như vậy không có điên đảo. Bực chẳng điên đảo biết pháp quá khứ bất sanh bất diệt, biết pháp vị lai bất sanh bất diệt, biết pháp hiện tại cũng bất sanh bất diệt, biết như vậy gọi là chẳng điên đảo, gọi là chơn thiệt cú, chơn thiệt cú ấy, như một pháp thì tất cả pháp cũng như vậy, như tất cả pháp thì một pháp cũng như vậy. Chơn thìệt cú nầy các hàng phàm phu chẳng biết, vì vậy nên chư Phật Như Laì phát khởi tâm đại bi tuyên nói chánh pháp cho họ được biết.
Nầy thiện nam tử! Luận về Bồ đề ấy, chẳng phải nội chẳng phải ngoại. Thế nào là nội, thế nào là ngoại?
Không bị tạo tác là chẳng phải nội, không bị giác tri là chẳng ngoại.
Nội ấy có nghĩa là trụ ở, ngoại ấy có nghĩa là tướng dạng. Thể của Bồ đề chẳng phải trụ ở chẳng phải tướng dạng, nên gọi Bồ đề chẳng phải nội chẳng phải ngoại.
Lại nữa, chẳng phải nội là chẳng phải ba nghiệp thân khẩu và ý, chẳng phải ngoại là chẳng phải ba nghiệp duyên.
Chẳng phải nội là vô tướng giải thoát môn, chẳng phải ngoại là không giải thoát môn.
Các nghĩa như vậy hàng phàm phu chẳng biết. Vì thế chư Phật Như Lai phát khởi tâm đại bi diễn nói chánh pháp cho họ được biết.
Nầy thiện nam tử! Luận về Bồ đề là vô lậu là vô thủ. Thế nào là vô lậu và thế nào là vô thủ ?
Vô lậu là xa lìa bốn lưu, đó là dục lưu, hữu lưu, vô minh lưu và kiến lưu. Vô thủ là xa lìa bốn thủ, đó là dục thủ, hữu thủ, kiến thủ và giới thủ.
Các chúng sanh bị vô minh che trùm luôn đi nơi bốn thủ, do khát ái nên làm ngã và ngã sở.
Như Lai Thế Tôn biết rõ ngã không căn bổn nên ngã thanh tịnh, do ngã thanh tịnh nên có thể thanh tịnh chúng sanh. Ngã thanh tịnh thì chẳng giác tri tất cả các pháp cũng chẳng tư duy tất cả phi pháp, chẳng sanh khởi vô minh, do chẳng khởi vô minh nhơn duyên nên chẳng khởi mười hai nhơn duyên hữu, hữu nhơn duyên chẳng khởi thì bất sanh, vì bất sanh nên nhập vào quyết định tụ. Quyết định tụ ấy gọi là liễu nghĩa. Liễu nghĩ ấy gọi là đệ nhứt nghĩa. Ðệ nhứt nghĩa ấy gọi là không có chúng sanh. Nghĩa không có chúng sanh gọi là nghĩa bất khả thuyết. Nghĩa bất khả thuyết chính là nghĩa mười hai nhơn duyên. Nghĩa mười hai nhơn duyên chính là nghĩa pháp. Nghĩa pháp ấy chính là Như Lai. Do nghĩa như vậy nên trong khế kinh nói nếu có ai thấy được mười hai nhơn duyên thì là người thấy pháp. Thấy pháp là thấy Như Lai. Thấy Như Lai ấy chính là không chỗ thấy. Chỗ thấy là tà, tà kiến ấy đó là pháp tướng số. Như Lai không có tưởng cũng không có tưởng số. Do nơi nghĩa nầy nên thấy Như Lai là không có chỗ thấy. Nếu thấy Như Lai không có tướng, không có tác, không có tri, không có giác, thì gọi là chơn thiệt thấy Như Lai.
Cũng vậy, Ðức Như Lai biết rõ tất cả các pháp bình đẳng như vậy, pháp giới vô lậu vô thủ.
Các hàng phàm phu chẳng thể rõ biết được như vậy, vì thế Như Lai Thế Tôn phát khởi tâm đại bi tuyên nói chánh pháp cho họ được biết.
Nầy thiện nam tử! Luận về Bồ đề là thanh tịnh là tịch tĩnh là quang minh là vô tranh. Thế nào là thanh tịnh, thế nào là tịch tĩnh, thế nào là quang minh và thế nào là vô tranh?
Chẳng xen tạp phiền não thì gọi đó là thanh tịnh. Không giải thoát môn thì gọi đó là tịch tĩnh. Vô tướng giải thoát môn và vô nguyện giải thoát môn thì gọi đó là quang minh. Vô sanh vô diệt thì gọi đó là vô tranh. Lại nữa, vô sanh ấy thì gọi đó là thanh tịnh. Vô diệt thì gọi đó là tịch tĩnh. Vô thủ thì gọi là quang minh. Bất xuất thì gọi là vô tranh.
Lại nữa, tánh thì gọi là thanh tịnh. Không có các phiền não thì gọi là tịch tĩnh là quang minh là vô tranh.
Lại nữa, pháp giới gọi là thanh tịnh. Tánh chơn thiệt gọi là tịch tĩnh là quang minh là vô tranh.
Lại nữa, tánh hư không gọi là thanh tịnh. Pháp giới vô phân biệt thì gọi là tịch tĩnh là quang minh là vô tranh.
Lại nữa, nội ngoại thanh tịnh thì gọi đó là thanh tịnh. Nơi các pháp nội và ngoại chẳng thủ lấy chẳng trụ trước, thì gọi đó là tịch tĩnh là quang minh là vô tranh.
Lại nữa, chơn thiệt biết ngũ ấm thì gọi đó là thanh tịnh. Chơn thiệt biết thập bát giới thì gọi đó là tịch tĩnh là quang minh. Xa lìa lục nhập thì gọi đó là vô tranh.
Lại nữa, thấy quá khứ tận thì gọi là thanh tịnh. Thấy vị lai chẳng sanh thì gọi là tịch tĩnh. Thấy pháp hiện tại an trụ nơi pháp giới không có động chuyển thì gọi đó là quang minh là vô tranh.
Thanh tịnh tịch tĩnh quang minh và vô tranh, bốn pháp như vậy đồng nhập vào một giới một pháp và một câu. Ba pháp như vậy tức là Niết bàn. Vì xa lìa phiền não nên gọi là thanh tịnh, vì rốt ráo thanh tịnh nên gọi là tịch tĩnh, vì không tối tăm nên gọi là quang minh, vì bất khả thuyết nên gọi là vô tranh. Vì thế nên nói đức Thích Ca Như Lai nín lặng không chỗ nói.
Nầy thiện nam tử! Luận về Bồ đề ấy tức là hư không. Hư không ấy gọi là pháp. Như pháp, chúng sanh cũng vậy. Như chúng sanh, phước điền cũng vậy. Như phước điền, Niết bàn cũng vậy. Do nghĩa nầy nên tất cả pháp đồng với Niết bàn.
Ðức Như Lai có thể biết rõ pháp giới như vậy nên gọi là Phật.
Tu tập đầy đủ thanh tịnh tịch tĩnh quang minh và vô tranh, bốn câu như vậy thì gọi đó là Phật”.
Vì Ðức Như Lai có thể biết rõ được thiện phương tiện nên lúc đầu mới được Vô thượng Bồ đề liền nín lặng an trụ không có tuyên nói để chờ Ðại Phạm Vương thưa thỉnh. Lúc ấy, Thi Khí Ðại Phạm Vương cùng sáu vạn tám ngàn vị Phạm Thiên đến chỗ Phật đầu mặt lạy Phật rồi chắp tay tôn kính bạch rằng: Cầu nguyện Ðức Như Lai vì các chúng sanh chuyển chánh pháp luân, lại tiến nói kệ rằng:
Phật pháp ly thanh tịnh, tịch tĩnh
Ðại quang vô ngại, không có tranh
Không chữ, không tiếng cũng không nói
Chơn thiệt biết rõ như pháp giới
Phật vì chúng sanh vô lượng kiếp
Khổ hạnh thọ trì giới thế gian
Ðể thức tỉnh chúng sanh mê ngủ
Mãi làm phóng dật mê thiệt nghĩa
Còn vô lượng chúng trong hội nầy
Chứa căn lành nơi vô lượng Phật
Hay hiểu nghĩa sâu nghĩa chơn thiệt
Nguyện Phật chuyển pháp luân vô thượng
Chúng đây đã phục tất cả ma
Muốn đuợc mở bày cửa cam lộ
Ðức Phật hiệu là chơn Ðạo Sư
Chỉ đường vô thượng cho chúng sanh
Ðức Phật dầu có đại từ bi
Thương mến chúng sanh như con một
Nay tôi thỉnh pháp là đúng thời
Phật chuyển chánh pháp luân vô thượng
Như xưa ba Phật chuyển pháp luân
Nguyện cầu Như Lai nay cũng vậy
Vô lượng Ðạo Sư không thối chuyển
Dạy các chúng sanh đạo nhứt chơn
Như mưa nhuần lớn các cỏ cây
Làm cho chúng sanh hết nóng khát
Phật ban pháp vũ cho chúng sanh
Vì được vô lượng vô thượng quả
Lúc sơ sanh Phật có phát nguyện
Ta sẽ cứu khổ các chúng sanh
Chúng sanh khát mong vị cam lộ
Nguyện đại từ bi ban mưa pháp.
Bấy giờ Ðức Thế Tôn đã thọ thỉnh rồi liền đi qua thành Ba La Nại trong rừng Lộc Dã chỗ ở của các tiên nhơn mà chuyển chánh pháp luân. Pháp luân ấy, tất cả hàng chư Thiên, Ma Vương, Phạm Vương và các Sa Môn hoặc các Bà La Môn khác đều chẳng thể chuyển được. Lúc ấy Ðức Thế Tôn nói pháp Tứ đế, Tỳ Kheo Kiều Trần Như được pháp nhãn thanh tịnh. Tiếng pháp ấy vang khắp cả cõi Ðại Thiên . Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:
Nghĩa pháp thậm thâm chẳng thể nói
Ðệ nhứt nghĩa không tiếng không chữ
Tỳ kheo Trần Như nói các pháp
Chứng được bực tri kiến chơn thiệt
Chính ta thuở xưa vô lượng đời
Chứng được Bồ đề nay đã được.
Lúc Ðức Như Lai chuyển chánh pháp luân như vậy, vô lượng chúng sanh đều được điều phục. Ðức Như Lai thị hiện đại bi thần thông như vậy các chúng sanh được thấy có vô số người phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Nầy thiện nam tử! Mười sáu đại bi của Như Lai như vậy, tất cả đều vì các chúng sanh mà tu tập. Do nhơn duyên đại bi ấy, Ðức Như Lai vì mỗi mỗi chúng sanh trải qua số kiếp như số cát sông Hằng ở trong đại địa ngục thọ những khổ não mà tâm không thối chuyển , tâm đại bi ấy cũng không bị tổn giảm. Vì nghĩa ấy nên đại bi của Ðức Như Lai chẳng thể nghĩ bàn.
Nầy thiện nam tử! Lòng bi của hàng Thanh Văn và Duyên giác như vẽ trên da, đại bi của Bồ Tát như xẻ thịt, đại bi của Như Lai như chẻ xương thấu tủy. Lòng bi của Thanh Văn và Duyên Giác tán thán sở tri của Phật, đại bi của Bồ Tát khuyên người thật hành, đại bi của Như Lai thọ ký Vô thượng Bồ đề. Lòng bi của Thanh Văn và Duyên Giác làm nhơn duyên cho lòng từ, đại bi của Bồ Tát vì điều phục chúng sanh, đại bi của Như Lai vì cứu cánh độ chúng sanh. Lòng bi của Thanh Văn và Duyên Giác do sự khổ thô thiển mà sanh, đại bi của Bồ Tát do lìa rời sự khổ mà sanh, đại bi của Như Lai do dứt trừ tất cả nhơn duyên mà sanh.
Nầy thiện nam tử! Ðức Như Lai tu tập đại bi như vậy, nếu vì một người mà ở lại thế gian mà trải qua một kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp, vạn kiếp đến vô lượng kiếp trọn chẳng rốt ráo nhập Niết bàn.
Nầy thiện nam tử! Ðại bi của Như Lai thành tựu vô lượng công đức như vậy.
Nầy thiện nam tử! Về quá khứ vô lượng vô biên vô số kiếp, nơi thế gian có Ðức Phật xuất thế hiệu là Chiên Ðàn Quật, thế giới ấy tên là Ðại Hương, kiếp ấy gọi là Thượng Hương. Ðức Phật Chiên Ðàn Quật trong ba trăm ba mươi hai vạn kiếp thường đem chánh pháp giáo hóa hàng Thanh Văn. Trên thân Phật Chiên Ðàn Quật mỗi mỗi lỗ lông phát ra hơi hương khắp đầy cả Ðại Thiên thế giới. Thế giới Ðại Hương ấy không có danh từ hôi thúi, bao nhiêu cỏ cây đều có mùi chiên đàn, thân các chúng sanh trong cõi ấy cũng có mùi hương chiên đàn như vậy, tất cả đều không có thân khẩu ý ác. Ðệ tử của Ðức Phật Chiên Ðàn Quật nghe mùi hương nầy thì được tứ thiền. Sau đó kế tiếp có một vạn chư Phật nối nhau xuất thế đều đồng một hiệu là Chiên Ðàn Quật, do cớ nầy mà kiếp ấy có tên là Thượng Hương.
Ðức Chiên Ðàn Quật Như Lai làm Phật sự xong muốn nhập Niết bàn quan sát chúng sanh coi có ai chưa điều phục thì Phật sẽ điều phục cho. Ðức Phật Chiên Ðàn Quật dùng tịnh nhãn thấy có một vị ở Trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ đã ở nơi Phật trước gieo giống thượng thiện căn quyết định sẽ nhơn pháp Phật mà được độ thoát chớ chẳng phải nhơn pháp Thanh Văn mà được giải thoát. Vị trời nầy quá tám vạn bốn ngàn kiếp tuổi thọ sẽ sanh xuống cõi Dục sẽ nghe kinh điển Ðại thừa mà phát tâm Vô thượng Bồ đề an trụ bực bất thối chuyển. Ðức Phật Chiên Ðàn Quật do sức đại bi khởi đại phương tiện bảo các Tỳ Kheo giờ Niết bàn của ta đã đến, nói xong Phật liền nhập Bất Hối tam muội thị hiện cho chúng sanh biết Phật nhập Niết bàn, biết Phật nhập Niết bàn rồi đại chúng sắp bày rộng rãi sự cúng dường, chánh pháp trụ thế đủ sáu mươi tám vạn bốn ngàn năm, trong thời gian các đệ tử của Phật không có đến một người ở nơi chánh pháp mà sanh tưởng tà pháp. Do sức đại định, Ðức Phật Chiên Ðàn Quật ẩn kín thân Phật qua tám vạn bốn ngàn kiếp chẳng cho đại chúng thấy. Quá kiếp số thọ mạng, vị trời ấy sanh xuống nhơn gian làm con trai nhà đại trưởng giả. Qua tám mươi năm, Ðức Phật Chiên Ðàn Quật từ tam muội dậy đến nhà trưởng giả, mọi người trong nhà không ai thấy, chỉ có người con trai nầy một mình được thấy Ðức Phật và được nghe Ðức Phật thuyết pháp được chẳng thối chuyển tâm Vô thượng Bồ đề. Biết vậy, Ðức Phật Chiên Ðàn Quật liền thọ ký rằng đời sau quá bảy vạn hai ngàn a tăng kỳ trăm ngàn kiếp ngươi sẽ được thành Vô thượng Bồ đề hiệu là Bửu Thượng Phật. Lời Ðức Phật Chiên Ðàn Quật thọ ký ngoài người con trai trưởng giả nầy không ai được nghe, chỉ có một vạn hai ngàn chư Thiên nầy nghe rồi đều phát tâm Vô thượng Bồ đề đồng thanh bạch rằng: Cầu nguyện lúc đức Bửu Thượng Phật ra đời, chúng tôi sẽ ở trong pháp hội ấy thỉnh thọ chánh pháp và làm đệ tử. Ðức Phật Chiên Ðàn Quật nghe biết lời bạch của chư Thiên liền thọ ký rằng: Lúc Bửu Thượng Như Lai thành Phật, một vạn hai ngàn chư Thiên các ngươi sẽ làm thọ pháp đệ tử, cũng sẽ được Phật Bửu Thượng thọ ký Vô thượng Bồ đề. Việc làm nầy xong đức Chiên Ðàn Quật mới cứu cánh nhập Niết bàn tất cả chư Thiên thiết lập cúng dường lớn”.
Ðức Phật phán tiếp: “Nầy thiện nam tử! Chư Phật Như Lai có đủ đức đại bi như vậy, chẳng phải là chỗ biết được của hàng Thanh Văn và Duyên Giác. Thuở ấy, Ðức Phật Chiên Ðàn Quật dầu ở tại thế đem pháp Thanh Văn giáo hóa mà cuối cùng vẫn làm cho giống Phật chẳng dứt. Nếu có chúng sanh nào cúng dường ngôi Tam bảo thì cũng như vậy”.
Lúc Ðức Phật Thế Tôn nói rộng công đức đại bi, trong chúng hội có ba hằng hà sa chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề. Nửa số chúng hội được thành vô sanh pháp nhẫn, phân nửa trong nửa số còn lại được có mười sáu đại bi như vậy, phần còn lại được Phật pháp nhẫn.
Tất cả chư Thiên và mọi người nghe pháp vui mừng đồng thanh khen rằng: “Lành thay, lành thay ! Rất lạ lùng rất đặc biệt, Ðức Phật Thế Tôn tuyên nói pháp môn đại bi như vậy”.
Lại nữa, nầy Ðà La Ni Tự Tại Vương đại Bồ Tát! Ðức Phật Như Lai còn có ba mươi hai nghiệp.
Nầy thiện nam tử! Như Lai biết rõ thị xứ và phi xứ. Thế nào là Thị xứ và thế nào là phi xứ?
Nầy thiện nam tử! Nếu có người tạo tác thân khẩu ý ác mà được thọ quả an lạc thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ. Nếu có người tạo tác thân khẩu ý thiện mà thọ quả an lạc thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.
Nếu có ngưòi quen làm việc tham lam bỏn xẻn mà được báo giàu to thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ. Nếu có người ban ơn bố thí mà được báo giàu to thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.
Nếu là người hủy phạm giới cấm mà được báo thân cõi trời thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ. Nếu là người hộ trì giới cấm thanh tịnh mà được báo thân cõi trời thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.
Người hay sân hận mà được báo thân xinh đẹp thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ. Người thường nhẫn nhục mà được báo thân xinh đẹp thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.
Người lười nhác trong pháp lành lớn mà được đại thần thông thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ. Người siêng tinh tiến nơi pháp lành lớn mà được đại thần thông thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.
Người phóng tâm tán loạn mà được bực chánh định thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ. Người nhiếp tâm bất loạn mà được bực chánh định thì có như vậy, đây gọi là thị xứ .
Người ngu si mà dứt tập khí phiền não thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ. Người tu hành trí huệ dứt tập khí phiền não thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.
Người tạo tội ngũ nghịch mà được vô lậu thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ . Người không tội ngũ nghịch mà được vô lậu thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.
Thân người nữ mà làm Chuyển Luân Thánh Vương thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ. Thân nam tử làm Chuyển Luân Thánh Vương thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.
Như làm Chuyển Luân Thánh Vương, làm Thiên Ðế Thích, làm Phạm Vương và làm Phật cũng như vậy.
Nếu là chuyển Luân Thánh Vương mà dùng phi pháp để trị nước thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ. Chuyển Luân Thánh Vương dùng chánh pháp trị nước thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.
Người Châu Uất Ðơn Việt sau khi chết mà đọa vào ba ác đạo thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ. Người Uất Ðơn Việt thọ chung sanh lên cõi trời thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.
Người thường sát hại sanh mạng chúng sanh mà được báo trường thọ thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ. Còn do cớ nầy mà thọ mạng yểu ngắn thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.
Người có tà kiến mà chứng thánh đạo thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ. Người có chánh kiến mà chứng được thánh đạo thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.
Bực Tu Ðà Hoàn mà còn có thọ sanh đời thứ tám thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ. Bực Tu Ðà Hoàn mà liền nhập Niết bàn cũng không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.
Bực A Na Hàm mà thọ sanh trong cõi Dục thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.
Bực A La Hán mà thọ thân đời sau thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.
Người Hiền Thánh mà học hỏi nơi các dị sư thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.
Bực bất thối nhẫn mà còn thối chuyển Bồ đề thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.
Bồ Tát đến ngồi dưới cây Bồ đề chưa chứng quả Bồ đề mà dậy đi thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.
Bực Phật Như Lai mà có tập khí phiền não thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.
Bực Phật Như Lai mà trí còn có chướng ngại thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.
Nếu có ai thấy được đỉnh đầu của Ðức Phật thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.
Nếu có chúng sanh biết được cảnh giới nội tâm của Ðức Phật thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.
Tâm của Ðức Phật mà chẳng thường định cũng không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.
Chư Phật Thế Tôn mà có nhị ngữ thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.
Như Lai Thế Tôn mà còn có lỗi lầm thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.
Nầy thiện nam tử! Ðây gọi là nghiệp thứ nhứt của Phật Thế Tôn.
Ðức Phật nói kệ rằng:
Ðại địa được nói tướng chuyển động
Gió mạnh được nói tướng dừng lặng
Hư không được nói tướng có sắc
Phật chẳng nói xứ là phi xứ
Phật diễn nói xứ và phi xứ
Phần hạ trung thượng đều chơn thiệt
Chẳng nói xứ phi xứ là một
Hai xứ như vậy riêng không hai
Như Lai cũng nói hạ trung thượng
Ðều riêng không có ba thứ tướng
Phật biết thị xứ phi xứ rồi
Có thể tuyên nói pháp vô thượng
Như Lai biết rõ lòng chúng sanh
Khéo hay phân biệt tướng vi tế
Sa Môn phạm chí đi trong tối
Chẳng biết nhơn thị xứ phi xứ
Chúng sanh chằng biết xứ phi xứ
Do đó nên chẳng được giải thoát
Như Lai biết rõ xứ phi xứ
Ðó là hiệu Phật đấng Vô Thượng
Nếu là chúng sanh không pháp khí
Như Lai với họ tu tâm xả
Lập đại phương tiện chờ thời tiết
Vì cho họ được chơn giải thoát
Như Lai Thế Tôn trí vô thượng
Ðây thì gọi là pháp thứ nhứt
Thanh tịnh nghiệp thứ nhứt như vậy
Vì làm chúng sanh được điều phục
Như Lai nói lực thứ nhứt nầy
Rất sâu khó lường không biết được
Diệu pháp như vậy khó biết được
Vì phá tà kiến thương xót nói
Lại nầy thiện nam tử! Ðại Bồ Tát có tám ánh sáng lớn, do ánh sáng nầy mà hay phá được các sự tối tăm làm cho công hạnh của Bồ Tát thanh tịnh.
Những gì là tám ? Ðó là niệm quang, ý quang, hành quang, pháp quang, trí quang, thiệt quang, thần thông quang và vô ngại trí quang vậy.
Niệm quang có tám: một là chẳng mất pháp lành quá khứ, hai là làm pháp lành vị lai, ba là nghe pháp chẳng quên, bốn là tư duy thiệt nghĩa, năm là chẳng bị sáu trần nhiễm hư, sáu là nhớ giữ chánh pháp như người giữ của, ngăn pháp ác và vì pháp lành mà giữ cửa thành thiện pháp, bảy là chẳng bị tà pháp gạt lầm và tám là có thể làm thêm lớn những pháp thuần thiện vậy.
Ý quang cũng có tám: một là nghĩa ý chẳng phải ý chữ, hai là trí huệ ý chẳng hình thức ý , ba là chánh pháp ý chẳng phải ý người, bốn là thiệt ý chẳng phải hư ý, năm là Bồ Tát ý chẳng phải Thanh Văn ý, chẳng phải Duyên Giác ý, sáu là thượng ý chẳng phải hạ ý, bảy là Phật ý chẳng phải thối thất ý và tám là lân mẫn ý chẳng phải hại ý vậy.
Hành quang cũng có tám: một là pháp hành, hai là nhứt thiết hành, ba là chúng sanh hành, bốn là chúng sanh tâm hành, năm là thập nhị nhơn duyên hành , sáu là quảng thuyết hành, bảy là công hạnh hành và tám là nhứt thiết Phật pháp hành vậy.
Pháp quang cũng có tám: một là thế pháp quang, hai là xuất thế pháp quang, ba là vô lậu pháp quang, bốn là vô vi pháp quang, năm là giải thoát pháp quang, sáu là tâm giải thoát pháp quang, bảy là tất cánh giải thoát pháp quang và tám là huệ phá vô minh pháp quang vậy.
Trí quang cũng có tám: một là nhập chánh trí quang, hai là Tu Ðà Hoàn trí quang, ba là Tu Ðà Hàm trí quang, bốn là A Na Hàm trí quang, năm là A La Hán trí quang, sáu là Bích Chi Phật trí quang, bảy là Bồ Tát trí quang và tám là Chánh Giác trí quang vậy.
Thiệt quang cũng có tám: một là chánh định hạnh, hai là được quả Tu Ðà Hoàn, ba là quả Tư Ðà Hàm, bốn là quả A Na Hàm, năm là quả A La Hán, sáu là quả Bích Chi Phật, bảy là Bồ Tát và tám là Phật Bồ đề vậy.
Thần thông quang cũng có tám: một là nhãn quang hay thấy chánh sắc, hai là nhĩ quang hay nghe chánh thanh, ba là niệm quang hay nhớ quá khứ vô số kiếp chúng sanh, bốn là tánh quang hay quan sát tâm tánh thanh tịnh của chúng sanh, năm là hư không quang dùng đại thần thông có thể đến vô lượng thế giới mười phương, sáu là phương tiện quang vì đủ có trí vô lậu, bảy là công đức trang nghiêm quang vì lợi ích tất cả chúng sanh và tám là trí huệ trang nghiêm quang vì phá lòng nghi lầm của tất cả chúng sanh vậy.
Vô ngại trí quang cũng có tám: một là trí quang, hai là ý quang, ba là huệ quang, bốn là Phật quang, năm là chánh kiến quang, sáu là làm thanh tịnh tâm chúng sanh quang, bảy là giải thoát quang và tám là tất cánh quang vậy.
Ðức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa nầy nên nói kệ rằng:
Tu tập sáng niệm tâm
Chẳng quên nghiệp thiện ác
Thích nghe tán tụng kinh
Tu tập chẳng phóng dật
Hay điều phục các căn
An trụ trong tịch tĩnh
Thêm lớn các pháp lành
Tu tập niệm quang minh
Hay ngăn dừng pháp ác
Như người giữ thành giỏi
Hay thủ hộ pháp thành
Chẳng cho bốn ma vào
Chẳng chạy theo âm thanh
Thường tư duy chơn nghĩa
Gần kề thiện tri thức
Hỉ lạc trụ đúng pháp
Trí huệ vô biên thượng
Dứt hẳn các phiền não
Tà pháp chẳng động đươc
Ðời ác chẳng sanh chê
Thành tâm niệm Bồ đề
Chẳng nói tâm Tiểu thừa
Thường thích nhớ thượng ý
Vì người phá hạ ý
Chẳng sợ ma phiền não
Tu tập tâm từ bi
Chẳng nghĩ hại chúng sanh
Ðược đủ trí quang lớn
Hay phá các lòng nghi
Hiểu rõ nghĩa thậm thâm
Biết phương tiện chơn thiệt
Tu bốn trí vô ngại
Thích quán mười hai duyên
Là nhơn của chúng sanh
Biết vô tác vô thọ
Hay tu pháp quang lớn
Hay biết các Phật pháp
Tu hạnh thế xuất thế
Hay đến mười phương cõi
Biết rõ nghiệp Nhơn Thiên
Tu tập trí vô thượng
Ba thừa về nhứt thừa
Tu tập bát chánh đạo
Vì phá pháp ba đời
Như thiệt biết rõ rành
Pháp hữu lậu vô lậu
Lợi ích hàng Nhơn Thiên
Dạy họ dứt hữu lậu
Biết rõ đúng chơn thiệt
Pháp hữu vi vô vi
Tịch tĩnh quang vô ngại
Chẳng dính tướng hữu vi
Biết kiết nhập xuất duyên
Biết chúng tâm tánh tịnh
Nếu có Ðại thừa định
Liền biết pháp như vậy
Thích trụ tánh vô lậu
Xong bốn quả Sa Môn
Biết Bồ Tát đạo hạnh
Nên tu vô ngại trí
Phá tà tu thiệt quang
Vào chứng vô sở úy
Thích nói nghĩa chơn thiệt
Vì phá pháp sanh tử
Nhãn nhĩ tịnh không chướng
Thấy nghe sắc thanh chánh
Quá khứ nhớ chẳng lầm
Cũng biết rõ tha tâm
Ðến mười phương vô ngại
Biết pháp như hư không
Ðược vô lậu trí huệ
Vì điều phục chúng sanh
Ðủ công đức trí huệ
Vì lợi ích chúng sanh
Ở trong vô lượng đời
Cầu hai trang nghiêm nầy
Thích thọ trì tịnh giới
Thích thủ hộ Phật pháp
Tu tập chơn thiệt quang
Vì trụ đúng chánh pháp
Phật nói vô lượng quang
Ðể cho chúng sanh được
Có ai tin kinh nầy
Liền được quang như vậy.
Lại nầy thiện nam tử! Ðại Bồ Tát tu tập đại bi có mười sáu sự.
Những gì là mười sáu?
Một là đại Bồ Tát thấy chúng sanh tham trước ngã kiến, do nơi ngã kiến mà sanh ra các kiến chấp nên luôn bị sanh tử trói buộc, vì vậy nên đại Bồ Tát tu tập đại bi, do tâm đại bi mà vì chúng sanh thuyết pháp giáo hóa để phá các kiến chấp hư vọng như vậy.
Hai là đại Bồ Tát thấy các chúng sanh điên đảo nơi thường thì thấy là vô thường, nơi vô thường thì thấy là thường, nơi khổ thấy là vui nơi vui thì thấy là khổ, nơi tịnh thấy bất tịnh nơi bất tịnh thấy là tịnh, nơi ngã thấy vô ngã nơi vô ngã thấy ngã, do đây đại Bồ Tát tu tập tâm đại bi, do tâm đại bi mà vì các chúng sanh tuyên nói pháp yếu để phá bốn thứ mê chấp điên đảo như vậy.
Ba là đại Bồ Tát thấy các chúng sanh có lòng kiêu mạn, thiệt không có vật mà cho là có vật, thiệt không có sự mà cho là có sự; do đây mà họ sanh ra bảy thứ kiêu mạn, do kiêu mạn mà sanh lớn các pháp ác. Vì vậy mà đại Bồ Tát tu tập tâm đại bi, do tâm đại bi đại Bồ Tát tuyên nói pháp yếu để phá trừ lòng kiêu mạn của các chúng sanh.
Bốn là đại Bồ Tát thấy các chúng sanh bị ngũ cái che trùm, vì bị che trùm nên lòng họ sanh nghi với chánh pháp nghĩa thậm thâm họ không hiểu được, vì các chúng sanh nầy mà đại Bồ Tát tu tâm đại bi, do tâm đại bi đại Bồ Tát tuyên nói pháp yếu để phá năm cái chướng của các chúng sanh ấy.
Năm là đại Bồ Tát thấy các chúng sanh chìm trong biển lục nhập: mắt họ duyên lấy tướng hình sắc, tai họ duyên lấy tướng âm thanh, mũi họ duyên lấy hơi hương, lưỡi họ duyên lấy tướng mùi vị, thân họ duyên lấy tướng chạm xúc và ý họ duyên lấy tướng các pháp, sự duyên lấy tướng như vậy gọi đó là bị chìm, vì các chúng sanh nầy mà đại Bồ Tát tu tâm đại bi đại Bồ Tát tuyên nói pháp yếu để vớt chúng sanh khỏi bị chìm trong sáu trần tướng.
Sáu là đại Bồ Tát thấy các chún,g sanh có bảy thứ mạn, đó là mạn, đại mạn, mạn mạn, ngã mạn, tăng thượng mạn, hạ mạn và tà mạn.Vì các chúng sanh nầy mà Bồ Tát tu tâm đại bi, do tâm đại bi, đại Bồ Tát tuyên nói pháp yếu chơn chánh để dứt các thứ mạn ấy của chúng sanh.
Bảy là đại Bồ Tát thấy các chúng sanh rời lìa thánh đạo, họ thích làm thế tục đạo và ác đạo, vì vậy mà đại Bồ Tát tu tâm đại bi, do tâm đại bi đại Bồ Tát tuyên nói pháp yếu để dứt trừ thế tục đạo và ác đạo của các chúng sanh.
Tám là đại Bồ Tát thấy các chúng sanh tạo nghiệp ác đạo, lệ thuộc vô minh ái, bị vợ con trói buộc nên chẳng được tự tại, vì vậy mà đại Bồ Tát tu tâm đại bi, do tâm đại bi đại Bồ Tát tuyên nói chánh pháp để dứt sự hệ phược ấy cho chúng sanh xuất ly ác đạo.
Chín là đại Bồ Tát thấy các chúng sanh gần gũi bạn xấu ác mà xa lìa bạn lành tốt, lòng họ cam đành tạo gây nghiệp ác, vì vậy mà đại Bồ Tát tu tâm đại bi, do tâm đại bi đại Bồ Tát tuyên nói pháp yếu để dứt nghiệp ác của chúng sanh khiến họ xa bạn ác và gần bạn lành.
Mười là đại Bồ Tát thấy các chúng sanh gây tạo nghiệp xan tham nơi vô minh ái không biết nhàm đủ, vì vậy mà đại Bồ Tát tu tâm đại bi, do tâm đại bi đại Bồ Tát tuyên nói chánh pháp để dứt xan tham vô minh và ái của các chúng sanh ấy và ban cho họ trí huệ.
Mười một là đại Bồ Tát thấy các chúng sanh nhiều ngã kiến đoạn kiến, vì vậy mà đại Bồ Tát tu tâm đại bi, do tâm đại bi đại Bồ Tát tuyên nói pháp yếu ban bố cho họ trí huệ chơn chánh mười hai nhơn duyên để dứt ngã kiến và đoạn kiến của các chúng sanh.
Mười hai là đại Bồ Tát thấy các chúng sanh hiện hành vô minh tối tăm vó nhiều kiến chấp, đó là ngã kiến, chúng sanh kiến, thọ mạng kiến, nhơn kiến, dị kiến, tà kiến, thủ kiến, vì vậy mà đại Bồ Tát tu tâm đại bi, do tâm đại bi đại Bồ Tát tuyên nói chánh pháp để dứt trừ các kiến chấp của các chúng sanh, ban cho họ chánh kiến trí huệ.
Mười ba là đại Bồ Tát thấy các chúng sanh ưa thích trong sanh tử, với thân ngũ ấm cho là thân thiết, vì vậy mà đại Bồ Tát tu tâm đại bi, do tâm đại bi đại Bồ Tát tuyên nói chánh pháp để cho chúng sanh thoát khỏi sanh tử trong ba cõi.
Mười bốn là đại Bồ Tát thấy các chúng sanh bị ma trói buộc, vì vậy mà đại Bồ Tát tu tâm đại bi, do tâm đại bi đại Bồ Tát vì chúng sanh tuyên nói chánh pháp để dứt phá lưới ma nghiệp ma của chúng sanh.
Mười lăm là đại Bồ Tát thấy các chúng sanh ưa thích sự khoái lạc hư đối của thế tục mà chẳng biết được sự vui chơn thiệt và nhân của vui chơn thiệt, vì vậy mà đại Bồ Tát tuyên nói chánh pháp chỉ dạy nhơn hạnh của quả vui chơn thiệt cho chúng sanh.
Mười sáu là đại Bồ Tát thấy các chúng sanh cầu cửa vào Niết bàn mà chẳng biết chỗ, vì vậy mà đại Bồ Tát tu tâm đại bi, do tâm đại bi đại Bồ Tát tuyên nói pháp yếu mở cửa Niết bàn cho các chúng sanh.
Nầy thiện nam tử! Do mười sáu nhơn duyên như vậy mà đại Bồ Tát vì các chúng sanh tu tâm đại bi.
Lại nầy Ðà La Ni Tự Tại Vương! Các loài chúng sanh có ba mươi hai nghiệp ác bất thiện. Vì thấy như vậy mà chư đại Bồ Tát tu tập nghiệp thiện để phá trừ các nghiệp ác ấy cho chúng sanh.
Những gì là ba mươi hai nghiệp?
Một là thấy có các chúng sanh nặng về vô minh ngủ nghỉ, đại Bồ Tát vì họ mà tu tập trí huệ để phá vô minh thùy miên ấy.
Hai là thấy có các chúng sanh hiểu biết thấp hạ mong muốn thấp hạ, đại Bồ Tát vì họ mà tu tập hiểu biết thắng thượng chí nguyện thắng thượng để đem pháp Ðại thừa thắng thượng giáo hóa họ.
Ba là thấy có các chúng sanh thích những phi pháp, đại Bồ Tát tu tập chánh pháp để làm cho các chúng sanh ấy được đại tự tại nơi tất cả pháp.
Bốn là thấy có các chúng sanh ưa tà mạng, đại Bồ Tát tu tập chánh mạng để phá trừ tà mạng ấy.
Năm là thấy có các chúng sanh vào trong rừng tà, đại Bồ Tát tu tập chánh kiến để làm cho các chúng sanh và ra khỏi rừng tà.
Sáu là thấy có các chúng sanh ưa phóng dật, đại Bồ Tát tu tập bất phóng dật để làm cho các chúng sanh xa lìa phóng dật.
Bảy là thấy có các chúng sanh ưa thô bạo, đại Bồ Tát tu tập công hạnh đúng chánh pháp để làm cho các chúng sanh xa lìa thô bạo.
Tám là thấy có các chúng sanh tham lam bỏn xẻn, đại Bồ Tát tu tập hạnh bố thí rộng lớn để làm cho cac chúng sanh dứt tham lam bỏn xẻn.
Chín là thấy có các chúng sanh hay hủy phạm cấm giới, đại Bồ Tát tu trì tịnh giới để trừ lòng phá giới của các chúng sanh.
Mười là thấy có các chúng sanh lòng thường giận hờn, đại Bồ Tát tu tâm từ bi nhẫn nhục để phá lòng giận hờn của các chúng sanh.
Mười một là thấy có các chúng sanh đối với chánh pháp thiện pháp lười biếng thật hành, đại Bồ Tát tu tập siêng cần tinh tấn để trừ sự lười biếng ấy của các chúng sanh.
Mười hai là có các chúng sanh tâm tưởng tán loạn, đại Bồ Tát tu tập chánh định để trừ tâm tán loạn của các chúng sanh.
Mười ba là có các chúng sanh tà trí che tâm, đại Bồ Tát tu tập chánh trí để trừ tà trí ấy của các chúng sanh.
Mười bốn là có các chúng sanh nói nghĩa điên đảo, đại Bồ Tát tư duy chánh nghĩa để trừ sự điên đảo ấy của các chúng sanh.
Mười lăm là thấy có các chúng sanh ưa gây tạo sự nghiệp thế tục, đại Bồ Tát tu tập thiện quyền phương tiện để trừ lòng ưa thích tạo nghiệp thế tục ấy của các chúng sanh.
Mười sáu là thấy có các chúng sanh bị phiền não trói buộc, đại Bồ Tát tu tập chánh pháp tự dứt trừ phiền não và để làm cho các chúng sanh cũng dứt trừ phiền não.
Mười bảy là thấy có các chúng sanh bị buộc chặt nơi ngã kiến, đại Bồ Tát trước tự trừ ngã kiến rồi sau trừ ngã kiến của các chúng sanh.
Mười tám là thấy có các chúng sanh các căn chẳng điều phục, đại Bồ Tát tu tập trước tự điều phục các căn rồi sau làm cho các chúng sanh điều phục các căn của họ
Mười chín là thấy có các chúng sanh nói không nghiệp nhơn không quả báo, đại Bồ Tát tuyên nói nghiệp nhơn quả báo để phá trừ tà kiến bác nhân quả của các chúng sanh.
Hai mươi là thấy có các chúng sanh chẳng biết ân nghĩa, đại Bồ Tát tuyên nói về ân nghĩa để trừ lòng chẳng biết ơn của các chúng sanh ấy.
Hai mươi mốt là thấy có các chúng sanh chưa được mà tự cho là đã được, đại Bồ Tát tu tập chánh pháp để trừ lỗi tăng thượng mạn của các chúng sanh ấy.
Hai mươi hai là thấy có các chúng sanh ác khẩu thô bạo, đại Bồ Tát tu tập thiện ngữ dịu dàng để trừ ác khẩu của các chúng sanh.
Hai mươi ba là thấy có các chúng sanh tham lam chẳng biết vừa đủ, đại Bồ Tát tu tập biết đủ để trừ lòng không biết đủ của các chúng sanh.
Hai mươi bốn là thấy có các chúng sanh chẳng cung kính cha mẹ và sư trưởng, đại Bồ Tát tu tập hiếu thuận để làm cho chúng sanh biết cúng dường cung kính tôn trọng các bực cha mẹ sư trưởng.
Hai mươi lăm là thấy có các chúng sanh nghèo cùng khốn khổ, đại Bồ Tát tu tập bảy thánh tài để trừ sự nghèo cùng khốn khổ của các chúng sanh.
Hai mươi sáu là thấy có các chúng sanh bị bốn loại rắn độc làm bịnh, đại Bồ Tát tu tập thân niệm xứ để làm cho các chúng sanh xa lìa bốn loại rắn độc ấy.
Hai mươi bảy là thấy có các chúng sanh hiện hành vô minh tối tăm, đại Bồ Tát tu tập trí huệ để làm cho các chúng sanh ấy thắp đèn trí huệ..
Hai mươi tám là thấy có các chúng sanh thích nhà ngục tam giới, đại Bồ Tát tu tập pháp giải thoát xuất ly để dạy cho các chúng sanh biết xuất ly tam giới.
Hai mươi chín là thấy có các chúng sanh thường hành tà đạo, đại Bồ Tát tu tập chánh đạo để làm cho các chúng sanh trừ bỏ tà đạo.
Ba mươi là thấy có các chúng sanh tham ái thân mạng, đại Bồ Tát tu tập lòng chẳng tham ái thân mạng mình để dạy chúng sanh bỏ lòng tham ái thân mạng.
Ba mươi mốt là thấy có các chúng sanh chẳng biết cung kính cúng dường Tam bửu, đại Bồ Tát tu tập tâm tịnh tín để làm cho các chúng sanh phát lòng tin ngôi Tam bửu.
Ba mươi hai là thấy có các chúng sanh thiệt chẳng phải là Phật Thế Tôn mà tự xưng là Phật Thế Tôn, đại Bồ Tát tu tập sáu chánh niệm để làm cho các chúng sanh ấy biết pháp chơn thiệt vậy.
Nầy thiện nam tử! Trên đây là ba mươi hai nghiệp hữu lậu của chúng sanh, đại Bồ Tát thấy rồi tự mình tu tập pháp đối trị thành tựu đầy đủ pháp lành rồi phá các ác nghiệp khuyên các chúng sanh thật hành thiện nghiệp.
Nầy thiện nam tử! Ðại Bồ Tát có vô lượng công hạnh, tại sao? Vì chúng sanh có vô lượng môn, vì đóng bít vô lượng cửa phiền não ấy mà đại Bồ Tát tu tập vô lượng công hạnh lành.
Nầy thiện nam tử! Như có chúng Thanh Văn và Bích Chi Phật đông bằng số cát sông Hằng, muốn đem số đông nầy so sánh với Bồ Tát sơ phát Bồ đề tâm thì chẳng bằng một phần trăm một phần ngàn, cho đến không thể lấy gì ví dụ được. Tại sao? Vì hàng nhị thừa vì giải thoát cho mình mà quán xét dứt trừ các phiền não. Còn Bồ Tát thì không phải như vậy. Các Bồ Tát luôn vì chúng sanh làm cho họ được giải thoát mà quán xét đối trừ các phiền não.
Nầy thiện nam tử! Các công nghiệp được làm của chư Bồ Tát là rất hơn công nghiệp của các phàm phu và hàng Nhị thừa. Tại sao? Vì việc làm của phàm phu tánh chất nó là phiền não là hữu lậu. việc làm của hàng Nhị thừa dầu tánh chất chẳng phải phiền não là vô lậu nhưng có biên tế, còn việc làm của Bồ Tát vô biên vộ lượng, vì vậy mà công hạnh của Bồ Tát hơn cả hàng Thanh Văn và Duyên Giác”.
Bấy giờ Ðà La Ni Tự Tại Vương Bồ Tát nghe pháp ấy rồi lòng rất vui mừng hớn hở vô lượng mà bạch Ðức Phật rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Rất là lạ lùng rất là đặc biệt, lời Ðức Phật dạy chẳng thể nghĩ bàn.
Ðức Như Lai đã nói Bồ Tát anh lạc trang nghiêm, Ðức Như Lai đã nói Bồ Tát quang minh, Bồ Tát đại bi, Bồ Tát thiện nghiệp.
Nguyện cầu Ðức Như Lai tuyên nói chư Phật quán xét các chúng sanh mà sanh khởi tâm đại bi thế nào? Sao gọi là bi và bi có những công hạnh gì, có những tướng mạo gì, do nhơn duyên gì mà sanh khởi, sao gọi là Phật nghiệp và Phật nghiệp có những công hạnh gì, có những tướng mạo gì, do nhơn duyên gì mà phát khởi lên?
Lành thay Ðức Thế Tôn đấng Nhứt Thiết Trí, xin nói rộng về công nghiệp của Như Lai”.
Ðức Phật phàn bảo: “Lành thay lành thay! Nầy thiện nam tử nay ông nên lắng nghe suy nhớ kỹ, Phật sẽ vì ông mà phân biệt giải nói.
Nầy thiện nam tử! Tất cả chư Phật chỗ có đại bi chẳng phát xuất chẳng hiện hành, tại sao, vì thường chẳng biến đổi, vì trong vô lượng kiếp tu tập mà được đại bi, nên đại bi ấy chẳng hiện hành, chẳng chuyển khởi, chẳng tu tập chẳng rời bỏ mà có khả năng làm lợi ích cho tất cả chúng sanh.
Nầy thiện nam tử! Ðại bi của chư Phật vô lượng vô biên, tâm ấy bình đẳng. Dầu dùng công sức của vô lượng cái lưỡi biện tài trong thời gian nhiều kiếp cũng không thể tuyên nói hết được.
Nầy thiện nam tử! Chư Phật Thế Tôn chưa có lúc nào xa lìa đại bi như vậy. Vô thượng Bồ đề và đại bi ấy, hai pháp như vậy bình đẳng không có sai khác.
Nầy thiện nam tử! Vô thượng Bồ đề của chư Phật Như Lai vô căn vô trụ. Chư Phật Như Lai biết căn biết trụ nên Vô thượng Bồ đề không có căn không có trụ. Tất cả chúng sanh thảy đều không có, không có căn không có trụ. Vì muốn ban cho chúng sanh Vô thượng Bồ đề vô căn vô trụ mà chư Phật Thế Tôn khởi tâm đại bi. Nơi đây, vì muốn cho chúng sanh biết vô căn vô trụ mà Ðức Như Lai tuyên nói chánh pháp.
Nầy thiện nam tử! Luận về Bồ đề là thanh tịnh là tịch tĩnh. Thế nào là thanh tịnh, thế nào là tịch tĩnh? Thanh tịnh gọi là trong, tịch tĩnh gọi là ngoài. Bên trong gọi là nhãn rỗng không , rỗng không gọi là không có ngã không có ngã sở, tại sao, vì tánh là một vậy. Như nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý cũng như vậy, tại sao, vì tánh là một vậy.
Ðã biết nhãn rỗng không rồi thì không trụ trước nơi sắc hình , tâm chẳng trụ trước nơi sắc thì gọi là tịch tĩnh. Như sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp cũng như vậy.
Vì tất cả chúng sanh chẳng biết Bồ đề thanh tịnh tịch tĩnh nên Ðức Phật Như Lai khởi tâm đại bi diễn nói chánh pháp cho họ được biết vậy.
Nầy thiện nam tử! Tất cả chúng sanh tâm tánh bổn lai thanh tịnh. Vì tánh thanh tịnh nên tất cả phiền não kiết sử không nhiễm ô được. Như hư không chẳng thể nhiễm ô, tâm tánh và không tánh đồng nhau không có sai khác.
Chúng sanh vì chẳng biết tâm tánh thanh tịnh nên bị dục tham phiền não trói buộc, vì vậy mà Ðức Phật Như Lai khởi tâm đại bi diễn nói chánh pháp làm cho họ được biết vậy.
Nầy thiện nam tử luận về Bồ đề chẳng thủ chẳng xả. Thế nào là chẳng thủ? Chư Phật Như Lai chẳng thấy tất cả pháp có thử ngạn bỉ ngạn, tại sao, vì tất cả pháp rời lìa thử bỉ vậy. Chư Phật Như Lai biết thật như vậy nên gọi là bất thủ.
Thế nào là bất xả? Tất cả chúng sanh chẳng biết pháp giới, chư Phật Như Lai tuyên dạy cho họ biết rõ pháp giới, đây gọi là bất xả vậy. Vì duyên cớ nầy mà chư Phật Như Lai phát khởi tâm đại bi diễn nói chánh pháp làm cho chúng sanh biết rõ hai pháp bất thủ và bất xả như vậy.
Nầy thiện nam tử! Bồ đề vô tưởng vô duyên . Thế nào là vô tưởng? Chẳng thấy có nhãn thức cho đến ý thức, chẳng thấy có sắc tướng cho đến pháp tướng, đây gọi là vô tướng. Thế nào là vô duyên? Ở trong các pháp như vậy, vì chẳng biết chẳng thấy nên không có thủ trước, đây gọi là vô duyên. Vô tưởng và vô duyên gọi là thánh hạnh. Thế nào gọi là Thánh hạnh ? Vì rằng chẳng hiện hành nghiệp hạnh tam giới vậy.
Nầy thiện nam tử! Chẳng hiện hành nghiệp hạnh giới như vậy gọi là thánh hạnh, tất cả thánh nhơn chẳng hiện hành nơi nghiệp hạnh ấy. Chúng sanh chẳng hiện hành thánh hạnh như vậy, nên chư Phật Như Lai phát khởi tâm đại bi diễn nói chánh pháp cho chúng sanh được biết.
Nầy thiện nam tử! Bồ đề chẳng phải là tam thế. Quá khứ ý, vị lai thức và hiện tại tham đây gọi là ba phần thời gian. Vì biết rõ được ba phần như vậy nên ý với thức và tham không có chỗ an trụ, vì vậy mà chẳng nhớ quá khứ chẳng cầu vị lai chẳng tham ái hiện tại. Nếu thấy tam thế đều bình đẳng thì gọi là chánh kiến. Vì muốn tất cả chúng sanh được chánh kiến bình đẳng như vậy nên chư Phật Như Lai phát khởi tâm đại bi diễn nói chánh pháp.
Nầy thiện nam tử! Bồ đề vô thân vô vi. Thế nào là vô thân? Chẳng phải nhãn thức giới cho đến chẳng phải ý thức giới, đây gọi là vô thân. Thế nào là vô vi? Bất sanh bất diệt bất tận bất trụ, không có ba tướng sanh trụ và diệt, đây gọi là vô vi.
Nầy thiện nam tử! Tất cả pháp tánh là vô tánh, nếu vô tánh thì không có sai biệt gọi là không có hai. Vì vậy nên Bồ đề không có thân không có vi tác. Tất cả chúng sanh chẳng biết Bồ đề vô thân vô vi, vì vậy nên chư Phật Như Lai phát khởi tâm đại bi diễn nói chánh pháp cho họ biết rõ như vậy.
Nầy thiện nam tử! Bồ đề không có phân biệt không có cú nghĩa. Thế nào là không có phân biệt ? Thế nào là không có cú nghĩa?
Vô sở trụ gọi là không có phân biệt, chẳng nhiếp thuộc về chữ gọi là không có cú nghĩa.
Chẳng phải có hai gọi là không có phân biệt, chẳng nhập vào pháp giới gọi là không có cú nghĩa.
Không động dao gọi là không có phân biệt, chẳng biến đổi gọi là không có cú nghĩa.
Vì rỗng không nên gọi là không có phân biệt, vì chẳng thể nói được nên gọi là không có cú nghĩa.
Vì không giác không quán nên gọi là không có phân biệt, vì không có tướng nên gọi là không có cú nghĩa.
Vì chẳng phát khởi nên gọi là không có phân biệt, vì không có nguyện cầu nên gọi là không có cú nghĩa.
Biết chúng sanh giới đồng với hư không gọi là không có phân biệt, không có chúng sanh giới gọi là không có cú nghĩa.
Chẳng sanh gọi là không có phân biệt, chẳng trụ gọi là không có cú nghĩa.
Chẳng diệt gọi là không có phân biệt, vô vi gọi là không có cú nghĩa.
Chẳng hành gọi là không có phân biệt, bình đẳng gọi là không có cú nghĩa.
Biết bình đẳng gọi là không có phân biệt, tịch tĩnh gọi là không có cú nghĩa.
Vì chúng sanh chẳng biết như vậy, nên chư Phật Như Lai phát khởi tâm đại bi tuyên nói chánh pháp cho họ biết rõ các nghĩa ấy.
Nầy thiện nam tử! chẳng thể dùng thân để được, chẳng thể dùng tâm để được, tại sao, vì thân tâm như huyễn vậy. Nếu có thể biết rõ được thân tâm chơn thiệt thì gọi là Bồ đề. Nói gọi là Bồ đề đó là vì để lưu bố thế tục, nhưng tánh và tướng Bồ đề thiệt không thể nói được.
Nầy thiện nam tử ! Luận về Bồ đề thì chẳng thể nói thân, chẳng thể nói tâm, chẳng thể nói pháp, chẳng thể nói phi pháp, chẳng thể nói có, chẳng thể nói không có, chẳng thể nói thiệt, chẳng thể nói rỗng không, tại sao, vì tánh chẳng thể nói được vậy.
Bồ đề không có trụ xứ chẳng thể tuyên nói được dường như hư không. Vì biết thiệt tất cả pháp chẳng thể tuyên nói được, trong chữ không có pháp, trong pháp không có chữ, chỉ vì lưu bố theo thế tục mà tuyên nói. Tất cả phàm phu chẳng biết chơn thiệt, nên chư Phật Như Lai khởi tâm đại bi diễn nói chánh pháp làm cho họ biết chơn thiệt.
Nầy thiện nam tử! Bồ đề vô thủ vô duyên. Thế nào là vô thủ, thế nào là vô duyên?
Biết nhãn chơn thiệt gọi là vô thủ, biết nhãn không có sắc cảnh gọi là vô duyên.
Biết nhĩ chơn thiệt gọi là vô thủ, biết nhĩ không có thanh cảnh gọi là vô duyên.
Biết tỷ chơn thiệt gọi là vô thủ, biết tỷ không có hương cảnh gọi là vô duyên.
Biết thiệt chơn thiệt gọi là vô thủ, biết thiệt không có vị cảnh gọi là vô duyên.
Biết thân chơn thiệt gọi là vô thủ, biết thân không có xúc cảnh gọi là vô duyên.
Biết ý chơn thiệt gọi là vô thủ, biết ý không có pháp cảnh gọi là vô duyên.
Như Lai Thế Tôn do nghĩa như vậy biết Bồ đề vì không có thủ trước nên gọi là không có nhãn, vì không có nhà cửa nên gọi là vô duyên. Nhãn thức chẳng trụ trong cảnh sắc kia gọi đó là không nhà cửa, nhẫn đến ý thức cũng như vậy.
Tất cả chúng sanh tâm không có chỗ trụ ở. Như Lai Thế Tôn như thiệt biết tâm không có chỗ trụ ở. Chỗ trụ ở có bốn thứ, đó là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn và hành uẩn. Nơi bốn thứ nầy tâm không có chỗ trụ ở, đây gọi là tâm không có chỗ trụ ở. Vì vậy mà gọi rằng tất cả các pháp đều không có chỗ trụ ở. Như Lai Thế Tôn như thiệt biết đó, mà vì các hàng phàm phu không thể biết được, nên Như Lai Thế Tôn phát khởi tâm đại bi diễn nói chánh pháp để cho họ được biết chơn thiệt vậy.
Nầy thiện nam tử! Bồ đề gọi là rỗng không, nhưng trong Bồ đề không có tướng rỗng không, đây gọi là rỗng không. Tất cả pháp rỗng không Bồ đề cũng rỗng không, Như Lai Thế Tôn chơn thiệt biết được rỗng không như vậy, nên Như Lai gọi là đấng biết rỗng không. Chư Phật gọi là đấng giác ngộ tất cả các pháp rỗng không trong rỗng không nhưng chẳng có giác tri, cũng hay biết rõ Vô thượng Bồ đề. Rỗng không và Bồ đề là nhứt như, rỗng không cùng Bồ đề là một chẳng phải là hai. Rời rỗng không mà Bồ đề có pháp riêng khác mới được nói là hai. Vì không có hai nên gọi đó là rỗng không, vì không có danh tự nên gọi đó là rỗng không. Vì không có tướng mạo nên gọi đó là rỗng không, vì không có oai nghi nên gọi đó là rỗng không, vì không có tu hành nên gọi đó là rỗng không, vì không có ngôn thuyết nên gọi đó là rỗng không.
Nầy thiện nam tử! Trong đệ nhứt nghĩa không có các pháp thế nào nói là rỗng không. Ví như hư không không có ngôn không có thuyết, vì không có ngôn thuyết nên gọi là hư không. Trong không có ngôn thuyết cũng không có ngôn thuyết, đây gọi là rỗng không.
Tất cả các pháp cũng như vậy, pháp không có danh tự nói là danh tự, danh tự như vậy cũng không có chỗ trụ ở. Nếu danh tự không có trụ ở thì các pháp dưới danh tự ấy cũng không có chỗ trụ ở.
Như Lai Thế Tôn chơn thiệt biết các pháp như vậy không có sanh không có diệt. Vì chơn thiệt biết nên được giải thoát.
Bổn lai không có hệ phược sao lại gọi là được giải thoát? Vì lẽ ấy nên Như Lai Thế Tôn không có hệ phược không có giải thoát.
Các pháp như vậy tất cả hàng phàm phu chẳng có thể biết được, vì thế nên chư Phật Thế Tôn khởi phát lòng đại bi diễn nói chánh pháp cho họ được biết.
Nầy thiện nam tử! Luận về Bồ đề ấy đồng như hư không. Tánh hư không chẳng bằng chẳng thấp, Bồ đề cũng như vậy. Nếu pháp đã là không có tánh thì chẳng thể nói là có bằng có thấp. Như Lai Thế Tôn thiệt biết các pháp không có bằng không có thấp nhẫn đến vi trần không có bằng không có thấp.
Nếu pháp có tánh chính là như thiệt trí. Bực như thiệt trí biết tất cả pháp trước không nay có, đã có lại không, lúc sanh lúc diệt không chỗ hệ thuộc, theo duyên mà sanh, theo duyên mà diệt, do nghĩa nầy mà gọi là đạo. Do dứt đạo nầy nên gọi là Bồ đề.
Vì các hàng phàm phù chằng biết đạo chơn thiệt như vậy, nên chư Phật Thế Tôn phát khởi đại bi tuyên nói chánh pháp cho họ được biết.
Nầy thiện nam tử! Bồ đề gọi là chơn thiệt cú, chơn thiệt cú ấy tức là Bồ đề. Hai cú như vậy đồng nhau không sai khác. Sắc cũng như vậy, thọ tưởng hành thức, địa thủy hỏa phong, nhãn giới sắc giới nhãn thức giới, nhĩ giới thanh giới nhĩ thức giới, tỷ giới hương giới tỷ thức giới, thiệt giới vị giới thiệt thức giới, thân giới xúc giới thân thức giới, ý giới pháp giới ý thức giới cũng đều như vậy, đây gọi là pháp lưu bố theo thế tục.
Như Lai chơn thiệt biết rõ các ấm nhập giới pháp như vậy không có điên đảo. Bực chẳng điên đảo biết pháp quá khứ bất sanh bất diệt, biết pháp vị lai bất sanh bất diệt, biết pháp hiện tại cũng bất sanh bất diệt, biết như vậy gọi là chẳng điên đảo, gọi là chơn thiệt cú, chơn thiệt cú ấy, như một pháp thì tất cả pháp cũng như vậy, như tất cả pháp thì một pháp cũng như vậy. Chơn thìệt cú nầy các hàng phàm phu chẳng biết, vì vậy nên chư Phật Như Laì phát khởi tâm đại bi tuyên nói chánh pháp cho họ được biết.
Nầy thiện nam tử! Luận về Bồ đề ấy, chẳng phải nội chẳng phải ngoại. Thế nào là nội, thế nào là ngoại?
Không bị tạo tác là chẳng phải nội, không bị giác tri là chẳng ngoại.
Nội ấy có nghĩa là trụ ở, ngoại ấy có nghĩa là tướng dạng. Thể của Bồ đề chẳng phải trụ ở chẳng phải tướng dạng, nên gọi Bồ đề chẳng phải nội chẳng phải ngoại.
Lại nữa, chẳng phải nội là chẳng phải ba nghiệp thân khẩu và ý, chẳng phải ngoại là chẳng phải ba nghiệp duyên.
Chẳng phải nội là vô tướng giải thoát môn, chẳng phải ngoại là không giải thoát môn.
Các nghĩa như vậy hàng phàm phu chẳng biết. Vì thế chư Phật Như Lai phát khởi tâm đại bi diễn nói chánh pháp cho họ được biết.
Nầy thiện nam tử! Luận về Bồ đề là vô lậu là vô thủ. Thế nào là vô lậu và thế nào là vô thủ ?
Vô lậu là xa lìa bốn lưu, đó là dục lưu, hữu lưu, vô minh lưu và kiến lưu. Vô thủ là xa lìa bốn thủ, đó là dục thủ, hữu thủ, kiến thủ và giới thủ.
Các chúng sanh bị vô minh che trùm luôn đi nơi bốn thủ, do khát ái nên làm ngã và ngã sở.
Như Lai Thế Tôn biết rõ ngã không căn bổn nên ngã thanh tịnh, do ngã thanh tịnh nên có thể thanh tịnh chúng sanh. Ngã thanh tịnh thì chẳng giác tri tất cả các pháp cũng chẳng tư duy tất cả phi pháp, chẳng sanh khởi vô minh, do chẳng khởi vô minh nhơn duyên nên chẳng khởi mười hai nhơn duyên hữu, hữu nhơn duyên chẳng khởi thì bất sanh, vì bất sanh nên nhập vào quyết định tụ. Quyết định tụ ấy gọi là liễu nghĩa. Liễu nghĩ ấy gọi là đệ nhứt nghĩa. Ðệ nhứt nghĩa ấy gọi là không có chúng sanh. Nghĩa không có chúng sanh gọi là nghĩa bất khả thuyết. Nghĩa bất khả thuyết chính là nghĩa mười hai nhơn duyên. Nghĩa mười hai nhơn duyên chính là nghĩa pháp. Nghĩa pháp ấy chính là Như Lai. Do nghĩa như vậy nên trong khế kinh nói nếu có ai thấy được mười hai nhơn duyên thì là người thấy pháp. Thấy pháp là thấy Như Lai. Thấy Như Lai ấy chính là không chỗ thấy. Chỗ thấy là tà, tà kiến ấy đó là pháp tướng số. Như Lai không có tưởng cũng không có tưởng số. Do nơi nghĩa nầy nên thấy Như Lai là không có chỗ thấy. Nếu thấy Như Lai không có tướng, không có tác, không có tri, không có giác, thì gọi là chơn thiệt thấy Như Lai.
Cũng vậy, Ðức Như Lai biết rõ tất cả các pháp bình đẳng như vậy, pháp giới vô lậu vô thủ.
Các hàng phàm phu chẳng thể rõ biết được như vậy, vì thế Như Lai Thế Tôn phát khởi tâm đại bi tuyên nói chánh pháp cho họ được biết.
Nầy thiện nam tử! Luận về Bồ đề là thanh tịnh là tịch tĩnh là quang minh là vô tranh. Thế nào là thanh tịnh, thế nào là tịch tĩnh, thế nào là quang minh và thế nào là vô tranh?
Chẳng xen tạp phiền não thì gọi đó là thanh tịnh. Không giải thoát môn thì gọi đó là tịch tĩnh. Vô tướng giải thoát môn và vô nguyện giải thoát môn thì gọi đó là quang minh. Vô sanh vô diệt thì gọi đó là vô tranh. Lại nữa, vô sanh ấy thì gọi đó là thanh tịnh. Vô diệt thì gọi đó là tịch tĩnh. Vô thủ thì gọi là quang minh. Bất xuất thì gọi là vô tranh.
Lại nữa, tánh thì gọi là thanh tịnh. Không có các phiền não thì gọi là tịch tĩnh là quang minh là vô tranh.
Lại nữa, pháp giới gọi là thanh tịnh. Tánh chơn thiệt gọi là tịch tĩnh là quang minh là vô tranh.
Lại nữa, tánh hư không gọi là thanh tịnh. Pháp giới vô phân biệt thì gọi là tịch tĩnh là quang minh là vô tranh.
Lại nữa, nội ngoại thanh tịnh thì gọi đó là thanh tịnh. Nơi các pháp nội và ngoại chẳng thủ lấy chẳng trụ trước, thì gọi đó là tịch tĩnh là quang minh là vô tranh.
Lại nữa, chơn thiệt biết ngũ ấm thì gọi đó là thanh tịnh. Chơn thiệt biết thập bát giới thì gọi đó là tịch tĩnh là quang minh. Xa lìa lục nhập thì gọi đó là vô tranh.
Lại nữa, thấy quá khứ tận thì gọi là thanh tịnh. Thấy vị lai chẳng sanh thì gọi là tịch tĩnh. Thấy pháp hiện tại an trụ nơi pháp giới không có động chuyển thì gọi đó là quang minh là vô tranh.
Thanh tịnh tịch tĩnh quang minh và vô tranh, bốn pháp như vậy đồng nhập vào một giới một pháp và một câu. Ba pháp như vậy tức là Niết bàn. Vì xa lìa phiền não nên gọi là thanh tịnh, vì rốt ráo thanh tịnh nên gọi là tịch tĩnh, vì không tối tăm nên gọi là quang minh, vì bất khả thuyết nên gọi là vô tranh. Vì thế nên nói đức Thích Ca Như Lai nín lặng không chỗ nói.
Nầy thiện nam tử! Luận về Bồ đề ấy tức là hư không. Hư không ấy gọi là pháp. Như pháp, chúng sanh cũng vậy. Như chúng sanh, phước điền cũng vậy. Như phước điền, Niết bàn cũng vậy. Do nghĩa nầy nên tất cả pháp đồng với Niết bàn.
Ðức Như Lai có thể biết rõ pháp giới như vậy nên gọi là Phật.
Tu tập đầy đủ thanh tịnh tịch tĩnh quang minh và vô tranh, bốn câu như vậy thì gọi đó là Phật”.
Vì Ðức Như Lai có thể biết rõ được thiện phương tiện nên lúc đầu mới được Vô thượng Bồ đề liền nín lặng an trụ không có tuyên nói để chờ Ðại Phạm Vương thưa thỉnh. Lúc ấy, Thi Khí Ðại Phạm Vương cùng sáu vạn tám ngàn vị Phạm Thiên đến chỗ Phật đầu mặt lạy Phật rồi chắp tay tôn kính bạch rằng: Cầu nguyện Ðức Như Lai vì các chúng sanh chuyển chánh pháp luân, lại tiến nói kệ rằng:
Phật pháp ly thanh tịnh, tịch tĩnh
Ðại quang vô ngại, không có tranh
Không chữ, không tiếng cũng không nói
Chơn thiệt biết rõ như pháp giới
Phật vì chúng sanh vô lượng kiếp
Khổ hạnh thọ trì giới thế gian
Ðể thức tỉnh chúng sanh mê ngủ
Mãi làm phóng dật mê thiệt nghĩa
Còn vô lượng chúng trong hội nầy
Chứa căn lành nơi vô lượng Phật
Hay hiểu nghĩa sâu nghĩa chơn thiệt
Nguyện Phật chuyển pháp luân vô thượng
Chúng đây đã phục tất cả ma
Muốn đuợc mở bày cửa cam lộ
Ðức Phật hiệu là chơn Ðạo Sư
Chỉ đường vô thượng cho chúng sanh
Ðức Phật dầu có đại từ bi
Thương mến chúng sanh như con một
Nay tôi thỉnh pháp là đúng thời
Phật chuyển chánh pháp luân vô thượng
Như xưa ba Phật chuyển pháp luân
Nguyện cầu Như Lai nay cũng vậy
Vô lượng Ðạo Sư không thối chuyển
Dạy các chúng sanh đạo nhứt chơn
Như mưa nhuần lớn các cỏ cây
Làm cho chúng sanh hết nóng khát
Phật ban pháp vũ cho chúng sanh
Vì được vô lượng vô thượng quả
Lúc sơ sanh Phật có phát nguyện
Ta sẽ cứu khổ các chúng sanh
Chúng sanh khát mong vị cam lộ
Nguyện đại từ bi ban mưa pháp.
Bấy giờ Ðức Thế Tôn đã thọ thỉnh rồi liền đi qua thành Ba La Nại trong rừng Lộc Dã chỗ ở của các tiên nhơn mà chuyển chánh pháp luân. Pháp luân ấy, tất cả hàng chư Thiên, Ma Vương, Phạm Vương và các Sa Môn hoặc các Bà La Môn khác đều chẳng thể chuyển được. Lúc ấy Ðức Thế Tôn nói pháp Tứ đế, Tỳ Kheo Kiều Trần Như được pháp nhãn thanh tịnh. Tiếng pháp ấy vang khắp cả cõi Ðại Thiên . Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:
Nghĩa pháp thậm thâm chẳng thể nói
Ðệ nhứt nghĩa không tiếng không chữ
Tỳ kheo Trần Như nói các pháp
Chứng được bực tri kiến chơn thiệt
Chính ta thuở xưa vô lượng đời
Chứng được Bồ đề nay đã được.
Lúc Ðức Như Lai chuyển chánh pháp luân như vậy, vô lượng chúng sanh đều được điều phục. Ðức Như Lai thị hiện đại bi thần thông như vậy các chúng sanh được thấy có vô số người phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Nầy thiện nam tử! Mười sáu đại bi của Như Lai như vậy, tất cả đều vì các chúng sanh mà tu tập. Do nhơn duyên đại bi ấy, Ðức Như Lai vì mỗi mỗi chúng sanh trải qua số kiếp như số cát sông Hằng ở trong đại địa ngục thọ những khổ não mà tâm không thối chuyển , tâm đại bi ấy cũng không bị tổn giảm. Vì nghĩa ấy nên đại bi của Ðức Như Lai chẳng thể nghĩ bàn.
Nầy thiện nam tử! Lòng bi của hàng Thanh Văn và Duyên giác như vẽ trên da, đại bi của Bồ Tát như xẻ thịt, đại bi của Như Lai như chẻ xương thấu tủy. Lòng bi của Thanh Văn và Duyên Giác tán thán sở tri của Phật, đại bi của Bồ Tát khuyên người thật hành, đại bi của Như Lai thọ ký Vô thượng Bồ đề. Lòng bi của Thanh Văn và Duyên Giác làm nhơn duyên cho lòng từ, đại bi của Bồ Tát vì điều phục chúng sanh, đại bi của Như Lai vì cứu cánh độ chúng sanh. Lòng bi của Thanh Văn và Duyên Giác do sự khổ thô thiển mà sanh, đại bi của Bồ Tát do lìa rời sự khổ mà sanh, đại bi của Như Lai do dứt trừ tất cả nhơn duyên mà sanh.
Nầy thiện nam tử! Ðức Như Lai tu tập đại bi như vậy, nếu vì một người mà ở lại thế gian mà trải qua một kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp, vạn kiếp đến vô lượng kiếp trọn chẳng rốt ráo nhập Niết bàn.
Nầy thiện nam tử! Ðại bi của Như Lai thành tựu vô lượng công đức như vậy.
Nầy thiện nam tử! Về quá khứ vô lượng vô biên vô số kiếp, nơi thế gian có Ðức Phật xuất thế hiệu là Chiên Ðàn Quật, thế giới ấy tên là Ðại Hương, kiếp ấy gọi là Thượng Hương. Ðức Phật Chiên Ðàn Quật trong ba trăm ba mươi hai vạn kiếp thường đem chánh pháp giáo hóa hàng Thanh Văn. Trên thân Phật Chiên Ðàn Quật mỗi mỗi lỗ lông phát ra hơi hương khắp đầy cả Ðại Thiên thế giới. Thế giới Ðại Hương ấy không có danh từ hôi thúi, bao nhiêu cỏ cây đều có mùi chiên đàn, thân các chúng sanh trong cõi ấy cũng có mùi hương chiên đàn như vậy, tất cả đều không có thân khẩu ý ác. Ðệ tử của Ðức Phật Chiên Ðàn Quật nghe mùi hương nầy thì được tứ thiền. Sau đó kế tiếp có một vạn chư Phật nối nhau xuất thế đều đồng một hiệu là Chiên Ðàn Quật, do cớ nầy mà kiếp ấy có tên là Thượng Hương.
Ðức Chiên Ðàn Quật Như Lai làm Phật sự xong muốn nhập Niết bàn quan sát chúng sanh coi có ai chưa điều phục thì Phật sẽ điều phục cho. Ðức Phật Chiên Ðàn Quật dùng tịnh nhãn thấy có một vị ở Trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ đã ở nơi Phật trước gieo giống thượng thiện căn quyết định sẽ nhơn pháp Phật mà được độ thoát chớ chẳng phải nhơn pháp Thanh Văn mà được giải thoát. Vị trời nầy quá tám vạn bốn ngàn kiếp tuổi thọ sẽ sanh xuống cõi Dục sẽ nghe kinh điển Ðại thừa mà phát tâm Vô thượng Bồ đề an trụ bực bất thối chuyển. Ðức Phật Chiên Ðàn Quật do sức đại bi khởi đại phương tiện bảo các Tỳ Kheo giờ Niết bàn của ta đã đến, nói xong Phật liền nhập Bất Hối tam muội thị hiện cho chúng sanh biết Phật nhập Niết bàn, biết Phật nhập Niết bàn rồi đại chúng sắp bày rộng rãi sự cúng dường, chánh pháp trụ thế đủ sáu mươi tám vạn bốn ngàn năm, trong thời gian các đệ tử của Phật không có đến một người ở nơi chánh pháp mà sanh tưởng tà pháp. Do sức đại định, Ðức Phật Chiên Ðàn Quật ẩn kín thân Phật qua tám vạn bốn ngàn kiếp chẳng cho đại chúng thấy. Quá kiếp số thọ mạng, vị trời ấy sanh xuống nhơn gian làm con trai nhà đại trưởng giả. Qua tám mươi năm, Ðức Phật Chiên Ðàn Quật từ tam muội dậy đến nhà trưởng giả, mọi người trong nhà không ai thấy, chỉ có người con trai nầy một mình được thấy Ðức Phật và được nghe Ðức Phật thuyết pháp được chẳng thối chuyển tâm Vô thượng Bồ đề. Biết vậy, Ðức Phật Chiên Ðàn Quật liền thọ ký rằng đời sau quá bảy vạn hai ngàn a tăng kỳ trăm ngàn kiếp ngươi sẽ được thành Vô thượng Bồ đề hiệu là Bửu Thượng Phật. Lời Ðức Phật Chiên Ðàn Quật thọ ký ngoài người con trai trưởng giả nầy không ai được nghe, chỉ có một vạn hai ngàn chư Thiên nầy nghe rồi đều phát tâm Vô thượng Bồ đề đồng thanh bạch rằng: Cầu nguyện lúc đức Bửu Thượng Phật ra đời, chúng tôi sẽ ở trong pháp hội ấy thỉnh thọ chánh pháp và làm đệ tử. Ðức Phật Chiên Ðàn Quật nghe biết lời bạch của chư Thiên liền thọ ký rằng: Lúc Bửu Thượng Như Lai thành Phật, một vạn hai ngàn chư Thiên các ngươi sẽ làm thọ pháp đệ tử, cũng sẽ được Phật Bửu Thượng thọ ký Vô thượng Bồ đề. Việc làm nầy xong đức Chiên Ðàn Quật mới cứu cánh nhập Niết bàn tất cả chư Thiên thiết lập cúng dường lớn”.
Ðức Phật phán tiếp: “Nầy thiện nam tử! Chư Phật Như Lai có đủ đức đại bi như vậy, chẳng phải là chỗ biết được của hàng Thanh Văn và Duyên Giác. Thuở ấy, Ðức Phật Chiên Ðàn Quật dầu ở tại thế đem pháp Thanh Văn giáo hóa mà cuối cùng vẫn làm cho giống Phật chẳng dứt. Nếu có chúng sanh nào cúng dường ngôi Tam bảo thì cũng như vậy”.
Lúc Ðức Phật Thế Tôn nói rộng công đức đại bi, trong chúng hội có ba hằng hà sa chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề. Nửa số chúng hội được thành vô sanh pháp nhẫn, phân nửa trong nửa số còn lại được có mười sáu đại bi như vậy, phần còn lại được Phật pháp nhẫn.
Tất cả chư Thiên và mọi người nghe pháp vui mừng đồng thanh khen rằng: “Lành thay, lành thay ! Rất lạ lùng rất đặc biệt, Ðức Phật Thế Tôn tuyên nói pháp môn đại bi như vậy”.
Lại nữa, nầy Ðà La Ni Tự Tại Vương đại Bồ Tát! Ðức Phật Như Lai còn có ba mươi hai nghiệp.
Nầy thiện nam tử! Như Lai biết rõ thị xứ và phi xứ. Thế nào là Thị xứ và thế nào là phi xứ?
Nầy thiện nam tử! Nếu có người tạo tác thân khẩu ý ác mà được thọ quả an lạc thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ. Nếu có người tạo tác thân khẩu ý thiện mà thọ quả an lạc thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.
Nếu có ngưòi quen làm việc tham lam bỏn xẻn mà được báo giàu to thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ. Nếu có người ban ơn bố thí mà được báo giàu to thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.
Nếu là người hủy phạm giới cấm mà được báo thân cõi trời thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ. Nếu là người hộ trì giới cấm thanh tịnh mà được báo thân cõi trời thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.
Người hay sân hận mà được báo thân xinh đẹp thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ. Người thường nhẫn nhục mà được báo thân xinh đẹp thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.
Người lười nhác trong pháp lành lớn mà được đại thần thông thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ. Người siêng tinh tiến nơi pháp lành lớn mà được đại thần thông thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.
Người phóng tâm tán loạn mà được bực chánh định thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ. Người nhiếp tâm bất loạn mà được bực chánh định thì có như vậy, đây gọi là thị xứ .
Người ngu si mà dứt tập khí phiền não thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ. Người tu hành trí huệ dứt tập khí phiền não thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.
Người tạo tội ngũ nghịch mà được vô lậu thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ . Người không tội ngũ nghịch mà được vô lậu thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.
Thân người nữ mà làm Chuyển Luân Thánh Vương thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ. Thân nam tử làm Chuyển Luân Thánh Vương thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.
Như làm Chuyển Luân Thánh Vương, làm Thiên Ðế Thích, làm Phạm Vương và làm Phật cũng như vậy.
Nếu là chuyển Luân Thánh Vương mà dùng phi pháp để trị nước thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ. Chuyển Luân Thánh Vương dùng chánh pháp trị nước thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.
Người Châu Uất Ðơn Việt sau khi chết mà đọa vào ba ác đạo thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ. Người Uất Ðơn Việt thọ chung sanh lên cõi trời thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.
Người thường sát hại sanh mạng chúng sanh mà được báo trường thọ thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ. Còn do cớ nầy mà thọ mạng yểu ngắn thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.
Người có tà kiến mà chứng thánh đạo thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ. Người có chánh kiến mà chứng được thánh đạo thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.
Bực Tu Ðà Hoàn mà còn có thọ sanh đời thứ tám thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ. Bực Tu Ðà Hoàn mà liền nhập Niết bàn cũng không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.
Bực A Na Hàm mà thọ sanh trong cõi Dục thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.
Bực A La Hán mà thọ thân đời sau thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.
Người Hiền Thánh mà học hỏi nơi các dị sư thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.
Bực bất thối nhẫn mà còn thối chuyển Bồ đề thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.
Bồ Tát đến ngồi dưới cây Bồ đề chưa chứng quả Bồ đề mà dậy đi thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.
Bực Phật Như Lai mà có tập khí phiền não thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.
Bực Phật Như Lai mà trí còn có chướng ngại thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.
Nếu có ai thấy được đỉnh đầu của Ðức Phật thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.
Nếu có chúng sanh biết được cảnh giới nội tâm của Ðức Phật thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.
Tâm của Ðức Phật mà chẳng thường định cũng không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.
Chư Phật Thế Tôn mà có nhị ngữ thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.
Như Lai Thế Tôn mà còn có lỗi lầm thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.
Nầy thiện nam tử! Ðây gọi là nghiệp thứ nhứt của Phật Thế Tôn.
Ðức Phật nói kệ rằng:
Ðại địa được nói tướng chuyển động
Gió mạnh được nói tướng dừng lặng
Hư không được nói tướng có sắc
Phật chẳng nói xứ là phi xứ
Phật diễn nói xứ và phi xứ
Phần hạ trung thượng đều chơn thiệt
Chẳng nói xứ phi xứ là một
Hai xứ như vậy riêng không hai
Như Lai cũng nói hạ trung thượng
Ðều riêng không có ba thứ tướng
Phật biết thị xứ phi xứ rồi
Có thể tuyên nói pháp vô thượng
Như Lai biết rõ lòng chúng sanh
Khéo hay phân biệt tướng vi tế
Sa Môn phạm chí đi trong tối
Chẳng biết nhơn thị xứ phi xứ
Chúng sanh chằng biết xứ phi xứ
Do đó nên chẳng được giải thoát
Như Lai biết rõ xứ phi xứ
Ðó là hiệu Phật đấng Vô Thượng
Nếu là chúng sanh không pháp khí
Như Lai với họ tu tâm xả
Lập đại phương tiện chờ thời tiết
Vì cho họ được chơn giải thoát
Như Lai Thế Tôn trí vô thượng
Ðây thì gọi là pháp thứ nhứt
Thanh tịnh nghiệp thứ nhứt như vậy
Vì làm chúng sanh được điều phục
Như Lai nói lực thứ nhứt nầy
Rất sâu khó lường không biết được
Diệu pháp như vậy khó biết được
Vì phá tà kiến thương xót nói
Nầy thiện nam tử ! Như Lai Thế Tôn có đủ ba mươi hai nghiệp như vậy thì có thể điều phục tất cả chúng sanh.
Nầy thiện nam tử! Như Lai Thế Tôn vì chúng sanh nói các nghiệp ấy, mà thiệt thì Như Lai vô lượng nghiệp Vô thượng không thể kể nói.
Nầy thiện nam tử! Nghiệp của Như Lai, tất cả thế gian chúng sanh chẳng suy nghĩ được, chẳng biết rõ được cũng chẳng tuyên nói được.
Nghiệp Như Lai ấy đều có thể bình đẳng biết khắp tất cả quốc độ như hư không. Tại sao? Vì mười phương chư Phật đều bình đẳng vậy.
Nầy thiện nam tử! Chư Phật Như Lai quan sát chúng sanh cùng thế giới giải thoát Niết bàn đều bình đẳng không sai khác. Ðức Phật Thế Tôn quán pháp giới đều bình đẳng nhứt vị rồi chuyển chánh pháp luân chẳng chuyển được.
Nầy thiện nam tử! Ví như người thợ ngọc biết rành các loại châu báu, ở nơi núi báu được một viên bửu châu mang về ngâm trong nước, ngâm nước xong vớt ra ngâm dấm, rồi ngâm nước đậu, ngâm rượu đắng, ngâm xong để trong các chất nước thuốc, sau đó dùng nĩ nhuyễn mài chà thành chơn chánh thanh lưu ly châu.
Cũng vậy, vì biết chúng sanh giới chẳng sáng chẳng sạch nên Như Lai vì chúng sanh mà nói pháp Vô thường khổ bất tịnh để phá tâm tham ưa sanh tử của họ. Ðức Như Lai tinh tiến không thôi nghỉ, lại vì chúng sanh nói pháp không vô tướng vô nguyện cho họ biết rõ chánh pháp của Phật. Ðức Như Lai tinh tiến không thôi nghỉ lại vì họ thuyết pháp cho họ chẳng thối tâm Vô thượng Bồ đề biết tất cả pháp ba đời thành đạo Bồ đề, gọi là đại trân bửu Vô thượng phước điền lành tốt.
Vì vậy nên biết nghiệp của Như Lai chẳng thể tư duy chẳng thể cân lường chẳng thể tuyên nói được.
Ðức Như Lai có đủ ba mươi hai nghiệp, dầu biết thân Phật như hư không mà ở nơi thế giới thị hiện thân Phật và cũng thuyết pháp chẳng thể thuyết được.
Ðức Như Lai đã dứt hẳn nhơn duyên tất cả tâm nên biết rõ tâm giới của tất cả chúng sanh, cũng biết rõ cảnh giới của tất cả Bồ Tát.
Nầy thiện nam tử! Như Lai Thế Tôn chơn thiệt nghiệp trọn chẳng đoạn tuyệt, thọ ký cho Bồ Tát. Ðây gọi là nghiệp chơn thiệt của Như Lai”.
Lúc Ðức Thế Tôn nói nghiệp Phật trên đây rồi, mười phương thế giới chấn động sáu cách, quang minh lớn chiếu khắp nơi, vô lượng vô biên thứ hương thơm hoa đẹp từ trên không tuôn xuống. Ðại chúng hiện tại trong phường đình báu lớn cho đến hàng Trời, Rồng,Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Người và Phi Nhơn nghe lời Ðức Phật tuyên nói về nghiệp Như Lai, tất cà đều rất vui mừng. Ðại chúng lại đem các thứ hương hoa, kỹ nhạc, bửu tràng, bửu phan, bửu cái, cúng dường, Ðức Phật. Trong pháp hội lại có các chúng đem đủ loại vàng ngọc châu báu cùng những vật trang sức, như là tràng chuổi thoa xuyến, những thanh lưu ly châu, liên hoa châu, kim sí điểu châu, diêm phù bửu châu, đế thích bửu châu, hỏa châu, quang châu, vô lượng quan châu, vô lượng sắc châu, nhu nhuyến thanh tịnh châu, kim cương bửu châu và bạch chơn châu, còn có đem các thứ hương quý như là hương bột, hương chiên đàn hòa với kim sa, hương da già la, hương trầm thủy, hương huân lục, hương di khư đa, hương ma la bạt, còn rải các thứ hoa, những là hoa mạn đà la, hoa ma ha mạn đà la, hoa mạn thù sa, hoa ma ha mạn thù sa, hoa câu tỳ đà la, hoa ba lợi chất đa la, hoa hỉ lạc, hoa sa la, hoa đại sa la, hoa bách diệp, hoa thiên diệp, hoa nhiễu diệp, hoa đại quang, hoa hương, hoa lạc hương, hoa lạc kiến, hoa vô lượng sắc, hoa bất định sắc, các loại hoa sanh trong nước như là hoa ưu bát la, hoa ba đầu ma, hoa câu vật đầu, hoa phân đà lợi các loại, các loại hoa trên đất như là hoa bà lợi sư, hoa ma lê, hoa tu mạn na, hoa dục kỳ, hoa đàn nội già lê, hoa a đề mục đa già, hoa chiêm bà, hoa a thúc ca, cũng cúng dường Ðức Phật các loại kỹ nhạc, các thứ phan lọng.
Lúc bấy giờ chư Bồ Tát đến từ thập phương thế giới đều thẳng lên hư không trên phường đình báu lớn rồi buông mình rơi xuống đất để cúng dường Ðức Phật, thân chư Bồ Tát ấy rơi xuống đất tan mất hóa ra lưới thất bửu trùm khắp trên phường đình, lại hiện thân các Ngài ở trong lưới báu ấy.
Lúc bấy giờ mười phương tất cả chư Phật đều riêng sai một cây ba lợi đến phường đình dùng để cúng dường Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni. Do thấn lực Phật, mỗi mỗi cây ba lợi ấy đến trang nghiêm phường đình báu lớn.
Trong pháp hội có vô lượng chúng phát tâm Vô thượng Chánh Giác, vô lượng chúng được Vô sanh Pháp nhẫn.
Ðức Thế Tôn đứng dậy ngắm nhìn hàng đại chúng như tượng vương nhìn mà tuyên lời rằng: Các thiện nam tử! Ai có thể thủ hộ các vật cúng dường nầy và cả phường đình báu lớn đây cho khỏi bị hủy hoại hư hao tổn thất, chờ đến Di Lặc thành Vô thượng Chánh giác rồi mười sáu năm sau sẽ cúng dường lên Ðức Phật ấy và cũng gìn giữ để cúng dường năm trăm Ðức Như Lai kế tiếp trong Hiền Kiếp.
Bấy giờ trong chúng hội có một đại Bồ Tát hiệu là Chư Pháp Thần Thông Tự Tại Vương liền từ chỗ ngồi dậy quỳ chắp tay bạch rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Tôi có thể thủ hộ những vật cúng dường và phường đình báu lớn nầy chẳng cho hư không hủy hoại để chờ Di Lặc thành Phật được mười sáu năm sẽ cúng dường cho Ðức Phật ấy và cũng thủ hộ cúng dường cho năm trăm Ðức Phật kế tiếp trong Hiền kiếp nầy”.
Lúc ấy trong đại chúng có một ma vương hiệu là Thần Thông ở nước Tứ Thiên Hạ nói với đại Bồ Tát Chư Pháp Thần Thông Tự Tại Vương rằng nay Ngài để những vật cúng dường và bửu phường đình nầy ở trong khí cụ gì để thủ hộ cho khỏi hư hao hủy hoại?
Chư Pháp Thần Thông Tự Tại Vương đại Bồ Tát nói: “Nầy thiện nam tử! Phàm nói là khí cụ thì tánh nó là Vô thường, mà thân thể nầy của tôi luôn thường trụ không biến đổi. Nay Ngài nên nhìn kỹ thân của tôi”
Ma vương Thần Thông nghe xong liền y theo lời bảo mà nhìn kỹ thân của đại Bồ Tát Chư Pháp Thần Thông Tự Tại Vương, thấy trong rún có một thế giới tên là Thủy Vương Quang hiện tại có Ðức Phật Thế Tôn hiệu là Bửu Ưu Bát La, trong thế giới Thủy Vương Quang ấy có một bửu sơn lớn, Bửu Ưu Bát La Như Lai ở trong đại bửu sơn ấy ngồi Kiết già cùng chư Bồ Tát tuyên nói chánh pháp.
Thần Thông ma vương thấy rõ rồi trong lòng rất lấy làm lạ mà khen ngợi, liền lạy Chư Pháp Thần Thông Tự Tại Vương đại Bồ Tát mà bạch rằng: “Lành thay lành thay! Bạch Ðại Sĩ! Nay tôi mới biết là Ngài có khí cụ vi diệu có thể hộ trì được các vật cúng dường và đại bửu phường đình nầy khỏi bị hư hao hủy hoại”.
Thần Thông ma vương lại đảnh lễ Ðức Phật bạch rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Từ trước tôi chưa từng thấy đại Bồ Tát như vậy, cũng chưa từng được nghe pháp vi diệu như vậy, nên tôi muốn học pháp Thanh Văn nhập Niết bàn. Nay tôi được thấy oai thần lực của Chư Pháp Thần Thông Tự Tại Vương đại Bồ Tát tôi liền phát tâm Vô thượng Bồ đề. Bạch Ðức Thế Tôn! Giả sử trong hằng hà sa số kiếp thân tôi chịu khổ nơi địa ngục, rồi sau mới được thành đạo Vô thượng, tôi quyết chẳng rời bỏ Bồ đề tâm”.
Ðức Phật phán dạy: “Lành thay lành thay! Nầy thiện nam tử! Ông có thể phát tâm Vô thượng Bồ đề tốt như vậy, ông cũng sẽ được Vô lượng thần thông lực như vậy”.
Lúc ấy trong pháp hội có một đại Bồ Tát hiệu là Sư Tử Tràng nói với Ðà La Ni Tự Tại Vương đại Bồ Tát rằng: “Bạch Ngài, đại Bồ Tát được môn đà la ni gì mà có thể thọ trì tất cả lời chư Phật dạy, những chữ câu và nghĩa được diễn nói đều không cùng tận?”.
Ðà La Ni Tự Tại Vương đại Bồ Tát nói: “Bạch Ngài Sư Tử Tràng đại Bồ Tát, có tám môn đà la ni mà đại Bồ Tát nếu chứng được thì có thể thọ trì tất cả lời dạy của chư Phật và thuyết pháp chữ câu và nghĩa không có cùng tận.
Những gì là tám môn đà la ni?
Một là Tịnh Thanh Quang Minh đà la ni môn.
Hai là Vô Tận Khí đà la ni môn.
Ba là Vô Lượng Tế đà la ni môn.
Bốn là Ðại Hải đà la ni môn.
Năm là Liên Hoa đà la ni môn.
Sáu là Nhập Vô Ngại Môn đà la ni môn.
Bảy là Tứ Vô Ngại Trí đà la ni môn.
Tám là Phật Trang Nghiêm Anh Lạc đà la ni môn.
Nếu có đại Bồ Tát an trụ trong tám môn đà la ni nầy thì có thể thọ trì tất cả lời dạy của chư Phật và thuyết pháp chữ câu nghĩa đều không có cùng tận”.
Sư Tử Tràng đại Bồ Tát nói: “Lành thay bạch Ðại Sĩ! Xin Ngài nói rộng cho. Chư Bồ Tát nghe rồi sẽ được thọ trì tất cả Phật pháp”.
Ðà La Ni Tự Tại Vương đại Bồ Tát nói: “Nầy Ngài, xin lắng nghe kỹ tôi sẽ vì Ngài mà nói.
Môn Tịnh Thanh Quang Minh đà la ni ấy, nếu an trụ được thì đại Bồ Tát có thể ở nơi chỗ vô lượng vô biên chư Phật Thế Tôn mà thành tựu đầy đủ vô lượng công đức được, tứ đại thanh tịnh, do đây mà âm thanh vi diệu, lúc tuyên thuyết chánh pháp âm thanh ấy vang khắp một Phật thế giới, khắp hai Phật thế giới, khắp năm Phật thế giới , khắp mười Phật thế giới, khắp hai mươi ba mươi Phật thế giới, khắp bốn mươi năm mươi Phật thế giới, khắp trăm Phật thế giới, khắp ngàn Phật thế giói, cho đến khắp trăm ngàn vạn Phật thế giới không thể kể không thể đếm được. Pháp được đại Bồ Tát ấy nói ra đều được nghe khắp nơi. Lúc đại Bồ Tát ấy thuyết pháp, pháp tòa sư tử được ngồi hoặc rộng một do tuần, hoặc lớn như núi Tu Di, rộng lớn như bửu tòa Phạm Thiên Vương.
Giả sử có mười phương vô lượng chư Phật giảng tuyên đạo hóa đại Bồ Tát nầy đều nghe được khắp hết và thọ trì chẳng quên sót, hiểu rành chữ câu và ý nghĩa. Ðồng thời tự mình thuyết pháp và nghe chư Phật thuyết pháp không có trở ngại cả hai sự việc. Ở trong một chữ diễn nói tất cả pháp, đó là chữ a. Chữ a là đầu của các chữ. Lúc đại Bồ Tát nầy nói chữ a liền có thể nói tất cả pháp. Chữ a có nghĩa là không có. Không có ấy là các pháp không có căn, không có sanh, không có sơ khởi, không có biên tế, không có tận cùng, không có tạo tác, không có lai, không có khứ, không có trụ, không có tánh, không có xuất, không có hành, không có tăng, không có cao, không có giảm, không có chữ không có tác dụng, không có nguyện cầu, không có hí luận cũng không giác quán, không nói, không nghe, không ở, không vào, các pháp không có ngã, không có chúng sanh, không tịnh, không mạng, không tên, không chủ, không sĩ phu, không nội, không ngoại, không thường, không tướng, không nhớ, không lường, không làm không dấu vết, không câu, không chữ, không ngại, không cùng chung, không theo mình, không theo người, không thâu, không phóng, không thủ, không xả, không số, không thân, không tịnh, không uế, không chuyển, không biến, không thọ nhận, không âm thanh, không tướng hình, không kiết gút, không nhơ, không cuồng, không lậu, không hữu, không che, không đục, không đối, cũng không có sắc thọ tưởng hành thức, không có nhơn quả, không có ấm nhập giới, không có nhơn duyên, không có cảnh giới, không có Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới, không có thọ sanh, không có dẫn dắt, không có đen trắng, không cặn bã, không tư duy, không thời gian, không quy về, không thanh tịnh, không tạp uế, không thiêu đốt, không quên tập, không nhà cửa, không chi tiết, không lay động, không đứng ngừng, không bền chắc, không mỏng manh, không thấy được, không chạm được, không sáng, không tối, không lỗi, không tội, không thiệt, không hư, không si ngu, không quán huệ, không chứng không tu, không kiến, không văn, không giác, không trí, không xúc, không thúc.
Thưa Ngài Sư Tử Tràng! Ðại Bồ Tát được đà la ni Tịnh Thanh Quang Minh như vậy thì ở một chữ có thể diễn nói tất cả pháp. Trong một chữ nầy nói vô lượng nghĩa không có sai lầm, chẳng hoại pháp giới, chẳng mất chữ nghĩa.
Ðại Bồ Tát được đà la ni Tịnh Thanh Quang Minh nầy thì thân khẩu và ý đều thanh tịnh cả.
Cử động đi ở chúng sanh thích thấy, đó là thân thanh tịnh. Pháp được diễn nói chúng sanh thích nghe đó là khẩu thanh tịnh. Tu tập tâm từ bi hỉ xả đó là ý thanh tịnh.
Ðại Bồ Tát được đà la ni nầy rồi thì có thể thanh tịnh hai bố thí, đó là tài thí và pháp thí. Có thể thanh tịnh giới hạnh, thấy kẻ phá giới chẳng sanh tâm chê ghét. Có thể thanh tịnh nhẫn nhục, thấy kẻ hại chúng sanh chẳng sanh lòng giận phiền. Có thể thanh tịnh tinh tiến, tu hành pháp lành không hề thôi nghỉ. Có thể thanh tịnh thiền định vì dứt kiêu mạn. Có thể thanh tịnh trí huệ vì trừ vô minh. Có thể thanh tịnh các nghiệp vì phá nhơn ác bất thiện. Có thể thanh tịnh nhãn căn vì được tam minh. Có thể thanh tịnh nhĩ căn vì được thiên nhĩ nghe tiếng nói của chư Phật. Có thể thanh tịnh tỷ căn vì ngửi biết giới hương thanh tịnh của chư Phật. Có thể thanh tịnh thiệt căn vì chẳng tham chất vị cam lộ. Có thể thanh tịnh thân căn vì được hóa thân. Có thể thanh tịnh ý căn vì tư duy lành tốt vậy. Có thể thanh tịnh hình sắc vì được ba mươi hai đại nhơn tướng. Có thể thanh tịnh âm thanh vì nói diệu pháp. Có thể thanh tịnh hơi hương vì giới văn thí v.v… thanh tịnh. Có thể thanh tịnh mùi vị vì được vị Vô thượng. Có thể thanh tịnh cảm xúc vì tu tập các tam muội Vô thượng. Có thể thanh tịnh pháp trần vì quán các pháp giới vô phân biệt. Có thể thanh tịnh ác niệm vì chẳng quên sót. Có thể thanh tịnh ý tưởng vì vĩnh viễn không hệ thuộc ca ma đảng. Có thể thanh tịnh các hành vì quán sát các pháp giới thậm thâm vậy.
Nầy thiện nam tử! Ðại Bồ Tát an trụ nơi đà la ni Tịnh Quang Minh nầy rồi theo âm thanh được nói vang đến, chỗ nào thì ánh sáng từ trong thân của Bồ Tát ấy cũng chiếu đến nơi ấy.
Nầy thiện nam tử! Ðà la ni ấy thành tựu vô lượng công đức như vậy.
Ðại Bồ Tát an trụ Vô Tận Khí đà la ni rồi thì diễn nói sắc Vô thường chẳng thể cùng tận, nói sắc là khổ là vô ngã cũng chẳng thể cùng tận, nói sắc như bọt nước, như ảo như trăng trong nước, như mộng, như vang, như bóng, như dương diệm, cũng đều chẳng thể cùng tận, nói sắc không có tánh, không có tướng là rỗng không cũng đều chẳng thể cùng tận, nói sắc không nói được chẳng thể nguyện cầu chẳng thể tạo tác là bất sanh bất diệt chẳng phải quá khứ vị lai hiện tại, chẳng phải nội ngoại chẳng phải tịnh uế, chẳng phải ngã ngã sở, chẳng phải khứ lai, chẳng phải đối ngại, chẳng phải nhứt nhị, chẳng phải chúng sanh, thọ mạng, trượng phu, chẳng phải tham sân si, chẳng phải hữu vô, chẳng phải hữu lậu vô lậu, chẳng phải hữu vi vô vi tất cả cũng đều chẳng phải cùng tận, nói sắc chẳng phải đui điếc, chẳng phải quẻ thọt, chẳng phải cuồng loạn, chẳng phải cỏ cây gỗ đá, chẳng phải địa thủy hỏa phong, chẳng phải nhà cửa, chẳng phải thành quách, chẳng phải thôn lạc lớn, chẳng phải núi gò, chẳng phải vườn rừng, chẳng phải phương hướng, chẳng phải sắc hương vị xúc, chẳng phải tạo tác chẳng phải lãnh thọ, chẳng phải tiếng, chẳng phải nghe, chẳng phải mười hai nhơn duyên tất cả cũng đều chẳng thể cùng tận, nói sắc chẳng phải thường chẳng phải đoạn, chẳng phải nhơn chẳng phải ngũ ấm, lục nhập, thập bát giới,chẳng phải Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới, chẳng phải đống dị, chẳng phải phiền não, chẳng phải tịnh uế, chẳng phải bằng, chẳng phải lõm, tất cả cũng đều chẳng thể cùng tận.
Nầy thiện nam tử! Ðại Bồ Tát an trụ Vô Tận khí đà la ni nói sắc chẳng thể cùng tận như vậy. Lại còn vô lượng vô biên bất khả thuyết phần. Chia một phần nầy làm ngàn phần, ta ở nơi một phần ngàn ấy còn nói chẳng thể cùng tận.
Về Vô Lượng Tế đà la ni, chữ tế là nói thường kiến và đoạn kiến, vô lượng là nói mười hai nhơn duyên. Lại nữa, chữ tế là nói vô minh hành thức danh sắc lục nhập xúc thọ ái thủ hữu sanh và lão tử các sự khổ não nhóm họp, vô lượng là nói sanh và tử. Lại nữa, chữ tế là vô thỉ vô chung, là không có thủ xả, là không sanh không diệt, là không uế không tịnh vì tánh vốn thanh tịnh, là khả kiến, là danh sắc, là hữu vi vô vi, là hữu lậu vô lậu, là nghiệp quả nội ngoại trong ba đời, là không nghiệp nhơn quả báo thiện và bất thiện ngã và vô ngã sanh tử và Niết bàn.
Vô lượng là vi trần tế đó là địa thủy hỏa phong.
Ðây gọi là Vô Lượng Tế đà la ni, đại Bồ Tát an trụ đà la ni ấy rồi ở trong vô lượng kiếp vì chúng sanh thuyết pháp, những tự cú nghĩa vị được nói đều chẳng thể cùng tận. Ðà la ni ấy thành tựu vô lượng công đức như vậy.
Còn về Ðại Hải đà la ni, nầy thiện nam tử! Ví như biển lớn, trong tứ thiên hạ có những hình sắc chúng sanh những cỏ cây dược thọ ngũ cốc mặt nhựt mặt nguyệt tinh tú mây rán sương mù sấm chớp quốc độ thành quách tụ lạc thôn ấp điện đường vườn rừng ao hồ núi sông v.v… tất cả hình sắc đều hiện bóng trong biển lớn.
Ðại Bồ Tát an trụ đà la ni Ðại Hải ấy cũng như vậy, tất cả chúng sanh thân khẩu ý nghiệp đều ấn hiện trong thân đại Bồ Tát, do đây mà những lời nói của đại Bồ Tát đều chơn thiệt cả. Chữ ấn ấy có nghĩa là vô sở hữu, đó là các pháp không có giác quán không có ngôn thuyết là vô biên vô tác vô tham, đây gọi là nghĩa đệ nhứt chơn thiệt. Còn có giá ấn, giá là nói nhãn , nhãn là vô thường có thể tịnh có thể thấy. Còn có na ấn, na là nói danh, vì tất cả các pháp nên danh thiệt vô danh. Còn có la ấn, la là nói thế, tất cả thế gian thuộc ái và vô minh. Còn có đà ấn, đà là nói thập, Ðức Phật Thế Tôn có thập lực hay hóa độ chúng sanh. Còn có ba ấn, ba là nói ngũ, Ðức Như Lai xa lìa trừ dứt ngũ dục chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Còn có sát ấn, sát là nói lục, vì Ðức Như Lai chơn thiệt biết rõ lục nhập nên có thể điều phục tất cả chúng sanh, vì Ðức Như Lai đủ lục niệm xứ nên được đại tự tại, vì Ðức Như Lai có lục thần thông nên dùng thần thông giáo hóa chúng sanh. Còn có bà ấn, bà là nói tả, vì Ðức Như Lai lìa tả đạo nên được Vô thượng Bồ đề. Còn có đa ấn, đa là nói thiệt, vì Ðức Như Lai biết rõ tánh chơn thiệt, nên gọi là Chánh Giác. Còn có na ấn, na là nói bỉ, vì Ðức Như Lai biết khắp các pháp thủ bỉ đều bình đẳng. Còn có bà ấn, bà là nói kiết, vì Ðức Như Lai xa lìa tất cả phiền não kiết sử nên gọi là a lê ha. Còn có xà ấn, xà là nói sanh lão, vì Ðức Như Lai đã khỏi phần sanh lão nên gọi là Thế Tôn. Còn có đàm ấn, đàm là nói pháp, Ðức Như Lai thuyết pháp thanh tịnh vô cấu. Còn có xa ấn, xa là nói xa ma tha. Còn có khư ấn, khư là nói hư không, Ðức Như Lai thấy biết tất cả các pháp đồng như hư không. Còn có ca ấn, ca là nói khổ hạnh, Ðức Như Lai xa lìa tất cả khổ hạnh. Còn có bà ấn, bà là nói chơn thiệt, tứ đế được Ðức Như Lai nói tức là chơn thiệt. Còn có ma ấn, ma là nói đạo, Ðức Như Lai hay nói pháp bát chánh đạo. Còn có già ấn, già là nói thâm, pháp được Ðức Như Lai nói nghĩa rất thậm thâm. Còn có sằn ấn, sằn là nói nhẫn, Ðức Như Lai có đủ nhẫn Ba la mật. Còn có hô ấn, hô là nói tán, Ðức Như Lai thường tán thán thập phương chư Phật. Còn có nhược ấn, nhược là nói biến tri, Ðức Như Lai biết rõ khắp tất cả pháp nên gọi là bực Nhứt thiết trí. Còn có bà ấn, bà là nói hữu, Ðức Như Lai đã thoát khỏi tất cả hữu. Còn có xa ấn, xa là nói dục, Ðức Như Lai muốn tất cả pháp lành. Còn có ba ấn, ba là nói tiền, Ðức Như Lai thường vì chúng sanh hiện tiền thuyết pháp . Còn có phả ấn, phả là nói quả, Ðức Như Lai thường nói bốn quả Sa Môn.
Nầy thiện nam tử! Nhơn chữ như vậy mà diễn nói các pháp, đó là các chữ đều ấn hiện nơi miệng đại Bồ Tát. Ðây gọi là Ðại Hải đà la ni.
Luận về Liên Hoa đà la ni ấy, đại Bồ Tát an trụ đà la ni nầy rồi chỗ thuyết pháp thường xuất hiện thất bửu liên hoa thanh tịnh vi diệu để làm pháp tòa, đại Bồ Tát ngồi bửu tòa ấy mà thuyết pháp giáo hóa, lại còn nhiều khi mưa tuôn vô lượng liên hoa, các liên hoa nầy cũng phát ra các thứ pháp âm thanh tịnh, âm thanh ấy sâu rộng diễn xuất nhiều phương tiện ví dụ. Những là pháp âm mười hai bộ kinh, pháp âm thanh tịnh, pháp âm dứt phiền não, lúc ấy đại Bồ Tát ngồi yên lặng mà các liên hoa đều có thể diễn xuất pháp âm. Cũng còn phát xuất vô lượng các loại quang minh mà tất cả chúng sanh đều thấy. Ðại Bồ Tát ngồi trên đài các liên hoa mà làm Phật sự. Ðây gọi là Liên Hoa đà la ni.
Luận về Nhập Vô Ngại Môn đà la ni ấy, đại Bồ Tát an trụ đà la ni nầy lúc nói một pháp không có chướng ngại, hoặc lúc nói hai pháp ba pháp bốn pháp trăm pháp ngàn pháp trăm ngàn vạn pháp vô lượng vô biên hằng hà sa số pháp cũng không có chướng ngại, cho đến lúc nói pháp số bằng số vi trần trong tứ thiên hạ, bằng số vi trần Ðại Thiên thế giới, bằng số vi trần trong hằng hà sa chư Phật thế giới, nơi các chữ câu nghĩa không có chướng ngại, đây gọi là Nhập Vô Ngại Môn đà la ni vậy.
Luận về Tứ Vô Ngại Trí đà la ni ấy, đó là pháp vô ngại trí, nghĩa vô ngại trí, từ vô ngại trí và lạc thuyết vô ngại trí. Ðại Bồ Tát an trụ đà la ni nầy, Ðông phương vô lượng thế giới chúng sanh có ai thưa hỏi pháp yếu, đại Bồ Tát theo đó dùng pháp vô ngại để giải đáp, Nam phương vô lượng thế giới chúng sanh có ai hỏi nghĩa, đại Bồ Tát tùy thuận dùng nghĩa vô ngại để đáp, Tây phương vô lương thế giới chúng sanh có ai hỏi về từ, đại Bồ Tát tùy thuận dùng từ vô ngại để đáp, Bắc phương vô lượng thế giới chúng sanh có ai hỏi lạc thuyết, đại Bồ Tát tùy thuận dùng lạc thuyết vô ngại để đáp. Ðây gọi là Tứ Vô Ngại Trí đà la ni.
Luận về Phật Anh Lạc Trang Nghiêm đà la ni ấy, nếu có đại Bồ Tát được đà la ni thứ tám nầy thì trên đỉnh kế có tượng Phật màu chơn kim xuất hiện, tượng Phật ấy có ánh sáng lớn đủ ba mươi hai tướng đại nhơn tám mươi vẻ đẹp, bấy giờ đại Bồ Tát thân khẩu ý đều làm Phật sự, chỗ tư niệm như Phật tư niệm. Ðại Bồ Tát có đủ Phật nghiệp như vậy có thể biết các loại tâm niệm của đại chúng, biết rồi tùy ý mà vì đại chúng thuyết pháp trong một ngày hai ngày cho đến vô lượng trăm ngàn vạn năm cũng chẳng thể cùng tận chỗ hiểu biết pháp môn văn tự cú nghĩa của đại Bồ Tát. Lại còn có đủ bốn thứ trí huệ, đó là biết tâm niệm của các chúng sanh, biết các tự cú , biết chỗ nói vô tận và biết chơn thiệt. Do có đủ bốn thứ trí ấy mà đại Bồ Tát có thể giáo hóa chúng sanh hướng đến Vô thượng Bồ đề. Ðây gọi là Phật Anh Lạc Trang Nghiêm đà la ni.
Nầy thiện nam tử! Tám môn đà la ni ấy phần của nó vô lượng, trong vô lượng phần nầy đem một phần chia làm ngàn phần, trong ngàn phần ấy chỉ nói một phần còn chẳng thể cùng tận. Các đà la ni ấy thành tựu vô lượng công đức như vậy”.
Muốn tuyên lại nghĩa ấy, Ðà La Ni Tự Tại Vương đại Bồ Tát nói tụng rằng:
Như Lai nói tám đà la ni
Nếu đại Bồ Tát có được rồi
Hiểu được các nghĩa của khế kinh
Cú nghĩa từ chẳng thể cùng tận
Ðầy đủ nghiệp lành được diệu thanh
Hay khiến vô lượng thế giới nghe
Chúng sanh nghe rồi tu pháp lành
Tu rồi chứng được chơn giải thoát
Vô lượng kiếp nói một pháp Vô
Nhơn một pháp Vô nói vô tận
Cũng do một chữ hiểu nhiều nghĩa
Ðây gọi Phật nói tế tổng trì
Thế Tôn Pháp Vương dứt hai tế
Thuyết pháp đạo nghĩa vô biên tế
Có trí huệ bình đẳng quan sát
Dầu thành tổng trì không người được
Hình sắc bốn phương hiện trong biển
Tất cả tự ấn ấn Bồ Tát
Lúc thuyết pháp không có chướng ngại
Thành tựu Ðại Hải đà la ni
Ngồi tòa liên hoa diễn thuyết pháp
Cũng mưa liên hoa rải đại chúng
Liên hoa cũng nói vô lượng pháp
Ðây là liên hoa đà la ni
Nói một chữ không có chướng ngại
Nói vô lượng chữ cũng vô ngại
Nói vô lượng nghĩa không có trệ
Ðây gọi Vô Ngại đà la ni
Nói pháp nghĩa sâu không cùng tận
Từ và lạc thuyết cũng vô biên
Hay phá chúng sanh lưới tâm nghi
Chứng được vô thượng trí tổng trì
Ðảnh kế thường hiện tượng Như Lai
Thân khẩu ý cùng Phật không khác
Nếu có tổng trì thứ tám ấy
Cùng kiếp khen nói chẳng hết được
Ðầy đủ tám tổng trì như vậy
Thế gian chẳng nhiễm như hoa sen
Thế gian cao nhứt như Tu Di
Chẳng thể đếm kể cũng như vậy
Tà luận chẳng động hay phá tà
Bồ Tát có đủ tổng trì nầy
Hay phá đạo các tà kiến
Như tiếng rống sư tử giữa rừng
Nếu được Vô thượng đà la ni
Hay đạt thế gian hạnh thanh tịnh
Hay tăng vô lượng các pháp lành
Cũng hay giáo hóa các chúng sanh
Có đủ đà la ni như vậy
Hay phá chúng sanh tối vô minh
Làm ánh sáng lớn như mặt trời
Cũng hay phá trừ những đen tối
Thuyết pháp vô ngại như hư không
Vì chúng mà đi như gió mạnh
Ban bố thuốc pháp trừ phiền não
Như thầy thuốc hay chữa lành bịnh
Nếu có đủ Vô thượng tổng trì
Ai khen công đức chẳng thể hết
Hay làm mát sáng như trăng thu
Tăng trưởng pháp lành cũng như vậy
Bồ Tát chứng được tổng trì nầy
Hay độ vô lượng các chúng sanh
Nếu đủ tám đà la ni nầy
Ðược đại tự tại như Thiên Vương
Hay độ chúng sanh hướng Ðại thừa
Hay ban pháp tài phá bần cùng
Hay mưa pháp vũ như Long Vương
Phá nát phiền não như mưa đá
Nếu được tám đà la ni nầy
Hay độ chúng sanh đến Bồ đề
Không nói lỗi được như Ðế Thích
Chữ nghĩa vô tận như hư không
Nếu được thành tựu đà la ni
Tất cả đại chúng thích thấy nghe
Tâm ý chẳng tán thường tại định
Tu tập vô lượng tâm từ bi
Phạm hạnh thanh tịnh hiện thần thông
Bốn vô lượng như Ðại Phạm Vương
Nếu được thành tựu đà la ni
Liền hay cúng dường mười phương Phật
Nhìn xem thấy rõ mười phương cõi
Nơi thế giới ấy độ chúng sanh
Nếu được đủ đà la ni nầy
Liền được đầy đủ Phật công đức
Thường được mười phương Phật hộ niệm
Cũng như cha mẹ nhớ con một
Nếu Bồ Tát được tổng trì nầy
Hay khen Phật công đức vô lượng
Thành tựu đầy đủ giới định huệ
Hay hiểu chúng sanh tâm sở hành
Nếu được thành tựu đà la ni
Không còn kiêu mạn và xan tham
Giỏi biết phương tiện dạy chúng sanh
Tu tập từ bi phá phiền não
Thành tựu được đà la ni nầy
Phiền não chẳng nhiễm như hư không
Hiểu rõ chúng sanh lời tùy ý
Cũng hay tùy ý diễn thuyết pháp
Nếu có đủ đà la ni nầy
Hay biết rõ căn của chúng sanh
Hay hiểu chỗ hiểu của chúng sanh
Theo chúng sanh hiểu mà thuyết pháp
Theo môn đối trị vì họ nói
Ba mươi bảy phẩm dạy chúng sanh
Ðược có tám đà la ni nầy
Tu tập vô biên xa ma tha
Ðược có tám đà la ni nầy
Ðủ sáu Ba la mật như Phật
Biết rõ tất cả giới phiền não
Thông đạt tịch tĩnh phiền não dứt
Thân khẩu ý nghiệp đều tịch tĩnh
Hành trụ tọa ngọa đều tịch tĩnh
Ðược thành tựu tám đà la ni
Không còn phiền não các tập khí
Ðược pháp thân thanh tịnh vô biên
Chẳng phải bị sanh thường hóa sanh
Thân khẩu ý theo trí huệ hành
Bao nhiêu định niệm cũng theo trí
Thành tựu được đà la ni nầy
Không ai tán thán cùng tận được.
Lúc bấy giờ, Ðức Như Lai Thế Tôn khen Ðà La Ni Tự Tại Vương đại Bồ Tát: “Lành thay, lành thay! Nầy thiện nam tử ! Từ lâu ông đã được đà la ni nầy hay phân biệt giải nói bao nhiêu nghĩa vô lượng công đức.
Chẳng phải chỉ có hôm nay, mà đã ở chỗ vô lượng chư Phật quá khứ cũng phân biệt giải nói như vậy.
Nầy thiện nam tử! Quá khứ vô lượng a tăng kỳ kiếp, có Ðức Phật hiệu là Tịnh Quang Minh Như Lai, thế giới ấy tên Tịnh Kiếp cũng tên là Tịnh Thuần, thế giới ấy bằng tịnh lưu ly làm thành như gương sáng, mặt đất bằng phẳng, bao nhiêu rừng cây toàn bằng thất bửu, có hoa sen diệu bửu lớn như bánh xe, hoa sen ấy thanh tịnh tươi sáng ai thấy đều thích. Nhơn dân cõi ấy đều ở lâu các điện đường bằng thất bửu không khác cõi trời, đã lần nhẹ mỏng lòng tham sân si. Cõi ấy không có mặt nhựt mặt nguyệt chỉ có ánh sáng của Ðức Phật. Hoa sen sanh nở thì biết là đêm, hoa sen đỏ nở thì biết là ngày. Ðại Bồ Tát Tăng có sáu trăm vạn ức, người xuất gia đông nhiều không thể kể đếm, tất cả đều có chí nguyện Vô thượng Ðại thừa. Thế giới ấy không có tên Nhị thừa, tất cả đều là bực Bồ Tát bất thối chuyển. Ðức Phật Tịnh Quang Minh thọ đủ nửa kiếp, người và chư Thiên đồng nhau không khác, ở đất thì là người, còn ở hư không là trời, không có vua chúa, chỉ có Phật là vị Pháp Vương Vô Thượng. Nhơn dân cõi ấy không có ai tôn thờ hay quy y với chư Thiên tà thần, cũng không có danh từ nữ nhơn và phá giới. Tất cả đều đủ ba tụ giới, đó là theo Chánh giới, theo định giới và theo huệ giới. Phát tâm Vô thượng Bồ đề nhàm chán sanh tử, đây gọi là theo chánh giới, tu tam muội huệ đây gọi là theo định giới, tu tập trí huệ được đại trí huệ đây gọi là theo huệ giới”.
Trong đại chúng ấy có một Bồ Tát hiệu là Quang Ðảnh lễ Phật hữu nhiễu cung kính quỳ dài chắp tay bạch rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Nói đà la ni ấy, thế nào gọi là đà la ni. Bồ Tát an trụ trong đà la ni nào thì có thể thọ trì tất cả danh hiệu của chư Phật rồi vì các chúng sanh mà phân biệt giải nói”.
Ðức Tịnh Quang Minh Như Lai nói: “Nầy Quang Ðảnh! Có đà la ni tên là Bửu Cự, Bồ Tát an trụ trong ấy thì có thể thọ trì tất cả danh hiệu của chư Phật rồi vì chúng sanh mà phân biệt giải nói tùy theo các thứ ngữ ngôn của các loại chúng sanh”.
Quang Minh Bồ Tát bạch rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Xin phân biệt nói rộng đà la ni Bửu Cự ấy. Chúng tôi nghe rồi sẽ thọ trì tu tập”.
Ðức Tịnh Quang Minh Như Lai nói: “Lành thay lành thay! Ông chí tâm lắng nghe. Phật sẽ vì ông mà phân biệt giải nói”.
Ðức Tịnh Quang Minh Như Lai nói kệ rằng:
Xa lìa tất cả các phiền não
Thanh tịnh vô cấu như bửu châu
Tâm ấy hay làm đại quang minh
Ðây tên Bửu Cự đà la ni
Thân khẩu ý nghiệp đều tịch tĩnh
Dường như trăng thu rất sáng sach
Tu tập đại từ tâm bình đẳng
Ðây gọi Bửu Cự đà la ni
Tâm ấy không có các giác quán
Ðều được xa lìa hai kiến chấp
Chẳng phải có tưởng không có tưởng
Ðây gọi Bửu Cự đà la ni
Thành tựu đầy đủ niệm ý huệ
Hay nhập vô thượng đại pháp môn
Thanh tịnh vô cấu như hư không
Ðây tên Bửu Cự đà la ni
Xa lìa ba loại trần lao nhơ
Thành tựu ba thứ thanh tịnh huệ
Ðã được giải thoát cả ba cõi
Ðây tên Bửu Cự đà la ni
Ðã hay phá hoại tham sân si
Cũng xa lìa được phiền não trược
Trừ được vô minh các tà ám
Ðây gọi Bửu Cự đà la ni
Chúng sanh âm thanh thượng trung hạ
Tất cả đều hay biết rành rẽ
Hay theo ý chúng mà thuyết pháp
Ðây gọi Bửu Cự đà la ni
Ðầy đủ thậm thâm vô lượng nghĩa
Tất cả chữ câu cũng đầy đủ
Xa lìa chấp ngã và ngã sở
Ðây tên Bửu Cự đà la ni
Ðầy đủ thành tựu pháp Tứ y
Cũng thành đủ bốn trí vô ngại
Tâm ấy thường ở trong Tứ thiền
Ðây tên Bửu Cự đà la ni
Hay rộng phân biệt đệ nhứt nghĩa
Ðầy đủ được toàn bốn Phạm hạnh
Tu tập đầy đủ ngũ thần thông
Ðây gọi Bửu Cự đà la ni
Thọ trì chuyên nhớ Tứ niệm xứ
Tinh tiến tu tập Tứ chánh cần
Trang nghiêm thành tựu Tứ như ý
Ðây gọi Bửu Cự đà la ni
Thành tựu ngũ căn và ngũ lực
Tà phong chẳng động hay phá tà
Tu tập vô thượng Thất giác phần
Ðây tên Bửu Cự đà la ni
Thành tựu Ðịnh Huệ đủ hai cánh
Liệng bay tự tại Bát chánh đạo
Hướng đến vô thượng trí giải thoát
Ðây tên Bửu Cự đà la ni
Hay đi trên đường Bồ Tát đi
An trụ vô thượng chơn giải thoát
Dứt hẳn tất cả phiền não tập
Ðây gọi Bửu Cự đà la ni
Hay làm vô lượng đại quang minh
Dường như thế gian mặt nhựt nguyệt
Hay tịnh ba thứ thanh tịnh nhãn
Ðây gọi Bửu Cự đà la ni
Hay sạch tất cả các phiền não
Cũng hay xa lìa các ma nghiệp
Quán xét tội lỗi ham ngũ ấm
Ðây tên Bửu Cự đà la ni
Giỏi biết điều phục các chúng sanh
Lìa hẳn nhơn duyên của sáu căn
Vì chúng thuyết pháp cho được niệm
Ðây tên Bửu Cự đà la ni
An trụ như vậy đà la ni
Hay đến mười phương Phật thế giới
Thấy Phật chí tâm nghe thọ pháp
Cũng hay nói rộng pháp như vậy
Ðã nghe pháp rồi chí tâm trì
Hay vì chúng sanh nói tự nghĩa
Do nơi nhơn duyên sức niệm lớn
Hay hiểu chư Phật lời vi diệu
Hay nói vô thường khổ vô ngã
Các pháp đều từ duyên được quả
Quán sát tỏ rõ các pháp giới
Ðây gọi Bửu Cự đà la ni
Thành tựu lạc thuyết vô ngại trí
Tam minh tam huệ cũng thành tựu
Nếu ai an trụ tổng trì nầy
Thì hay nhập được nghĩa giải thoát
Phật nói vô lượng đà la ni
Ðều đến nhiếp vào tổng trì nầy
Nếu được như vậy đà la ni
Gọi là thành tựu vô lượng trì
Nếu nhập vô lượng các thiền định
Và được vô lượng các thần thông
Ðều do sức tổng trì như đây
Nên hiệu vua trong các tổng trì
Như bốn đại hải không chướng ngại
Tất cả sông suối đều chảy vào
Các dòng chánh pháp cũng như vậy
Thảy đều về tự tổng trì nầy
Ðược thân vô biên ý vô tận
Hay rộng phân biệt nói pháp giới
Thành tựu vô lượng các công đức
Mới hay được đây đà la ni
Nếu được vi diệu tổng trì nầy
Thì được tướng tốt ba mươi hai
Sắc thân thù thắng thượng chủng tánh
Của cải nhiều dư được vô sanh
Hay rộng phân biệt các pháp nghĩa
An trụ bất động bất thối địa
Ðều do được đà la ni nầy
Bồ Tát nếu muốn tu Bồ đề
Nên tu như vậy đà la ni
Ðược tổng trì rồi tu đạo tràng
Hay diễn thuyết pháp độ chúng sanh
Trong vô lượng kiếp lúc thuyết pháp
Hai thứ tự nghĩa chẳng thể hết
Hay sạch chúng sanh các phiền não
Do được như vậy đà la ni
Hay chuyển vô thượng chánh pháp luân
Hay làm chúng sanh thoát các khổ
Hay đưa chúng sanh vô thượng đạo
Do được như vậy đà la ni
Nếu có chúng sanh ngàn muôn miệng
Một miệng có đủ ngàn muôn lưỡi
Nói chẳng hết vô lượng công đức
Của Bồ Tát trụ tổng trì nầy
Lúc Tịnh Quang Minh Như Lai nói pháp ấy, Quang Ðảnh Bồ Tát cùng ba vạn hai ngàn Bồ Tát đều chứng được Bửu Cự đà la ni.
Nầy Ðà La Ni Tự Tại Vương! Ông có biết thuở xa xưa Quang Ðảnh Bồ Tát là ai chăng, chính là thân ông hiện nay. Vì vậy mà hôm nay ông có thể rộng phân biệt đà la ni nầy. Trong pháp hội đây, người được đà la ni nầy, ông là người hạng nhứt vậy.
Bấy giờ trong pháp hội có một Bồ Tát hiệu Huệ Tự bạch Phật rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Thế nào là Bồ Tát được Bửu Cự đà la ni, được rồi chẳng mất có thể dùng pháp ấy điều phục chúng sanh?”.
Ðức Phật bảo Huệ Cự Bồ Tát: “Nầy thiện nam tử! Nếu có Bồ Tát an trụ huệ căn tạo tác huệ nghiệp. Bồ Tát như vậy có thể được Bửu Cự đà la ni, được rồi chẳng mất và hay dùng pháp ấy điều phục các chúng sanh”.
Huệ Tự Bồ Tát lại bạch Ðức Phật: “Lành thay Ðức Thế Tôn! Xin nói rộng thế nào là huệ căn và thế nào là huệ nghiệp”.
Ðức Phật phán bảo: “Lành thay lành thay! Nầy thiện nam tử! Ông nên lắng nghe kỹ, Phật sẽ vì ông mà phân biệt giải nói.
Nầy thiện nam tử! Nếu có thiện nam thiện nữ chưa được trí huệ mà được nghe đó, đây gọi là căn, nghe rồi rộng diễn nói thì gọi là nghiệp. Dùng huệ quán các pháp thì gọi là căn, quán rồi rộng diễn nói thì gọi là nghiệp.
Lúc đầu quán thiện căn thì gọi là căn, quán rồi cộng diễn nói thì gọi là nghiệp. Quán bất phóng dật thì gọi là căn, quán rồi đem dạy lại thì gọi là nghiệp. Ðiều phục tự tâm thì gọi là nghiệp. An trụ tịch tĩnh thì gọi là căn, thanh tịnh thân khẩu ý thì gọi nghiệp. Biết rõ nhứt thừa thì gọi là căn, vì chúng sanh diễn nói thì gọi là nghiệp. Tu xa ma tha thì gọi là căn, có đủ ba thứ huệ thì gọi là nghiệp. Tu tập ba môn giải thoát thì gọi là căn, chứng được ba thứ huệ thì gọi là nghiệp. Tu Tứ niệm xứ thì gọi là căn, chẳng niệm nơi niệm thì gọi là nghiệp. Tu tập Tứ chánh cần thi gọi là căn, lìa tánh phiền não thì gọi là nghiệp. Tu tập Tứ như ý túc thi gọi là căn, biết không có như ý thi gọi là nghiệp. Tu tập tín tâm thi là căn, phóng xả tất cả thì gọi là nghiệp. Tu vô sở úy thì gọi là căn, hay nói rộng đó thì gọi là nghiệp. Tu tập
Tam muội thì gọi là căn, biết chánh định thứ đệ thi gọi là nghiệp. Tu tập trí huệ thì gọi là căn, biết rõ tất cả pháp thì gọi là nghiệp. Trang nghiêm Bồ đề thì gọi là căn, lúc chứng được Bồ đề thì gọi là nghiệp. Chứng Khổ Tập Ðạo đế thì gọi là căn, lúc chứng diệt đế thì gọi là nghiệp. Chẳng y bất liễu nghĩa thì gọi là căn, y kinh liễu nghĩa thì gọi là nghiệp. Ban đầu nghe thọ chánh pháp thì gọi là căn, y chỉ nơi người thì gọi là nghiệp. Chẳng y nơi người thì gọi là căn, y chỉ chánh pháp thì gọi là nghiệp. Thấy pháp vô thường thì gọi là căn, thấy pháp vô sanh vô diệt thì gọi là nghiệp. Biết các pháp khổ thì gọi là căn, biết pháp vô tác thì gọi là nghiệp. Biết pháp vô ngã thì gọi là căn, biết pháp tánh thanh tịnh thì gọi là nghiệp. Biết Niết bàn thanh tịnh thì gọi là căn, biết pháp vốn thanh tịnh thì gọi là nghiệp. Nghe chơn pháp chẳng sợ thì gọi là căn, y chỉ chơn pháp thì gọi là nghiệp. Biết chữ chẳng sợ thì gọi là căn, biết rồi thích nói thì gọi là nghiệp. nghe nói trí lực của vô ngại của Như Lai mà chẳng sợ thì gọi là căn,, y chỉ trí lực vô ngại của Như Lai thì gọi là nghiệp. Chúng sanh duyên từ bi và pháp tánh duyên từ bi hai duyên ấy gọi là căn, vô duyên từ bi thì gọi là nghiệp. Thương xót chúng sanh thì gọi là căn, hay làm cho chúng sanh thoát khổ thì gọi là nghiệp. Tư duy thiện pháp được mừng gọi là căn, chẳng trụ trước nơi pháp thì gọi là nghiệp. Không có ái tham, sân hận và ngu si thì gọi là căn, không có nhứt không có hai thì gọi là nghiệp. Niệm Phật gọi là căn, niệm Pháp thân thì gọi là nghiệp. Niệm Pháp gọi là căn, biết Pháp tánh thanh tịnh thì gọi là nghiệp. Niệm Tăng gọi là căn, biết Tăng vô vi thì là nghiệp. Niệm giới gọi là căn, biết không có người trì giới gọi là nghiệp. Niệm bố thí thì gọi là căn, hay bỏ phiền não thì gọi là nghiệp. Niệm thiên gọi là căn, được thanh tịnh thiên thì gọi là nghiệp. Nghe chánh pháp rồi tư duy thì gọi là căn, chẳng nhiễm trước thế gian thì gọi là nghiệp. Biết trước không có hiện nay làm ra thì gọi là căn, biết không có tạo tác không có lãnh thọ thì gọi là nghiệp. Biết tên Niết bàn thì gọi là căn, được đại giải thoát thì gọi là nghiệp. Tự tại gọi là căn, tự lợi lợi tha thì gọi là nghiệp. Thọ trì tám vạn bốn ngàn pháp môn thì gọi là căn, thông đạt nghĩa của các pháp môn ấy thì gọi thì gọi là nghiệp. Hay diễn thuyết pháp thì gọi là căn, hiểu vô minh v.v… thì gọi là nghiệp. Khuyến hóa các chúng sanh hướng đạo Bồ đề thì gọi là căn, khuyến tu trí huệ phương tiện bất thối thì gọi là nghiệp. Chẳng sơ các cõi thì gọi là căn, nguyện sanh vào các cõi thì gọi là nghiệp. Từ nơi nghe chánh pháp mà đắc nhẫn thì gọi là căn, do tư duy mà đắc nhẫn thì gọi là nghiệp. Tùy ý đắc nhẫn thì gọi là căn, nhơn bất sanh mà đắc nhẫn thì gọi là nghiệp. Còn dư một đời thì gọi là căn, thân tối hậu thì gọi là nghiệp. Ngồi dưới Bồ đề thọ thì gọi là căn, giác ngộ tất cả pháp thì gọi là nghiệp”.
Lúc Ðức Thế Tôn nòi rộng về huệ căn và huệ nghiệp, tất cả mười phương chư Phật thế giới đến đại bửu phường đinh nầy đều chấn động sáu cách.
Huệ Tụ đại Bồ Tát bạch Ðức Phật: “Bạch Ðức Thế Tôn! Có nhơn duyên gì mà mười phương thế giới và cả hư không cùng thất bửu đại phường đình nầy đều chấn động sáu cách như vậy?”.
Ðức Phật phán dạy: “Nầy Huệ Tụ! Vì huệ căn và huệ nghiệp nầy cũng được diễn nói nơi chư Phật quá khứ nên có sáu cách chấn động như vậy”.
Bấy giờ Cụ Túc Tứ Vô Ngại Trí Bồ Tát bạch Ðức Phật: “Bạch Ðức Thế Tôn! Có nhơn duyên gì mà Huệ Tụ đại Bồ Tát có tên là Tụ?”.
Ðừc Phật phán dạy: “Nầy Cụ Túc Tứ Vô Ngại Trí! Thuở quá khứ vô lượng a tăng kỳ kiếp có Phật xuất thế hiệu là Công Ðức Tạng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn, thế giới ấy tên Thiện Sanh, kiếp ấy tên Vô Cấu, tất cả chúng sanh cõi ấy đều thuần thiện. Phật Công Ðức Tạng có ba vạn hai ngàn đại Bồ Tát chúng, tám vạn bốn ngàn Thanh Văn chúng. Phật Công Ðức Tạng muốn thử chư vị Bồ Tát với trăm ức sự hỏi rằng các thiện nam tử! Trong chúng có ai hiểu và nói được các nghĩa như vậy? Trong chúng có Bồ Tát bạch rằng tôi sẽ tư duy trong một thánh mới có thể hiểu được, hoặc có Bồ Tát bạch nửa tháng, hoặc bảy ngày, hoặc một ngày một đêm tư duy mới có thể hiểu được. Lúc ấy có một Bồ Tát tên Niệm Ý bạch Phật rằng: “Nay tôi chẳng rời chỗ ngồi nầy liền có thể hiểu nghĩa ấy. Bạch Phật xong, Bồ Tát Niệm Ý khởi sư tử hống làm cho đại địa chấn động sáu cách phóng đại quang minh khuyến cáo các địa thần cho đến Trời Sắc Cứu Cánh tất cả đều đến tập họp nơi Ðức Phật Công Ðức Tạng. Chỗ ngồi của đại chúng lúc bấy giở rộng đủ trăm vạn do tuần. Niệm Ý Bồ Tát thấy đại chúng đã tập họp đông đủ liền dùng thần thông lực, trí huệ niệm lực, đà la ni lực, tứ vô ngại lực, vô sở úy lực, Phật thần lực trong trăm ức sự, mỗi mỗi sự giải nói trăm ức nghĩa, không tư duy trước không có đình trệ. Niệm Ý Bồ Tát nói nghĩa ấy rồi, trong đại chúng có sáu vạn chúng sanh phát tâm vô thượng Bồ đề, bốn vạn chúng sanh đắc vô sanh nhẫn. Tứ chư địa thần, chư Thiên đến Trời Sắc Cứu Cánh , tất cả đều nghe tiếng Niệm Ý Bồ Tát thuyết pháp.
Nầy Cụ Túc tứ Vô Ngại Trí! Ông có biết thuở quá khứ xa xưa ấy Niệm Ý Bồ Tát là aì chăng ? Chính là Huệ Tụ Bồ Tát đây vậy. Do nhơn duyên như vậy mà Bồ Tát có tên là Huệ Tụ”.
Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:
Vì nghe thuyết pháp gọi là căn
Hay diễn thuyết pháp gọi là nghiệp
Tư duy pháp lành gọi là căn
Hiểu nói thâm nghĩa gọi là nghiệp
Như pháp mà ở gọi là căn
Theo nghĩa thuyết pháp gọi là nghiệp
Tu xa ma tha gọi là căn
Ðủ ba thứ huệ gọi là nghiệp
Bốn thứ niệm xứ gọi là căn
Pháp tứ chánh cần gọi là nghiệp
Tín tiến niệm đinh huệ là căn
Năm thứ đắc lực gọi là nghiệp
Thất Bồ đề phần gọi là căn
Bát chánh đạo phần gọi là nghiệp
Chẳng y chỉ tự cú là căn
Y chỉ nơi nghĩa gọi là nghiệp
Chẳng y chỉ người gọi là căn
Y chỉ chánh pháp gọi là nghiệp
Chẳng y bất liễu gọi là căn
Y kinh liễu nghĩa gọi là nghiệp
Chẳng y nơi thức gọi là căn
Y chỉ trí huệ gọi là nghiệp
Biết rõ vô tác gọi là căn
Thông đạt vô sanh gọi là nghiệp
Sanh pháp hai duyên từ là căn
Từ bi vô duyên gọi là nghiệp
Vô sở úy pháp gọi là căn
Hay tuyên chánh pháp gọi là nghiệp
Sáu chánh niệm xứ gọi là căn
Nghĩa của lục niệm gọi là nghiệp
Hay tự lợi ích gọi là căn
Tự lợi lợi tha gọi là nghiệp
Thọ trì chánh pháp gọi là căn
Hay vì người nói gọi là nghiệp
Còn dư lại một đời là căn
Tối hậu thân thì gọi là nghiệp
Nếu tâm Bồ Tát được bất thối
Thì hay biết rõ huệ căn nghiệp
Có thể chứng được vô sanh nhẫn
Có thể mở cửa đại Bồ đề.
Ðà La Ni Tự Tại Vương đại Bồ Tát bạch Phật: “Bạch Ðức Thế Tôn! Pháp được Ðức Phật nói chẳng thể nghĩ bàn, Vô thượng Bồ đề cũng chẳng thể nghĩ bàn. Tại sao, vì chẳng phải là danh tự để nói, vì chẳng nhiếp thuộc danh tự, vì pháp được Như Lai nói vô lượng vô biên, vì nhập vào vô lượng vô biên pháp môn, vì thập nhị nhơn duyên rất sâu khó hiểu, vì kẻ chấp thấy hai pháp thì chẳng biết được, vì người lợi trí lần lần biết, vì chẳng phải lục tình chỗ biết được, vì chẳng phải cảnh giới của trí huệ Nhị thừa.
Bạch Ðức Thế Tôn! Vô thượng Bồ đề như vậy đều là ấn của tất cả pháp, chẳng thể tạo tác được như hư không, rời lìa nhà cửa nên chẳng phải nhà cửa, biết tất cả hành cũng biết tất cả nhơn quả của tất cả chúng sanh. Nhứt thiết trí rộng lớn vô biên, trang nghiêm tất cả vô lượng pháp lành, hay vì pháp lành mà làm bát đựng thần thông để hiển bày cho người, với người ở nhị đạo dạy cho vô nhị, dạy cho hiểu chư Phật bình đẳng vô sai biệt, không có tự không có nghĩa chẳng thể tuyên nói được, chẳng thể lắng nghe được, hay dạy chúng sanh khối chánh Tam bửu và ba môn giải thoát, giải thoát ba cõi dạy cho ba thứ huệ, do kim cương định an trụ tất cả chánh pháp chư Phật, nghe trọn tất cả chư Phật trí huệ, lợi ích tất cả chúng sanh, cũng hay tuyên thuyết tất cả Phật pháp.
Bạch Ðức Thế Tôn! Nếu có thiện nam thiện nữ có thể tán thán Bồ đề Vô thượng có bao nhiêu công đức như vậy được nghe kinh điển Ðại thừa phương đẳng nầy, hay thọ trì đọc tụng biên chép diễn nói, thì gọi người ấy là có thể báo được ơn chư Phật”.
Ðức Phật phán dạy: “Ðúng như vậy, nầy Ðà La Ni Tự Tại Vương. Như lời ông đã nói được vô lượng công đức.
Nầy thiện nam tử! Ðem thất bửu đầy cả mười phương thế giới chư Phật dâng hiến lên Như Lai được công đức cùng người hay thọ trì kinh nầy và đọc tụng biên chép giải nói nghĩa kinh được công đức đồng nhau không khác”.
Bấy giờ Ðức Thế Tôn bảo chư Bồ Tát: “Chư thiện nam tử! Trong đại chúng đây, sau khi Phật diệt độ, ai có thể hộ trì Vô thượng Bồ đề như vậy, và rộng nói nghĩa cho chánh pháp còn ở thế gian được lâu”.
Bấy giờ trong pháp hội đại chúng có chư Bồ Tát và chư Thiên chư Nhơn đều riêng sáu vạn ức đồng thanh bạch Phật: “Sau khi Ðức Như Lai Thế Tôn diệt độ, chúng tôi có thể hộ trì Vô thượng Bồ đề như vậy và rộng nói nghĩa cho chánh pháp được còn lâu. Nguyện cầu Ðức Như Lai Thế Tôn gia hộ nguyện lực cho”.
Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:
Nếu ta thiệt đồng thập phương Phật
Qua bản sanh tử biển khổ lớn
Công đức vô thượng pháp như vậy
Ðáng phải còn lâu không diệt mất
Nếu ta vô lượng đời tu từ
Chơn thiệt vì lợi các chúng sanh
Xem chúng bình đẳng không có hai
Vì vậy chánh pháp được còn lâu
Nếu ta có đủ hai trang nghiêm
Trong vô lượng đời lợi chúng sanh
Ðem hai trang nghiêm độ chúng sanh
Vì vậy chánh pháp được còn lâu
Nếu hay phá hoại phiền não kiết
Và cũng trừ diệt các tà kiến
Ðầy đủ tất cả các pháp lành
Nên hay giỏi phát nguyện lực nầy.
Nầy chư thiện nam tử! Chẳng riêng gì các đại chúng tất cả Trời Người tất cả Ma Phạm đây, sau khi ta diệt độ đều có thể hộ trì chánh pháp như vậy. Nầy chư thiện nam tử! Hư không có thể làm hình sắc, hình sắc có thể làm hư không, thần thông nguyện lực của Phật không thể làm khác được.
Bấy giờ Tứ Thiên Vương xướng lên rằng: “Nếu có người, sau khi Ðức Phật diệt độ, có thể thọ trì đọc tụng biên chép kinh nầy và giải nói nghĩa kinh, chúng tôi sẽ thường theo dõi để thủ hộ”.
Chư Phạm Thiên nói: “Chúng tôi sẽ xả thiền định diệu lạc để thủ hộ người ấy”.
Trời Ðâu Suất Ðà cũng nói: “Chúng tôi sẽ thủ hộ các đệ tử thọ trì kinh nầy”.
Ma Vương Ba Tuần bạch Ðức Phật: “Bạch Ðức Thế Tôn! Nếu có người hay thọ trì kinh nầy thì tôi ở nơi người ấy trọn không gây ma nghiệp ma sự”.
Công Ðức Tạng Thiên Tử nói: “Bạch Ðức Thế Tôn! Tất cả chư Phật Vô thượng Bồ đề đều ở trong kinh nầy. Nếu có người hay thọ trì đọc tụng biên chép giải nói, nên biết người nầy sẽ được Bồ đề”.
Di Lặc Bồ Tát nói: “Bạch Ðức Thế Tôn! Tôi sẽ ở tại Trời Ðâu Suất Ðà rộng tuyên nói kinh điển vô thượng nầy”.
Tôn giả Ðại Ca Diếp nói: “Bạch Ðức Thế Tôn! Hàng Thanh Văn tôi trí huệ dầu kém cũng cần phải theo sức của mình mà thọ trì đọc tụng tuyên nói nghĩa kinh nầy”.
Tôn giả A Nan bạch rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Tôi ở nơi kinh nầy chơn thiệt thọ trì chẳng để mất một chữ một câu như từ miệng Ðức Phật phát ra không sai khác. Nếu có người phát tâm Bồ đề, tôi sẽ vì người ấy mà diễn nói rộng”.
Ðức Phật phán rằng: “Lành thay, lành thay, nầy chư thiện nam tử! Các ông đều có thể sau khi ta diệt độ hộ trì chánh pháp chẳng cho dứt mất.
Nầy chư thiện nam tử! Nếu có chúng sanh cầu pháp Ðại thừa chưa được pháp nhẫn mà thọ trì kinh nầy, nên biết người nầy chẳng quá bảy Ðức Phật sẽ được thọ ký. Nếu là người Thanh Văn mà hay thọ trì kinh nầy, lúc Di Lặc xuất thế thành Phật, thì người ấy sẽ ở trong pháp hội đầu tiên.
Nếu là hàng Duyên Giác mà có người thọ trì kinh nầy, sau khi ta diệt độ, thì người ấy sẽ được thành đạo chúng”.
Lúc Ðức Thế Tôn nói pháp nầy , vô lượng chúng sanh phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, vô lượng chúng sanh thành tựu pháp nhẫn, vô lượng thế giới chấn động sáu cách.
Chư Bồ Tát từ mười phương thế giới đến dự pháp hội mang hương hoa tốt và các loại kỹ nhạc phan lọng dâng cúng Ðức Phật đều xướng lên rằng: “Chúng tôi đến trong thất bửu đại phường đình nầy được lợi ích lành rất lớn, nếu chúng tôi mà có chút ít phước đức, nguyện đem phước lực ấy làm cho Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni ở lại lâu thế gian, kinh điển nầy lưu bố khắp mười phương thế giới không hề hư mất. Nếu có hàng Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di thọ trì kinh nầy, thì làm cho họ xa lìa ưu sầu sợ sệt không có các bịnh khổ”.
Ðà La Ni Tự Tại Vương đại Bồ Tát nói: “Bạch Ðức Thế Tôn! Chỗ thuyết pháp hôm nay vô lượng vô biên chẳng thể nghĩ bàn, tất cả tà pháp chẳng thể lay động được, đây là căn bổn của tất cả pháp lành, là căn bổn của tam thừa, lại là cửa vào của tất cả pháp.
Nếu có chúng sanh hỏi pháp nầy tên gọi là gì và thọ trì thế nào, thì sẽ đáp họ thế nào, xin Ðức Thế Tôn chỉ dạy cho”.
Ðức Phật phán bảo: “Nầy thiện nam tử! Ðây gọi là đại bi nói pháp đại bi tên là Như Lai nghiệp thọ ký cho Bồ Tát. Các ông phải thọ trì như vậy”.
Ðức Phật nói kinh nầy rồi, tất cả đại chúng Trời Người vui mừng đảnh đời tin thọ phụng hành.