Kinh Đại Bảo Tích

Kinh Đại Bảo Tích

Trương Văn Chiến 42

LV. PHÁP HỘI HƯ KHÔNG TẠNG BỒ TÁT THỨ NĂM MƯƠI LĂM
(Hán Bộ Từ Quyển 137 Ðến Quyển 141)
Hán Dịch: Tam Tạng Ðàm Vô Sấm
Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

Như vậy tôi nghe một lúc Ðức Phật ở trên nhà Diệu Bửu Trang Nghiêm giảng Ðường chỗ sở hành cuả Như Lai.

Như Lai oai thần Ðại công Ðức trang nghiêm Ðầy Ðủ các tướng tốt. Nhơn nơi bổn hành Phật Ðịa Ðược báo cung Ðiện Bồ Tát xưng tán vô lượng, do thần lực Như Lai kiến lập, nhập vô ngại trí hành xứ sanh hỷ duyệt thù thắng, tư duy quán niệm tinh tiến trí huệ phân biệt xảo thuyết các công Ðức như vậy Ðều Ðầy Ðủ. Dược Ðời sau khen rằng: -Đức Thế Tôn Chánh giác khéo chuyển pháp luân, khéo có thể Ðiều thuận tất cả chúng sanh, ở trong các pháp Ðều Ðược tự tại, biết các chúng sanh tâm họ hướng Ðến chỗ nào, khéo có thể rốt ráo phân biệt tất cả các căn, khéo dứt hết những tập khí không còn dư, Phật sự Ðược làm tự nhiên thành tựu. Cùng chúng Ðại Tỳ Kheo sáu trăm vạn người câu hội. Chư Ðại Tỳ Kheo ấy tâm Ðã Ðiều nhu kiết sử Ðã dứt, Ðều là con của Như Lai Pháp Vương hành pháp thậm thâm, khéo có thể biết rõ pháp vô sở hữu, thân các Ngài Ðoan chánh xinh Ðẹp Ðầy Ðủ oai nghi, Ðề là Ðại phước Ðiền an trụ trong giáo pháp của Ðức Như Lai.

Còn có chư Ðại Bồ Tát Tăng câu hội. Chư Ðại Bồ Tát nầy Ðã qua khỏi tất cả các hành mà chẳng bỏ sở hành của Bồ Tát, Ðược vô sanh nhẫn mà Ðối với các chúng sanh chẳng xả Ðại bi, quá các thế gian mà thuận thế pháp siêng hoá Ðộ chúng sanh, cũng có thể khéo nhập vào chỗ sở hành cuả Như Lai, mà lại chẳng rời chỗ sở hành cuả Bồ Tát. Danh hiệu các Ngài là: Nhựt Phổ Minh Bồ Tát, Vô Ngại Nhãn Bồ Tát, Nhứt Thiết Pháp Tự Tại Vương Bồ Tát, Vô Ngại Hành Xứ Bồ Tát, Phân Biệt Biện Giác Bồ Tát, Tịnh Vô Lượng Võng Minh Ðăng Vương Bồ Tát, Bất Nhiễm Hành Xứ Bồ Tát, Hoại Ma Giới Phóng Quang Minh Bồ Tát, có bất khả kế a tăng kỳ bất khả tư bất khả xưng bất khả lượng vô tề hạn bất khả thuyết Bồ Tát Ma ha tát như vậy câu hội.

Lúc bấy giờ Ðức Thế Tôn nói hạnh xuất yếu cuả chư Bồ Tát gọi là Vô Ngại Pháp môn, trang nghiêm Bồ Tát Ðạo thành tựu Phật pháp thập lực tứ vô sở úy, Ðược biết các pháp tự tại nhập vào môn ấn Ðà la ni, nhập vào môn phân biệt biện luận, nhập vào môn Ðại thần thông, nhập vào môn bất thối chuyển luân chư thừa bình Ðẳng, nhập vào môn nhứt tướng pháp giới vô phân biệt, nhập vào môn thuyết pháp tùy chúng sanh căn giải liễu sai biệt, nhập vào môn kiên pháp phân biệt phá ma giới thiện thuận tư duy, nhập vào môn vô ngại trí huệ Ðoạn trừ kiết sử kiến chấp, nhập vào môn vô Ðẳng nguyện phương tiện trí, nhập vào môn chư Phật Ðẳng trí, nhập vào môn chư pháp vô ngại như thiệt phân biệt, nhập vào môn vô biến dị hình Ðẳng pháp, nhập vào môn thậm thâm thập nhị nhân duyên, nhập vào môn công Ðức trí huệ trang nghiêm Phật thân khẩu ý, nhập vào môn kiên cố tư duy tinh tiến niệm huệ vô tận, nhập vào môn tứ thánh Ðế vì Ðiều phục hàng Thanh Văn vậy, nhập vào môn viễn ly thân tâm hành vì Ðiều phục hàng Bích Chi Phật vậy, nhập vào môn thọ ký Nhứt thiết trí, vì Ðiều phục hàng Bồ Tát vậy, nhập vào môn chư pháp tự tại vì hiển

Phật công Ðức vậy, khai thị giải nói hiển thị cho người Ðược Ðiều phục khiến họ Ðược hiểu, dạy họ Ðọc sắp Ðặc thứ tự mở bày phân biệt khiến dễ tùy thuận chánh thuyết.

Lúc Ðức Thế Tôn khéo phân biệt phương tiện nhập vào Phật pháp như vậy, toàn cõi Ðại Thiên thế giới nầy, tất cả sắc màu hình tượng như núi Thiết Vi, núi Tu Di, các hắc sơn, tứ thiên hạ, thành ấp tụ lạc trong Diêm Phù Dề, Ðại hải giang hà, cỏ cây lùm rừng, cung Ðiện của Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, cung Ðiện của Ðịa thần, của Hư Không Thần, cung Ðiện của Trời Tứ Thiên Vương, Ðao Lợi Thiên, Dạ Ma Thiên, Ðâu Suất Ðà Thiên, Hóa Lạc Thiên, Tha Hóa Tự Tại Thiên, cung Ðiện của Phạm Thiên Ðến Sắc Cứu Cánh Thiên, cùng sắc thân của các chúng sanh thảy Ðều bị che ẩn mắt không thấy Ðược, dường như là lúc kiếp tận sau khi hỏa tai khởi cả Ðại Ðịa Ðều cháy tan mà Ðại thủy chưa xuất hiện, lúc bây giờ không còn có một màu sắc một hình tượng nào làm Ðối tượng cho nhãn căn cả. Cõi Dại Thiên Thế Giới lúc bây giờ cũng giống như vậy không có một chút hình sắc nhiếp về Dục giới và Sắc giới,duy trừ những sắc tượng Ðược thấy trong nhà Diệu Bửu Trang Nghiêm Ðường.

Bấy giờ ở hư không nơi chẳng có y tựa phía trên nhà Diệu Bửu Trang Nghiêm Dường, tự nhiên có vô lượng trăm ngàn na do tha bửu Ðài trang nghiêm vi diệu Ðược thế gian thích thấy, như thế giới Ðại Diệu trang nghiêm quốc Ðộ của Ðức Phật Nhứt Bửu Trang Nghiêm Ðài báu của chư Bồ Tát ngồi. Các Ðài báu nầy cũng như vậy thấy chư Ðại chúng ngồi trong bửu Ðài.

Trong nhà Diệu Bửu Trang Nghiêm Ðường tự nhiên hiện ra tòa sư tử bằng chơn kim tịnh diệu cao mười ngàn do tuần, phát ra quang minh tịnh diệu soi khắp cõi Ðại Thiên thế giới nầy, ánh sáng ấy làm luốt mất ánh sáng của chư Bồ Tát.

Lúc bây giờ Ðại chúng hoan hỷ hớn hở tâm tình vui Ðẹp khen chưa từng có, chắp tay hướng Phật bạch rằng: ” -Đức Như Lai ngày hôm nay quyết Ðịnh nói Ðại pháp nên hiện thoại ứng nầy” .

Tôn giả Xá Lợi Phất thừa oai thần của Phật, từ bửu tòa Ðứng dậy chỉnh lại y phục trịch bày vai hữu gối hữu chấm Ðất chắp tay hướng lên Phật mà bạch rằng:

” Bạch Ðức Thế Tôn ! Ðây là thoại tướng gì có những sự sanh lòng vui Ðẹp thù thắng phát hiện Ðại thần biến như vậy. Bạch Ðức Thế Tôn ! Ðại chúng Ðây Ðều nghi hoặc, mong Ðức Như Lai nói nhơn gì duyên gì mà hiện ra sự vị tằng hữu nầy”

Đức Phật nói: “Nầy Xá Lợi Phất ! Phương Ðông cách Ðây quá số thế giới như số vi trần của tám Phật thế giới, có quốc Ðộ tên Ðại Trang Nghiêm, Phật hiệu Nhứt Bửu Trang Nghiêm Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu,Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn nay hiện tại thuyết pháp. Có nhơn duyên gì mà cõi ấy có tên là Ðại Trang Nghiêm? Vì những sự trang nghiêm ở cõi ấy dầu nói rộng ra Ðến một kiếp cũng chẳng hết,vì lẽ ấy mà có tên là Ðại Trang Nghiêm.

Lại có nhơn duyên gì mà Ðức Phật ở cõi Dại Trang Nghiêm ấy hiệu là Nhứt Bửu Trang Nghiêm?

Nầy Xá Lợi Phất ! Đức Như Lai ấy nhơn một báu mà thuyết pháp, Ðó là báu Ðại thừa vô thượng vậy, do Ðây mà hiệu là Nhứt Bửu Trang Nghiêm Như Lai

Ðức Phật Nhứt Bửu Trang Nghiêm ấy cùng chư Bồ Tát Ðều lên ngồi tòa sư tử vọt ở hư không cao bằng tám mươi ức cây Ða la, Phật vì chư Bồ Tát nói pháp môn hư không ấn.

Sao gọi là pháp môn hư không ấn?

Như tất cả pháp lấy hư không làm môn vì không có trụ xứ vậy, môn vô trụ xứ của tất cả pháp vì không có hình tướng vậy, môn vô hình tướng của tất cả pháp vì quá các hành xứ vậy, môn vô hành xứ của tất cả pháp vì trong ngoài thanh tịnh vậy, môn thanh tịnh của tất cả pháp vì tánh nó không ô nhiễm vậy, môn vô nhiễm của tất cả pháp vì tự tánh tịch tĩnh vậy, môn tịch tĩnh của tất cả pháp vì vốn không có tâm ý thức vậy, môn vốn không của tất cả pháp vì rời lìa vật và chẳng phải vật vậy, môn không có vật của tất cả pháp vì không có giáo tướng vậy, môn không có giáo tướng của tất cả pháp vì không có hình Ðoạn vậy, môn không có hình Ðoạn của tất cả pháp vì rời lìa nhơn duyên cảnh giới vậy, môn không có nhơn duyên cảnh giới của tất cả pháp vì tướng tịch diệt vậy, môn tịch diệt của tất cả pháp vì rời lìa hai tướng vậy, môn vô nhị của tất cả pháp vì xả biệt dị vậy, môn không có dị biệt của tất cả pháp vì nhập vào nhứt tướng vậy, môn nhứt tướng của tất cả pháp vì tự tướng thanh tịnh vậy, môn tự tướng thanh tịnh của tất cả pháp vì quá tam thế vậy, môn quá tam thế của tất cả pháp vì chẳng rời bình Ðẳng vậy, môn chẳng rời bình Ðẳng của tất cả pháp vì tướng ảo hóa chẳng phải tướng vậy, môn ảo hóa tướng của tất cả pháp vì thể chẳng thiệt vậy, môn không có thể của tất cả pháp vì không có tác tướng vậy, môn vô tác của tất cả pháp vì thân tâm xa lìa vậy, môn viễn ly của tất cả pháp vì lìa tướng lìa vô tướng vậy, môn vô tướng của tất cả pháp vì tướng bất Ðộng vậy, môn tướng bất Ðộng của tất cả pháp vì không có chỗ y dựa vậy, môn không có y xứ của tất cả pháp vì an trụ vô tế vậy, môn không có tế hạn của tất cả pháp vì không có ổ hang vậy, môn không có ổ hang của tất cả pháp vì không có ngã không có ngã sở vậy, môn không có ngã ngã sở của tất cả pháp vì không có chủ vậy, môn vô chủ của tất cả pháp vì tánh vô ngã vậy, môn vô ngã của tất cả pháp vì nội thanh tịnh vậy.

Nầy Xá Lợi Phất ! -Đức Nhứt Bửu Trang Nghiêm Như Lai vì chư Bồ Tát mà nói rộng pháp môn hư không ấn như vậy. Lúc Ðức Như Lai ấy nói pháp có vô lượng a tăng kỳ chư Bồ Tát hiểu biết các pháp tánh cùng hư không bình Ðẳng, ở trong các pháp Ðược vô sanh nhẫn.

Nầy Xá Lợi Phất ! ở quốc Ðộ Ðai Trang Nghiêm ấy, chỗ Phật Nhứt Bửu Trang Nghiêm có một Ðại Bồ Tát tên là Hư Không Tạng dùng Ðại trang nghiêm Ðể tự trang nghiêm, nơi các nguyện bất khả tư nghị là tối thắng hơn cả, Ðược oai Ðức trong tất cả công Ðức, Ðược vô ngại tri kiến bất khả tư nghị, dùng Bồ Tát công Ðức Ðể tự trang nghiêm, dùng các tướng hảo Ðể trang nghiêm thân mình, tùy chúng sanh Ðáng Ðược Ðộ dùng thiện thuyết pháp trang nghiêm miệng mình, dùng bất thối Ðịnh trang nghiêm tâm mình, dùng các tổng trì trang nghiêm niệm, nhập vào các pháp vi tế trang nghiêm ý, thuận quán pháp tánh trang nghiêm tinh tiến, dùng kiên cố thệ trang nghiêm chí thuần, dùng quyết Ðịnh xong trang nghiêm việc Ðược làm, từ nhứt Ðịa Ðến nhứt Ðịa trang nghiêm cứu cánh, xả các sở hữu trang nghiêm bố thí, dùng tâm thanh tịnh lời nói lành trang nghiêm giới, với các chúng sanh tâm không chướng ngại trang nghiêm nhẫn nhục, các sự việc Ðều trọn Ðủ trang nghiêm tinh tiến, nhập Ðịnh du hí thần thông trang nghiêm thiền, khéo biết phiền não tập khí trang nghiêm Bát Nhã, vì cứu hộ chúng sanh trang nghiêm từ tâm, chẳng bỏ rời các chúng sanh trang nghiêm lòng bi, tâm không do dự trang nghiêm nơi hỷ, rời lìa các ghét thương trang nghiêm nơi xả, du hí các thiền Ðịnh trang nghiêm thần thông, Ðược tay vô tận bửu trang nghiêm công Ðức, phân biệt rõ tâm hành các chúng sanh trang nghiêm trí, dạy chúng sanh những pháp lành trang nghiêm nơi giác, Ðược huệ sáng sạch trang nghiêm huệ minh, Ðược Ðúng nghĩa pháp và từ trang nghiêm biện tài, phá ma và ngoại Ðạo trang nghiêm những vô úy, Ðược Phật vô lượng công Ðức Ðể tự trang nghiêm, thường dùng các lỗ lông thuyết pháp Ðể trang nghiêm nơi pháp, thấy pháp minh của chư Phật Ðể trang nghiêm tự minh, hay soi sáng các Phật quốc Ðộ Ðể trang nghiêm quang minh, lời nói không có lỗi lầm Ðễ trang nghiêm sở thuyết, thần thông theo chỗ thích nói Ðể trang nghiêm giáo thọ, thần thông Ðến rốt ráo bốn thần túc Ðể trang nghiêm biến hóa, thần thông nhập vào chỗ bí mật của Phật Ðể trang nghiêm chư Như Lai, thần thông tự giác ngộ chánh trí Ðể trang nghiêm pháp tự tại, như thuyết mà làm không gì có thể phá hoại Ðược Ðể trang nghiêm tất cả thiện pháp kiên cố.

Nầy Xá Lợi Phất ! Hư Không Tạng Ðại Bồ Tát ấy thành tựu vô lượng công Ðúc như vậy, nay cùng mười hai ức Ðại Bồ Tát Ðồng phát ý muốn Ðến thế giới Ta Bà nầy lễ lạy ta cúng dường cung kính vây quanh, cũng vì kinh Ðại Phổ Tập nầy mà phân biệt ít phần pháp môn, lại cũng vì chư Bồ Tát từ mười phương Ðến hội sanh Ðại pháp minh, lại vì tăng ích khai phap Ðại thừa, lại vì thọ trì Như Lai pháp, lại vì vô lượng chúng sanh phát sanh thiện căn, lại vì dùng thiện pháp Ðiều phục các ma và ngoại Ðạo, lại vì thị hiện Bồ Tát du hí thần thông vậy.

Hư Không Tạng Ðại Bồ Tát ấy muốn Ðến Ðây nên trước có thoại ứng như vậy” .

Lúc -Đức Thế Tôn nói sự ấy rồi, Hư Không Tạng Bồ Tát cùng mười hai ức Ðại Bồ Tát cung kính vây quanh Ðồng Ðến chỗ Ðức Nhứt Bửu Trang Nghiêm Như Lai bạch rằng: ” Bạch Ðức Thế Tôn ! Chúng tôi muốn Ðến Ta Bà thế giới lễ bái cúng dường Phật Thích Ca Mâu Ni”.

-Đức Nhứt Bửu Trang Nghiêm Phật nói: “Các ông muốn qua Ðó thì tùy ý, nên phải biết thời”.

Hư Không Tạng Ðại Bồ Tát cùng chúng Ðại Bồ Tát liền Ðảnh lễ chưn Phật Nhứt Bửu Trang Nghiêm, Ði nhiễu bên hữu bảy vòng, thừa Phật du hí vô tác thần thông bỗng nhiên chẳng hiện, trong thời gian khoảng một niệm, Ðến nhà Bửu Trang Nghiêm Ðường trên Ðài Diệu Bửu.

Hư Không Tạng Ðại Bồ Tát mưa diệu hoa hương cúng dường Phật Thich Ca Mâu Ni, cũng cúng dường kinh Ðại Phổ Tập, Ðó là những hoa mạn Ðà la, hoa ma ha mạn Ðà la, hoa mạn thù sa, hoa ma ha mạn thù sa, hoa ba lợi chất Ða la, hoa ma ha ba lợi chất Ða la, hoa lô giá na, hoa ma ha lô giá na, các loại hoa trên Ðất dưới nước lớn bằng bánh xe, hoa trăm cánh, ngàn cánh, hoa trăm ngàn vạn cánh, tất cả hoa Ðều phát ánh sáng, mùi hương vi diệu, sắc hoa hương hoa làm vui Ðẹp tâm nhãn mọi người. Những hoa thơm Ðẹp tươi sáng như vậy tuôn xuống Ðầy trong nhà Diệu Bửu Trang Nghiêm Ðường chất cao một cây Ða la. Còn có các thứ thiên nhạc phát ra tiếng vô lượng pháp môn, những là tiếng nhạc hiệp vớiÐàn Ba La Mật, Thi la Ba La Mật, Nhẫn Ba La Mật, Tiến Ba La Mật, Thiền Ba La Mật, Bát Nhã Ba La Mật, tiếng nhạc hiệp với Tứ vô lượng tâm, hiệp với Tứ nhiếp pháp, hiệp với Trợ Ðạo pháp, hiệp với Tam giải thoát môn, hiệp với Tứ thánh Ðế, hiệp với Thập nhị nhơn duyên .

Cúng dường xong, Hư Không Tạng Bồ Tát Ðảnh lễ chưn Phật hữu nhiễu bảy vòng rồi Ðứng qua một phía bạch Ðúc Phật rằng: ” Bạch Ðức Thế Tôn ! -Đức Nhất Bửu Trang Nghiêm Như Lai Ứng Cúng Ðẳng Chánh Giác thăm hỏi Ðức Thế Tôn ít bệnh ít não Ði ở an ổn vui vẻ. -Đức Nhứt Bửu Trang Nghiêm Như Lai lại còn nói có mười hai ức Bồ Tát cùng Hư Không Tạng Bồ Tát Ðồng Ðến Ta Bà thế giới mong Ðức Thế Tôn vì họ nói pháp thậm thâm khiến họ Ðược tự nhiên trí, cũng khiến họ thành tựu Ðại pháp quang minh rồi sẽ trở về quốc Ðộ Ðại Trang Nghiêm. Tại vì sao? Do Ðức Thế Tôn từ xa xưa Ðã từng giáo hóa chúng Bồ Tát nầy phát tâm Vô thượng Bồ Ðề vậy”.

Bạch lời trên xong, Hư Không Tạng Ðại Bồ Tát, ngay trên Ðỉnh Ðức Thế Tôn, hóa hiện lọng báu lớn rộng mười ngàn do tuần, cán bằng thanh lưu ly, cọng bằng chơn san hô bửu, lợp bằng lưu ly bửu và vàng diêm phù Ðàn, rũ thòng những mành lưới chuỗi ngọc bằng diệu chơn châu, có những linh những lạc reo tiếng hòa diệu. Lọng ấy phát sáng chiếu suốt mười phương cùng xen với các loại hoa hương Ðẹp sáng.

Ðối với công Ðức bất tư nghị của Ðức Thế Tôn, Hư Không Tạng Ðại Bồ Tát lòng rất kính trọng chắp tay hướng lên Phật nói kệ khen ngợi rằng:

Pháp nghĩa trí huệ Ðấng Tối Thắng
Bổn tịnh vô cấu vô sở trước
Như hư không chẳng nhiễm ô
Tôi lạy dưới chân thánh bất Ðộng
Công hạnh không sánh không bờ Ðáy
Hiện pháp nghiêm thân rất thù thắng
Chơn pháp thân Phật như hư không
Khắp trùm Ðại bi mà tế Ðộ
Nhơn Thiên Ðạo Sư hay thị hiện
Trăm phước trang nghiêm thân Thế Tôn
Dứt các ngôn ngữ không âm vang
Lìa các ngôn thuyết không hí luận
Dầu biết như vậy mà hiện nói
Vô tánh chúng sanh khiến họ vui
Tâm chẳng phải tâm Ðược tâm ấy
Biết Ðược chẳng tâm tánh ảo hóa
Khéo biết chúng sanh tâm hành tánh
Mà hay chẳng trụ tâm bỉ ngã
Vì hiện oai nghi Ðể Ðộ chúng
Thân Thiện Thệ không tác chẳng tác
Phật biết chúng sanh theo chỗ thích
Liền hay thị hiện thân như vậy
Thế Tôn nơi pháp chẳng chấp ngã
Chẳng có nhớ tưởng trụ nơi pháp
Hay biết do pháp nào Ðược Ðộ
Rồi theo Ðáng nên nói Ðúng cơ
Ðại chúng khát ngưỡng nhìn Thế Tôn
Hy hữu trong Ðời không gì sánh
Thế Tôn thị hiện mà vô tâm
Nhưng khiến Ðại chúng Ðều vui Ðẹp
Các pháp như vậy theo duyên sanh
Hư vô tịch mịch chẳng chơn thiệt
Thế Tôn khéo biết pháp như vậy
Ðược Ðến Niết bàn Ðạo thanh lương
Bỏ nhị biên chẳng trụ trung Ðạo
Biết giả chẳng chơn không tự tánh
Các pháp như vậy không tác giả
Khéo nói nghiệp quả chẳng Ðoạn thường
Chẳng phải chúng sanh thọ mạng nhơn
Tịch tĩnh không tên như hư không
Như thiệt phân biệt không chúng sanh
An trụ Ðại chúng Ðến cam lộ
Xưa tu nhiều kiếp bất tư nghị
Cầu sức tinh tiến Ðại Bồ Ðề
Diệu hạnh Ðược làm nay Ðã thành
Nghĩa Ðến không Ðến Ðều tỏ biết
Tất cả các pháp thượng trung hạ
Ðều biết bình Ðẳng thường không khác
Người trí chỗ biết biết không chấp
Ví vậy Thế Tôn Ðịnh không loạn
Âm nhập xứ giới như ảo hóa
Tam giới Ðều như trăng trong nước
Chúng sanh hư ngụy tánh như mộng
Do trí phân biệt nói pháp ấy
Thế nhơn giả xưng gọi Ðắc Ðạo
Thiệt không có tướng Ðắc không Ðắc
Như Ðạo không Ðắc pháp không chuyển
Như pháp không chuyển không người Ðộ
Thế nên Ðộ chúng khỏi tử lưu
Tự Ðộ Ðộ tha hết Ðiên Ðảo
Khéo hay an ủi người khổ não
Mình người diệt khổ Ðến vô vi
Chúng sanh không sanh không Niết bàn
Chúng sanh bổn tịnh bất khả Ðắc
Ðạo và chúng sanh dường ảo mộng
Tự giác như vậy giác nhiều người
Như trong hư không chẳng thấy sắc
Tất cả chúng sanh sắc cũng vậy
Các pháp lìa sắc lìa tướng sắc
Biết Ðược sắc ấy thì Ðược lìa
Dùng các dụ hay khen ngợi Phật
Chấp kiến khen Phật là báng Phật
Phật Ðức như không vô sai biệt
Vô hạn vô lượng là khen Phật
Lạy Ðấng tự tịnh cũng tịnh tha
Vô duyên vô tâm nhập vi tâm
Như Phật công Ðức Thế tôn biết
Như Phật công Ðức nay tôi lạy
Hay biết chúng sanh không có ngã
Biết các pháp tế là ly dục
Người thấy pháp thân là thấy Phật
Tức là cúng dường mười phương Phật
Hư Không Tạng Bồ Tát nói kệ ấy rồi, liền lúc ấy nhà Ðại Bửu Trang Nghiêm Ðường cùng tất cả các bửu Ðài trên hư không chấn Ðộng sáu cách, tất cả Ðại chúng tâm thanh tịnh vui vẻ hớn hở khen chưa từng có Ðồng nói Hư không Tạng Ðại Bồ tát khéo có thể nói diệu kệ ấy, nếu có thiện nam thiện nữ làm Ðược pháp ấy thì cho Ðến trong mộng chẳng thấy có pháp lần lần sẽ Ðược sư tử hống như Hư Không Tạng Ðại Bồ Tát.

Hư không Tạng Ðại Bồ Tát nói những diệu kệ khen Phật rồi bạch rằng: “” Bạch Ðức Thế Tôn ! Có ít Ðiều muốn hỏi mong Thế Tôn cho phép, nếu Ðược Phật cho phép mới dám thưa hỏi, tại sao, vì Ðức Thế Tôn có vô lượng tri kiến hay biết Ðược chúng sanh các căn có thuần thục có chưa thuần thục, vì Ðức Thế Tôn sáng suốt trừ bỏ các tối tăm, vì Ðức Thế Tôn rõ nghĩa khéo nói phân biệt rành các cú nghĩa, vì Ðức Thế Tôn biết thời giờ chẳng quá hạn, vì Ðức Thế Tôn chỗ nói chẳng lầm Ðúng như lời mà làm chẳng sai, vì Ðức Thế Tôn biết thời giờ tùy sở hành của chúng sanh mà thuyết pháp, vì Ðức Thế Tôn khéo du hý thông Ðạt các thần thông, vì Ðức Thế Tôn khéo chơn thiệt quán tâm hành của chúng sanh, vì Ðức Thế Tôn rất không ô nhiễm ở trong các pháp Ðược Ðại tự tại, vì Ðức Thế Tôn tự tỏ ngộ giác liễu các pháp, vì Ðức Thế Tôn chế ngự tà kiến chúng sanh dạy cho họ vào chánh kiến, vì Ðức Thế Tôn là Ðại y vương có thể làm cho vô thỉ thế giới chúng sanh dứt hẳn các bệnh não, vì Ðức Thế Tôn Ðại lực thành tựu thập lực, vì Ðức Thế Tôn vô úy thành tựu tứ vô úy, vì Ðức Thế Tôn tối thắng thành tựu thập bát bất cộng pháp, vì Ðức Thế Tôn Ðại từ cứu tế tất cả chúng sanh tâm thường vô ngại, vì Ðức Thế Tôn Ðại bi hành tri kiến vô ngã cứu khổ tất cả chúng sanh, vì Ðức Thế Tôn Ðại hỷ hành thiền Ðịnh giải thoát tam muội Ðến cứu cánh, vì Ðức Thế Tôn Ðại xả hành dứt tất cả ghét thương tâm như hư không, vì Ðức Thế Tôn Ðược bình Ðẳng giác liễu các Phật pháp vô ngại, vì Ðức Thế Tôn không có lòng ghét thương cứu cánh thanh tịnh khen chê không lay Ðộng Ðược, vì Ðức Thế Tôn không có hy vọng trí huệ Ðầy Ðủ nơi lợi dưỡng kính khen không mong cầu, vì Ðức Thế Tôn tất cả tri kiến tất cã Phật hành xứ Ðều Ðã cứu cánh. Bạch Ðức Thế Tôn ! Tôi biết Ðược Ðức Thế Tôn có vô lượng vô biên công Ðức thành tựu như vậy, vì thế ở trong các pháp môn tôi có ít Ðiều muốn hỏi “”.

-Đức Phật nói: “” Nầy Hư Không Tạng ! Phật cho phép ông hỏi, Phậ sẽ theo chỗ ông bạch hỏi làm cho ông Ðược vui thỏa “”.

Lúc ấy Công -Đức Quang Minh Vương Ðại Bồ Tát hỏi Hư Không Tạng Ðại BồTát rằng: “”Nay Ngài vì ai mà muốn bạch hỏi Ðức Như Lai ? “”.

Hư Không Tạng Ðại Bồ Tát nói kệ Ðáp Công -Đức Quang Minh Vương Ðại Bồ Tát rằng:

Tất cả chúng sanh tâm bình Ðẳng
Người bình Ðẳng hay Ðến cứu cánh
Du hý trong Ðại bi vô cấu
Tôi vì chúng nầy hỏi Thế Tôn
Hay Ðến chánh giác không cấu uế
Ðã không do dự dứt nghi kia
Tự Ðược tỏ thấu lợi chúng sanh
Tôi vì chúng ấy hỏi Thế Tôn
Biết ngã vô ngã không sánh bằng
Vì chúng phát tâm không chấp chúng
Hay làm chúng sanh thoát ngã kiến
Tôi vì chúng ấy hỏi Thế Tôn
Hay hộ oai nghi thuận sở hành
Tâm ấy thanh tịnh như hư không
Kiên cố bất Ðộng như Tu Di
Tôi vì chúng ấy hỏi Thế Tôn
Tinh tiến không bờ huệ không sánh
Dũng kiện hay phá oán phiền não
Kiết mình Ðã dứt dứt kiết người
Tôi vì chúng ấy hỏi Thế Tôn
Thích cho oai nghi Ðiều phục tâm
Thường trụ văn giới nhẫn tiến lực
Thiền Ðịnh thần thông trí huệ sáng
Tôi vì chúng ấy hỏi Thế Tôn
Thích tu không vô tướng vô nguyện
Mà hiện thọ thân ở sanh tử
Vô sanh vô diệt Ðạt cam lộ
Tôi vì chúng ấy hỏi Thế Tôn
Tri kiến thậm thâm không ngằn mé
Thanh Văn Duyên Giác Ðều không bằng
Mà biết sở hành các chúng sanh
Tôi vì chúng ấy hỏi Thế Tôn
Khéo hay tỏ thấu thích chánh hạnh
Nơi chấp pháp phi pháp Ðã dứt
Thường ở chánh Ðịnh tâm chẳng loạn
Tôi vì chúng ấy hỏi Thế Tôn
Các hiền sĩ chẳng dứt giống Phật
Hay hộ chánh pháp hộ chúng tăng
Danh Ðồn tam thế chư Phật khen
Tôi vì chúng ấy hỏi Thế Tôn “” .
Hư Không Tạng Ðại Bồ Tát nói kệ Ðáp Công Ðức Quang Minh Vương Ðại Bồ Tát rồi bạch Ðức Phật rằng:”” Bạch Ðức Thế Tôn ! Thế nào là Bồ Tát thật hành Ðàn Ba la mật bình Ðẳng với hư không ? Thế nào là Bồ Tát hành Thi la Ba la mật, hành Nhẫn Ba la mật, hành Tiến Ba la mật, hành Thiền Ba la mật, hành Bát Nhã Ba la mật bình Ðẳng với hư không? Thế nào là BồTát hành công Ðức, hành trí bình Ðẳng với hư không? Thế nào là Bồ Tát chẳng rời lìa như như mà niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm thí, niệm giới, niệm thiên, như Ðúc Phật Ðã hứa khả? Thế nào là Bồ Tát tu hành các pháp bình Ðẳng như Niết bàn? Thế nào là Bồ Tát khéo phân biệt hành tướng? Thế nào là Bồ Tát thọ trì pháp tạng chư Phật, tùy theo Như Lai chỗ giác ngộ tánh tướng các pháp như thiệt biết tánh tướng các pháp rồi mà chẳng thủ chẳng xả ? Thế nào là Bồ Tát phân biệt các chúng sanh từ vô thỉ Ðến nay thanh tịnh mà giáo hóa các chúng sanh ? Thế nào là Bồ Tát khéo thuận phát hành thành tựu Phật pháp ? Thế nào là Bồ Tát bất thối thần thông nơi các Phật pháp Ðều Ðược tự tại ? Thế nào là Bồ Tát nhập pháp môn thậm thâm mà hàng Thanh văn, hàng Bích Chi Phật chẳng nhập Ðược ? Thế nào là Bồ Tát nơi thập nhị nhân duyên Ðược thắng trí phương tiện xa lìa nhị biên kiến chấp ? Thế nào là Bồ Tát Ðược ấn Như Lai ấn cho như như vô phân biệt trí phương tiện ? Thế nào là Bồ Tát nhập môn pháp giới, tánh thấy tất cả pháp tánh bình Ðẳng ? Thế nào là Bồ Tát thuần chí kiên cố như kim cương, nơi Ðại thừa nầy tâm an trụ bấ Ðộng ? Thế nào là Bồ Tát tự thanh tịnh giới mình như Phật giới ? Thế nào là Bồ Tát Ðược Ðà la ni trọn chẳng thất niệm ? Thế nào là Bồ Tát Ðược Như Lai gia trì biện tài vô ngại ? Thế nào là Bồ Tát Ðược tự tại thị hiện thọ sanh tử ? Thế nào là Bồ Tát phá các oán Ðịch lìa bỏ bốn ma ? Thế nào là Bồ Tát lợi ích chúng sanh trang nghiêm công Ðức ? Thế nào là Bồ Tát lúc thế gian không có Phật mà hay làm Phật sự ? Thế nào là Bồ Tát Ðược hải ấn tam muội khéo có thể biết Ðược tâm hành của các chúng sanh ? Thế nào là Bồ Tát biết Ðược các trần giới vô ngại ? Thế nào là Bồ Tát oai nghi hạnh thành tựu lìa các tối tăm Ðược quang minh thù thắng ở trong các pháp Ðược tự nhiên trí mau Ðược thành tựu Nhứt thiết trí hành ? “” .

-Đức Phật nói: “”Lành thay, lành thay, nầy Hư Không Tạng ! ông khéo có thể phân biệt hỏi nơi Như Lai những diệu nghĩa như vậy. Như ông Ðã từng cúng dường quá khứ vô lượng chư Phật trồng các căn lành, tâm hành bình Ðẳng như hư không, lễ kính chư Phật Ðến chỗ trí huệ sáng tỏ, phát siêng tinh tiến muốn Ðến diệu pháp tất cả chư Phật, chẳng bỏ rời các chúng sanh Ðến Ðại từ bi cứu cánh, Ðã quá các ma nghiệp chẳng lìa thế pháp, dùng tâm lượng Ðồng hư không Ðể thành tựu diệu pháp Ðại thừa vô thượng nầy.

Nầy Hư Không Tạng ! Công Ðúc của ông không có biên tế, khó so sánh Ðược, ông Ðã từng ở chỗ hằng hà sa số chư Phật quá khứ hỏi những sự việc ấy, ông cũng có thể tự nói, ông nên lắng nghe khéo suy gẫm, Phật sẻ vì ông mà phân biệt giải nói các sự Ðược hỏi về công hạnh của chư Bồ Tát, mà Phật còn giải nói hơn Ðây có thể Ðược Vô thượng Ðại thừa Như Lai tự nhiên trí Nhứt thiết chủng trí”.

Hư Không Tạng Ðại Bồ Tát bạch rằng:

“” Kính vâng, bạch Ðức Thế Tôn ! Tôi nguyện thích Ðược nghe “”.

-Đức Phật nói: “” Nầy Hư Không Tạng ! Thành tựu bốn pháp, Bồ Tát hành Ðàn Ba la mật bình Ðẳng với hư không: Nếu Bồ Tát ở tất cả chỗ không có chướng ngại chẳng phân biệt mà hành Ðàn Ba la mật, do ngã tịnh nên bố thí cũng tịnh, do bố thí tịnh nên nguyện cũng tịnh, do nguyện tịnh nên Bồ Ðề cũng tịnh, do Bồ Ðề tịnh nên nơi tất cả các pháp cũng tịnh . Ðây là Bồ Tát thành tựu bốn pháp thật hành Ðàn Ba la mật bình Ðẳng với hư không.

Nầy Hư Không Tạng ! Nếu Bồ Tát thành tựu tám pháp có thể tịnh Ðàn Ba la mật: Lìa ngã mà bố thí, lìa vì ngã mà bố thí, lìa thương yêu mà bố thí, lìa vô minh kiến mà bố thí, lià tướng bỉ ngã mà bố thí, lìa các suy tưởng mà bố thí, lìa hy vọng báo Ðáp mà bố thí, lìa bỏn xẻn ganh ghét mà bố thí, tâm bình Ðẳng như hư không mà bố thí. Ðây là tám pháp mà Bồ Tát thành tựu thì có thể tịnh Ðàn Ba la mật . Tám pháp ly nầy gọi là tịnh thí . Như hư không không có chỗ nào là chẳng Ðến, Bồ Tát từ tâm bố thí cũng như vậy . Như hư không chẳng phải sắc chẳng thấy Ðược, Bồ Tát hành thí chẳng y dựa nơi các sắc cũng như vậy. Như hư không chẳng cảm thọ khổ vui, Bồ Tát hành thí rời lìa các sự khổ vui cũng như vậy . Như hư không không có tưởng biết, Bồ Tát hành thí rời lìa các ý tưởng cũng như vậy . Như hư không là tướng vô vi, Bồ Tát hành thí vô vi vô tác cũng như vậy . Như hư không hư giả vô tướng, Bồ Tát hành thí chẳng y dựa thức tưởng cũng như vậy . Như hư không tăng ích tất cả chúng sanh, Bồ Tát hành thí lợi ích tất cả chúng sanh cũng như vậy . Như hư không vô biên vô tận, Bồ Tát hành thí ở trong sanh tử không có cùng tận cũng như vậy.

Nầy Hư Không Tạng ! Như hóa nhơn cấp thí cho hóa nhơn không có phân biệt, không có hý luận, chẳng cầu quả báo, Bồ Tát hành bố thí bỏ lìa hai bên chẳng phân biệt chẳng hý luận chẳng hi vọng quả báo cũng như vậy. Bồ Tát dùng trí huệ trừ bỏ tất cả kiết sử, dùng trí phương tiện chẳng bỏ tất cả chúng sanh. Ðây là Bồ Tát hành Ðàn Ba la mật bình Ðẳng với hư không vậy.

Trong pháp hội có một Bồ Tát tên là Nhựt Ðăng Thủ từ chỗ ngồi dậy trịch y vai hữu gối hữu chấm Ðất chấp tay bạch Ðức Phật rằng: “” Bạch Ðức Thế Tôn ! Hàng Bồ Tát nào có thể hành Ðàn Ba la mật như vậy ? “”.

-Đức Phật nói: “” Nầy Nhựt Ðăng Thủ ! Nếu Bồ Tát quá các thế gian Ðược pháp xuất thế gian, chẳng phải sắc không có thể không hiện hành, tri kiến thanh tịnh, chẳng phải tối chẳng phải sáng, lìa tất cả tướng Ðến tột vô tướng trí, thành tựu vô tận nhẫn, gần tri kiến của Như Lai, Ðã nối giới phần quyết Ðịnh của BồTát, Ðã Ðược thọ ký, Ðược ấn bất thối chuyển ấn Ðịnh, Ðã Ðược quán Ðảnh chánh vị, Ðã hành thiện hạnh biết hành tướng chúng sanh,Ðến tất cả chỗ mà không có chỗ Ðến. Bồ Tát như vậy có thể hành Ðàn Ba la mật nầy””.

Lúc Phật nói Pháp ấy, có một vạn tám ngàn Bồ Tát thấy các pháp tánh như hư không Ðược Vô sanh Pháp Nhẫn.

-Đức Phật nói với Hư Không Tạng Ðại Bồ Tát: “” Nầy Hư Không Tạng ! Nếu Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì hành Thi Ba la mật bình Ðẳng với hư không: Bồ Tát biết thân như tượng trong gương, biết thanh như vang, biết tâm như huyễn ảo, biết các pháp tánh như hư không . Ðây là Bồ Tát thành tựu bốn pháp hành Thi Ba la mật bình Ðẳng với hư không.

Nầy Hư Không Tạng ! Bồ Tát thành tựu tám pháp thì có thể hộ tịnh giới:

Các Bồ Tát chẳng quên tâm Bồ Ðề thì hay hộ tịnh giới .Các Bồ tát chẳng cầu bực Thanh Văn,bực Bích Chi Phật thì hay hộ tịnh giới .Bồ Tát trì giới chẳng hạn cuộc nơi giới thì hay hộ tịnh giới .Bồ tát chẳng ỷ cậy các giới thì hay hộ tịnh giới .Bồ Tát chẳng bỏ bổn nguyện thì hay hộ tịnh giới. Bồ tát chẳng y dựa tất cả chổ sanh thì hay hộ tịnh giới .Bồ Tát thành tựu Ðại nguyện thì hay hộ tịnh giới .Bồ Tát khéo nhiếp các căn Ðể diệt phiền não thì hay hộ tịnh giới .Ðây là Bồ Tát thành tựu tám pháp thì hay hộ tịnh giới vậy.

Nầy Hư Không Tạng ! Như hư không rời lìa các hy vọng,Bồ Tát dùng tâm không có mong cầu hay hộ tịnh giới củng như vậy .như hư không thanh tịnh, Bồ Tát trì giới thanh tịnh củng như vậy.Như hư không không có cấu uế,Bồ Tát trì giới không có cấu uế củng như vậy.Như hư không không có nhiệt não,Bồ Tát trì giới không có nhiệt não cũng như vậy .Như hư không không có cao hạ,Bồ Tát trì giới không cao không hạ cũng như vậy .Như hư không không có ổ hang, Bồ Tát trì giới không có chổ y dựa cũng như vậy .Như hư không vô sanh vô diệt cứu cánh không biến Ðổi, Bồ Tát trì giới vô sanh vô diệt cứu cánh không biến Ðổi cũng như vậy,Như hư không Ðều có thể dung thọ tất cả chúng sanh, Bồ Tát trì giới khắp có thể vận tải củng như vậy .Bồ Tát vì lợi ích chúng sanh mà có thể hộ tịnh giới.

Nầy Hư Không Tạng ! Như trăng trong nước không có trì giới phá giới,Bồ Tát rõ biết tất cả các pháp như thủy nguyệt không có trì giới phá giới củng như vậy .Ðây là Bồ Tát hành Giới Ba La mật bình Ðẳngvới hư không vậy . Nầy Hư Không Tạng! Nếu Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì hành nhẩn Ba la mật bình Ðẳng với hư không:

Nếu Bồ Tát bị người mắng chửi chẳng báo lại vì biết rõ vô ngã, bị người Ðánh chẳng báo lại vì biết rõ không nhơn,bị ngươì giận ghét chẳng báo lại vì lìa thấy có, bị người oán thù chẳng báo lại vì bỏ lìa hai kiến chấp. Ðây gọi là Bồ Tát thành tựu bốn pháp hành Nhẫn Ba la mật bình Ðẳng với hư không.

Nầy Hư Không Tạng ! Nếu Bồ Tát thành tự tám pháp thì cò thể tịnh Nhẫn Ba la mật:

Bồ Tát khéo tịnh nội thuần chí mà tu Nhẫn Ba la mật. Bồ Tát khéo tịnh ngoại chẳng hy vọng mà tu Nhẫn Ba la mật . Bồ Tát nơi thượng trung hạ cứu cánh vô ngại tu Nhẫn Ba la mật . Bồ Tát tùy thuận pháp tánh không bị nhiễm trước mà tu Nhẫn Ba la mật . Bồ Tát lìa tất cả kiến chấp Ðồng hư không mà tu Nhẫn Ba la mật . Bồ Tát dứt tất cả giác quán Ðồng vô tướng mà tu Nhẫn Ba la mật . Bồ Tát bỏ tất cả nguyện Ðồng vô nguyện mà tu Nhẫn Ba la mật . Bồ Tát trừ tất cả các hành Ðồng vô hành mà tu Nhẫn Ba la mật . Ðây gọi là Ðại Bồ Tát thành tựu tám pháp có thể tịnh Nhẫn Ba la mật vậy.

Nầy Hư Không Tạng ! Như hư không không có ghét không có thương, Bồ Tát tu Nhẫn Ba la mật không có ghét thương cũng như vậy . Như hư không không có biến Ðổi, Bồ Tát tâm cứu cánh không biến Ðổi tu Nhẫn Ba la mật cũng như vậy . Như hư không không có kém tổn, Bồ Tát tu Nhẫn Ba la mật tâm cứu cánh không có kém tổn cũng như vậy . Như hư không không có sanh không có khởi, Bồ Tát tu Nhẫn Ba la mật tâm không có sanh khởi cũng như vậy . Như hư không không có hí luận, Bồ Tát tu Nhẫn Ba la mật tâm không có hí luận cũng như vậy . Như hư không không có ân báo, Bồ Tát tu Nhẫn Ba la mật với tất cả chúng sanh chẳng mong quả báo cũng như vậy . Như hư không vô lậu vô hệ phược, Bồ Tát tu Nhẫn Ba la mật lìa tất cả lậu chẳng hệ phược tam giới cũng như vậy.

Nầy Hư Không Tạng ! Bồ Tát lúc hành Nhẫn Ba la mật chẳng có quan niệm họ Ðến mắng tôi tôi có thể nhịn chịu, cũng chẳng thấy người mắng kẻ bị mắng và cách mắng, chẳng quan niệm ấy, chẳng hí luận rằng họ rỗng không tôi cũng rỗng không, cũng chẳng suy nghĩ rằng âm thanh như vang do gì mà phát ra, cũng chẳng quan niệm rằng tôi phải còn họ thì quấy, cũng chẳng quan niệm rằng họ vô thường tôi cũng vô thường, cũng chẳng nghĩ rằng họ ngu tôi trí, cũng chẳng tưởng rằng chúng ta nên hành nhẫn nhục.

Nầy Hư Không Tạng ! Như có người vì cầu nhánh cây sa la nên cầm búa bén vào rừng sa la Ðến một cây sa la lớn chặt lấy một nhánh, các nhánh sa la khác chẳng nghĩ rằng họ chặt nhánh ấy mà chẳng chặt tôi, nhánh bị chặt cũng chẳng nghĩ rằng tôi Ðã bị chặt các nhánh khác không bị chặt, tất cả nhánh bị chặt cùng chẳng bị chặt Ðếu chẳng có quan niệm ghét thương . Lúc hành Nhẫn Ba la mật, Ðại Bồ Tát quán biết tất cả pháp tánh như cỏ cây tường vách ngói Ðá, mà thị thân thể bị chặt chém Ðứt rời Ðể giáo hóa chúng sanh, không có giận ghét, không có thương yêu, hoàn toàn không có nhớ nghĩ phân biệt . Ðây là Bồ Tát hành Nhẫn Ba la mật bình Ðẳng với hư không.

Nầy Hư Không Tạng ! Nếu Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì hành Tinh tiến Ba la mật bình Ðẳng với hư không:

Bồ Tát siêng cầu tất cả pháp lành mà biết tất cả pháp tự tánh chẳng thành tựu, Bồ Tát Ðem tất cả món vật cần dùng tối thắng cung cấp cúng dường chư Phật Thế Tôn nhưng chẳng thấy có Như Lai và các món cúng dường, Bồ Tát khéo có thể thọ trì diệu pháp Ðược nói của tất cả chư Phật cũng chẳng thấy có văn tự Ðể thọ trì, Bồ Tát có thể thành tựu vô lượng chúng sanh thấy chúng sanh tánh tức là Niết bàn rốt ráo không có sanh không có khởi . Ðây là bốn pháp Bồ Tát thành tựu hành Tiến Ba la mật bình Ðẳng với hư không.

Nầy Hư Không Tạng ! Nếu Bồ Tát thành tựu tám pháp thì có thể tịnh Tinh Tiến Ba la mật:

Bồ Tát vì tịnh thân mà phát cần tinh tiến biết thân như bóng trong gương chẳng tham trước nơi thân . Bồ Tát vì tịnh khẩu nên phát cần tinh tiến biết tiếng từ miệng thốt ra như vang chẳng tham trước nơi khẩu. Bồ Tát vì tịnh ý nên phát hành tinh tiến biết ý như ảo huyễn không có phân biệt chẳng tham trước nơi ý . Bồ Tát vì Ðầy Ðủ các Ba la mật nên phát cần tinh tiến biết các pháp không có tự tánh bị nhiếp thuộc nhân duyên chẳng nên hí luận. Bồ Tát vì Ðược trợ Bồ Ðề phần pháp nên phát cần tinh tiến Ðể giác liễu tất cả pháp chơn thiệt tánh không bị chướng ngại vướng mắc . Bồ Tát vì tịnh Phật quốc Ðộ nên phát cần tinh tiến Ðể biết tất cả quốc Ðộ như hư không vì vậy mà chẳng ỷ thị chỗ Ðược tịnh . Bồ Tát vì Ðược tất cả Ðà la ni nên phát cần tinh tiến biết tất cả pháp không có niệm chẳng phải không có niệm do Ðây mà không có quan niệm hai tướng . Bồ Tát vì thành tựu tất cả Phật pháp nên phát cần tinh tiến Ðể biết tất cả pháp nhập nhứt tướng bình Ðẳng nhưng chẳng hoại hư pháp tánh . Ðây là tám pháp Bồ Tát thành tựu thì có thể tịnh Tinh tiến Ba la mật.

Nầy Hư Không Tạng ! Như hư không không có mỏi mệt,Bồ Tát trong vô lượng kiếp phátcần tinh tiến không có mỏi mệt cũng như vậy .Như hư không Ðều có thể dung thọtất cả sắctượng mà hư khôngkhông có che chướng .Bồ Tátvì dung thọ tất cả chúng sanh mà phát cần tinh tiến bình Ðẳng vô ngại cũng như vậy,Như hư khôngcó thể sanh tất cả cỏ cây lù rừng mà hư không không có trụ xứ.Bồ tát vì tăng ích thiện căn tất cả chúng sanh mà phát cần tinh tiến khgông chỗ dựa dính không có trụ xứ cũng như vậy. Như hư không Ðến tất cả chỗ mà không có Ði Ðến. Bồ Tát vì Ðến tất cả chỗ nên phát cần tinh tiến mà không có Ðến không có không Ðến cũng như vậy.như hư không chẳng phải sắc hình mà trong hư không thấy các sắc hình .Bồ Tát vì nhứt thừa nên phát cần tinh tiến mà vì thành tựu thuần chí nên thị hiện các thừa sai biệt cũng như vậy. Như hư không bổn tánh thanh tịnh không bị khách trần làm ô nhiễm. Bồ Tát phát cần tinh tiến bổn tánh thanh tịnh vì chúng sanh mà hiện thọ thân sanh tử nhưng chẳng bị trần lụy làm ô nhiểm cũng như vậy.Như hư không tánh là thường không có vô thường. Bồ tát cứu cánh vì chẳng dứt mất Tam bửu nên phát cần tinh tiến cũng như vậy .Như hư không vô thỉ vô chung chẳng thủ chẳng xả .Bồ Tát phát cần tinh tiến vô thỉvô chung bất thủ bất xả củng như vậy.

Nầy Hư Không Tạng ! Tinh tiến có hai thứ Ðó là ban Ðầu phát tinh tiến và rốt sau thành tinh tiến .Bồ Tát do ban Ðầu phát cần tinh tiến tu tập thành tất cả pháp lành, do rốt sau thành tinh tiến phân biệt tất cả pháp chẳng có tự tánh, chỉ có căn lành Ðã Ðược tu tập thấy là bình Ðẳng,sở kiến bình Ðẳng cũng chẳng phải bình Ðẳng.

Nầy hư Không Tạng ! Như người thợ Ðiêu khắc tượng người gỗ có Ðủ thân tướng,sự nghiệp Ðược làm Ðều có thể hoàn thành, nhưng nơi có làm cùng chẳng có làm Ðều chẳng có quan niệm sai biệt. Bồ Tátvì thành tựu trang nghiêm bổn nguyện mà phát cần tinh tiến tu tất cả nghiệp,nơi làm cùng chẳng làm không quan niện sai biệt,bỏ lìa hai bên củng như vậy .Ðây là Bồ Tát hành Tiến Ba La mật bình Ðẳng như hư không.

Nầy Hư Không Tạng! Thế nào là Bồ Tát hành ThiềnBa La mật bình Ðẳngnhư hư không?Bồ tát nếu thành tựu bốn pháp thìhành Thiền Ba La mật bình Ðẳng với hư không Bồ Tát chuyên nhiếp nội tâm mà chẳng thấy có nội tâm, Bồ Tát ngăn tâm duyên các cảnh giới ngoàimà chẳng thấy có tâmngoài hành xứ,Bồ Tát do tâm mình bình Ðẳng nên biết tất cả chúng sanh tâm Ðều bình Ðẳng cũng chẳng y dựa hai pháp là tâm và bình Ðẳng, Bồ Tát tư duy pháp giới Ðịnh tánh không có nhiếp thâu không có loạn tán biết tất cả pháp tánh không có hí luận.Thành tựu bốn pháp như vậy,Bồ Tát hành Thiền Ba La mật bình Ðẳng với hư không.

Nâ`y Hư Không Tạng! nếu Bồ Tát thành tựutám pháp thì có thể tịnh Thiền BaLa mật:

Bồ Tát chẳng y dựa các ấm Ðể tu thiền,chẳng y dựa các giới Ðể tu thiền,chẳng y dựa các nhập Ðể tu thiền, chẳng y dựa tam giới Ðể tu thiền,chẳng y dựa hiện thế Ðể tu thiền, chẳng y dựa hậu thế Ðể tu thiền,chẳng y dựa Ðạo Ðể tu thiền, chẳng y dựa quả Ðể tu thiền. Ðây là Bồ Tát thành tựu tám pháp hay tịnh Thiền Ba La mật.

Nầy Hư Không Tạng ! Như hư không không có dựa dính. Bồ Tát tu thiền không có y chỉ củng như vậy. Như Hư Không không có ái luyến . Bồ Tát tu thiền không có nhiễm trước cũng như vậy . Như hư không không có dính mắc các kiến chấp . Bồ Tát tu thiền bỏ lìa các kiến chấp củng như vậy . Như hư không không có kiêu mạn . Bồ Tát tu thiền bỏ lìa kiêu mạn cũng như vậy . Như hư không cứu cánh vô diệt . Bồ Tát tu thiền khéo nhập vào pháp tánh cứu cánh bất thối cũng như vậy . Như hư không chẳng thể phá hoại . Bồ Tát tu thiền chẳng hoại bổn tế cũng như vậy . Như hư không không có biến Ðổi . Bồ Tát tu thiền chẳng biến Ðổi như như cũng như vậy . Như hư không chẳng phả tâm rời lìa tâm . Bồ Tát tu thiền rời lìa tâm ý thức cũng như vậy.

Nầy Hư Không Tạng ! Bồ Tát dùng tâm bình Ðẳng tu thiền chẳng phải tâm chẳng bình Ðẳng .

Thế nào là tâm bình Ðẳng ? Nếu tâm chẳng cao chẳng hạ, không có cầu không chẳng cầu, không có tác không chẳng tác, không có phân biệt không chẳng phân biệt, không có hành không chẳng hành, khong có thủ không có xả, không tối không sáng, vô tri vô niệm, không chẳng tri không chẳng niệm, chẳng một chẳng khác, chẳng phải hai chẳng phải chẳng hai, không có Ðộng không chẳng Ðộng , không có khứ không chẳng khứ, không có tu không chẳng tu, tâm chẳng duyên nơi tất cả cảnh giới, Ðây gọi là tâm bình Ðẳng .

Vì Bồ Tát tâm bình Ðẳng nên chẳng duyên lấy sắc bỏ lìa nhãn và sắc hai pháp mà tu tập thiền . Vì tâm bình Ðẳng nên chẳng duyên lấy thanh hương vị xúc và pháp bỏ lìa hai pháp ý và pháp mà tu tập thiền .

Nầy Hư Khong Tạng ! Như hư không lúc Ðại hỏa tai khởi lên chẳng Ðốt cháy Ðược, lúc Ðại thủy tai khởi lên chẳng Ðẩy trôi Ðược, Bồ Tát chẳng bị lửa lớn phiền não Ðốt cháy, chẳng bị các thiền tam muội cuốn trôi Ði thọ sanh, tự mình không có Ðịnh và loạn mà hay khiến chúng sanh loạn tâm Ðược Ðịnh, sở hành của mình Ðã thanh tịnh mà chẳng bỏ tinh tiến, bình Ðẳng với hư không mà thị hiện sai biệt nhưng chẳng thấy tướng bình Ðẳng và bất bình Ðẳng, khéo hay khắp quán trí huệ chơn tánh tâm Bồ Tát chẳng bị ái kiến phiền não che chướng, ở trong các pháp hành, thật hành không bị dính mắc bình Ðẳng với hư không. Ðây là Bồ Tát hành Thiền Ba la mật bình Ðẳng với hư không vậy.

Nầy Hư Không Tạng ! Thế nào là Bồ Tát hành Bát Nhã Ba la mật bình Ðẳng với hư không ? Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì hành Bát Nhã Ba la mật bình Ðẳng với hư không.

Do vì ngã tịnh nên Bồ Tát biết chúng sanh cũng tịnh, vì trí tịnh nên biết thức cũng tịnh, vì nghĩa tịnh nên biết văn tự cũng tịnh, vì pháp giới tịnh nên biết tất cả pháp cũng tịnh . Ðây là bốn pháp mà Bồ Tát thành tựu thì hành Bát Nhã Ba la mật bình Ðẳng như hư không.

Nầy Hư Không Tạng! Nếu Bồ Tát thành tựu tám pháp thì có thể tịnh Bát Nhã Ba la mật:

Bồ Tát tinh cần muốn Ðoạn dứt tất cả pháp bất thiện mà chẳng dính mắc Ðoạn kiến, Bồ Tát tinh cần muốn sanh tất cả pháp lành mà chẳng dính mắc thường kiến, Bồ Tát biết tất cả pháp hữu vi Ðều từ duyên sanh mà chẳng Ðộng nơi vô sanh pháp nhẫn, Bồ Tát phân biệt nói tất cả tự cú mà thường bình Ðẳng không có ngôn thuyết, Bồ Tát khéo biện tất cả pháp hữu vi vô thường khổ vô ngã mà nơi pháp giới tịch tĩnh chẳng Ðộng, hay khéo phân biệt các nghiệp sở tác mà biết tất cả pháp vô nghiệp vô báo, khéo hay phân biệt pháp cấu pháp tịnh mà biết tất cả pháp tánh thường tịnh, khéo hay suy lường tam thế các pháp mà biết các pháp không có quá khứ vị lai hiện tại . Ðây là Bồ Tát thành tựu tám pháp hay tịnh Bát Nhã Ba la mật.

Nầy Hư Không Tạng ! Như hư không chẳng phải hành chẳng phải không hành, Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La mật lìa tất cả hành cũng như vậy.Như hư không không gì phá hoại Ðược cũng như vậy .Như hư không tánh thường tịch tĩnh cũng như vậy. Như hư không không tánh thường vô ng4,Bồ Tát hành Bát Nhã biết rõ vô ngã cũng như vậy .Như hư không tánh chẳng phải chúng sanh,Bồ Tát hành Bát Nhã rời lìa kiến chấp chúng sanh cũng như vậy. Như hư không tánh không có thọ mạng, Bồ Tát hành Bát Nhã lìa thọ mạng kiếncũng như vậy .Như hư không tánh không có nhơn. Bồ Tát hành Bát Nhã lìa nhơn kiến cũng như vậy .Như hư không chẳng phải vật chẳng phải chẳng vật chẳng Ðặt tên hiệu Ðược,Bồ Tát hành Bát Nhã ro82i lìa vật chẳng phải vật cũng như vậy.

Nầy Hư Không Tạng! Bát Nhã là cú nghĩa tịch tĩnh vì không có tri giác vậy.Bát Nhã là cú nghĩa vô tác vì tự tướng thanh tịnh vậy .Bát Nhã là cú nghĩa vô biến vì không có hành tướng vậy. Bát Nhã là cú nghĩa chơn thiệt vì chẳng phát Ðộng vậy. Bát Nhã là cú nghĩa chẳng khi dối vì không có sai khác vậy . Bát Nhã là cú nghĩa liễu Ðạt vì nhập vào nhứt tướng vậy. Bát Nhã là cú nghĩa thông minh vì dứt tập khí vậy .Bát Nhã là cú nghĩa Ðầy Ðủ vì không có muốn cầu vậy .Bát Nhã là cú nghĩa thông Ðạt vì hay chánh kiến vậy .Bát Nhã là cú Ðệ nhứt vì vô sở Ðắc vậy. Bát Nhã là cú nghĩa bình Ðẳng vì không có cao không có hạ vậy .Bát Nhã là cú nghĩa lao cố vì không gì phá hoại Ðược vậy .Bát Nhã là cú nghĩa bất Ðộng vì không có sở y vậy .Bát Nhã là cú nghĩa kim cương vì không gì xô dẹp Ðược vậy .Bát Nhã là cú nghĩa Ðã Ðộ vì việc làm Ðã xong vậy .Bát Nhã là cú nghĩa chơn tịnhvì bổn tánh tịnh vậy. Bát Nhã là cú nghĩa không tối vì chẳng cậy sáng vậy .Bát Nhã là cú nghĩa vô nhị vì chẳng tích tụ vậy .Bát Nhã là cú nghĩa tận vì cứu cánh tận tướng vậy .Bát Nhã là cú nhgĩa vô tận vì tướng vô vi vậy .Bát Nhã là cú nghĩa vô vi vì rời lìa sanh diệt vậy . Bát Nhã là cú nghĩa hư không vì không có chướng ngại vậy . Bát Nhã là cú nghĩa vô sở hữu vì chơn thiệt thanh tịnh vậy . Bát Nhã là cú nghĩa vô xứ vì không có hành tích vậy Bát Nhã là cú nghĩa không có ổ hang vì không chỗ dựa ỷ vậy. Bát Nhã là cú nghĩa trí vì không có thức phân biệt vậy . Bát Nhã là cú nghĩa không hàng phục vì không có bầy bọn vậy . Bát Nhã là cú nghĩa vô thể vì không có thọ thân hình vậy . Bát Nhã là cú nghĩa tri kiến vì biết khổ chẳng sanh vậy. Bát Nhã là cú nghĩa Ðoạn dứt vì biết tập chẳng hòa hiệp vậy . Bát Nhã là cú nghĩa diệt vì cứu cánh vo sanh vậy . Bát Nhã là cú nghĩa Ðạo vì không có hai giác quán vậy . Bát Nhã là cú nghĩa giác vì giác bình Ðẳng vậy . Bát Nhã là cú nghĩa pháp vì cứu cánh bất kiến vậy .

Nầy Hư Không Tạng ! Bát Nhã nầy chẳng từ người mà Ðược vì là tri kiến tự chứng như tánh mà hiện hành vậy . Biết văn cú nghĩa như vang, ở nơi ngữ ngôn âm thanh tùy Ðáng nên mà Ðáp ứng biện thuyết chẳng dứt nhưng chẳng nắm dính văn tự ngôn thuyết . Ðại Bồ Tát có thể ở trong tất cả ngôn thuyết khéo có thể báo Ðáp, biết các âm thanh ngôn thuyết như vang vì hiểu là bất khả Ðắc vậy nên chẳng chấp trước cũng chẳng hí luận . Ðây là Bồ Tát hành Bát Nhã Ba la mật bình Ðẳng với hư không “”

Muốn sáng tỏ lại nghĩa nầy, Ðúc Thế Tôn nói kệ rằng:

Lìa chấp trước mà làm bố thí
Khắp Ðến vừa theo Ðánh chúng sanh
Thí xong rồi tâm không chướng ngại
Cũng chẳng có sanh lòng phân biệt
Vì ngã tịnh nên thí thanh tịnh
Vì thí tịnh nên nguyện thanh tịnh
Vì nguyện tịnh nên Bồ dề tịnh
Vì Ðạo tịnh nên tất cả tịnh
Không ngã tưởng không ngã sở tưởng
Rời lìa ái lìa các kiến chấp
Bỏ lìa tất cả tướng bỉ ngã
Tâm bố thí dường như hư không
Bỏ lìa tất cả tưởng mà thí
Không có tâm mong cầu báo Ðáp
Bỏ lìa tâm tật Ðố kiết sử
Tâm bố thí như hư không kia
Hư không chẳng phải sắc không dựa
Không thọ không tưởng không phân biệt
Cũng không hành cũng không có thức
Lúc bố thí tâm như hư không
Như hư không lợi ích tất cả
Từ thỉ Ðến chung không cùng tận
Hiểu rõ pháp thí vô cùng tận
Lợi ích cho tất cả chúng sanh
Như hoá nhơn thí cho hoá nhơn
Chẳng trông mong sở thí Ðược báo
Người có trí huệ thí cũng vậy
Trọn hẳn chẳng trông mong báo Ðáp
Dùng huệ dứt trừ các kiết sử
Phương tiện lực chẳng bỏ chúng sanh
Chẳng thấy có kiết sử chúng sanh
Bố thí như vậy Ðồng hư không
Biết rõ thân như tượng trong gương
Biết thanh âm như vang ứng tiếng
Biết rõ tâm như ảo như hóa
Pháp tánh vô ngại như hư không
Chẳng bỏ vô thượng Ðại Bồ Ðề
Chảng cầu Thanh Văn Duyên Giác thừa
Thường kính trọng hộ trì tịnh giới
Của tất cả chư Phật quá khứ
Vì chẳng quên bỏ bổn thệ nguyện
Nên có thể ở trong các loài
Khéo có thể thành tựu bổn nguyện
Nhiếp ý cần hộ trì tịnh giới
Như hư không không có hi vọng
Không nhiệt não không có cao hạ
Không trược nhơ cũng không biến Ðổi
Nhười trí trì giới cũng như vậy
Như hư không dung thọ tất cả
Như trăng trong nước chẳng trì giới
Người hộ trì giới phải như vậy
Tịnh giới như hư không thủy nguyệt
Mắng chửi Ðánh Ðập cùng thù giận
Vì sức nhẫn nhục nên chẳng sân
Không thấy có mình không có người
Do bỏ lìa tưởng có kia Ðây
Nội tâm thuần chí thiện thanh tịnh
Cảnh hành ngoài Ðều cũng thanh tịnh
Do vì thuần chí nên không sân
Tùy thuận pháp như hay nhẫn nhục
Rời lìa các kiến như hư không
Bỏ giác quán cũng lìa niệm tưởng
Không có nguyện không có hi vọng
Bỏ các hành pháp và sở thủ
Không có ái luyến như hư không
Chẳng cợt Ðùa chẳng hoài oán hận
Không có hí luận không cầu báo
Vô lậu nhẫn nhục là như vậy
Không người nhẫn không người mắng Ðánh
Tiếng người mắnh chửi dường như vang
Là không thiệt cũng là vô thường
Không có những hí luận như vậy
Không nghĩ người ngu ta là trí
Không có sanh mà thị hiện sanh
Cũng vẫn không có phân biệt ấy
Ðây là tu thành vô sanh nhẫn
Như nhánh sa la bị người chặt
Nhánh khác chẳng nghĩ không bị chặt
Thân bị chém Ðứt không phân biệt
Nhẫn nhục nầy tịnh như hư không
Siêng tu không sở y sở trụ
Cúng dường Phật không quan niệm Phật
Thọ trì chánh pháp chẳng trước văn
Ðộ chúng sanh không thấy chúng sanh
Thân nghiệp tịnh cũng tịnh pháp thân
Khẩu nghiệp tịnh không có ngôn thuyết
Tâm nghiệp tịnh không có ý hành
Ðầy Ðủ tất cả Ba la mật
Ðầy Ðủ pháp trợ Bồ Ðề phần
Quốc Ðộ thanh tịnh như hư không
Thành tựu biện tài Ðà la ni
Cầu Ðược các Phật pháp như vậy
Như hư không chẳng mệt chẳng mỏi
Hay sanh trưởng cỏ cây lùm rừng
Ðến khắp mọi nơi không hình sắc
Tinh tiến không mỏi như hư không
Hằng thường thanh tịnh như hư không
Không có thỉ cũng không có chung
Nhười tu tinh tiến cũng như vậy
Không có thỉ không có chung thành
Như người máy do gỗ tạo thành
Tất cả việc làm không phân biệt
Người tu hành không có hai tưởng
Ting tiến như vậy như hư không
Biết xa ma tha trụ nội tâm
Nhiếp thâu tâm duyên cảnh giới ngoài
Tâm của mình và tâm của người
Ðây là y chỉ vô tâm thiền
Các pháp tánh thường không lặng vắng
Dùng vô lậu trí biết rõ Ðược
Chẳng dựa ngũ ấm lục nhập giới
Cũng chẳng y chỉ trong ba cõi
Chẳng y chỉ quá vị hiện tại
Chẳng y chỉ Ðạo hành quả chứng
Như hư không kia thường vô y
Người tu thiền nầy cũng vô y
Hư không chẳng có ái kiến mạn
Người tu thiền cũng không phiền não
Hư không chẳng thối chẳng hư biến
Người tu thiền cũng giống như vậy
Thường bình Ðẳng không tịch giải thoát
Người trí thường chẳng quan niệm giới
Không kiết sử cũng không có thiền
Vì vậy mà thiền như hư không
Vì ngã tịnh nên chúng sanh tịnh
Vì trí tịnh nên thức cũng tịnh
Vì nghĩa tịnh nên văn tự tịnh
Vì pháp tịnh nên giới cũng tịnh
Dứt pháp bất thiện và tập khí
Bực Ðại Sĩ tích tập thiện căn
Nên biết hữu vi là duyên sanh
Nhưng chẳng trước vô sanh vô diệt
Khéo có thể phân biệt văn tự
Nói các pháp vô thường và khổ
Nhưng vẫn thị hiện thọ nghiệp báo
Nói có pháp cấu và pháp tịnh
Biết rõ pháp tánh cũng thanh tịnh
Mà suy lường quá vị hiện tại
Hư không không hành không chẳnh hành
Huệ không có hành cũng như vậy
Như hư không chẳng gì phá Ðược
Không có ngã nhơn không thọ mạng
Chẳng phải vật chẳng phải không vật
Bỏ dứt các chấp kiến nhị biên
Biết cú là giả nên chẳng nhiễm
Là bất biến cú chơn thiệt cú
Là mãn túc cú thông Ðạt cú
Liễu Ðạt nhứt nghĩa và huệ cú
Bình Ðẳng bất Ðộng lao cố cú
Kim cương dĩ Ðộ chơn tịnh cú
Thông minh cú tận vô tận cú
Là vô vi vú hư không cú
Không xứ không ổ không thức biệt
Không hàng phục vô thể là trí cú
Không tập không diệt không Ðạo cú
Là pháp là giác trí huệ cú
Như vang kia ứng theo thanh âm
Bồ Tát vô tận biện cũng vậy
Thuyết pháp vô y vô sở Ðắc
Bát Nhã nầy tịnh như hư không.
Lại nầy Hư Không Tạng ! Thế nào là Bồ Tát hành công Ðức bình Ðẳng với hư không?

Bồ Tát vì nghe Phật vô lượng pháp rộng lớn như hư không nên phát tâm Nhứt thiết trí, nghĩ rằng Bồ Ðề vô lượng, Phật vô lượng, tự tại giác vô lượng, trong vô lượng như vậy sanh ra vô lượng lạc dục tinh tiến bất phóng dật hạnh, vì Phật Ðạo mà phải hành vô lượng pháp sở hành của Bồ Tát . Tại sao ? Vì như chư Phật có vô lượng công Ðức trang nghiêm nơi thân, ta cũng vì trang nghiêm nơi thân mà phải thành tựu vô lượng thiện căn . Như chư Phật có vô lượng công Ðức trang nghiêm khẩu, trang nghiêm ý, trang nghiêm Ðạo tràng, trang nghiêm Phật Ðộ, ta cũng vì trang nghiêm khẩu, trang nghiêm ý, trang nghiêm Ðạo tràng, trang nghiêm quốc Ðộ nên phải thành tựu vô lượng thiện căn . Ta phải giáo hóa vô lượng chúng sanh Ðể thành tựu thiện căn . Vì thành tựu thiện căn nên ta ở trong vô lượng sanh tử chăang hề mỏi nhàm . Chư Phật Thế Tôn có vô lượng quốc Ðộ vô lượng trí huệ vô lượng thần thông, các chúng sanh ấy có vô lượng hạnh vô lượng tâm vô lượng các căn sai biệt ở trong sanh tử thọ vô lượng khối khổ não phát khởi các phiền não, ta vì nhập vô lượng Phật pháp, vì bỏ sở hành các căn khối sanh tử khổ não của vô lượng chúng sanh nên thành tựu vô lượng thiện căn . Bồ Tát dùng tâm chánh chơn quán sát những công Ðức Ðược làm tương ưng với các Ba la mật, tương ưng với Tứ nhiếp pháp, tương ưng với Tứ vô lượng tâm, tương ưng với pháp trợ Bồ Ðề, thành tựu chúng sanh thọ trì chánh pháp cúng dường chư Phật Thế Tôn và tịnh pháp sở hành tương ưng của Bồ Tát, vô lượng công Ðức Ðược làm như vậy bình Ðẳng với hư không, vì chúng sanh tánh vô lượng, vì Phật trí huệ vô lượng, vì pháp giới vô lượng, nên chỗ tu hành cũng vô lượng như hư không . Chúng sanh tánh, Phật trí huệ trong pháp giới không chỗ nào chẳng Ðến nên tất cả chúng sanh Ðều Ðược nhờ lợi ích . Cũng vậy, công Ðúc của Bồ Tát làm Ðến tất cả chỗ lợi ích cho chúng sanh, vì không dựa dính vậy, vì sức nguyện phương tiện vậy . Ðây là Bồ Tát hành công Ðức bình Ðẳng với hư không như vậy.

Nầy Hư Không Tạng ! Thế nào là Bồ Tát hành trí bình Ðẳng với hư không ?

Bồ Tát theo thiện tri thức Ðược nghe chánh pháp rồi, khéo thuận tư duy, các hạnh Ðược làm trọn không phóng dật tu ít cảnh giới tưởng rồi thọ vô lượng tưởng, thọ vô lượng tưởng rồi Ðược trí sáng như vậy, Ðược trí sáng ấy rồi Ðược chư ấm phương tiện trí, Ðược chư giới phương tiện trí, Ðược chư Ðế phương tiện trí, Ðược chư duyên phương tiện trí, biết chúng sanh cấu cũng biết cấu tánh,biết chúng sanh tịnh cũng biết tịnh tánh. Ðó là chúng sanh có nhiểm tâm thì như thiệt biết là có nhiễm tâm,chúng sanh không nhiễm tâm thì như thiệt biết là không có nhiễm tâm.Chúng sanh có sân tâm hay không sân tam thì như thiệt biết là có sân tâm hay là không sân tâm,chúng sanh có si tâm hay là không si tâm thì như thiệt biết là có si tâm hay là không si tâm, chúng sanh có phiền não tâm hay không phiền não tâm thì như thiệt biết là có phiền não tâm hay là không phiền não tâm .Bồ Tát không thấy người có cấu tâm là hèn kém và người không cấu tâm là thắng hơn, tại sao, vì Bồ Tát nhập vào pháp môn trí bất nhị tánh thanh tịnh . Như pháp tánh bát nhị thanh tịnh thì ngã tánh cũng vậy, như ngã tánh thì vô ngã tánh cũng vậy,như vô ngã tánh thì tất cã các pháp cũng vậy,vì tánh thường thanh tịnh vậy .Nếu nhập vào tất cã pháp tánh thanh tịnh thì chẳng thấy có cấu có tịnh, cũng chẳng thấy các pháp văn tự tướng mạo vì chẳng thọ chẳng trước vậy cũng chẳng thấy các pháp chướng ngại cái triền cũng chẳng chướng ngại cái triền.

Bồ Tát tư duy vô lượng cảnh giới rời lìa tâm thức hai pháp thì gọi là tríchẳng kêu là thức .

Như hư không có tâm ý thức, cũng vậy Bồ Tát rời lìa tâm ý thức biết các pháp tánh bình Ðẳngvới hư không trí hành vôngại vì qúa các chướng ngại vậy . Ðây gọi là Bồ Tát hành trí bình Ðẳng với hư không .

Nầy Hư Không Tạng ! thế nào là Bồ Tát thành tựu niệm phật chẳng rời lìa như như Ðược Ðức Như Lai hứa khả?

Bồ Tát hoặc ở a lan nhã, hoặc ở dưới cây,hoặc ở rừng hoang vắng, hoặc ở chỗ lộ thiên, vì Ðã Ðược Ðịnh lực nên hay nhiếp tâm chẳng trụ trước các cảnh duyên, do tâm chẳng tán loạn nên khéo nhiếp sở niệm,dùng hành tướng qúan Phật ba mươi hai tướng tám mươi tùy hảo trang nghiêm nơi thân,quán lấy mỗi mỗi tướng hảo Ðể thành tựu thân của mình . Tâm hướng về bực nhất thiết trí, nơi thân Như Lai ghi nhớ vòng lưới quang minh Ðược phóng ra .Bồ Tát do Ðược giải hi vọng nên quán thân Như Lai Ðầy một do tuần, hoặc hai ba bốn năm do tuần, hoặc mười Ðến trăm do tuần,hoặc qúa trăm do tuần . Bồ Tát do Ðược giải hi vọng nên qúan Phật ngồi Ðạo tràng,hoặc thấy chuyển pháp luân,hoặc thấy hiện các thứ oai nghi thuyết pháp giáo hóa Ðiều phục chúng sanh, hoặc thấy Ðức Như Lai nơi một thế giới làm phật sự, hoặc hai ba bốn Ðến mười thế giới làm phật sự,hoặc hai ba bốn Ðến mười thế giới làm phật sự hoặc trăm ngàn Ðến nơi giải hi vọng nên quán tự thấy tùy ý: hoă.c thấy mình nghe pháp cúng dường chư PhậtThế Tôn,nơi các oai nghi khác Ðều tự thấy tùy ý tự tại .

Bồ Tat quán sắc thân Như Lai như vậy rồi ghi nhớ Phật công Ðức: hoặc quán tịnh giới, quán chánh Ðịnh,quán chánh huệ, quán chánh giải thoát và giải thoát tri kiến, hoặc quán lực vô sở úy bất cộng pháp, hoặc quán bổn hành của Bồ Tát hoặc quán thành tựu Phật Ðịa,

Bồ Tát khắp ghi nhớ Như Lai thành tựu công Ðức rồi ghi nhớ Như Lai nghiệp có tướng mạo gì,tạo nghiệp thế nào, là thân tạo hay khẩu tạo, ý tạo,là oai nghi tạo ư, là thấy Ðược hay chẳng thấy Ðược ư,là nói Ðược hay chẳng nói Ðược ư,tạo tại nước nào,bao nhiêu loại thân hình tạo ư .Bồ Tát ghi nhớ Như Laithành tựu thắng nghiệp chẳng thể nghĩ bàn các thiện căn rồi quán tưởng Như Lai pháp: Chư Phật Thế Tôn do phápthân nên gọi là Như Lai chớ chẳng do sắc thân. Bồ Tát chẳng thấy sắc là Như Lai,chẳng thấy tướng là Như Lai, chẳng thấy chủng tánh là Như Lai,chẳng thấy ấm giới nhập là Như Lai, chẳng thấy oai nghi là Như Lai,chẳng thấy Ðời qúa khứ vị lai hiện tại là Như Lai,chẳng thấy nhơn cũng chẳng thấy duyên là Như Lai,chẳng thấy sở dĩ làNhư Lai, chẳng thấy hòa hiệp là Như Lai,chẳng thấy hữu là Như Lai, chẳng thấy vô là Như Lai,chẳng thấy thành tựu là Như Lai,chẳng thấy bại hoại là Như Lai,chẳng thấy kia là có Như Lai chẳng thấy Ðây là có Như Lai chẳng thấy Như Lai ở chỗ nào,, chẳng thấy Như Lai chẳng cậy dựa Như Lai, chẳng phân biệt Như Lai, chẳng có Ðược Như Lai.

Như hư không không có tên ấm giới nhập nhưng chẳng phải chẳng lợi ích chúng sanh,chư Phật Thế Tôn không có tên ấm giới nhập mà thường lợi ích các chúng sanh .Ðây là Bồ Tát chẳng rời lìa như như niệm Phật Ðược Như Lai hứa khả .

Nầy Hư Không Tạng! Thế nào là Bồ Tát chẳng rời như như niệm pháp Ðược Như Lai hứa khả?

Các pháp Ðược Bồ Tát niệm là Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc,Ngũ căn, Ngũ lực,Thất giác phần, Bát thánh Ðạo phần,Tam giải thóat môn, Tứ thánh Ðế thậm thâm,Thập nhị nhơn duyên thậm thâm,Lục Ba La mật,pháp tạng mà Bồ Tát phải học, bất thối chuyển luân và tịnh ba cảnh . Ðây là pháp mà Bồ Tát phải niệm .

Phải niệm thế nào?

Bồ Tát niệm xả,niệm muốn rời lìa, niệm diệt mất niệm không lai không khứ,niệm không ổ hang,niệm không có tự tánh,niệm xuất thế gian,niệm hiểu suốt,niệm tận,niệm vô sanh,niệm vô thủ,niệm vô lậu,niệm vô vi,niệm niết bàn không có tự tánh .

Bồ Tát nghĩ rằng ở trong các pháp còn có pháp tưởng, tại sao,vì có tưởng thì còn có Ðộng niệm,vì có Ðộng niệm thì còn Ðiên Ðảo,vì còn Ðiên Ðảo thì không có niệm pháp .Nếu rời lìa niệm pháp và phi pháp hai tưởng ấy thì biết các pháp là vô sanh. vì Ðã Ðoạn dứt pháp tưởng nên Ðược vô sanh nhẫn Ðược vô sở Ðắc,vì là vô sở hữu vậy .Ðây là Bồ Tát chẳng rời như như niệm pháp Ðược Như Lai hứa khả .

Nầy Hư Không Tạng ! Thế nào là Bồ Tát chẳng rời lìa như như niệm Tăng Ðược Như Lai hứa khả ?

Tăng là bốn Ðôi támbọn trong Tăng,hoặc là A La Hán hướng A La Hán qủa,hoặc là A Na Hàmhướng A Na Hàm qủa,hoặc Tư Ðà Hàm hướng Tư Ðà Hàm qủa, hoặc Tu Ðà Hoàn hướng Tu Ða Hoàn qủa,Ðây là Thanh Văn Tăng .

Lại còn có Tăng là Bồ Tát Ðược bất thối chuyển,Ðược quyết Ðịnh nhẫn thượng thánh chánh vị,Ðã rời lìa các tướng ỷ thị chấp trước và hí luận, kế thứ Ðược Như Lai công Ðức vô gián .Bồ Tát ấy nghĩ rằng chúng Ðại Bồ Tát như vậy Ðáng cúng dường tán thán chắp tay hầu hạ hữu nhiễu lễ kính,Ðây là phước Ðiền lành tốt, là Ðệ nhứt Tăng nhập vào sốThánh chúng, nhửng sự việc mà Tăng phải làm Ðều Ðã hoàn thành xong . Bồ Tát ấ niệm Tăng thường thân cận Bồ Tát Tăng mà chẳng thân cận Thanh Văn Tăng . Bồ Tát ấy dầu niệm Tăng mà chẳng lấy Tăng số,chẳng lấy có số biết Tăng Ðây là vô vi niệm, vô hành niệm, vô biến dị niệm,vô sanh niệm vô diệt niệm .Khởi niệm như vậy chẳng sanh tâm hành cảnh giới . Ðây là Bồ Tát chẳng lìa như như niệm Tăng Ðược Nhu Lai hứa khả vậy .

Nầy Hư Không Tạng ! thế nào là Bồ tát chẳng rời lìa như như niệm xả Ðược Như Lai hứa khả?

Xà ấy là xả của cải xả thiện pháp, xả thân, xả mạng, xả tất cả tà pháp tà Ðạo . Còn có xả chẳng lấy tất cả pháp, tại sao ? Vì nếu có thủ thì không có xả . Nếu chẳng thủ lấy thì gọi là cứu cánh xả . Trong cứu cánh xả thì kông có cầu, không cầu thì không mong báo Ðáp . Không mong báo thì gọi là chơn thiệt xả .

Nếu Bồ Tát hành kiên cố xả như vậy, tùy nơi xả mà phát nguyện . Nếu lúc xả và lúc phát nguyện chẳng thấy Bồ Ðề và Phật pháp mà chuyên niệm xả, nhớ chư Bồ Tát quá khứ lúc hành Ðạo Bồ Tát hành xả thế nào, nay ta hành xả thế nào, có phải là chẳng bằng mà bị người trí chê chăng . Và Bồ Tát có thể xả tất cả . Xả rồi suy gẫm rằng: Trong sự xả ấy, ai là người xả, xả những vật gì, ai ghi nhớ xả ấy . Suy gẫm như vậy rồi thì Ðều trọn vô sở Ðắc, chẳng thấy có người xả, vật xả và kẻ ghi nhớ . Ðây là Bồ Tát chẳng lìa như như niệm xả Ðược Phật hứa khả .

Nầy Hư Không Tạng ! Thế nào là Bồ Tát chẳng rời lìa như như niệm giới Ðược Như Lai hứa khả ?

Bồ Tát trì giới Ðến chỗ giải thoát oai nghi hạnh thành tựu, nhẫn Ðến giới vi tế sợ như kim cương, thường tu tịnh mạng khéo hộ trì giới . Bồ Tát tự niệm giới nhiếp thân khẩu là vô tác tướng mà cẩn thận phụng hành tu thắng chánh mạng, nơi Nhứt thiết trí tâm trọn chẳng phế bỏ, thuần chí bất Ðộng cũng trọn chẳng bỏ Ðại từ Ðại bi nhiếp thủ giáo hối chúng sanh phá giới . Thường tự nghĩ thà bỏ thân mạng chớ chẳng cầu các thừa khác . Ðây gọi là giới . Bồ Tát thường niệm thắng giới, giới không có vết không có khuyết, giới chẳng hoang uế, giới chẳng mong cầu, giới chẳng ô nhiễm, giới không Ðục nhơ, giới mà người trí khen trọng, Bồ Tát niệm những giới như vậy, chẳng cậy trì giới, chẳng chê phá giới, chẳng khoe mình tốt, chẳng khi người lỗi, Bồ Tát trọn chẳng xả giới, chẳng y dựa giới cũng chẳng trụ nơi giới . Dầu bỏ tất cả các sự ỷ cậy trụ trước mà thật hành công hạnh lành tốt nơi sắc tướng . Ðây là Bồ Tát chẳng lìa như như niệm giới Ðược Như Lai hứa khả .

Nầy Hư Không Tạng ! Thế nào la Bồ Tát chẳng rời lìa như như niệm thiên dược Như Lai hứa khả ?

Niệm thiên là hoặc niệm Dục giới thiên hoặc niệm Sắc giới thiên, hoặc niệm Vô sắc giới thiên.

Niệm Dục giới thiên vì là quả báo của trì giới, nơi ấy hưởng thọ sắc, thanh, hương, vị, xúc, thích ý, do thiên ngũ dục mà dạo chơi vui vẻ, thiên y phục, thiên ẩm thực Ðều tùy ý Ðầy Ðủ, một bề hưởng thọ sự vui thương yêu mừng rỡ thỏa ý . Với sự việc trên, Bồ Tát nghĩ rằng tất cả những sự hưng thạnh ấy rồi sẽ Ðều suy tàn diệt mất, hàng chư Thiên ấy cũng sẽ vô thường biến Ðổi do vì họ phóng dật nên chẳng tu tạo thiện căn, thiện nghiệp Ðã có từ trước nay Ðều lần lần sẽ hết . Dầu hiện nay họ Ðược sanh ở cõi trời nhưng chưa thoát khỏi phần Ðịa ngục, ngạ quỷ, súc sanh . Suy nghĩ như vậy rồi, Bồ Tát chẳng hy vọng sanh về cõi Trời Dục giới, duy trừ cung Trời Ðâu Suất . Trong cung Trời Ðâu Suất có bực nhứt sanh bổ xứ Bồ Tát nơi tất cả công hạnh Bồ Tát Ðã Ðến cứu cánh, tất cả các Ðịa tất cả thần thông tất cả các Ðịnh tất cả Ðà la ni tất cả biện tài tất cả sự việc Bồ Tát tất cả phương tiện Ðều Ðã cứu cánh . Chỉ do ghi nhớ các công Ðức như vậy nên với cung Trời Ðâu Suất lòng Bồ Tát ấy sanh hân ngưỡng, nếu muốn sanh về cõi trời thì nên sanh trong cõi Trời Ðâu Suất tự nghĩ rằng lúc nào tôi sẽ Ðược thân trời như vậy .

Bồ Tát lại niệm chư thiên cõi Sắc, Ðây là quả báo của các thiền các vô lượng tâm . Sanh về cõi Sắc rồi thì vượt quá khổ họa dục nhiễm của cõi Dục, nhứt tâm ở trong thiền dùng hỉ làm thực, một bề biết là thọ báo vui Ðệ nhứt . Bồ Tát ấy suy nghĩ rằng chư Thiên cõi Sắc hưởng thọ chút ít thiền vị dùng làm hoan hỉ, vô thường mà quan niệm thường, nơi khổ quan niệm vui, nơi vô ngã quan niệm ngã, nơi không phải Niết bàn mà quan niệm là Niết bàn . Chư Thiên cõi Sắc cũng có vô thường biến Ðổi , chưa thoát khỏi phần Ðịa ngục ngạ quỷ súc sanh . Suy nghĩ như vậy rồi, Bồ Tát ấy chẳng nguyện sanh về cõi Sắc, duy trừ Tịnh Cư Thiên chính nơi trời ấy nhập Niết bàn chẳng trở lại sanh trong cõi Dục nữa . Bồ Tát nghĩ rằng Ðây là chư Thiên thanh tịnh Ðã thoát khỏi lưu chuyển sanh tử trong năm loài, do Ðây mà Bồ Tát ấy sanh lòng kính trọng Trời Tịnh Cư nhưng chẳng nguyện cầu sanh về cõi trời ấy.

Bồ Tát lại niệm chư Thiên cõi Vô Sắc thọ quả báo của Vô Sắc Ðịnh Ðã quá Dục giới và Sắc giới, Trời Vô Sắc nầy tâm ở nơi tịch Ðịnh . Bồ Tát ấy nghĩ rằng hàng chư Thiên cõi Vô Sắc nầy dầu thấy Phật nghe Pháp và cúng dường Răng mà chư Thiên Vô Sắc chẳng biết cầu pháp ra khỏi cõi Vô Sác, dầu trụ Ðược lâu nhưng khi thời gian mãn rồi cũng vẫn biến Ðổi hoại diệt chưa thoát khỏi phần Ðịa ngục ngạ quỷ súc sanh, do Ðây mà Bồ Tát ấy chẳng nguyện sanh về Trời Vô Sắc mà chỉ quan niệm ta sẽ làm bực trời trong các trời là bực Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri Bồ Tát ấy dầu niệm chư Thiên mà chẳng y dựa các cõi Trời Dục, Sắc, Vô Sắc, Ðối với chúng sanh trong ba cõi ấy phát khởi tâm Ðại bi cứu Ðộ họ ra khỏi sanh tử lưu chuyển trong năm loài . – Ðây là Bồ Tát chẳng rời như như niệm thiên Ðược Như Lai hứa khả vậy.

Lại nầy Hư Không Tạng ! Thế nào là Bồ Tát hành các pháp bình Ðẳng như Niết bàn ?

Bồ Tát biết nhập các pháp bình Ðẳng như Niết bàn, thấy tất cả chúng sanh tánh Ðồng Niết Bàn, biết ngưòi Ðã nhập Niết bàn không có ấm giới nhập . Bồ Tát như vậy thấy chúng sanh tánh Ðồng Niết bàn quá các ấm giới nhập, thấy như bóng trong gương, như cảnh trơng mộng không có sanh tử mà hiện sanh tử . Phàm phu chúng sanh nhơn nơi kiết sử phiền não gây tạo các nghiệp, tạo phiền não nghiệp rồi yhọ vô lượng khổ baó . Bồ Tát do sức Bát Nhã Ba la mật nên khéo quán kiết sử Ðoạn dứt nó khiến nó chẳng sanh, cũng chẳng còn nhơn vì kiết sử mà tạo nghiệp Ðể thọ khổ báo Ðến Ðược nơi Niết bàn bình Ðẳng gọi Ðó là vô vi siêu quá tất cả toán số trí Ðạo . Vì chẳng bỏ bổn nguyện nên du hí Ðại từ, Ðã Ðến huệ phương phương tiện cứu cánh, Ðã nhập Phật thần thông lực, Ðã vó thể khéo biết phân biệt các tưởng, tự mình Ðược Ðộ hóa Ðộ kẻ chưa Ðược Ðộ, tự mình Ðã giải thoát rồi giải thoát cho người chưa Ðược giải thoát, tự mình Ðã Ðược an làm an cho người chưa Ðược an, tự mình Ðược Niết bàn làm cho người chưa Ðược Niết bàn khiến họ Ðược Niết bàn. Với Niết bàn và sanh tử không quan niệm có hai, Ðây là Bồ Tát hành các pháp bình Ðẳng như Niết bàn vậy.

Nầy Hư Không Tạng ! Thế nào là Bồ Tát khéo phân biệt hành tướng ?

Bồ Tát chuyên cần tinh tiến cầu pháp thắng thiện, nơi pháp môn thậm thâm tâm nhập suy lường thanh tịnh thông thạo rộng lớn huệ sáng Ðược môn Ðại trí minh . Dùng sức Ðại trí minh môn ấy biết rõ tâm hành cảnh giới của tất cả chúng sanh, tổng nói mỗi chúng sanh có tám vạn bốn ngàn tâm hành, tất cả Ðều có thể rõ biết . Ðó là tâm hành tham dục có hai vạn một ngàn, tâm hành sân hận có hai vạn một ngàn, tâm hành ngu si có hai vạn một ngàn, tâm hành Ðẳng phần có hai vạn một ngàn, cộng là tám vạn bốn ngàn tâm hành, mỗi chúng sanh Ðều có những tâm hành ấy, nếu phân biệt nói rộng thì có Ðến vô lượng tâm hành . Trong mỗi hành tướng môn ấy biết có tám vạn bốn ngàn căn môn . Trong mỗi căn môn ấy biết có tám vạn bốn ngàn những tri giải sai biệt . Bồ Tát biết hết các hành tướng các căn môn các tri giải tướng sai biệt, biết các tướng nên Ðược tu tập .

Thế nào là biết tướng sai biệt ?

Bồ Tát biết các hành các căn các giải ấy hoặc là tướng tham dục, là tướng sân hận, là tướng ngu si, là tướng Ðẳng phần, là tướng tăng, là tướng giảm, là tướng trụ, là tướng Ðạt . Ðây gọi là biết tướng sai biệt.

Thế nào là biết tướng nên Ðược tu tập ?

Bồ Tát biết các hành các căn các giải ấy là tướng vô thường, là tướng khổ, là tướng vô ngã là tướng không, là tướng tịch diệt, là tướng ly, là tướng như thiệt, là tướng Niết bàn, là tướng tướng tự không, là tướng tướng tự ly . Nếu có thể biết các hành các căn các giải như vậy . Như -Đức Như Lai thành tựu chư hành vô chướng ngại trí biết rõ tất cả chúng sanh các hành các căn các giải tướng sai biệt, Bồ Tát cũng kế thứ trí Như Lai biết rõ mà chẳng bỏ nên Bồ Tát sở hành giáo hóa chúng sanh không có mỏi mệt . Ðây gọi là Bồ Tát khéo phân biệt hành tướng vậy.

Nầy Hư Không Tạng ! Thế nào là Bồ Tát thọ trì tạng pháp bửu của chư Phật Như Lai ?

Như Lai pháp bửu tạng là vô tận cũng là vô lượng Ðến tất cả chỗ làm vui Ðẹp tất cả chúng sanh .

Như chúng sanh các hành các căn các giải số Ðến vô lượng a tăng kỳ bất khả tư nghị bất khả xưng bất khả lượng, chư Phật Như Lai pháp bửu tạng vô lượng a tăng kỳ bất khả tư nghị bất khả xưng bất khả lượng cũng như vậy.

Văn tự pháp bửu tạng của Phật, giả sử tất cả chúng sanh Ðồng như A Nan trong một kiếp Ðến trăm kiếp cũng chẳng thể thọ trì Ðọc tụng thông thuộc các nghĩa Ðược . Tai sao, vì Phật pháp bửu tạng chỉ có một nghĩa, Ðó là nghĩa ly dục, nghĩa tịch diệt, nghĩa Niết bàn.

Nếu Bồ Tát nghe Như Lai Pháp bửu tạng rồi tùy khả năng Ðược thọ rồi thọ trì Ðọc tụng thông thạo, khéo thuận tốt chánh quán rồi như sở thọ mà hành . Bồ Tát nhập vào pháp tạng môn kiên trì suy gẫm chẳng y dựa tất cả tướng hành thì Ðược Ðà la ni môn tam muội môn . Khi Ðược Ðà la ni môn tam muội môn rồi thì có thể thọ trì văn tự và nghĩa pháp bửu tạng của một Như Lai, hoặc của hai Như Lai, hoặc của ba bốn Ðến mười Như Lai, hoặc của trăm, của ngàn vạn cho Ðến vô lượng vô biên a tăng kỳ bất khả tư nghị bất khả xưng bất khả lượng chư Như Lai . Nơi pháp bửu tạng của tất cả chư Phật, Bồ Tát ấy tâm chẳng tán loạn thọ trì Ðọc tụng thông thạo văn tự và nghĩa rộng vì mọi người mà giải nói . Bồ Tát ấy y nghĩa chẳng y văn, tịnh ý thành tựu pháp Ðược nghe mà diễn nói nhẫn Ðến chẳng sai sót một câu văn nghĩa, có thể tịnh môn biện tài khéo hay thuyết pháp vui Ðẹp lòng Ðại chúng, Ðược chư Phật khen ngợi cũng hay hàng phục các ma ngoại Ðạo và cung kính cúng dường Tam Bửu, nhẫn Ðến chẳng thấy có một pháp khác với pháp tánh, chẳng hư hoại bổn tế, chẳng Ðộng như như pháp tánh Ðược giác ngộ của Như Lai, vì biết tất cả pháp tánh như là sở giác của Như Lai, nhẫn Ðến chẳng thấy có một pháp nào là chẳng nhập vào Phật pháp . Taị sao, vì Như Lai biết tất cả pháp tánh như ảo huyễn vì không có thành tựu vậy, biết tất cả pháp tánh như dã mã vì vô sở thủ vậy, biết tất cả pháp tánh như tượng trong gương vì chẳng Ðến kia vậy, biết tất cả pháp tánh như mộng vì chẳng chơn thiệt vậy, biết tất cả pháp tánh như vang vì theo duyên mà khởi vậy, biết tất cả pháp tánh là rỗng không vì hư giả không thiệt vậy, biết tất cả pháp tánh vô tướng vì vô phân biệt vậy, biết tất cả pháp tánh vô nguyện vì không có phát Ðộng vậy.

-Đức Như Lai như thiệt biết tất cả pháp tánh là tướng như vậy . Bồ Tát biết tất cả pháp tánh không có tánh có thể thọ trì pháp bửu tạng của Phật nhẫn Ðến tất cả chẳng phải niệm nhớ chẳng phải chẳng niệm nhớ . Ðây là Bồ Tát thọ trì chư Phật pháp bửu tạng .

Nầy Hư Không Tạng ! Thế nào là Bồ Tát biết các chúng sanh từ vô thỉ Ðến nay thường thanh tịnh mà giáo hóa chúng sanh ?

Bồ Tát vì giáo hóa tất cả chúng sanh nên lúc tu Ðại từ Ðại bi suy nghĩ rằng: những gì là chúng sanh ? Các chúng sanh ấy chỉ là danh tự giả là Ðiên Ðảo hư giả mà gọi là chúng sanh thôi . Tất cả chúng sanh bổn tế thanh tịnh cứu cánh vô sanh vô khởi, chỉ nhơn hư vọng ngu si mà tạo gây các thứ nghiệp, gây tạo nghiệp rồi thọ vô lượng ưu bi khổ não . Như có người trong giấc mộng cướp trộm tài vật của người bị nhà vua bắt trị phạt khốn khổ . Chiêm bao thấy mình làm kẻ giặc cướp hư vọng nhớ tưởng chịu các khổ não tự nghĩ rằng lúc nào tôi sẽ thoát Ðược khổ não nầy . Người ấy ở trong giấc mộng thiệt ra không có sự việc gì không có hay giác tri . Tất cả phàm phu và tất cả pháp Ðều cũng như mộng không có giác tri, vì bị Ðiên Ðảo che chướng mà phải thọ lấy vô lượng vọng tưởng ưu bi khổ não cũng như vậy . Bồ Tát suy nghĩ rằng: Các chúng sanh ấy tôi phải khiến họ như thiệt giác tri các pháp cho họ thoát khỏi vọng tưởng khổ não, ở trong tất cả chúng sanh cũng chẳng thấy chúng sanh tánh nhưng vẫn chẳng bỏ Ðại bi thường giáo hóa chúng sanh . Ðây là Bồ Tát phân biệt chúng sanh từ trước Ðến nay thường thanh tịnh mà giáo hóa họ.

Nầy Hư Không Tạng ! Thế nào là Bồ Tát khéo tùy thuận phát khởi công hạnh thành tựu Phật pháp ?

Bồ Tát nghe Phật pháp tối thắng thậm thâm vi diệu ở trong thế gian rồi phát khởi Ðại nguyện tinh tiến rằng: Tôi phải thành tựu Phật pháp tối thắng thậm thâm vi diệu ở trong thế gian . Khéo tư duy phân biệt như vầy: Là những pháp gì tương ưng với những pháp gì ? Là những pháp gì biết những pháp gì ? Bồ Tát lại suy nghĩ rằng: Không có pháp gì tương ưng với pháp cũng không có pháp gì chẳng tương ưng với pháp, không có pháp biết pháp cũng không có pháp chẳng biết pháp, vì các pháp tánh ấy là Ðộn tánh là vô tánh . Các pháp ấy Ðều từ nhơn duyên sanh không có Ðịnh chủ mà có thể tùy ý trang nghiêm có các thứ tướng quả báo . Vì các pháp vô tánh nên bố thí là trang nghiêm tướng Ðại phú . Bố thí Ðược Ðại phú vì quả chẳng lìa nhơn vậy . Bố thí chẳng biết Ðại phú và Ðại phú cũng chẳng biết Ðược bố thí . Trì giới là trang nghiêm tướng sanh Thiên, trì giới Ðược sanh Tiên vì quả chẳng lìa nhơn vậy. Ða văn là trang nghiêm tướng trí huệ, Ða văn Ðược trí huệ vì quả chẳng lìa nhơn vậy . Tư duy là trang nghiêm tướng Ðoạn dứt kiết sử, tư duy thì Ðược Ðoạn dứt kiết sử vì quả chẳng lìa nhơn vậy . Tư duy chẳng biết Ðược Ðoạn kiết và Ðoạn kiết cũng chẳng biết Ðược tư duy.

Bồ Tát nhớ niệm các pháp vô sanh có thể trang nghiêm tướng như vậy nên bố thí rồi hồi hướng Nhứt thiết trí thành tựu hạnh Ðàn Ba la mật, Bồ Tát Ðàn Ba la mật ấy có thể Ðầy Ðủ Ðược Phật pháp.

Bồ Tát trì giới hồi hướng Nhứt thiết trí thành tựu hạnh Thi la Ba la mật . Bồ Tát Thi la Ba la mật có thể Ðầy Ðủ Ðược Phật pháp . Bồ Tát tu nhẩn nhục hồi hướng nhứt thiết trí thành tựu hạnh Sằn Ðề Ba La mật . Bồ Tát Sằn Ðề Ba La mật ấy có thể Ðầy Ðủ Ðược Phật pháp .

Bồ Tát tu tinh tiến hồi hướng Nhứt thiết trí`thành tựu hạnhTỳ lê gia Ba la mật.Bồ Tát Tỳ lê gia Ba la mật ấy có thể Ðầy Ðủ Ðược Phật pháp.

Bồ Tát nhập thiền Ðịnh hồi hướng Nhứt thiết trí thành tựu hạnh Thiền Ba la mật.Bồ Tát Thiền Bala mật ấy có thể Ðầy Ðủ Ðược Phật pháp .

Bồ Tát thanh tịnh Bat Nhã hồi hướng Nhứt thiết trí thành tựu hạnh Bát Nhã Ba la mật . Bồ Tát Bát Nhã Ba la mật ấ có thể Ðầ Ðủ Ðược Phật pháp.Lúc Bồ Tát khéo tùy thuận phát khởi công hạnh như vậy chẳng thấy có một pháp nào không có nhơn không có duyen mà sanh, Bồ Tát củng chẳng trụ trưóc nơi nhơn duyên, tự khéo tùy thuận nhập vào tất cả pháp tánh.

Như ngã vô sanh vô khởi,tất cả pháp vô sanh vô khởi củng như vậy.

Như ngã rỗng không,tất cả pháp rỗng không cũng như vậy.

Như ngã ly,tất cả các pháply cũng như vậy.

Bồ Tát biết tất cả các pháp nhập vào bình Ðẳng như tánh,chẳng phải tạo tác chẳng phải chẳng tạo tác . Ðây là Bồ Tát khéo thuận phát hạnh thành tựu Phật pháp vậy .

Nầy Hư Không Tạng ! thế nào là Bồ Tát bất thối thần thông nơi các Phật pháp Ðều Ðược tự tại ?

Bồ Tát giới thân chơn tịnh tâm Ðịnh chẳng Ðộng Ðược Ðại trí quang minh, Ðã thành tựu tư lương phước Ðức và trí huệ, Ðã Ðược cứu cánh các Ba la mật, Ðã thành tựu tứ nhiếp pháp, Ðã tu bốn phạm hạnh, Ðã tu dục tiến niệm Ðịnh bốn như ý túc . Vì khéo tu tứ thần túc nên dược ngũ thần thông . Vì Bồ Tát bổn nghiệp thanh tịnh, vì siêng tinh tiến chẳng bỏ phế, vì thường chẳng tán loạn hành, vì khéo phục các kiết sử, vì lìa tâm niệm Thanh Văn Bích Chi Phật, vì thọ trì phương tiện, vì duyên Ðến các pháp bực trên, vì vô ngã vô y hành, do Ðây mà Bồ Tát chẳng thối thần thông, nên Bồ Tát rốt ráo biết các pháp bất thối, biết các pháp cùng pháp tánh bình Ðẳng không biến Ðổi sai khác, như hư không không có biến Ðổi . Ðây là Bồ Tát bất thối các thần thông ở nơi các Phật pháp Ðều Ðược tự tại vậy .

Nầy Hư Không Tạng ! Thế nào là Bồ Tát nhập pháp môn thậm thâm mà tất cả hàng Thanh văn và hàng Bích Chi Phật chẳng nhập Ðược ?

Bồ Tát nhập pháp thậm thâm nhơn duyên, biết pháp nghịch và thuận nhơn duyên, khéo biết xuất, biế ly, biết sanh, biết diệt, biết tập, biết tận . Khéo biết chúng sanh do nhơn duyên gì mà thọ cấu, mà ly cấu, mà xả cấu Ðược tịnh, nhẫn Ðến chẳng thấy có một pháp nào có cấu có tịnh .Biết tất cả pháp tánh tướng thanh tịnh, cũng chẳng Ðược tướng pháp thanh tịnh, vì ngã thậm thâm vậy .

Bồ Tát biết tất cả pháp thậm thâm, vì ngã ly vậy .

Bồ Tát biết tất cả pháp ly vì ngã không có hai vậy .

Bồ Tát biết tất cả pháp không có hai vì nhãn và sắc cả hai Ðều ly vậy . Nhẫn Ðến ý pháp cũng ly thì nhập Ðệ nhứt nghĩa, do thế Ðế nên giả danh là các pháp, cũng chẳng chấp trước chơn Ðế và thế Ðế . Ðây là Bồ Tát nhập pháp môn thậm thâm mà hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật chẳng nhập Ðược.

Nầy Hư Không Tạng ! Thế nào là Bồ Tát nơi thập nhị nhơn duyên khéo Ðược thắng trí phương tiện rời lìa các kiến chấp nhị biên ?

Bồ Tát biết tất cả duyên sanh pháp nhiếp thuộc về cái khác: Thuộc nhơn, thuộc duyên, thuộc hòa hiệp và thuộc sở do . Các pháp ấy Ðều từ cảnh giới duyên sanh Ðều riêng có sở nhơn Ðều riêng có sở y, các pháp mỗi mỗi Ðều tự minh không có tâm không có tướng sai khác .

Như bên ngoài các cỏ cây lùm rừng Ðều không có các căn không có ghi nhớ không có hay biết, vì y dựa các Ðại chủng bèn Ðược tăng trưởng, mỗi mỗi Ðều không có tướng sai khác . Các pháp bên trong cũng như vậy, y dựa gây tạo các nghiệp tăng trưởng tất cả các pháp, không có các tướng ngã nhơn chúng sanhthọ mạng, cũng không có tác giả thọ giả . Các pháp lúc sanh không có gì là năng sanh, lúc diệt không có gì là năng diệt .

Bồ Tát suy nghĩ rằng: các pháp duyên sanh ấy Ðều riêng không có tự tánh . Vì nó không có tự tánh nên cái khác chẳng sanh nó Ðược, sở nhơn cũng không có tự tánh và sở duyên cũng không có tự tánh . Không có tự tánh thì không có tha tánh . Nếu pháp không có tự tánh tha tánh thì không có sở sanh không có năng sanh, chưa sanh thì chẳng sanh Ðược, Ðã sanh cũng chẳng sanh . Nếu chưa sanh chẳng phải chưa sanh chẳng sanh ấy thì cứu cánh không có sở sanh không có năng sanh . Vì thế nên tất cả các pháp Ðều vô sanh vô khởi, chỉ do văn tự mà có giả gọi là từ nhơn duyên sanh mà thiệt thì vô sanh, cũng không Ðoạn không thường . Tai sao ? Vì nếu các pháp mà có tánh sanh thì sẽ có diệt thành Ðoạn kiến, còn nếu không diệt thì thành thường kiến . Vì rời lìa Ðoạn kiến và thường kiến nên biết tất cả các pháp Ðều không vô sanh . Ðây là Bồ Tát ở nơi thập nhị nhơn duyên khéo Ðược thắng trí phương tiện rời lìa kiến chấp nhị biên vậy .

Nầy Hư Không Tạng ! Thế nào là Bồ Tát Ðược ấn Như Lai ấn cho trí phương tiện như như vô phân biệt ?

Nơi pháp thậm thâm, Bồ Tát Ðược năng lực hiện tiền tri kiến rời tất cả dựa dính quá các hí luận Ðược vô chung vô thỉ Vô sanh Pháp nhẫn. Đức Như Lai biết rõ căn Bồ Tát Ðược thành tựu rồi liền lấy ấn Như Lai ấn cho, Ðó là thọ ký quyết Ðịnh Chánh Đẳng Giác. Ấn Như Lai ấy không có sai, không có lầm, không có chướng ngại, không có tranh, không có giành chẳng bị trở ngại, không ai bác Ðược không ai phế Ðược. Bồ Tát Ðược Như Lai ấn rồi thì nguyện hạnh thành tựu Ðược nước trí rưới vào Ðầu.

Bồ Tát Ðược các ấn như vậy ấn cho: Ðó là ấn cứu cánh vô sanh vô khởi, ấn không, ấn vô tướng, ấn vô nguyện, ấn ly nhiễm, ấn tịch diệt, ấn Niết bàn. Bồ Tát trí hành Ðược thành tựu chẳng hư hoại tánh như, chẳng biến Ðổi pháp giới, chẳng lìa bổn tế, ở trong các pháp chẳng thấy thượng trung hạ Ðen trắng v.v… sai khác. Bồ Tát cũng thấy tất cả chúng sanh Ðược ấn ấy ấn cho, Bồ Tát không có nhớ nghĩ phân biệt chẳng bỏ bổn Ðại thệ nguyện. Đây là Bồ Tát Ðược ấn Như Lai ấn cho Ðược trí phương tiện như như vô phân biệt vậy.

Nầy Hư Không Tạng ! Thế nào là Bồ Tát nhập môn pháp giới tánh thấy tất cả pháp tánh bình Ðẳng ?

Bồ Tát thấy các pháp giới không chỗ nào chẳng Ðến không lai không khứ, vô sanh vô diệt, vô tướng vô khởi, vô hí vô hành. Bồ Tát suy nghĩ rằng: các pháp ấy Ðều Ðồng pháp giới như pháp giới, là rời lìa dục giới vì lìa trần cấu vậy, là vô sanh giới vì vô tác vậy, là vô diệt giới vì không diệt tận vậy, là vô lai giới vì chẳng nhập vào căn môn vậy, là vô khứ giới vì không có chỗ Ðến vậy, là bất khả an giới vì không có hình chất vậy, là không có ổ hang giới vì không có y chỉ vậy, là chơn thiệt giới vì ba cảnh phần dứt hết vậy. Trong pháp giới ấy không có nhãn giới, không có sắc giới, không có nhãn thức giới, cho Ðến không có ý giới, không có pháp giới, không có ý thức giới. Như pháp giới tất cả pháp cũng như vậy. Vì thế nên gọi là tất cả pháp nhập vào pháp giới.

Bồ Tát ấy biết tất cả pháp nhập vào pháp giới, biết Ðịa giới cùng pháp giới không có hai không có khác, biết thủy giới hỏa giới phong giới cùng pháp giới không hai không khác.

Bồ Tát biết dục giới cùng pháp giới bình Ðẳng không hai không khác, biết sắc giới, vô sắc giới, hữu vi giới, vô vi giới cùng pháp giới bình Ðẳng không hai không khác. Bồ Tát biết không có tâm cảnh giới và giác như vậy. Đây là Bồ Tát nhập vào môn pháp giới tánh thấy tất cả pháp tánh bình Ðẳng vậy.

Nầy Hư Không Tạng ! Thế nào là Bồ Tát thuần chí dụ như kim cương tâm trụ bất Ðộng nơi Đại thừa nầy ?

Bồ Tát dùng trực tâm hành thành tựu tịnh thuần chí, dùng tinh tiến bất thối cứu cánh bất giảm, dùng Ðại từ vô ngại, dùng Ðại bi không mỏi, dùng phương tiện khắp Ðến Ðược thành tựu quán huệ chơn thiệt vô ngại, các pháp như vậy Ðều Ðược thành tựu. Bồ Tát thấy tất cả chúng sanh có cấu trược phàm ngu thô cứng cự nghịch chẳng thuận, do Ðây mà Bồ Tát giáo hóa tất cả chúng sanh chẳng bỏ rời tinh tiến. Bồ Tát thấy sinh tử có vô lượng vô biên lỗi họa ưu bi khổ não, vì vậy nên Bồ Tát chẳng thối bỏ trang nghiêm vị lai tế. Bồ Tát cũng hiểu vô lượng vô biên a tăng kỳ các Phật pháp. Bồ Tát vì thành tựu các Phật pháp khó tu tập khó thọ trì khó Ðầy Ðủ nên trồng các thiện căn Ðể có thể nhập vào vô lượng pháp bửu tạng của Như Lai.

Vì chúng sanh tánh vô lượng, vì pháp tánh vô lượng, vì hư không tánh vô lượng, vì thọ trì pháp bửu tạng của tất cả Như Lai, nên Bồ Tát chẳng bỏ tinh tiến nghe tất cả pháp không vô tướng vô nguyện, vô tác, vô sanh, vô khởi, hiểu rõ phân biệt quán hạnh thân chứng thành tựu Phật pháp chưa Ðược Ðủ, trọng chẳng có giữa Ðường, mà chứng nhập thiệt tế. Bồ Tát khéo nhập các thiền Ðịnh giải thoát tam muội, cũng chẳng nhàm lìa dục giới mà thị hiện thọ sanh trong cõi dục. Bồ Tát Ðã lìa các ấm giới nhập không hình không sắc không hành mà tùy thuận chúng sanh tánh rồi tùy ý thị hiện các loại thân hình Ðể thuyết pháp cho họ, chuyển pháp luân thị hiện Ðại Niết bàn, cũng chẳng bỏ hạnh Bồ Tát nhập vào pháp môn bất tư nghị như vậy. Bồ Tát biết tất cả pháp không có tánh tướng, chẳng Ðộng chẳng hư hoại chẳng tan, ở nơi Đại thừa này chẳng thối chuyển. Như kim cương bửu châu có thể soi xét tất cả châu báu khác, mà tất cả báu khác chẳng thể soi xét châu này Ðược. Cũng vậy, có thể dùng Thanh Văn thừa, Bích Chi Phật thừa Ðộ vô lượng vô biên chúng sanh khiến chứng nhập Niết bàn mà tự mình chẳng diệt Ðộ cũng chẳng thối cứu cánh Đại thừa. Đây là Bồ Tát thuần chí kiên cố như kim cương tâm vững trụ chẳng dao Ðộng nơi Đại thừa nầy vậy.

Nầy Hư Không Tạng ! Thế nào là Bồ Tát tự tịnh giới của mình như chư Phật giới ?

Bồ Tát biết tất cả pháp không có giới không có tác giới, Ðến tất cả nơi chỗ không có Ðến không có chẳng Ðến. Nếu Bồ Tát thấy pháp phát khởi lục tình Ðều biết là Phật pháp, cũng chẳng thấy phàm phu pháp và Phật pháp có khác. Bồ Tát nghĩ rằng tất cả pháp nầy Ðều là Phật pháp vì Phật pháp Ðến tất cả chỗ vậy. Tất cả pháp và Phật pháp chỉ có danh tự giả, cũng chẳng phải pháp chẳng phải phi pháp. Vì vậy nên chúng ta chẳng nên thủ trước. Do vì tự giới tịnh nên biết tất cả Phật giới tịnh, pháp ấy cùng Ðồng là bình Ðẳng. Nhãn giới là Phật giới cho Ðến ý giới là Phật giới. Ta chẳng nên phân biệt trong ấy có tôn có ti. Bồ Tát Ðến Nhứt thiết pháp bình Ðẳng giới như vậy. Đây là Bồ Tát tự tịnh giới của mình như chư Phật giới.

Nầy Hư Không Tạng ! Thế nào là Bồ Tát Ðược Ðà la ni trong không thất niệm ?

Bồ Tát Ðã Ðược thành tựu Ðà la ni hạnh, thế nào là Ðà la ni hạnh ? Đà la ni hạnh có ba mươi hai thứ:

Bồ Tát tu nơi pháp Ðã Ðược, vì Ðà la ni nên tu pháp nguyện, tu pháp tôn trọng, tu pháp hồi hướng, tu pháp kính ngưỡng, tu pháp ưa thích, tu cầu pháp không nhàm, tu pháp thân cận cúng dường bực Ða văn trí huệ, tu pháp Ðối với Hòa Thượng A Xà Lê không lòng kiêu mạn thường tôn trọng cung cấp hầu hạ, tu Ðúng theo pháp Ðược dạy bảo không hề chống trái, tu Ðối với người thuyết pháp tưởng như Phật không tìm chỗ dở, tu thọ trì chánh pháp khai thị giải thuyết, tu không hề lẫn tiếc pháp Ðã Ðược, tu không hy vọng mà làm pháp thí, tu cầu gốc rễ trí huệ, tu khéo thuận tư duy Ðúng pháp Ðược nghe, tu kiên cố thọ trì pháp Ðược nghe, tu với phạm hạnh không thôi nghỉ, tu thích xa lìa thật hành hạnh a lan nhã, tu tâm thường tịch tĩnh, tu siêng chánh niệm, tu thuận theo lục hòa kính, tu với các bực tôn trưởng không khinh mạn, tu tâm vô ngại ở trong tất cả chúng sanh, tu pháp duyên sanh Ðược tùy thuận nhẫn, tu tam giải thoát môn chánh quán lòng không kinh sợ, tu tứ thánh chủng hạnh mà chẳng kinh nghi, tu siêng thọ trì chánh pháp của chư Phật, tu vì chúng sanh mà hành Ðại từ, tu thọ trì chánh pháp chẳng tiếc thân mạng, tu Ðại trí hạnh chẳng sanh kiêu mạn, tu thường giáo hóa chúng sanh mà không nhàm mỏi. Đây là ba mươi hai pháp tu Ðà la ni hạnh của Bồ Tát vậy. Bồ Tát tu rồi Ðược môn Ðà la ni như vậy. Vì Ðược môn Ðà la ni ấy nên có thể tổng trì pháp Ðược nói của tất cả chư Phật chẳng quên chẳng mất.

Đà la ni ấy là với pháp Ðược nghe chẳng quên chẳng mất, dùng niệm mà nhớ, dùng ý phân biệt, dùng tinh tiến hay giác ngộ, nơi các văn tự Ðược không bờ mé, nơi các ngữ ngôn tùy theo các loài Ðều khéo hiểu rõ, ngôn từ biện thuyết không có trệ ngại. Với kinh bất liễu nghĩa khéo hay tiến vào, nơi kinh liễu nghĩa tiến vào cứu cánh, nơi thế tục Ðế có trí phân biệt, nơi Ðệ nhất nghĩa Ðế biết là không có ngôn thuyết, nơi các Ðế có trí phân biệt, nơi Tứ niệm xứ có trí chẳng quên, nơi Tứ chánh cần có trí vô hoại, nơi Tứ thần túc có trí du hí, nơi các căn môn có trí sai biệt, ở trong các lục Ðược trí vô thắng, nơi Thất giác phần có trí giác tất cả pháp như tánh, nơi Bát thánh Ðạo có trí không thối mất, ở trong pháp thiền Ðịnh Ðược tâm thiện trụ, ở trong pháp chánh Ðịnh huệ Ðược trí biến chí, nơi minh giải thoát Ðược trí tùy thuận, ở trong các biện tài Ðược trí thâm nhập, nơi các thần thông Ðược trí sanh khởi, nơi các Ba la mật Ðược trí phân biệt, nơi tứ nhiếp pháp Ðược pháp phương tiện, với chỗ tán thán pháp có trí dạy nghĩ rằng chẳng bằng, nơi nghĩa các kinh Ðược trí vô phân biệt, nơi các văn tự Ðược trí vô tận, nơi tất cả chúng sanh Ðược trí xứng Ðủ, tùy pháp học hiểu Ðược trí thuyết pháp, nơi tất cả văn tự Ðược trí biện sở nhơn, nơi tất cả cấu tịnh Ðược trí như thiệt thấu biết, nơi tất cả pháp Ðược trí sáng không chướng che. Đây là Ðà la ni ấy vậy.

Bồ Tát Ðược Ðà la ni bình Ðẳng tâm thì bỏ lìa ghét thương, kham nhận pháp vũ, dứt tất cả kiết sử nhiệt não, thuận các pháp trợ Ðạo, Ðây là Ðà la ni ấy vậy.

Bồ Tát do an trụ Ðà la ni ấy nên thường tu hành không lỗi. Đây là Bồ Tát Ðược Ðà la ni trong chẳng thất niệm vậy.

Nầy Hư Không Tạng ! Thế nào là Bồ Tát Ðược biện tài vô ngại Như Lai gia trì ?

Bồ Tát khéo tịnh thuần chí khéo thủ hộ giới tụ trừ hết gốc kiêu mạn, lìa quan niệm mình người, chư Phật Thế Tôn biết Bồ Tát như vậy là Ðại pháp khí nên khiến thọ trì chánh pháp, do nơi Phật thần lực cùng sức tự thiện căn nên Ðược biện tài lanh lẹ, Ðược biện tài mau chóng, Ðược biện tài vô ngại, Ðược biện tài không ngừng trệ, Ðược biện tài khéo nói, Ðược biện tài thậm thâm, Ðược biện tài các thanh âm Ðầy Ðủ, Ðược biện tài thiện trang nghiêm, Ðược biện tài không giảm khuyết, Ðược biện tài vô úy, Ðược biện tài kệ hay tán thán, Ðược biện tài nói khế kinh tốt, Ðược biện tài khéo nói thí dụ bổn duyên, Ðược biện tài không ai hơn không ai phá Ðược, Ðược biện tài phân biệt câu vô tận, Ðược biện tài viên mãn Ðầy Ðủ, Ðược biện tài oai Ðức không ai trái nghịch, Ðược biện tài thuyết pháp không luống uổng, Ðược biện tài dứt nghi cho Ðại chúng, Ðược biện tài Ðáp lời lẹ, Ðược biện tài phân biệt văn tự không sai lầm, Ðược biện tài vui Ðẹp Ðại chúng, Ðược biện tài phương tiện vấn Ðáp, Ðược biện tài dùng chánh pháp hàng phục tất cả ngoại Ðạo, Bồ Tát ấy Ðã thành tựu hai mươi bốn biện tài như vậy.

Bồ Tát tu hành hai mươi bốn nghiệp nhơn thì Ðược thành tựu hai mươi bốn biện tài ấy.

Những gì là hai mươi bốn nhơn ?

Vì chẳng trái nghịch lời dạy của Sư trưởng nên có thể Ðược biện tài lanh lẹ. Vì chẳng dua vạy nên có thể Ðược biện tài mau chóng. Vì bỏ lìa phiền não nên Ðược biện tài vô ngại. Vì không chấp ngã nên Ðược biện tài không trệ. Vì lìa lưỡng thiệt nên Ðược biện tài nói khéo. Vì nhập nhơn duyên pháp vô tế nên Ðược biện tài thậm thâm. Vì làm các việc bố thí nên Ðược biện tài Ðầy Ðủ âm thanh. Vì nghiêm sức tháp miếu Như Lai nên Ðược biện tài thiện trang nghiêm. Vì chẳng bỏ tâm Bồ Ðề nên Ðược biện tài không giảm khuyết. Vì khéo hộ trì giới tụ nên Ðược biện tài vô úy. Vì cúng thí những tràng phan lọng Ðẹp linh báu nên Ðược biện tài kệ hay tán thán. Vì cung kính cúng dường cấp thị chư tôn trưởng nên Ðược biện tài nói tốt tu Ða la. Vì từ xưa vun trồng tu tập vô lượng thiện căn nên Ðược biện tài khéo nói thí dụ bổn duyên. Vì chẳng khinh tiện chúng sanh ác Ðạo nên Ðược biện tài không ai hơn không ai phá Ðược. Vì cúng thí vô lượng bửu tạng nên Ðược biện tài phân biệt câu vô tận. Vì nói năng chơn thiệt không thô cộc nên Ðược biện tài tròn Ðủ. Vì lúc thuyết pháp không tranh cạnh nên Ðược biện tài oai Ðức không ai trái nghịch. Vì Ðức thuần tịnh thuận pháp luật hành nên Ðược biện tài thuyết pháp không luống uổng. Vì chẳng lẫn tiếc nơi pháp chẳng cậy ỷ nơi Ðức của mình nên Ðược biện tài hay dứt nghi co Ðại chúng. Vì lúc cầu pháp chẳng lấy oai bức người, thường có lòng cung kính nên Ðược biện tài ứng Ðối lẹ. Vì thường xét lỗi mình chẳng chê chỗ khuyết kém của người nên Ðược biện tài phân biệt văn tự không sai lầm. Vì bình Ðẳng nhuần ích cho chúng sanh chẳng mong báo Ðáp nên Ðược biện tài vui Ðẹp Ðại chúng. Vì thọ trì Đại thừa chẳng cầu tiểu thừa nên Ðược biện tài phương tiện vấn Ðáp. Vì chẳng chấp ngã kiến nhập vào tánh bình Ðẳng nên Ðược biện tài dùng chánh pháp hàng phục tất cả ngoại Ðạo. Đây là hai mươi bốn nhơn thành tựu các biện tài, khéo có thể tùy theo chỗ Ðáng Ðược nhận hiểu của các chúng sanh kia mà thuyết pháp không có sai lầm, những pháp Ðược học cũng chẳng thối thất. Đây là Bồ Tát Ðược biện tài vô ngại Như Lai gia trì vậy.

Nầy Hư Không Tạng ! Thế nào là Bồ Tát Ðược tự tại thị hiện thọ thân sanh tử ?

Bồ Tát thành tựu mười hai pháp thì Ðược tự tại thị hiện thọ thân sanh tử.

Vì thân cận bực chơn thiện tri thức vậy. Vì tiêu trừ ngã kiến vậy. Vì trọn nên giới thân vậy. Vì khéo biết nhập Ðịnh xuất Ðịnh vậy. Vì gồm tu trí huệ phương tiện vậy. Vì khéo biết thâm nhập các thần thông du hí vậy. Vì như thiệt quán biết các pháp vô sanh vô khởi vậy. Vì tịnh giống bổn nguyện vậy. Vì thường chẳng bỏ Ðại từ Ðại bi vậy. Vì biết tất cả pháp như huyễn hóa vậy. Vì biết các pháp như mộng tưởng vậy. Vì Ðược tất cả gia oai thần vậy.

Đây là Bồ Tát thành tựu mười hai pháp không có sanh mà thị hiện thọ sanh, không có khởi mà thị hiện phát khởi, thị hiện tất cả thân sanh tử. Nơi pháp hội của tất cả chư Phật thị hiện thân mình. Ở các Phật quốc Ðộ Ðều thị hiện thọ sanh mà thường chẳng Ðộng nơi chơn pháp thân. Đây là Bồ Tát Ðược tự tại thị hiện thọ sanh tử vậy.

Nầy Hư Không Tạng ! Thế nào là Bồ Tát phá các oán Ðịch trừ lìa bốn ma ?

Bồ Tát chuyên cần tu tập quán năm ấm như ảo huyễn thì Ðược lìa ma ngũ ấm. Vì quán các pháp tánh thanh tịnh nên lìa ma phiền não. Vì quán tất cả pháp theo duyên sanh tánh nó chẳng thành tựu nên lìa ma chết. Vì quán tất cả pháp Ðược duyên tạo thành là tướng vô thường bại hoại nên lìa thiên ma.

Vì Bồ Tát quán các pháp như vậy nên Ðược lìa bốn ma tiến Ðến Bồ Ðề trọn chẳng giải Ðãi. Bao nhiêu ma nghiệp chướng ngại Bồ Ðề, Bồ Tát Ðều xa lìa cả. Sao gọi là ma nghiệp ?

Có tâm niệm hướng Ðến Nhị thừa là ma nghiệp. Chẳng thủ hộ Bồ Ðề tâm là ma nghiệp. Với các chúng sanh có quan niệm sai khác là ma nghiệp. Nơi bố thí mong báo là ma nghiệp. Vì thọ sanh mà trì giới là ma nghiệp. Có sắc tưởng mà tu hành nhẫn nhục là ma nghiệp. Vì thế sự mà siêng tinh tiến là ma nghiệp. Nơi thiền Ðịnh có ý tưởng thích ưa là ma nghiệp. Nơi huệ sanh hí luận là ma nghiệp. Nhàm mỏi sanh tử là ma nghiệp. Tu các thiện căn mà chẳng hồi hướng Vô thượng Bồ Ðề là ma nghiệp. Chán ghét phiền não là ma nghiệp. Phạm tội phú tàng là ma nghiệp. Ganh ghét chư Bồ Tát là ma nghiệp. Phỉ báng chánh pháp là ma nghiệp. Chẳng thọ học chánh pháp là ma nghiệp. Chẳng biết báo ơn là ma nghiệp. Chẳng tiến cầu Ba la mật là ma nghiệp. Chẳng kính thuận chánh pháp là ma nghiệp. Lẫn tiếc nơi pháp là ma nghiệp. Vì lợi dưỡng mà thuyết pháp là ma nghiệp. Chẳng biết phương tiện mà hóa Ðộ chúng sanh là ma nghiệp. Bỏ tứ nhiếp pháp là ma nghiệp. Khinh hủy cấm giới là ma nghiệp. Ganh ghét người trì giới là ma nghiệp. Học hạnh Nhị thừa là ma nghiệp. Hi vọng chánh vị là ma nghiệp. Bỏ lìa Ðại từ mà quán vô sanh là ma nghiệp. Muốn chứng pháp vô vi là ma nghiệp. Nhàm lìa công Ðức hữu vi là ma nghiệp. Chẳng thương chúng sanh là ma nghiệp. Chẳng khiêm hạ bực tôn truởng là ma nghiệp. Tập làm lưỡng thiệt là ma nghiệp. Dua nịnh nhiều gian là ma nghiệp. Hiển bày tịnh hạnh của mình là ma nghiệp. Làm ác chẳng thẹn là ma nghiệp. Chẳng lưu bố chánh pháp là ma nghiệp. Lấy ít công Ðức làm Ðủ là ma nghiệp. Tóm lại, nếu thân cận làm tất cả pháp bất thiện mà xa lìa tất cả thiện pháp Ðều là ma nghiệp cả. Đây là ma nghiệp. Người làm các nghiệp ấy thì chướng Ðạo Bồ Ðề. Chư Bồ Tát ấy Ðã vượt quá Ðã bỏ lìa nên có thể chánh thọ hành.

Thế nào là chánh thọ hành ?

Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì có thể chánh thọ hành.

Một là nơi các pháp Ba la mật không giải Ðãi thối thất hành. Hai là chẳng bỏ dục tiến và bất phóng dật. Ba là chánh trụ trong pháp phương tiện Ðại từ. Bốn là nhập pháp môn thậm thâm không có ái không có ổ hang.

Vì Bồ Tát thành tựu bốn pháp chánh thọ hành nên có thể phá các oán Ðịch. Đây là Bồ Tát hay phá oán Ðịch trừ lìa bốn ma vậy.

Nầy Hư Không Tạng ! Thế nào là Bồ Tát trang nghiêm tư lương công Ðức lợi ích các chúng sanh ?

Bồ Tát thiện căn hồi hướng hướng Ðến Vô thượng Bồ Ðề. Nếu có thiện căn Ðược vun trồng như bố thí ái ngữ lợi hành Ðồng sự Ðều Ðem thí cho tất cả chúng sanh. Do thanh tịnh giới tụ nên Ðược sức tự tại. Dùng sức tự tại ấy, Bồ Tát tùy theo chỗ Ðáng ưa thích của các chúng sanh mà hóa Ðộ họ. Do vun trồng công Ðức không chán nhàm nên Ðược tay báu vô tận. Dùng bửu thủ vô tận ấy, Bồ Tát có thể bố thí chúng sanh vô lượng giàu vui. Do cầu vô biên trí huệ tư lương nên Ðược biện tài Ðà la ni vô ngại. Dùng vô ngại Ðà la ni biện tài ấy, Bồ Tát có thể tổng trì chỗ nói của tất cả chư Phật, Bồ Tát có thể nói diệu pháp làm vui Ðẹp Ðại chúng. Do vì khéo nói Ðiều thân tâm nên chẳng thối thần thông. Dùng sức các thần thông bất thối ấy, Bồ Tát có thể qua Ðến vô lượng cõi Phật dùng vô số phương tiện Ðộ nhiều chúng sanh. Do siêng cầu pháp không mỏi mệt nên Ðược mỗi lỗ lông phát xuất vô lượng pháp môn. Dùng sức phát xuất vô lượng pháp môn, Bồ Tát có thể thường dùng pháp thí lợi ích chúng sanh. Do gồm tu huệ phương tiện Ba la mật nên Ðược trí phân thân. Dùng sức trí phân thân ấy Bồ Tát có thể ở trong các loài nơi nơi hiện thân hóa Ðộ quần sanh. Do thường dùng vô tướng cung kính cấp thị chư Phật nên Ðược kiến văn không nhàm chán. Dùng sức kiến văn không chán ấy, có chúng sanh nào Ðược thấy nghe Bồ Tát ấy, thì các chúng sanh ấy nhẫn Ðến do nơi Bồ Tát trang nghiêm công Ðức tư lương lợi ích chúng sanh.

Nầy Hư Không Tạng ! Thế nào là Bồ Tát ở nơi thời gian không có Phật xuất thế mà có thể làm Phật sự hóa Ðộ chúng sanh ?

Bồ Tát Ðã thành tựu Bồ Tát thập lực, Ðã ở trong bốn vô sở úy của Bồ Tát Ðược tự tại, Ðã ở trong Bồ Tát mười tám pháp bất cộng chẳng từ người khác Ðể thọ, Ðã tu Như Lai lực vô sở úy pháp bất cộng, Ðã Ðược du hí thủ lăng nghiêm tam muội, Ðã ở nơi bốn biện tài Ðược trí lực tự tại, Ðã ở trong Phật pháp Ðược quán Ðảnh chánh vị, ở nơi tất cả Bồ Tát hạnh Ðược thần lực kế thứ Phật.

Nếu Bồ Tát thành tựu các pháp như vậy, chúng sanh nơi các Phật Ðộ nào Ðáng thấy thân Phật mà Ðược hóa Ðộ, những Phật Ðộ ấy nhằm thời kỳ không có Phật xuất thế, thì Bồ Tát ấy liền ở quốc Ðộ ấy thị hiện thời gian nhập thai, sơ sanh, xuất gia, thị hiện thời gian ngồi Ðạo tràng chuyển pháp luân, thị hiện xả thọ mạng Ðến thời gian nhập Niết bàn, cũng có thể thị hiện Ðại bát Niết bàn, cũng thị hiện pháp trụ thời tiết lâu mau, cũng còn chẳng bỏ Bồ Tát hành pháp, cũng chẳng dùng chỗ Ðược hóa Ðộ lấy Ðó làm Ðầy Ðủ. Đây là Bồ Tát lúc thế gian không có Phật có thể làm Phật sự giáo hóa chúng sanh.

Nầy Hư Không Tạng ! Thế nào là Bồ Tát nhập hải ấn tam muội có thể biết tâm hành của tất cả chúng sanh ?

Bồ Tát Ða văn như biển thành tựu huệ tụ, thường siêng cầu pháp. Vì nghe pháp mà Bồ Tát có thể xả thí hết trân bửu kho tàng. Vì nghe pháp mà Bồ Tát có thể xả thí hết tôi tớ kẻ sai sử vợ con quyến thuộc. Vì nghe pháp mà Bồ Tát xả thí những món trang sức trên thân và nhà cửa. Vì nghe pháp mà Bồ Tát có thể hạ mình hầu hạ chịu sự sai khiến. Vì nghe pháp mà Bồ Tát bỏ ngôi cao sang cả nước cho Ðến xả thân mạng mình. Bồ Tát dùng vô số phương tiện siêng cầu pháp môn như vậy mà chẳng cậy sở hành. Vì nghe pháp mà Bồ Tát Ði Ðến một do tuần hoặc trăm do tuần. Vì nghe một bài kệ bốn câu Ðể thọ trì Ðọc tụng rộng vì người giải nói mà chẳng bỏ tinh tiến ấy.

Bồ Tát nầy tự thành tựu Ða văn, với tất cả chúng sanh phát tâm Ðại bi tâm không ái nhiễm tâm chẳng mong báo Ðáp mà vì họ thuyết pháp, nhẫn Ðến không khinh rẻ một chúng sanh, thuyết pháp một ngày Ðến bảy ngày không quan niệm ăn uống cho Ðến mạng chung cũng không bỏ thuyết pháp. Đem thiện căn thuyết pháp hồi hướng hải ấn tam muội. Tùy pháp Ðược nghe thọ trì Ðọc tụng thông thạo khéo biết nghĩa thú chẳng y dựa văn tự chơn thiệt kiên trì trọn Ðời chẳng bỏ. Bồ Tát phát Ðại nguyện tinh tấn, dùng sức Ðại nguyện tinh tiến ấy chẳng bao lâu bèn Ðược hải ấn tam muội. Được tam muội nầy rồi thì Ðược tự nhiên vô lượng a tăng kỳ trăm ngàn vạn pháp môn, Ðược vô lượng a tăng kỳ trăm ngàn vạn ức tu Ða la chẳng nghe nơi người mà tự nhiên có thể diễn nói. Pháp của tất cả chư Phật nói Ðều có thể thọ trì, có thể rõ biết tâm hành của tất cả chúng sanh.

Dụ như Diêm Phù Đề tất cả chúng sanh thân và những hình sắc cảnh ngoài Ðều có ấn tượng trong Ðại hải, vì vậy mà gọi Ðại hải là ấn. Cũng vậy, Bồ Tát Ðược hải ấn tam muội rồi có thể phân biệt thấy tâm hành tất cả chúng sanh, nơi tất cả pháp môn Ðều Ðược huệ sáng tỏ. Đây là Bồ Tát Ðược hải ấn tam muội thấy tâm hành cảnh giới của tất cả chúng sanh vậy.

Nầy Hư Không Tạng ! Thế nào là Bồ Tát biết các trần giới vô ngại ?

Do nhãn không nên Bồ Tát biết sắc cũng không, do sắc ly nên biết nhãn cũng ly, do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, và ý không nên Bồ Tát biết thanh, hương, vị, xúc và pháp cũng không, do thanh, hương, vị, xúc và pháp ly nên biết nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý cũng ly.

Bồ Tát như thiệt biết không tánh ly tánh, nơi nội pháp và ngoại pháp không có chướng ngại.

Bồ Tát vì biết các kiết bổn tánh tịnh thì không phát khởi các sử. Nơi tất cả các pháp không có tham trước. Bồ Tát chẳng thấy các pháp có chỗ trước, cách trước và ai trước. Đây là Bồ Tát biết rõ trần giới vô ngại vậy.

Nầy Hư Không Tạng ! Thế nào là Bồ Tát oai nghi hạnh thành tựu lìa các tối tăm Ðược ánh sáng thù thắng, ở trong các pháp Ðược tự nhiên trí, mau Ðược thành tựu Nhứt thiết trí hành ?

Bồ Tát phát khởi chỗ làm tu tập chánh hạnh các nghiệp Ðều Ðược Như Lai hứa khả, người trí khen ngợi, Ðó là các nghiệp nơi thân, khẩu và ý. Do hành các chánh hạnh nghiệp ấy nên vui Ðẹp chư Phật và chư Hiền Thánh các bực thiện tri thức. Những nghiệp hạnh Ðược làm không ai có thể chê trách, là tối thắng vô thượng vô Ðẳng. Không ai có thể phá tổn nghiệp hạnh của Bồ Tát ấy. Nơi các nghiệp hạnh Ðã làm Bồ Tát ấy trọn không thối hối. Các nghiệp Ðược làm chẳng xen tạp ngu si, các nghiệp Ðược làm Ðều có thể xem thấy biết rõ, các nghiệp Ðược làm trọn chẳng Ðộng chuyển, các nghiệp Ðược làm Ðều cứu cánh lành tốt. Bồ Tát ấy biết các nghiệp Ðược làm chẳng phải do kiêu mạn, là trí huệ làm chẳng phải do ngu si.

Bồ Tát ấy làm các thiện nghiệp như vậy thì tất cả tam muội môn tất cả Ðà la ni môn Ðều hiện ra chẳng từ người khác nghe.

Bồ Tát ấy hoặc thấy chư Phật hoặc chẳng thấy chư Phật trọn chẳng thối chuyển các thiện căn trợ Bồ Ðề Ðạo, hoặc gặp thiện tri thức thích ý hoặc gặp thiện tri thức chẳng thích ý cũng chẳng thối chuyển pháp Bồ Ðề.

Bồ Tát ấy qua khỏi tất cả bực chướng ngại, lìa tất cả ma kiết sử tu ba môn giải thoát. Do sức Bát Nhã Ba la mật nên mau Ðược Phật Ðạo, tự nhiên Ðạo, Nhứt thiết trí Ðạo, Như Lai Ðạo. Đây là Bồ Tát oai nghi hạnh thành tựu lìa các tối tăm Ðược quang minh thù thắng, ở trong các pháp Ðược tự nhiên trí, mau Ðược thành tựu Nhứt thiết trí hành”.

Muốn tuyên lại nghĩa ấy, Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:

Đã lìa lỗi vô ngại
Huệ công Ðức trang nghiêm
Bồ Tát lìa trước tướng
Hồi hướng Ðạo vô thượng
Bỏ ngã mạn kiêu mạn
Bồ Tát trang nghiêm trí
Vô chướng ngại giải thoát
Đầy Ðủ Nhứt thiết trí
Chẳng sắc chẳng chủng tánh
Niệm Phật chẳng công Ðức
Thường nhớ tưởng pháp thân
Niệm nầy Phật hứa khả
Ly dục tánh tịch tĩnh
Chẳng tướng chẳng sáng tối
Không tâm không ý hành
Đây gọi là niệm Pháp
Thánh vô vi không ái
Không các phiền não nhiễm
Do giải thoát Ðược tên
Gọi niệm Tăng vô ngại
Đã bỏ tất cả thọ
Không ấm giới nhập hành
Giải thoát các Ðộng niệm
Gọi cứu cánh niệm xả
Chẳng dựa vô lậu giới
Chẳng hành thân khẩu ý
Chẳng sanh quá ba cõi
Gọi niệm vô lậu giới
Như trời sạch không nhơ
Trời Đâu Suất quán Ðảnh
Ghi nhớ nghiệp báo mình
Sẽ làm Trời trong Trời
Trì chánh pháp của Phật
Bỏ lìa các phiền não
Giải thoát pháp phi pháp
Là trì chánh pháp Phật
Như Phật Ðắc Ðạo tướng
Thọ trì pháp cũng vậy
Khéo tư duy chơn tế
Không pháp nhiếp trì Ðược
Như tánh ngã thanh tịnh
Tánh các pháp cũng tịnh
Biết chúng sanh tướng như
Mà giáo hóa chúng sanh
Chẳng thấy chúng sanh tăng
Chẳng thấy chúng sanh giảm
Dạy dứt Ðường Ðiên Ðảo
Giáo hóa vô lượng chúng
Nơi các ấm giới nhập
Chẳng khác với Phật giới
Biết như hư không tánh
Thì nhập vào Phật giới
Ngôn ngữ các văn tự
Dường như vang ứng tiếng
Biết chẳng nội chẳng ngoại
Liền Ðược Ðà la ni
Thọ trì Ðọc tụng thạo
Tiến cầu nói các pháp
Không quan niệm ngã pháp
An trụ Ðà la ni
Trì pháp Ðược Phật nói
Khéo nói vui Ðại chúng
Chẳng mất các thiền Ðịnh
Là sức Ðà la ni
Chẳng trì chẳng tụng văn
Chẳng tích tập các pháp
Thường thuyết pháp vô ngại
Như rồng tuôn mưa lớn
Không trụ không chướng ngại
Nói vô lượng khế kinh
Chẳng quan niệm chúng sanh
Người trí Ðược biện tài
Do Phật lực thuyết pháp
Trang nghiêm oai nghi mình
Tùy sở thích Ðại chúng
Biện tài này Phật hứa
Người biết pháp thiệt tánh
Bình Ðẳng như hư không
Không ngã nhơn thọ mạng
Trì Phật pháp như vậy
Chúng sanh Ðồng Niết bàn
Cứu cánh bất sanh diệt
Được trí bất Ðộng nầy
Đây là bất phóng dật
Thấy các ấm như huyễn
Các giới như pháp tánh
Lục nhập duyên sanh rỗng
Được lìa ma ngũ ấm
Kiết sử như mây nổi
Cứu cánh không hòa hiệp
Nơi pháp không vọng tưởng
Lìa Ðược phiền não ma
Biết chúng sanh chẳng sanh
Vô sanh thì vô diệt
Các pháp không khứ lai
Như vậy quá tử ma
Người không ái không Ðộng
Hành Ðạo không tưởng Ðạo
Hành bi không ngã nhơn
Thì hàng phục chúng ma
Biết trí thức bình Ðẳng
Chẳng trụ vi vô vi
Biết chúng sanh tâm như huyễn
Tâm khỏe không phá Ðược
Đây kia không chướng ngại
Thành tựu thắng pháp thuyền
Đưa chúng không tưởng chúng
Gọi là Đại Thuyền Sư
Biết không không có ngã
Sạch sanh tử khát ái
Dìu dắt Ðưa chúng sanh
Gọi là Đại Đạo Sư
Khéo biết tướng tiến thối
Tùy pháp mà y chỉ
Phương tiện hiện Niết bàn
Phật nói Thiện Đạo Sư
Biết tâm tâm tương tục
Hai tâm chẳng cộng chung
Gọi là biết tâm tánh
Phật khen hay hộ chúng
Biết các pháp tánh tịnh
Như không trăng trong nước
Người biết lìa phiền não
Gọi là tịnh chúng sanh
Biết một biết tất cả
Biết các pháp như mộng
Hư không chẳng lấy Ðược
Đắc Ðạo không nhiễm ô”.
Lúc Ðức Phật nói môn phân biệt các pháp ấy có Bảy mươi hai na do tha chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ Ðề, ba vạn hai ngàn Bồ Tát Ðược Vô sanh Pháp nhẫn. Nhà Đại Bửu Trang Nghiêm Đường chấn Ðộng sáu cách, áng sáng lớn chiếu khắp. Chư Thiên ở trên không trỗi trăm ngàn kỹ nhạc mưa các thứ hoa trời và Ðồng thanh nói rằng: “Các chúng sanh ấy Ðược ấn Như Lai cho, Ðã vào trong pháp Như Lai nghe pháp môn ấy Ðược tịnh tín giải thọ trì thông thạo có thể diễn nói cho mọi người và như pháp tu hành”.

Chư Thiên bạch Ðức Phật rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn ! Tất cả chúng tôi hướng về Phật Ðộ nầy thâm tâm cúng dường cung kính lễ lậy vì Ðức Như Lai Ứng Cúng, Chánh Biến Tri xuất thế vậy. Chúng tôi nghe nói pháp môn phương tiện ấy và thấy chư Bồ Tát ở quốc Ðộ nầy”.

Hư Không Tạng Bồ Tát nghe Ðức Phật giải nói rồi, tâm tịnh hoan hỷ. Tâm tịnh hoan hỷ rồi Ðem màn báu vô giá cúng dường Ðức Phật. Trong màn báu phóng ánh sáng lớn chiếu mười phương chư Phật quốc Ðộ.

Cúng dường rồi Hư Không Tạng Ðại Bồ Tát bạch rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn ! Thiệt là chưa từng có. Như Lai vô ngại trí thậm thâm khó hiểu như vậy. Đức Như Lai Ứng Cúng, Chánh Biến Tri như pháp môn Ðược nghe, Ðức Phật dùng vô ngại trí như thiệt giải nói, tất cả Ðại chúng Ðều Ðược hoan hỷ”.

Lúc bấy giờ trong Ðại chúng có một Bồ Tát hiệu là Tốc Biện liền từ tòa ngồi Ðứng dậy trịch y vai hữu, gối hữu chấm Ðất cung kính chắp tay bạch rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn ! Hư Không Tạng Bồ Tát nầy có nhơn duyên gì mà tên là Hư Không Tạng ?”.

Đức Phật nói: “Nầy Tốc Biện ! Như Ðại phú trưởng giả có dân chúng Ðông kho tàng vô lượng của báu Ðầy dẫy hay làm việc bố thí tâm không lẫn tiếc. Lúc làm việc bố thí nếu người nghèo cùng Ðến thì tùy ý họ cần dùng, trưởng giả khai kho báu lớn Ðều có thể cấp cho cả, các người xin kia Ðều Ðược vừa ý. Trưởng giả ấy bố thí rồi trong lòng vui mừng không hối tiếc.

Cũng vậy, Hư Không Tạng Bồ Tát vì thường làm công Ðức thành tựu phương tiện lực hồi hướng, vì giới thân thiện thanh tịnh, vì Ðược thành tựu thần túc lực, vì thuần chí cứu cánh thiện thanh tịnh, vì sở nguyện tăng ích thành tựu, vì biết tất cả pháp như ảo hóa, vì Ðược Như Lai thần túc lực, nên ở trong hư không tùy chúng sanh cần dùng, hoặc pháp hoặc tài Ðều có thể thí cho, Ðều làm cho hoan hỷ. Vì Đại Sĩ ấy chứng phương tiện trí như vậy nên gọi tên là Hư Không Tạng.

Còn nữa, nầy Tốc Biện ! Quá khứ vô lượng a tăng kỳ kiếp, lại quá vô lượng a tăng kỳ kiếp, bất khả tư nghị, bất khả xưng bất khả lượng, bất khả toán số kiếp, lúc bấy giờ có Phật xuất thế hiệu là Phổ Quang Minh Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn, thế giới tên Đại Vân Thanh Tịnh, kiếp tên Hư Không Tịnh. Thế giới Đại Vân Thanh Tịnh ấy thạnh vượng Ðầy Ðủ an ổn khoái lạc, hàng trời người Ðông Ðúc, mặt Ðất bằng phẳng không có những cát sỏi gai góc, dây báu giăng thành khu thành Ðường trang nghiêm với nhiều thứ châu báu như nhuyến như thiên y, hoa vàng diêm phù Ðàn trải khắp mặt Ðất xen lẫn các châu báu. Chúng sanh trong thế giới Đại Vân Thanh Tịnh ấy không có phân biệt thượng trung hạ, trời và người Ðồng Ðẳng như Trời Đâu Suất. Trong thế giới ấy không có tụ lạc thôn ấp, tất cả hàng trời người Ðều ở lâu Ðài báu Ðẹp, lầu các của người ở mặt Ðất, cung Ðiện chư Thiên ở hư không, chỉ có thế này là khác, Ðức Phổ Quang Minh Vương Như Lai thọ mười sáu trung kiếp, dùng Bồ Tát làm Tăng có mười sáu na do tha chúng Ðều Ðược thần thông du hí Ðều Ðược tự tại nơi Bồ Tát hạnh.

Lúc ấy ở giữa Đại Thiên thế giới Đại Vân Thanh Tịnh ấy có một tứ thiên hạ tên là Nhựt Minh, Ðức Phật Phổ Quang Minh Vương Như Lai thành Vô thượng Chánh giác tại nơi ấy, rồi làm Phật sự khắp cõi Đại Thiên.

Trong tứ thiên hạ Nhựt Minh có Chuyển Luân Thánh Vương tên Công Đức Trang Nghiêm trị cả tứ thiên hạ thành tựu Ðủ bảy báu.

Trong Nhựt Minh tứ thiên hạ, Thánh Vương Công Đức Trang Nghiêm trị cả tứ thiên hạ thành tựu Ðủ bảy báu.

Trong Nhựt Minh tứ thiên hạ, Thánh Vương Công Đức Trang Nghiêm xây Ðài bảy báu, từ Đông sang Tây rộng tám do tuần, từ Nam Ðến Bắc rộng bốn do tuần, vòng quanh bửu Ðài có năm trăm khu vườn nhà.

Thánh Vương Công Đức Trang Nghiêm có ba mươi ba vạn sáu ngàn cung nhơn thể nữ xinh Ðẹp lộng lẫy như ngọc nữ cõi trời, có bốn vạn Ðồng tử Ðoan chánh dũng kiện Ðều riêng có sức khoẻ bằng nửa na la diên.

Thánh Vương ấy cùng các Ðồng tử thể nữ quyến thuộc Ðồng Ðến vườn Đại Lạc trang nghiêm dạo chơi trỗi nhạc ca vũ Ðể tự vui. Trong chúng ấy có hai Ðại phu nhơn tên là Đức Oai và Đức Quang rời chỗ Ðến dưới một cội cây ngồi tư duy các hành vô thường. Lúc Ðương tư duy trên gối mỗi phu nhơn có một con trai hóa sanh. Hai trẻ nhỏ ấy thân hình xinh tốt Ðoan nghiêm thành tựu sắc thân vi diệu Ðệ nhứt, người thấy không chán, trên thân phóng ánh sáng lớn chiếu khắp khu vườn. Trên không chư Thiên xướng rằng: hai Ðồng tử này một người tên là Sư Tử, một người tên là Sư Tử Tiến. Do Ðó mà mọi người gọi tên hai Ðồng tử ấy là Sư Tử và Sư Tử Tiến.

Hóa sanh chẳng bao lâu, hai Ðồng tử ấy nói kệ khen Thánh Vương Công Đức Trang Nghiêm rằng:

Xưa tạo thiện ác chẳng hư mất
Cúng dường chư Phật cũng chẳng mất
Thuần chí chẳng bỏ tâm Bồ Ðề
Kiên trì chỗ nghe chẳng quên trí
Điều phục tự gìn chẳng mất giới
Nhẫn nhục nhu hòa khéo phòng hộ
Người hay báo ơn tạo nghiệp lành
Hay siêng tinh tiến chẳng mất Ðạo
Khéo hay chuyên tâm Ðịnh các căn
Tâm hay phân biệt tư duy huệ
Do trí hay tạo nghiệp chẳng trược
Dùng tịnh pháp ấy chứng Bồ Ðề
Chẳng bị phiền não làm nhiễm trước
Khéo hay phân biệt các nghĩa thú
Vì vậy bỏ Ðược thân thọ thai
Hóa sanh trong hoa sen thanh tịnh
Chúng tối từ Phật Thượng Y Vương
Nghe Phật Phổ Quang Minh Vương nầy
Trí huệ vô Ðẳng chẳng nghĩ bàn
Vì pháp nên Ðến thế giới Ðây
Mong cùng Phụ Vương Ðến chỗ Phật
Lễ bái cúng dường Đại Pháp Vương
Chư Phật Thế Tôn rất khó gặp
Cũng như hoa ưu Ðàm bát la.
Thánh Vương Công Đức Trang Nghiêm nghe lời nói của hai Ðồng tử rất vừa ý, cả Ðại chúng Ðồng hoan hỷ cùng vây quanh Thánh Vương số Ðến trăm ngàn vạn Ðồng Ðến chỗ Ðức Phật Phổ Quang Minh Vương Ðem các thứ hoa hương vi diệu, các chuỗi ngọc trân châu và các thứ kỹ nhạc cúng dường lễ lậy hữu nhiễu bảy vòng rồi chắp tay cung kính Ðứng nơi trước.

Lúc ấy Sư Tử và Sư Tử Tiến Ðảnh lễ chơn Phật dùng miệng úp lên chưn Phật mà nói lời khen ngợi khéo thuận pháp nghĩa:

Phật là nhà là chỗ dựa nương
Khai sáng lớn cho Ðời tối tăm
Biết rõ tâm hành của chúng sanh
Tùy chúng tin ưa làm vui Ðẹp
Nay Ðại vương nầy cậy ngôi vua
Tham sắc thanh hương vị xúc pháp
Vì vậy chẳng chịu Ðến chỗ Phật
Mất sự cúng dường chẳng nghe pháp
Lành thay Thế Tôn phát Ðại bi
Xin nói pháp Bồ Ðề Vô thượng
Khiến Ðại vương nầy phát Ðạo tâm
Kiên cố bất thối nơi Phật trí.
Nghe lời thỉnh cầu của hai Ðồng tử, Ðức Phổ Quang Minh Vương Như Lai dũng thân lên hư không cao tám mươi cây Ða la.

Đức Phật ở hư không nói kệ bảo Thánh Vương Công Đức Trang Nghiêm rằng:

Nay nhơn vương chí tâm nghe
Nghe rồi y pháp mà phụng hành
Ngũ dục vô thường dụ như mộng
Mạng người như lửa cỏ sương mai
Vua và nước thành như ảo hóa
Vì vậy người trí chẳng nên tham
Quen ham dục lạc không nhàm Ðủ
Quen dục càng thêm lòng khát ái
Tham dục chưa Ðủ mà mạng chung
Chỉ người Ðược thánh trí mới Ðủ
Vua nên khéo thuận quán thân mình
Ngũ ấm như huyễn chẳng kiên cố
Tứ Ðại kia như bốn rắn Ðộc
Sáu căn không thiệt như khối rỗng
Vợ con trân bửu và ngôi vua
Lúc vua lâm chung không ai theo
Chỉ có giới thí bất phóng dật
Đời nay Ðời sau làm bạn lữ
Xem Phật thần thông lực vô úy
Dùng các tướng hảo trang nghiêm thân
Thuyết pháp dạy chúng hàng Ðệ tử
Vì vậy vua nên phát Ðạo tâm.
Nghe Ðức Phật xong, Thánh Vương cùng vợ con quyến thuộc bảy mươi sáu ngàn ức người Ðều rất vui mừng Ðồng phát tâm Vô thượng Bồ Ðề rằng:

Nay chúng tôi phát Ðạo tâm thệ cứu Ðộ tất cả chúng sanh, vì chúng sanh chúng tôi tu diệu hạnh lúc thành Phật rồi sẽ Ðộ thoát họ.

Thánh Vương Công Đức Trang Nghiêm nghe Ðức Phật Phổ Quang Minh Vương nói pháp và thấy thần biến rồi càng thêm kiên cố tâm Bồ Ðề, vua Ðảnh lễ chưn Phật bạch rằng:

Ngưỡng mong Ðức Thế Tôn và Bồ Tát Ðệ tử thọ tôi thỉnh cúng dường suốt tám vạn bốn ngàn năm những y phục, món ăn, giường nệm, thuốc men và tất cả vật cần dùng.

Đức Phật cùng Ðại chúng vì thương mến vua nên thọ thỉnh.

Thánh Vương Công Đức Trang Nghiêm biết Phật Ðã thọ thỉnh vui mừng hớn hở Ðảnh lễ hữu nhiễu rồi lui về.

Hai Vương tử Sư Tử và Sư Tử Tiến cùng hai vạn Vương tử bỏ giàu sang thế tục Ðồng ở trong Phật pháp xuất gia tu hành chuyên cần tinh tiến thích cầu pháp lành. Xuất gia chẳng lâu, Sư Tử và Sư Tử Tiến Ðược ngũ thần thông kiên cố bất thối. Biết hai người này Ðã Ðược ngũ thần thông, Ðức Phật gia hộ oai thần cho hai người này thường vì chúng sanh mà nói diệu pháp. Hai Tỳ Kheo ấy ở trong cõi Đại Thiên Đại Vân Trang Nghiêm từ quốc Ðộ này Ðến quốc Ðộ kia, từ tứ thiên hạ này Ðến tứ thiên hạ kia thuyết pháp hóa Ðộ vô lượng a tăng kỳ chúng sanh khiến họ kiên cố bất thối Vô thượng Đại thừa.

Trong tám vạn bốn ngàn năm, Thánh Vương Công Đức Trang Nghiêm cúng dường Ðầy Ðủ cho Ðức Phật và Ðại chúng xong, vì nghe pháp nên nhà vua cùng quần thần quyến thuộc qua Ðến chỗ Ðức Phật. Nhà vua tự nghĩ rằng, các vương tử con trai của ta cạo bỏ râu tóc xuất gia tu hành thường thọ cúng dường mà tự mình chẳng làm việc bố thí cũng chưa thấy Ðược pháp hơn người, có lẽ chúng nó nên về nhà xả của cải bố thí tu tạo các công Ðức như ta Ðã làm Ðể vun trồng căn lành chăng ?

Biết tâm niệm của Thánh Vương, Ðức Phổ Quang Minh Vương Như Lai bảo Sư Tử Tiến Bồ Tát rằng:

Nầy Sư Tử Tiến ! Ông hiện sức tự tại thần thông Bồ Tát biến hiện Ðể khắp Ðại chúng Ðược thấy nghe trừ bỏ tà tâm Ðược chánh tri kiến cũng Ðể hàng phục các ma ngoại Ðạo.

Vâng lời Ðức Phật, Sư Tử Tiến Bồ Tát liền nhập Ðịnh hiện ra các cảnh tượng như vầy:

Cả Đại Thiên thế giới Đại Vân Trang Nghiêm chấn Ðộng sáu cách, trên không mưa xuống các thứ vật vi diệu, những là các thứ hoa hương, hương bột, hương xoa, lọng lụa, tràng phan, trổi các thứ kỹ nhạc. Những món ăn uống ngon lành, những y phục Ðẹp quí, những chuỗi ngọc, những trân bửu Ðều từ trên không mưa xuống. Mưa châu báu như vậy Ðầy cả cõi Đại Thiên. Tất cả chúng sanh Ðược sự chưa từng có Ðều rất vui mừng. Địa thần chư Thiên Ðến Trời Sắc Cứu Cánh hớn hở mừng vui Ðồng thanh xướng rằng:

Đại Bồ Tát nầy nên gọi tên là Hư Không Tạng. Tại sao, vì từ trên không có thể mưa xuống vô lượng trân bửu sung túc khắp tất cả.

Đức Phổ Quang Minh Vương Như Lai liền ấn khả lời xướng của chư Thiên gọi Sư Tử Tiến là Hư Không Tạng.

Thánh Vương Công Đức Trang Nghiêm thấy Sư Tử Tiến hiện vô lượng thần biến như vậy trong lòng kính tin thanh tịnh vui mừng hớn hở chưa từng có bỏ tâm kiêu mạn chắp tay hướng lên Ðức Phật bạch rằng:

Bạch Ðức Thế Tôn ! Bồ Tát công Ðức trí huệ bèn có thể như vậy, tự nhiên mà mưa vô lượng trân bửu sung túc khắp tất cả trọn không cùng tận.

Bạch Ðức Thế Tôn ! Người tại gia bố thí lợi ích không bao nhiêu, còn người xuất gia dùng sức thần thông bố thí không bờ mé. Người tại gia bố thí chẳng xứng ý người, dầu bố thí mà còn lẫn tiếc khổ não, còn người xuất gia bố thí có thể xứng ý người, lợi không có lẫn tiếc chẳng sanh khổ não.

Lúc ấy Thánh Vương Công Đức Trang Nghiêm trao ngôi vua cho Vương tử Cát Ý, rồi do tín tâm chơn thiệt cạo bỏ râu tóc ở trong Phật pháp xuất gia tu hành, vì tăng trưởng pháp lành nên vua chuyên cần tinh tiến, chẳng bao lâu vua tu Ðược tứ thiền tứ vô lượng tâm và Ðược ngũ thần thông. Còn Cát Ý Vương dùng chánh pháp trị nước toàn thể nhơn dân Ðều mến Ðức, vua cũng tinh tiến chẳng bỏ việc cúng dường Ðức Phật Phổ Quang Minh Vương và Ðại chúng.

Nầy Tốc Biện ! Thuở xa xưa ấy, Thánh Vương Công Đức Trang Nghiêm là Câu Lưu Tôn Như Lai Ðức Thế Tôn thứ nhất trong Hiền kiếp này, còn Sư Tử Bồ Tát chính là thân ta Phật Thích Ca Mâu Ni, Sư Tử Tiến Bồ Tát là Hư Không Tạng Bồ Tát, vì nhơn duyên hiện thần lực từ trên không mưa xuống các loại trân báu sung túc khắp nơi nên từ thuở ấy luôn Ðược tên là Hư Không Tạng. Còn Cát Ý Vương thì nay là Di Lặc Bồ Tát. Hai vạn Vương Tử theo Phật xuất gia thuở ấy nay là chúng Bồ Tát cùng chung với Hư Không Tạng hiện Ðang nghe pháp Ðây vậy. Còn vô lượng chúng sanh Ðược Thánh Vương cùng các Vương Tử và quyến thuộc sau khi xuất gia giáo hớa, thì hiện nay là chư Bồ Tát hành Bồ Tát Ðạo tại mười phương thế giới vậy.

Nầy Tốc Biện ! Chư Bồ Tát phải thường thanh tịnh giới tụ tăng trưởng bổn nguyện, do Ðây mà tùy muốn làm việc gì Ðều có thể hoàn thành cả”.

Lúc bấy giờ Ðại hội Bồ Tát chúng khát ngưỡng muốn Ðược thấy thần lực của Hư Không Tạng Bồ Tát và tướng mạo của Bồ Tát Hư Không Tạng thế nào.

Đức Phật biết tâm niệm của Ðại chúng liền bảo Hư Không Tạng Bồ Tát rằng: “Này Hư Không Tạng ! Ông nên hiện tướng thần biến hư không tạng !”.

Hư Không Tạng Bồ Tát liền nhập xứng nhứt thiết chúng sanh ý tam muội.

Do sức tam muội ấy, khắp hư không trên Diệu Bửu Trang Nghiêm Đường mưa xuống các thứ vật vi diệu, tùy chỗ chúng sanh muốn Ðều cung cấp Ðủ cả. Đó là cần hoa thì mưa hoa, cần tràng hoa thì mưa tràng hoa, cần hương bột hương xoa thì mưa hương bột hương xoa, cần lọng lụa, cần tràng phan, cần các thứ âm nhạc, cần món trang sức, cần những chuỗi ngọc y phục, cần món uống ăn ngon, cần xe cộ kẻ tùy tùng, cần vàng bạc bảy báu v.v… tất cả Ðều tùy ý muốn cần dùng của mọi người mà mưa xuống thứ ấy.

Có những người cần pháp muốn pháp thích pháp, tùy theo chỗ muốn nghe, trên không phát ra các pháp âm vi diệu làm vui Ðẹp nhĩ căn: những là diệu âm tu Ða la, kỳ dạ, thọ ký, già Ðà, ưu Ðà na, ni Ðà na, a ba Ðà na, y Ðế mục Ða già, xà Ðà già, tỳ phật lược, a phù Ðà, Ðạt ma, ưu ba Ðề xá. Người cần nghe những kinh ấy thì hư không Ðều phát âm ứng Ðó. Người cần na la Ðẳng biến âm, người cần xảo ngôn ngữ âm, người cần các thứ tạp âm, người cần thậm thâm âm, người cần phương tiện thiển âm, trên không Ðều phát âm ứng Ðó.

Người cần Thanh Văn thừa Ðược Ðộ thì phát tiếng pháp Tứ Ðế ứng Ðó, người cần Duyên Giác thừa Ðược Ðộ thì phát tiếng pháp thậm thâm Thập nhị nhơn duyên ứng Ðó. Người cần Đại thừa Ðược Ðộ thì hư không phát ra tiếng pháp Lục Ba la mật tiếng pháp bất thối chuyển ứng Ðó.

Trong hư không còn phát ra tiếng diệu kệ rằng:

Các pháp tánh với hư không Ðồng
Nay nói môn ấy Ðại chúng nghe
Như hư không không cao không hạ
Không cao hạ nên không thể tánh
Như hư không vô sanh vô diệt
Không sanh diệt nên tánh chẳng hư
Như hư không không tăng không giảm
Không tăng giảm nên Ðồng pháp tướng
Như hư không không sáng không tối
Không sáng tối tâm tánh cũng vậy
Như mặt nhựt chiếu sáng hư không
Hư không cũng không có vui mừng
Chẳng chiếu sáng hư không chẳng buồn
Người trí học Ðạo cũng như vậy
Như mâu, tên Ðâm bắn hư không
Không làm thương tổn hư không Ðược
Người hành Ðạo tu tập quán không
Cũng không gì làm tổn thương Ðược
Như hư không Ðược nước nhuần thấm
Hư không không hề có vui mừng
Người trí Ðược khen Ðược lợi lộc
Vẫn không mừng vui cũng như vậy
Như hư không bị chê Ðược khen
Hư không không hề có phân biệt
Người trí bị chê hoặc Ðược khen
Không có phân biệt cũng như vậy
Như cả Ðại Ðịa Ðều rúng Ðộng
Hư không không hề có Ðộng lay
Người trí vô y vô sở Ðắc
Chẳng Ðộng pháp tánh cũng như vậy
Như hư không lửa chẳng cháy Ðược
Phiền não chẳng cháy Ðược người trí
Như hư không thường trụ chẳng hoại
Pháp giới cũng thọ tất cả pháp
Như hư không không có sắc thấy
Tâm tánh vô tướng Ðồng hư không
Hư không giả danh không hình mạo
Tâm ý thức cũng là giả danh
Hư không vô biên chẳng lấy Ðược
Thánh trí vô biên Ðồng hư không
Như chim bay không chẳng dấu vết
Hành Bồ Ðề chẳng thấy Ðược hành
Thân mất quá khứ Ðồng hư không
Hiện tại ngũ ấm Ðồng hư không
Tứ Ðại cũng vậy Ðồng hư không
Như sau tam tai không tướng khác
Tất cả chúng sanh không biết Ðủ
Phàm phu ngũ dục không hề Ðầy
Người có thánh trí biết các pháp
Biết Ðủ chẳng cầu lìa tham trước
Hư không rộng lớn không bờ mé
Phật pháp rộng lớn cũng như vậy
Người biết pháp tánh là Phật pháp
Chẳng dựa lấy vật chẳng bỏ vật
Biết vật chẳng vật trụ thiệt tế
Nơi vật chẳng vật không hai tướng
Tiếng rõ không không chẳng phải tiếng
Không âm thanh gọi là hư không
Phật dầu nói không trọn không nói
Tánh chẳng nói Ðược gọi là không
Huyễn hóa mộng dã mã bóng vang
Chư Phật thuyết pháp cũng như vậy
Vì dắt chúng sanh nói những dụ
Nghĩa chơn tịnh không ví dụ Ðược
Pháp không tướng dùng tướng Ðể nói
Tướng không tướng pháp tánh Ðều không
Tướng không rỗng không không có tướng
Biết Ðược tướng nầy là Bồ Tát
Không trệ ngại không hí không Ðộng
Không thỉ không chung là Bồ Tát
Chẳng rời chúng sanh chẳng chúng sanh
Như chúng sanh tánh là Bồ Tát
Như ảo sư giết các người ảo
Không ai chết Ðược Ðộ cũng vậy
Ảo chúng sanh Niết bàn Phật pháp
Biết Ðồng một tánh không tánh tướng
Đại Sĩ Ðược tạng không vô tận
Ban Ðủ tất cả không cùng tận
Xưa trồng công Ðức Ðược tạng nầy
Chẳng tham chứa mới Ðược như vậy
Biết Ðược các pháp nhơn duyên sanh
Tạng ấy vô tận chẳng nghĩ bàn
Đấng cứu Ðời nói bốn vô tận
Không, Ðạo tâm, chúng sanh, Phật pháp
Nếu các của cải là có thiệt
Thì mới có thể chức nhóm Ðược
Chẳng phải thiệt có nên vô cùng
Vì chẳng phải thiệt nên vô tận
Pháp khôn cứu cánh tận vô tận
Vô tận chẳng tận là vô tận
Biết pháp môn này gần Bồ Ðề
Trụ môn này mau thành Bồ Ðề.
Do thần lực của Hư Không Tạng Bồ Tát nên từ hư không vang ra những pháp âm vi diệu như vậy và tất cả của cải vật báu làm sung túc tất cả chúng sanh. Làm cho tất cả chúng sanh khắp cõi Đại Thiên Ðược vô lượng bất tư nghị khoái lạc thỏa mãn sở nguyện. Chúng sanh bịnh khổ Ðược thuốc chữa lành. Chúng sanh nghèo cùng Ðược vô lượng trân bửu. Chúng sanh bị trói nhốt Ðược cởi mở giải thoát. Chúng sanh chẳng Ðủ các căn thì Ðược Ðủ các căn. Chúng sanh Ðáng bị tử hình thì trên không rơi hóa nhơn thay thế họ. Người thân yêu ly biệt từ lâu nay Ðược Ðoàn tụ. Chúng sanh lo rầu nay Ðều hết lo. Chúng sanh Ðọa tam Ðồ Ðược ánh sáng ấy chạm thân trừ tất cả khổ não thân tâm an lạc.

Lúc bấy giờ trong Đại Thiên thế giới, chúng sanh ăn uống no Ðủ vui vẻ dạo chơi Ðầy Ðủ ngũ dục. Hoặc có kẻ bố thí tạo các công Ðức. Chúng sanh có Ðủ trọn vẹn những sự an lạc như vậy, họ Ðều nói rằng: mới Ðược bực Đại Sĩ này có thể ban vui cho Ðời, do Bồ Tát Hư Không Tạng xuất thế nên thế gian Ðược ban bố cam lộ. Đại Sĩ này mới có thể thường siêng tinh tiến, vì ban vui cho tất cả chúng sanh không hề mỏi mệt vậy.

Hư Không Tạng Bồ Tát hiện những thần biến như vậy làm vui Ðẹp tất cả chúng sanh tánh, thị hiện Bồ Tát thần lực dùng tài thí và pháp thí Ðể nhiếp thủ chúng sanh, khiến vô lượng a tăng kỳ chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ Ðề, làm cho vô lượng Bồ Tát Ðược Vô sanh Pháp nhẫn. Còn làm cho vô lượng a tăng kỳ bất khả thuyết bất khả thuyết Bồ Tát phát cần tinh tiến Ðược thành tựu các môn tam muội, các môn Ðà la ni, các môn thần thông du hí.

Trong pháp hội có một Bồ Tát tên là Sanh Nghi tự nghĩ rằng: Việc này là bất tư nghị bị tằng hữu. Bồ Tát Hư Không Tạnh chỉ hiển hiện thần thông lực ở Ta Bà thế giới này, hay là cũng hiển hiện thần thông nơi thế giới phương khác.

Biết tâm niệm của Sanh Nghi Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát từ nơi thân phóng ánh sáng lớn chiếu khắp mười phương chư Phật thế giới.

Sanh Nghi Bồ Tát cùng chư Bồ Tát Ðều thấy thần lực của Hư Không Tạng Bồ Tát ở nơi mười phương vô lượng vô biên bất khả tư nghị chư Phật thế giới ứng hóa chúng sanh cũng Ðồng như tại thế giới Ta Bà này.

Thấy thần biến như vậy rồi, Sanh Nghi Bồ Tát cung kính lễ Hư Không Tạng Bồ Tát rồi chắp tay bạch rằng: “Hi hữu thay Đại Sĩ có thể Ðặt tạng báu vô tận ơ hư không mưa Ðầy Ðủ khắp vô lượng thế giới mà vẫn không hết. Đại Sĩ Ðặt tạng ấy ở trong hư không Ðã Ðược bao lâu rồi ?”.

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: “Từ lúc tôi phát tâm Vô thượng Bồ Ðề thì tạng báu ấy thường ở trong hư không”.

Sanh Nghi Bồ Tát lại hỏi: “Đại Sĩ phát tâm Vô thượng Bồ Ðề từ lúc nào ?”.

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: “Đức Thế Tôn biết rõ, Đại Sĩ nên bạch hỏi”.

Sanh Nghi Bồ Tát bạch Ðức Phật: “Bạch Ðức Thế Tôn ! Hư Không Tạng Bồ Tát phát tâm Vô thượng Bồ Ðề từ lúc nào, mong Ðược Thế Tôn nói cho chúng tôi hết nghi”.

Đức Phật nói: “Nầy Sanh Nghi ! Sự ấy lâu xa thậm thâm khó biết. Nếu nói Ðó thì sẽ làm cho hàng thiên nhơn Ðều sanh nghi hoặc chẳng tin lời Phật. Vì chẳng tin họ mắc vô lượng tội”.

Sanh Nghi Bồ Tát lại bạch rằng: “Ngưỡng mong Ðức Thế Tôn nói Ðó. Nếu có người từ lâu Ðã trồng căn lành quyết sẽ tin thọ”.

Đức Phật nói: “Nầy Sanh Nghi ! Ông Ðã ân cần cầu thỉnh, Ðâu Ðược chẳng nói. Lắng nghe lắng nghe khéo suy nghĩ Phật sẽ vì ông mà phân biệt giải nói, Ðể người có căn lành kiên cố Ðã lâu trồng cội công Ðức sanh lòng vui mừng.

Này Sanh Nghi ! Như những hằng hà bằng số cát một hằng hà, số cát trong tất cả những hằng hà ấy, cứ một hột cát là một Phật thế giới, nghiền nhỏ tất cả hằng hà sa số thế giới ấy thành vi trần rồi tụ lại một chỗ. Có một người trường thọ cứ một kiếp mới lượm lấy một vi trần trong Ðống vi trần ấy mãi Ðến lúc lấy hết số vi trần. Thời gian Hư Không Tạng Bồ Tát phát tâm Vô thượng Bồ Ðề Ðến nay số kiếp còn quá hơn số kiếp vi trần kia chẳng phải toán số biết Ðược.

Nầy Sanh Nghi ! Nên Ðem Ðây Ðể so sánh biết thời gian phát tâm Vô thượng Bồ Ðề của Hư Không Tạng Ðến nay bao lâu vậy.

Lại này Sanh Nghi ! Về quá khứ, quá số cát những sông Hằng bằng số cát sông Hằng, lấy số cát này một hột cát là một Phật Ðộ, nghiền tất cả quốc Ðộ này thành vi trần, một vi trần là một kiếp, lại quá số này trăm ngàn muôn kiếp, lúc bấy giờ có Phật hiệu là Tịnh Nhứt Thiết Nguyện Oai Đức Thắng Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn, thế giới ấy tên là Hiện Vô Lượng Chư Phật Sát Độ, kiếp ấy tên là Chúng Bửu Trang Nghiêm.

Tại sao thế giới ấy có tên là Hiện Vô Lượng Chư Phật Sát Độ ?

Nầy Sanh Nghi ! Vì cõi nước ấy chơn tịnh có thể hiện mười phương chư Phật sát Ðộ, như mặt trăng tròn sáng không bị che chướng hiện bóng trong nước trong. Vì vậy nên mười phương vô lượng a tăng kỳ chư Phật quốc Ðộ và chư Phật ấy cùng tòa sư tử cả việc làm của chúng sanh Ðều hiện rõ trong thế giới Hiện Vô Lượng Chư Phật Sát Độ ấy. Thế giới ấy bằng một trăm ức Đại Thiên thế giới. Thế giới ấy rộng rãi trang nghiêm thanh tịnh giàu dư an ổn, trời người Ðông Ðúc, mặt Ðất bằng phẳng không có gò nổng cao lõm dơ dáy hôi thúi. Có nhiều loại trân bửu xen tạp làm thành xinh Ðẹp Ðáng thích, khắp nơi treo những lụa màu tràng phan lọng tốt trang nghiêm, Ðốt các thứ hương tốt như chiên Ðàn trầm thủy, phía trên thì giăng màn kiếp ba nhiều màu, dưới thì trải Ðầy những hoa tươi Ðẹp. Khắp mọi nơi mọc những cây hoa báu, cây quả trái, cây y phục, cây chuỗi ngọc, cây kỹ nhạc, cây bửu khí, cây hương, cây Ðèn Ðuốc, cây thuốc men, khắp nơi trang nghiêm làm ranh tám hướng Ðường sá bằng thẳng phân minh. Những chuỗi ngọc chơn châu, lưới báu trang nghiêm làm người xem không nhàm chán. Trong thế giới ấy chẳng nhờ ánh sáng mặt nhựt mặt nguyệt, dùng những cây Ðèn Ðuốc và cây báu ma ni phát ánh sáng mát lành chiếu khắp mọi nơi và luôn sáng không có ngày Ðêm, chỉ lấy bửu hoa lúc nở lúc búp Ðể biết thời tiết. Chúng sanh trong cõi ấy không có tàn tật, Ðui mù, câm Ðiếc, què thọt, lùn xấu, không có thân thể chẳng toàn vẹn dung mạo xấu ác. Tất cả mọi chúng sanh Ðều thành tựu ba mươi hai tướng tốt trang nghiêm thân thể. Trong thế giới ấy nhẫn Ðến không có tên ác xấu tam Ðồ bát nạn, cũng chẳng nghe tiếng tăm ngoại Ðạo các dị học, tất cả chúng sanh Ðều quyết Ðịnh Vô thượng Bồ Ðề, cũng không có tên hiệu Thanh Văn, Bích Chi Phật. Đức Phật Tịnh Nhứt Thiết Nguyện Oai Đức Thắng Vương Như Lai thuần nói pháp Đại thừa Bồ Tát. Trong cõi ấy không có nữ nhơn và thai sanh, tất cả chúng sanh Ðều tự nhiên hóa sanh, lúc hóa sanh Ðều ngồi kiết già Ðoan nghiêm, không có già cùng bịnh tật trọn cả thọ mạng. Lúc sau khi mạng chung Ðều sanh về Tịnh Ðộ phương khác hoặc sanh trở lại bổn quốc. Thế giới Hiện Vô Lượng Chư Phật Sát Độ ấy thành tựu vô lượng vô biên bất khả tư nghị công Ðức như vậy, nếu ta ở trong thời gian một kiếp hoặc dưới một kiếp nói cũng chẳng hết Ðược.

Nầy Sanh Nghi ! Lúc ấy trong quốc Ðộ Hiện Vô Lượng Chư Phật Sát Độ có một Chuyển Luân Thánh Vương tên là Chúng Thiên Quán Đảnh thống lãnh cả cõi Đại Thiên. Thánh Vương ấy ở chỗ chư Phật Ðã từ lâu vun trồng cội công Ðức, thành tựu lợi căn trí huệ oai Ðức, có ba vạn sáu ngàn Vương Tử tất cả Ðều hóa sanh ngồi kiết già trong hoa sen, cũng từ lâu trồng căn lành ở chỗ chư Phật quá khứ.

Bấy giờ Ðức Phật Tịnh Nhứt Thiết Nguyện Oai Đức Thắng Vương Như Lai cùng hàng trời người Ðại chúng vi nhiễu Ði Ðến chỗ ở của Thánh Vương.

Có chúng Bồ Tát vô lượng vô số chẳng phải các toán sư và Ðệ tử của toán sư mà có thể tính biết.

Đức Phật ấy thọ một trăm ngàn kiếp, mỗi kiếp thời gian dài ngắn như kiếp Hiền ở Ðây. Chúng sanh cõi ấy trải qua ngần ấy kiếp số mà gọi là một kiếp.

Thánh Vương Chúng Thiên Quán Đảnh thỉnh Ðức Phật Tịnh Nhứt Thiết Nguyện Oai Đức Thắng Vương Như Lai và chư Bồ Tát Tăng trong bốn mươi trung kiếp, mỗi trung kiếp ấy thời gian dài ngắn như một trung kiếp tại Ðây, thọ sự cúng dường thích ý những món ăn uống ngon lành, những y phục, ngọa cụ, phòng nhà, Ðền Ðài, vườn tược, rừng cây, ao tắm v.v…tất cả món cần dùng.

Để cúng dường Ðức Phật, Thánh Vương Chúng Thiên Quán Đảnh trang nghiêm một Tiểu Thiên thế giới làm ngôi nhà Ðẹp, Ðất toàn bằng lưu ly bửu, tường thành bao quanh bằng các thứ báu hiệp thành. Cột nhà ấy bằng gỗ xích chiên Ðàn và gỗ ưu Ðà la sa la chiên Ðàn xen chạm cẩn với báu xa cừ. Ngôi nhà báu Ðẹp trang nghiêm dường ấy rất Ðáng ưa thích.

Đức Phật Tịnh Nhứt Thiết Nguyện Oai Đức Thắng Vương Như Lai sau giờ ăn giữa ngày, từ tam muội dậy, ở trong ngôi nhà ấy vì Ðại chúng thuyết pháp.

Thánh Vương ấy còn trang nghiêm một ngôi nhà lớn rộng bằng một tứ thiên hạ, muốn Ðức Thế Tôn và chư Bồ Tát Tăng thọ thực trong Ðó, mỗi ngày cần dùng vật thực giá trị bằng khối trân bửu như tòa núi lớn.

Trong thời gian bốn mươi trung kiếp cúng dường Phật và Bồ Tát Tăng, Thánh Vương Chúng Thiên Quán Đảnh thường chuyên nhứt niệm chưa từng phóng dật chẳng làm việc gì khác, thường dùng tất cả món thích dùng Ðể cúng dường Phật và Tăng. Làm công Ðức trong thời gian ấy, Thánh Vương cũng chẳng phát nguyện chẳng cầu mong sự gì cả. Mãn bốn mươi trung kiếp ở ngày sau rốt, Thánh Vương Ðem ba y vô giá cúng dường Phật và Bồ Tát Tăng. Ngày ấy sau giờ ăn giữa ngày, Ðức Thế Tôn ấy vì Ðại chúng nói rộng diệu pháp. Lúc ấy vì nghe pháp, Thánh Vương và hàng thị tùng cùng Ðến chỗ Phật.

Đức Phật Tịnh Nhứt Thiết Nguyện Oai Đức Thắng Vương Như Lai biết Thánh Vương công Ðức thuần thục kham nghiệm hữu dụng, Ðức Phật ngồi yên bất Ðộng trên tòa sư tử suốt bảy ngày bảy Ðêm không có ý tưởng ăn uống nói kinh Đại thừa tên là Nhiếp Bồ Tát Tịnh Hạnh Bất Thối Chuyển Luân Phương Tiện Thánh Vương Chúng Thiên Quán Đảnh và hàng Ðại chúng trong bảy ngày bảy Ðêm nghe pháp cũng không có ý tưởng ăn uống.

Đức Thế Tôn ấy nói pháp như vậy muốn cho Ðại chúng nghe thọ trì hết chẳng quên mất.

Trong bảy ngày Ðêm Thánh Vương Chúng Thiên Quán Đảnh tâm chẳng phân tán theo Phật nghe pháp vui mừng hớn hở thân tâm vui thích, Ðứng dậy lễ chưn Phật hữu nhiễu bảy vòng rồi gối hữu chấm Ðất chắp tay hướng lên Phật thâm tâm thuần chí phát tâm Vô thượng Bồ Ðề nói kệ rằng:

Tôi phát tâm Vô thượng
Thỉnh triệu các quần sanh
Người không cứu tôi cứu
Đời tối tôi khai sáng
Chẳng vì một pháp hành
Chẳng vì cúng một Phật
Chẳng vì một chúng sanh
Tôi nguyện Ðộ không thừa
Khổ sanh già bịnh chết
Kẻ bị khổ bức não
Tất cả chớ sầu lo
Tôi thề sẽ Ðộ họ
Tham sân si mạn trùm
Thất Ðạo tạo nghiệp ác
Chánh pháp trừ tà nghiệp
Dẫn Ðến thành vô úy
Chúng sanh Ðọa tam Ðồ
Chỗ nạn chịu các khổ
Bền chí chớ lo sợ
Tôi Ðến ban vô úy
Bị vô minh si che
Chẳng biết môn giải thoát
Vì họ tôi Ðốt Ðuốc
Được sáng Ðến Niết bàn
Bị bốn dòng cuốn trôi
Chìm Ðắm chẳng Ðược bờ
Tôi tạo thuyền thắng pháp
Cho họ khỏi các dòng
Ở sanh tử Ðói khát
Ăn hết phước lành trước
Vì họ làm Đạo Sư
Sẽ khiến Ðến an vui.
Thánh Vương Chúng Thiên Quán Đảnh nói kệ xong, thế giới Hiện Vô Lượng Chư Phật Sát Độ liền chấn Ðộng sáu cách, có ánh sáng chiếu khắp nơi. Thánh Vương phát Ðạo tâm rồi Ðược Bồ Tát tam muội tên là Bất Thối Bồ Ðề tâm, do sức tam muội ấy nên thường Ðược thấy chư Phật vô ngại, cho Ðến trong chiêm bao các phiền não cũng chẳng hiện hành, từ Ðó về sau, tâm Thánh Vương chẳng cùng chung với tật Ðố, chẳng cùng chung với phá giới, chẳng cùng chung với sân hận, chẳng cùng chung với giải Ðãi, chẳng cùng chung với tán loạn, chẳng cùng chung với ngu si. Vì nghe pháp nên trọn Ðời Thánh Vương thường hầu hai bên Ðức Thế Tôn, cũng thường giáo hóa ba vạn sáu ngàn Vương Tử khiến phát tâm Vô thượng Bồ Ðề, cũng giáo hóa vô lượng vô biên chúng sanh khác khiến họ phát Bồ Ðề tâm.

Này Sanh Nghi ! Thánh Vương Chúng Thiên Quán Đảnh thuở xa xưa ấy nay chính là Bồ Tát Hư Không Tạng vậy. Còn chư Vương Tử và Ðại chúng Ðược Thánh Vương giáo hóa khiến phát Bồ Ðề tâm ấy thì nay là chư Ðại Bồ Tát Ðại lực tinh tiến Ðại trí huệ Ðang nghe pháp Ðây vậy.

Này Sanh Nghi ! Hư Không Tạng từ lúc phát tâm Ðến nay trải qua vô lượng a tăng kỳ kiếp hành Bồ Tát Ðạo. Hư Không Tạng Bồ Tát từ lúc phát tâm về sau chưa từng mất tâm Bồ Ðề, chưa từng thai sanh, thường gặp chư Phật nghe pháp và cúng dường chúng Tăng, ở chỗ chư Phật thọ trì chánh pháp nhiếp thủ kiên trì chưa từng thất niệm, hay khéo phân biệt thật hành Ðầy Ðủ. Lúc sơ phát tâm rồi Ðược bực thậm thâm nan giải Bồ Tát sơ Ðịa, hay làm các sự bố thí thành tựu Ðại bi, Ðược không hí luận phát siêng tinh tiến không hề nhàm mỏi, học tất cả các sách luận, biết tất cả thế pháp, thành tựu Ðức tàm quí, Ðược niệm lực kiên cố. Bồ Tát ấy trụ bực Sơ Ðịa trong vô lượng a tăng kỳ bất khả xưng, bất khả lượng, bất khả tư nghị, bất khả thuyết bất khả thuyết a tăng kỳ kiếp hay thanh tịnh thuần chí Ðầy Ðủ hành Đàn Ba la mật, với các chúng sanh thường hành Ðại bi, siêng tu pháp tứ nhiếp tất cả Ba la mật và các pháp trợ Ðạo, thành tựu dục tinh tiến bất phóng dật Ðều tùy thuận Đàn Ba la mật. Bồ Tát ấy trụ bực Sơ Ðịa thường siêng hầu hạ cúng dường chư Phật siêng cầu phương tiện giáo hóa chúng sanh tịnh Phật quốc Ðộ. Bồ Tát ấy trụ bực Sơ Ðịa Ðược nhập tất cả các bực Ðịa trí huệ quang minh mà chẳng quá Sơ Ðịa, sau Ðó mới thành tựu vô lượng công Ðức trí huệ tư lương, Ðược Như Lai lực trì bất thối thần thông Ðã lìa các chướng ngại của chư Ðịa. Rời từ bực Sơ Ðịa nhập Bồ Tát Ðệ Nhị Ðịa, trụ vô lượng a tăng kỳ kiếp thanh tịnh bực Nhị Ðịa tu Thi Ba la mật. Nhẫn Ðến Bồ Tát Ðệ Thập Ðịa vì tất cả chúng sanh, mỗi Ðịa trải qua kiếp số cũng như vậy. Trong mỗi mỗi Ðịa quá vô lượng a tăng kỳ kiếp thành tựu Bồ Tát hạnh, vì các chúng sanh hiện làm Phật sự mà chẳng bỏ Bồ Tát sơ hành.

Nầy Sanh Nghi ! Ít có Bồ Tát nào có thể thật hành thậm thâm bất tư nghị thù thắng bất tán loạn thuần chí siêng tu tinh tiến như Hư Không Tạng Bồ Tát Ðã thật hành thành tựu như vậy”.

Sanh Nghi Bồ Tát nói với Hư Không Tạng Bồ Tát: “Hi hữu Đại Sĩ bèn có thể hoằng thệ nguyện như vậy ở trong Đại thừa, trụ lâu nơi sanh tử không có mỏi mệt”.

Hư Không Tạng Bồ Tát nói với Sanh Nghi Bồ Tát: “Thưa Đại Sĩ ! Như Ðại Ðịa này chuyên chở núi sông Ðá vách cây cối lùm rừng tất cả thảo mộc trăm thứ lúa Ðậu và các loại chúng sanh, nó có mỏi mệt chăng ?”.

Sanh Nghi Bồ Tát Ðáp rằng: “Không hề có mỏi mệt, thưa Đại Sĩ”.

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: “Tâm của chư Bồ Tát như Ðại Ðịa, vì thuần chí thành tựu nên thật hành Bồ Tát hạnh không hề có mỏi mệt. Như Ðại Ðịa, Ðại thuỷ, Ðại phong thường làm tất cả phận sự vẫn không hề mỏi mệt, như hư không chứa trì tất cả Ðại Ðịa, Ðại thủy, Ðại phong, hư không không có ý chỉ không có chướng ngại cũng không có mỏi mệt. Tâm của chư Bồ Tát như hư không. do sức Bát Nhã Ba la mật tập họp tất cả Phật pháp không hề có lười bỏ mỏi mệt cũng như vậy. Tại sao ? Vì Bồ Tát biết tất cả các pháp tướng mà Ðược thành tựu không có ai sanh ai làm ai thọ. Do nhơn duyên hiệp lại mà có làm ra. Các pháp Ðược làm ra cũng không có thiệt, vì bổn tế rỗng không, vì bổn tế rời lìa vậy nên thiệt không có thành tựu, vì tự tánh rỗng không nên không có sanh không có diệt. Vì biết tất cả pháp tánh tướng như vậy nên không thấy có pháp gì là có thể sanh ra sự mỏi mệt và cũng không có ai là người mỏi mệt. Tại sao ? Vì Bồ Tát biết tất cả các pháp không có hai, biết tánh sanh tử bình Ðẳng với tánh Niết bàn, biết tánh Niết bàn bình Ðẳng với tánh tất cả các pháp, biết tánh tất cả các pháp bình Ðẳng với vô tánh, cũng chẳng dựa cậy chẳng trụ trước. Biết tất cả pháp quá khứ và vị lai Ðều không có tự tánh, Bồ Tát do Ðịnh lực và nguyện lực nên chẳng khởi Ðịnh mà có thể hiện tất cả việc làm”.

Sanh Nghi Bồ Tát nói với Hư Không Tạng Bồ Tát: “Ngưỡng mong Đại Sĩ nói rõ tam muội hành nghiệp của chư Bồ Tát. Sao gọi là tam muội ? Sao gọi là hành tam muội nghiệp ?”.

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: “Có tám vạn bốn ngàn môn tam muội. Các môn tam muội nầy có thể tổng nhiếp tất cả môn tam muội khác. Những gì là tám vạn bốn ngàn môn tam muội ?

Bồ Tát có tam muội tên là bất vong Bồ Ðề tâm, hay thành tựu hạnh chẳng tán loạn.

Có tam muội tên hàng phục, hay thanh tịnh thuần chí.

Có tam muội tên bất hiển hành, hay cứu cánh thành tựu bất thối việc Ðược làm.

Có tam muội tên vô y, hay tăng tiến thành tựu cứu cánh.

Có tam muội tên vô cấu, hay thành tựu tự tâm.

Có tam muội tên chiếu diệu, hay khai thị thiện pháp.

Có tam muội tên chơn tịnh, hay quá tất cả ma nghiệp.

Có tam muội tên dũng xuất, trọn chẳng bị các luận thuyết ngoại Ðạo chế phục.

Có tam muội tên xả ly, hay Ðiều phục tất cả phiền não kiết sử.

Có tam muội tên hồi phục, hay khiến tất cả nhập vào Ðạo chơn thiệt.

Có tam muội tên chuyển tiến, hay lìa Thanh Văn Ðịa và Bích Chi Phật Địa.

Có tam muội tên là lạc du, hay chẳng nhàm sanh tử.

Có tam muội tên xu hướng, hay từ một Ðịa Ðến một Ðịa.

Có tam muội tên di dịch, hay thành tựu vui Ðẹp Ðại chúng.

Có tam muội tên vô ngại quang, hay khiến tất cả chúng sanh thành tựu tâm bình Ðẳng.

Có tam muội tên tri sở tác, hay thuận tất cả sở tác không trái nghịch.

Có tam muội tên sư tử tướng, hay thành tựu Ðại chúng vô sở úy.

Có tam muội tên tâm dũng, hay hàng phục tứ ma.

Có tam muội tên liên hoa trang nghiêm, hay thành tựu chẳng nhiễm thế pháp.

Có tam muội tên quang trang nghiêm, hay chiếu khắp chư Phật thế giới.

Có tam muội tên thanh lương, hay dứt lìa tắng ái.

Có tam muội tên tràng tướng, hay thành tựu tất cả Phật pháp quang minh.

Có tam muội tên cự vương, hay thành tựu Ðại trí huệ quang minh.

Có tam muội tên nhựt quang, hay thành tựu Ðoạn trừ vô minh tối tăm.

Có tam muội tên tập Ðức, hay thành tựu biện từ vô tận.

Có tam muội tên na la diên, hay thành tựu thân kim cương.

Có tam muội tên kiên cố, hay thành tựu tâm chẳng Ðiệu Ðộng.

Có tam muội tên di lâu tràng, hay thành tựu vô kiến Ðảnh tướng.

Có tam muội tên kiên tự tại, hay thành tựu cứu cánh bổn nguyện.

Có tam muội tên kim cương thổ, hay thành tựu bất thối thần thông.

Có tam muội tên kim cương tràng, hay thành tựu thăng lên Ðạo tràng.

Có tam muội tên dụ như kim cương, khéo hay soi suốt tất cả các pháp.

Có tam muội tên hành vương, hay thấy biết tâm hành tất cả chúng sanh.

Có tam muội tên huệ vương, hay thành tựu thắng trí biết các căn Ðầy Ðủ hoặc chưa Ðầy Ðủ.

Có tam muội tên tùy loại, hay thành tựu tùy chúng sanh tánh mà vì họ thuyết pháp.

Có tam muội tên tu nhứt thiết thân, hay thành tựu pháp thân.

Có tam muội tên bất thuấn, hay thành tựu vô ngại thấy chư Như Lai.

Có tam muội tên vô tranh, hay Ðược phân biệt tất cả nhơn duyên.

Có tam muội tên vô cấu luân, hay thành tựu chuyển diệu pháp luân.

Có tam muội tên Ðiện quan, hay biết Ðược nhơn duyên các pháp.

Có tam muội tên thiện phân biệt, hay biết các giới Ðều Ðồng một giới.

Có tam muội tên trang nghiêm vương, hay thành tựu các tướng hảo.

Có tam muội tên tùy giải vương, hay dùng một âm thanh Ðáp tất cả.

Có tam muội tên bất phân biệt pháp giới, hay biết tất cả tam muội Ðồng một tam muội.

Có tam muội tên kiên cố, hay Ðược bất thối nơi các pháp tánh.

Có tam muội tên bất khả hoại, hay biết các pháp Ðồng với pháp tánh.

Có tam muội tên vô chung, hay biết bổn tế chẳng phải tế.

Có tam muội tên vô tác, hay thành tựu như như không có biến Ðổi.

Có tam muội tên vô Ðộng, hay biết các pháp bình Ðẳng như hư không.

Có tam muội tên tịnh trụ, hay thành tựu các Ba la mật.

Có tam muội tên thiện nhiếp, hay thành tựu tứ nhiếp pháp.

Có tam muội tên Ðẳng hạnh, hay thành tựu bốn phạm hạnh.

Có tam muội tên vô ngại quán, hay thành tựu các pháp trợ Ðạo.

Có tam muội tên hải ấn, hay tổng trì tất cả pháp Ðược chư Phật nói.

Có tam muội tên là khôn, hay dứt trừ tất cả giác quán.

Có tam muội tên vô nguyện, hay thành tựu tất cả tịnh nguyện.

Có tam muội tên quyết liễu, hay Ðược thành tựu vô sanh pháp nhẫn.

Có tam muội tên bất thoát, hay Ðược thành tựu chẳng mất pháp Ðã Ðược nghe.

Có tam muội tên vô ế, hay dùng thiện thuyết làm vui Ðẹp chúng sanh.

Có tam muội tên Ðắc phong, hay Ðược thành tựu bửu thủ.

Có tam muội tên pháp vân, hay mưa tất cả các pháp môn.

Có tam muội tên bửu trang nghiêm, hay Ðược thành tựu chẳng dứt Tam bửu thắng chủng.

Có tam muội tên vô tỉ, hay thành tựu các sự nghiệp do trí làm ra.

Có tam muội tên hư không môn, hay Ðược rời lìa tất cả chướng ngại.

Có tam muội tên trí ấn, hay Ðược biết khắp tất cả các pháp.

Có tam muội tên hiện kiến chư Phật, hay Ðược thành tựu Như Lai công Ðức.

Có tam muội tên tuyển trạch tịch tĩnh như ý, hay Ðược thành tựu rời lìa nơi bổn tế.

Có tam muội tên phân biệt nhứt tướng pháp môn, hay Ðược thành tựu Ðời vị lai nói pháp môn nhứt tướng.

Có tam muội tên liễu tri nhứt thiết pháp bình Ðẳng tánh, hay Ðược thành tựu hiểu rõ tất cả kinh sách.

Có tam muội tên tập chư công Ðức, hay Ðược nhuận ích tất cả chúng sanh.

Có tam muội tên du hí thần thông, hay Ðược thành tựu bất tư nghị giải thoát.

Có tam muội tên tự giác, hay nhập vào tạng bí mật của Như Lai.

Có tam muội tên thủ lăng nghiêm, có thể ở trong Bồ Tát Ðịa cho Ðến thị hiện Ðại Niết bàn.

Có tam muội tên biến chí, hay Ðược thành tựu thị hiện thọ sanh các nơi các xứ.

Có tam muội tên quán Ðảnh vương, hay Ðược thành tựu Bồ Tát sở hành không còn dư.

Có tam muội tên vô thắng, hay Ðược thành tựu Như Lai thập lực.

Có tam muội tên vô tận, hay Ðược thành tựu tứ vô sở úy.

Có tam muội tên vô Ðẳng Ðẳng, hay Ðược thành tựu Phật bất cộng pháp.

Có tam muội tên nguyện vương, hay Ðược thành tựu pháp Thanh Văn tự lợi lợi tha công chẳng luống uổng.

Có tam muội tên vô cấu ấn, hay Ðược hiền tiền giác liễu chư Phật pháp.

Có tam muội tên thiện tri giác, hay thành tựu Nhứt thiết trí không có sót dư.

Có tam muội tên tận vô biên, hay thành tựu tất cả Phật sự thọ hành không dư thừa.

Có tam muội Ðược nói ở trên làm Ðầu cho tám vạn bốn ngàn môn tam muội. Mỗi mỗi tam muội dùng vô lượng a tăng kỳ trăm ngàn vạn ức tam muội là quyến thuộc.

Thưa Sanh Nghi Đại Sĩ, các tam muội ấy hay biết rõ các pháp sở hành của tám vạn bốn ngàn loại chúng sanh, cũng hay hiển hiện tám vạn bốn ngàn pháp tụ. Đây là lược nói Bồ Tát hạnh và phần ít pháp tạng của chư Phật. Nhưng Bồ Tát hạnh có vô lượng vô biên và pháp tạng của chư Phật thì bất khả tư nghị vậy”.

Lúc Hư Không Tạng Bồ Tát nói pháp ấy, có một vạn sáu ngàn Bồ Tát Ðược nhu thuận nhẫn và vô lượng tam muội hiện ra. Còn có tám vạn bốn ngàn chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ Ðề.

Đức Thế Tôn khen rằng: “Lành thay, lành thay ! Hư Không Tạng khéo nói pháp môn tam muội ấy, khéo nói thành tựu Như Lai. Như chính thân ông Ðược chứng Ðược hiện hành, pháp ấy chẳng từ người mà Ðược”.

Sanh Nghi Bồ Tát chắp tay hướng về Hư Không Tạng Bồ Tát mà bạch rằng: “Hi hữu Đại Sĩ có thể thành tựu công Ðức bất khả tư nghị như vậy, chẳng từ người khác mà Ðược nhập vào cảnh giới thắng trí Như Lai. Tôi cũng nguyện thích muốn làm cho tất cả chúng sanh Ðược pháp giới Như Lai bất khả tư nghị ấy”.

Lúc bấy giờ Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi Sanh Nghi Bồ Tát: “Thưa Đại Sĩ ! Ai vì Ngài mà Ðặt cho tên Sanh Nghi ấy ?”.

Sanh Nghi Bồ Tát nói: “Thưa Đại Đức Xá Lợi Phất ! Chính Bồ Ðề tâm Ðặt tên Sanh Nghi cho tôi. Tại sao như vậy ? Vì người chẳng phát Bồ Ðề tâm thì ở trong Phật pháp trọn chẳng sanh nghi. Người mà phát tâm Vô thượng Bồ Ðề thì Ðối với tất cả Phật pháp sanh nghi hoặc, tại sao, vì người ấy muốn Ðược biết rõ hiện tiền tất cả Phật pháp.

Ví như Thái Tử của vua Quán Đảnh Sát Đế Lợi thành tựu tướng vua Ðáng nên làm quốc vương, kế sau vua cha phải nối ngôi vua, vì vậy mà Thái Tử ấy luôn luôn thường hỏi pháp trị nước, như là tôi sẽ làm thế nào giám lãnh quốc sự. Cũng vậy, Ðại Bồ Tát cứu cánh tâm Vô thượng Bồ Ðề, kế sau Ðức Như Lai cũng phải nối ngôi tôn quí Vô Thượng Pháp Vương, cũng luôn luôn thường suy nghĩ hỏi han những pháp tương ưng Nhứt thiết trí, như là tôi sẽ phải thế nào thọ trì pháp Phật vô thượng, vì vậy mà ở nơi Phật pháp thường sanh nghi. Vì nhơn duyên ấy nên do nơi Bồ Ðề tâm mà lập nên tên Sanh Nghi này vậy.

Thưa Đại Đức Xá Lợi Phất ! Tôi từ xưa Ðến nay chẳng nhớ có lúc nào gặp chư Phật, chư Bồ Tát, chư thiện tri thức mà chẳng thưa hỏi Phật pháp vi diệu, thế nên tôi chơn thiệt tên là Sanh Nghi vậy”.

Lúc bấy giờ Hư Không Tạng Ðại Bồ Tát bạch Ðức Phật: “Bạch Ðức Thế Tôn ! Cảnh giới chư Phật bất khả tư nghị, những pháp nên làm của chư Bồ Tát cũng vô lượng. Vì vậy nên pháp hành ấy chẳng thể dùng ít thệ trang nghiêm Ðược, chẳng thể dùng ít ngôn thuyết Ðể nói Ðược, chẳng thể dùng Tiểu thừa Ðạo mà thành tựu Ðược.

Lành thay Ðức Thế Tôn ! Ngưỡng mong Như Lai nói Bồ Tát Ðại thệ trang nghiêm và Ðạo trang nghiêm. Bồ Tát do Ðại thệ trang nghiêm và Ðạo trang nghiêm mà có thể thừa Ðại thừa hành chơn thiệt tối thượng xuất thế Ðạo. Vì sẽ Ðược xuất thế Đại thừa vô thượng thành tựu nhứt thiết tự nhiên Ðại trí, dầu chưa thành Nhứt thiết trí mà có thể làm Phật sự lợi ích chúng sanh “.

Đức Phật nói: “Lành thay, lành thay ! Nầy Hư Không Tạng ! Lắng nghe lắng nghe khéo suy nghĩ Ðó, Phật sẽ vì ông mà phân biệt giải nói chư Bồ Tát Ðại thệ trang nghiêm thừa trang nghiêm và Ðạo trang nghiêm.

Nầy Hư Không Tạng ! Bồ Tát có hai mươi pháp trang nghiêm Ðể tự trang nghiêm, Bồ Tát trang nghiêm rồi có thể thừa Đại thừa.

Những gì là hai mươi pháp ?

Nếu có Bồ Tát cứu cánh phát tâm Vô thượng Bồ Ðề với tất cả chúng sanh phát tối thắng Ðại bi, sanh lòng lợi ích chúng sanh. Sanh lòng lợi ích chúng sanh rồi thì có thể trang nghiêm vô thượng Ðại thệ.

Sao gọi là Ðại thệ trang nghiêm ?

Vì Ðộ người chưa Ðược Ðộ mà Ðại thệ trang nghiêm ngồi ghe thuyền lớn vậy.

Vì giải rõ cho người chưa Ðược rõ mà Ðại thệ trang nghiêm thoát hư vọng Ðiên Ðảo vậy.

Vì an ổn người chưa an mà Ðại thệ trang nghiêm an ở vô úy Ðạo vậy.

Vì người chưa Ðược Niết bàn khiến họ Ðược Niết bàn mà Ðại thệ trang nghiêm xả bỏ ngũ ấm gánh nặng vậy.

Vì siêng thường cung cấp Ðủ cho chúng sanh mà Ðại thệ trang nghiêm tinh tiến chẳng giải Ðãi vậy.

Vì chẳng bỏ vô lượng sanh tử mà Ðại thệ trang nghiêm chẳng mỏi nhàm vậy.

Vì vui Ðẹp tất cả chư Phật mà Ðại thệ trang nghiêm hiện tiền cúng dường cung kính vậy.

Vì thọ trì tất cả Phật pháp mà Ðại thệ trang nghiêm chẳng dứt giống Tam bửu vậy.

Vì thọ trì chẳng quên pháp Ðược nghe mà Ðại thệ trang nghiêm Ðược Ðà la ni tổng trì vậy.

Vì khéo thuyết pháp vui Ðẹp tất cả chúng sanh mà Ðại thệ trang nghiêm Ðược biện tài vô ngại vậy.

Vì tập họp vô lượng công Ðức tư lương mà Ðại thệ trang nghiêm thành tựu tướng hảo vậy.

Vì vui Ðẹp tất cả thiện tri thức mà Ðại thệ trang nghiêm kiên cố sở hành vậy.

Vì ngăn tâm tán Ðộng mà Ðại thệ trang nghiêm sanh các thiền giải thoát tam muội vậy.

Vì ở chỗ a lan nhã xả ly thân mạng mà Ðại thệ trang nghiêm Ðược lục thần thông vậy.

Vì muốn Ðại sư tử hống không có kinh sợ mà Ðại thệ trang nghiêm hiện tiền Ðược vô ngã pháp vậy.

Vì muốn Ðến tất cả thế giới mà Ðại thệ trang nghiêm muốn biết tất cả pháp như ảo huyễn như chiêm bao như bóng tượng vậy.

Vì chiếu khắp nghiêm sức tất cả thế giới mà Ðại thệ trang nghiêm thanh tịnh cấm giới thọ trì thành tựu lực dụng vậy.

Vì thành tựu Như Lai thập lực mà Ðại thệ trang nghiêm Ðầy Ðủ các Ba la mật vậy.

Vì thành tựu tứ vô sở úy mà Ðại thệ trang nghiêm như sở thuyết hành vậy.

Vì Ðược trọn Ðủ mười tám pháp bất cộng mà Ðại thệ trang nghiêm như pháp Bồ Tát Ðịa Ðược nghe chẳng hí luận vậy.

Đây là hai mươi pháp Bồ Tát Ðại thệ trang nghiêm. Do sức trang nghiêm ấy nên có thể thừa Đại thừa. Bồ Tát dùng sức tự trang nghiêm ấy dứt nhơn duyên ác Ðạo, Ðây gọi là trang nghiêm. Đầy Ðủ thiện pháp Ðược chư Phật hộ trì, Ðây gọi là trang nghiêm. Tùy chỗ nào muốn Ðến liền Ðược vãng sanh, Ðây gọi là trang nghiêm. Xả bỏ tất cả bào thai hay hóa sanh trước chư Phật, Ðây gọi là trang nghiêm. Hay Ðược thân khẩu ý ba nghiệp vô tranh, Ðây gọi là trang nghiêm. Trụ hạnh bất phóng dật Ðược chư Thiên và thế nhơn cung kính, Ðây gọi là trang nghiêm. Khéo thông Ðạt ba môn giải thoát mà chẳng dứt thiệt tế, Ðây gọi là trang nghiêm. Tất cả vô ngã pháp Ðều Ðược hiện tiền mà vẫn chẳng bỏ Ðại thệ trang nghiêm, Ðây gọi là trang nghiêm. Đây là Bồ Tát Ðầy Ðủ Ðại thệ trang nghiêm.

Thế nào gọi là trang nghiêm Bồ Tát thừa ?

Nầy Hư Không Tạng ! Thừa là nói vô lượng vậy, là vô biên vậy, là khắp cùng tất cả như hư không rộng lớn dung thọ tất cả chúng sanh vậy. Chẳng cùng chung với Thanh Văn, Bích Chi Phật nên gọi là Đại thừa.

Còn nữa, thừa ấy dùng chánh an trụ tứ nhiếp pháp làm vành, dùng chơn tịnh thập thiện nghiệp làm căm, dùng tịnh công Ðức tư lương làm cốt, dùng kiên cố thuần chí cứu cánh làm chốt ốc, dùng thiện thành tựu các thiền giải thoát tam muội làm trục càng thùng xe, dùng tứ vô lượng tâm làm khéo Ðẩy xe, dùng thiện tri thức làm người ngự xe, dùng biết thời biết phi thời làm phát Ðộng, dùng tiếng vô thường khổ không vô ngã là sách tiến, dùng dây báu thất giác làm cương, dùng tịnh ngũ căn làm dây chằng cột, dùng Ðại bi ngay thẳng làm tràng, dùng Tứ chánh cần làm trục, dùng Tứ niệm xứ làm an lành, dùng Tứ thần túc làm tiến mau, dùng thắng Ngũ lực làm giám trận, dùng Bát chánh Ðạo làm tiến thẳng, với tất cả chúng sanh vô ngại huệ minh làm hiên mui, dùng vô trụ lục Ba la mật hồi hướng Nhứt thiết trí, dùng vô ngại tứ Ðế vượt Ðến bờ kia, Ðây là Đại thừa vậy. Thừa này là sở thọ của chư Phật, là sở quán của Thanh Văn và Bích Chi Phật, là sở thừa của tất cả Bồ Tát, là chỗ Ðáng Ðược kính lễ của Thiên Đế Thích, Phạm Thiên và Hộ Thế Tứ Thiên Vương, là chỗ Ðáng cúng dường của tất cả chúng sanh, là chỗ Ðáng ngợi khen của tất cả người trí, là chỗ Ðáng hướng về của tất cả thế gian, tất cả kẻ oán ghét chẳng thể khinh chê Ðược, tất cả các ma chẳng thể phá hoại Ðược, tất cả ngoại Ðạo chẳng thể trắc lượng Ðược, tất cả thế trí chẳng thể tranh Ðược, thừa này thù thắng không có gì hơn Ðược, Ðược các hiền thánh thủ hộ, thừa này tùy nguyện có thể Ðến tất cả Phật giới, vì vậy mà thừa này chiếu sáng khắp nơi vì có thể phóng màn lưới quang minh, thừa này có tiếng lớn vì hay xuất sanh các pháp môn, thừa này chí ý mạnh cứng vì chẳng thối hườn, thừa này bền vững vì chẳng biếng trễ, thừa này Ðứng thẳng vì chẳng khuynh Ðộng, thừa này các sự việc Ðều Ðủ vì hay thỏa mãn tất cả nguyện lành, Ðây gọi là Đại thừa các Ðại thệ trang nghiêm vậy.

Bồ Tát thừa Đại thừa này rồi thì có thể từ một bực Ðịa Ðến một bực Ðịa, Ðây là sự trang nghiêm của thừa này. Có thể xả bỏ lỗi hoạn của các Ðịa, Ðây là sự trang nghiêm của thừa này. Có thể xả bỏ các ma nghiệp, Ðây là sự trang nghiêm của thừa này. Có thể hóa Ðộ các chúng sanh, Ðây là sự trang nghiêm của thừa này. Có thể tịnh Phật thế giới, Ðây là sự trang nghiêm của thừa này. Có thể hiện Bồ Tát thần biến, Ðây là sự trang nghiêm của thừa này. Có thể Ðộ sanh tử khát lớn, Ðây là sự trang nghiêm của thừa này. Có thể nhập vào cảnh giới Như Lai, Ðây là sự trang nghiêm của thừa này.

Nầy Hư Không Tạng ! Thế nào là Bồ Tát trang nghiêm Ðạo ?

Bồ Tát Ðại thệ trang nghiêm và thừa Đại thừa rồi xả bỏ tất cả tà Ðạo. Xả bỏ tà Ðạo rồi hướng Ðến chánh Ðạo chơn thiệt Ðến Nhứt thiết trí.

Sao gọi là chánh Ðạo ? Đó là chẳng bỏ thiện pháp vậy, là hành Ðại nguyện chẳng thối chuyển Bồ Ðề Ðạo vậy, là siêng tu tinh tiến căn lành chẳng mất vậy, là hành bất phóng dật bất Ðộng thuần chí, chẳng chìm nơi sở tác quyết có thể cứu cánh ngưỡng nắm lấy pháp trên, cầu công Ðức tư lương chẳng hề cho là Ðầy Ðủ, cầu trí huệ tư lương trọn chẳng phế bỏ, Ðây là Bồ Tát chánh Ðạo vậy.

Còn nữa, nầy Hư Không Tạng ! Bồ Tát Ðạo ấy là Tứ thiền, Tứ vô lượng tâm, Tứ không Ðịnh, Ngũ thần thông, Tam phước nghiệp, Tam học, Lục ưng kính, Lục niệm, Tứ nhiếp pháp, Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ thần túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác phần, Bát thánh Ðạo phần, Tam giải thoát môn, biết Ấm phương tiện, biết giới phương tiện, biết Nhập phương tiện, biết Tứ Ðế phương tiện, biết Nhơn duyên phương tiện, Ðây gọi là Ðạo.

Bồ Tát thành tựu Ðạo phương tiện nầy Ðều có thể tùy thuận nhập vào Lục Ba la mật Ðạo. Tại sao, vì Bồ Tát Lục Ba la mật Ðạo chẳng cùng chung với Thanh Văn, Bích Chi Phật. Đạo nầy là chỗ Ðược khen ngợi của tất cả chư Phật, từ miệng Như Lai phát ra thành tựu phương tiện.

Bồ Tát biết Ðược thiệt tánh tất cả pháp thì có thể trụ xuất thế gian Lục Ba la mật thánh Ðạo.

Thế nào là trụ ?

Nếu có Bồ Tát thành tựu tự nhiên huệ phương tiện mà cầu Bồ Ðề, ở trong thân ngũ thọ ấm nầy vì như thiệt giác tri mà cầu Bồ Ðề, Bồ Tát này biết sắc vô thường mà hành bố thí, biết sắc khổ, biết sắc vô ngã, biết Ðộn, biết sắc vô trí, biết sắc như huyễn ảo, biết sắc như thủy nguyệt, biết sắc như mộng, biết sắc như bóng, biết sắc như vang, biết sắc như vòng lửa quay, biết sắc không có tướng ngã, tướng nhơn, tướng chúng sanh, tướng thọ mạng, biết sắc không có chủ không có dưỡng dục, biết sắc là rỗng không, là vô tướng, là vô nguyện, biết sắc là vô tác, là vô sanh, là vô khởi, là vô xuất, biết sắc là vô hình, là tịch tĩnh, là ly, là vô chung, là không có thành tựu Ðồng với hư không, biết sắc như tánh Niết bàn, Bồ Tát biết sắc uẩn như vậy mà hành bố thí.

Lúc hành bố thí như vậy, vì thí ly nên Bồ Tát biết sắc cũng ly, vì sắc ly nên bố thí cũng ly. Vì sắc và thí Ðều ly nên biết nguyện cũng ly, vì nguyện ly nên biết sắc và thí cũng ly. Vì sắc thí và nguyện ly nên biết Bồ Ðề cũng ly, vì Bồ Ðề ly nên biết sắc thí và nguyện cũng ly, do Ðó mà biết tất cả pháp Ðồng tánh Bồ Ðề. Đây là Bồ Tát xuất thế gian Đàn Ba la mật vậy.

Như với sắc uẩn, với thọ, tưởng và hành uẩn cũng vậy.

Bồ Tát biết thức vô thường nên hành bố thí, biết thức khổ, vô ngã, là Ðộn, là vô trí, như huyễn ảo, như dã mã, như thủy nguyệt, như mộng, như bóng, như vang, như vòng lửa quay, không có tướng ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mạng, không có chủ, không có dưỡng dục, biết thức rỗng không, không có tướng, không có nguyện, là vô tác, vô sanh, vô khởi, vô xuất, biết thức không có hình, là tịch tĩnh, là ly, biết thức không có chung, không có thành tựu cùng hư không bình Ðẳng, biết thức Ðồng tánh Niết bàn, Bồ Tát biết thức uẩn như vậy mà hành bố thí.

Bồ Tát lúc hành bố thí như vậy, vì thí ly nên biết thức cũng ly, vì thức ly nên biết thí cũng ly, vì thức và thí ly nên biết nguyện cũng ly, vì nguyện ly nên biết thức và thí cũng ly, vì thức thí nguyện ly nên biết Bồ Ðề cũng ly, vì Bồ Ðề ly nên biết thức thí và nguyện cũng ly, mà biết tất cả pháp Ðồng tánh Bồ Ðề. Đây là Bồ Tát xuất thế gian Đàn Ba la mật vậy.

Còn nữa, nầy Hư Không Tạng ! Bồ Tát biết sắc vô thường mà hộ nơi cấm giới, nhẫn Ðến biết sắc như tánh Niết bàn mà hộ nơi cấm giới.

Như sắc với uẩn, với thọ, tưởng và hành uẩn cũng vậy.

Bồ Tát biết thức vô thường mà hộ cấm giới, nhẫn Ðến biết thức uẩn như Niết bàn tánh mà hộ nơi cấm giới.

Vì giới ly nên Bồ Tát biết thức cũng ly, vì thức ly nên biết giới cũng ly, nhẫn Ðến biết tất cả pháp Ðồng Bồ Ðề tánh. Đây là Bồ Tát xuất thế gian Thi Ba la mật vậy.

Như Đàn và Thi Ba la mật, Sằn Ðề, Tỳ lê gia, Thiền Ba la mật cũng vậy.

Bồ Tát biết sắc vô thường mà hành Bát Nhã, nhẫn Ðến biết sắc uẩn như Niết bàn tánh mà hành Bát Nhã.

Như sắc với uẩn, với thọ, tưởng và hành uẩn cũng vậy.

Bồ Tát biết thức vô thường mà hành Bát Nhã, nhẫn Ðến biết thức uẩn như Niết bàn tánh mà hành Bát Nhã.

Vì Bát Nhã bình Ðẳng nên Bồ Tát biết thức bình Ðẳng, vì thức bình Ðẳng nên biết Bát Nhã bình Ðẳng, vì Bát Nhã và thức bình Ðẳng nên biết nguyện bình Ðẳng, vì nguyện bình Ðẳng nên biết Bát Nhã và thức bình Ðẳng, vì biết Bát Nhã thức và nguyện bình Ðẳng nên biết Bồ Ðề bình Ðẳng. Vì biết Bồ Ðề bình Ðẳng nên biết Bát Nhã thức và nguyện cũng bình Ðẳng. Do Ðây mà biết tất cả pháp Ðồng tánh Bồ Ðề. Đây là Bồ Tát xuất thế gian Bát Nhã Ba la mật vậy.

Bồ Tát xuất thế gian Ba la mật Ðạo nầy Ðều có thể nhiếp thủ tất cả các Ðạo, nên phải biết rằng tất cả các Ðạo Ðều nhiếp vào trong ấy cả.

Tại sao gọi Ðó là xuất thế gian ư ?

Nầy Hư Không Tạng ! Ngũ thọ ấm gọi là thế gian. Bồ Tát khéo phân biệt ngũ ấm, quán nó vô thường nhẫn Ðến như tánh Niết bàn rồi, biết trong Ðạo ấy không có thế gian và pháp thế gian, biết Ðạo ấy là vô lậu là xuất thế gian không có buộc dính, Ðây gọi là xuất thế gian. Đây gọi là Bồ Tát Ðạo vậy.

Còn nữa, nầy Hư Không Tạng ! Đạo ấy, Ðó là như thiệt cầu tất cả các pháp phân biệt lựa chọn chẳng thấy tất cả các pháp nối nhau chứa nhóm, không có hai không có khác, nên gọi là Ðạo. Mà Ðạo ấy thì không có ghét thương, vì không có ghét thương nên gọi là bình Ðẳng, vì tư duy quan sát các thừa khác nên gọi là rộng lớn, vì bỏ lìa siểm khúc nên gọi là ngay thẳng, vì bỏ lìa tâm vạy vò nên gọi là không có gian, vì dứt trừ các cái chướng nên gọi là không có buộc trói trệ ngại, vì bỏ lìa quan niệm dục tham sân hại nên gọi là không có bụi dơ, vì chẳng thọ nhận sắc, thanh, hương, vị, xúc nên gọi là an vui, vì bỏ lìa phiền não chúng giặc nên gọi là vô úy, vì có thể Ðến Niết bàn nên gọi là xuất yếu, vì thành tựu Ðịnh tịch tĩnh nên gọi là thanh tịnh thủy huệ, vì khéo hiểu biết nên gọi là thường sáng, vì khéo tu tâm từ nên gọi là vui mát, vì chẳng bỏ Ðại bi nên gọi là tiến không nhàm, vì thường hành hỉ nên gọi là vui vẻ, vì thành tựu tâm xả nên gọi là không có lầm lỗi, vì thuận pháp tứ nhiếp nên gọi là giàu lớn, vì thành tựu sức thí món ăn Ba la mật nên Ðược Nhứt thiết trí biện tài, vì Ðược chư Phật khéo hộ trì nên gọi là qua khỏi pháp hành tứ ma, vì chẳng bỏ bổn nguyện nên gọi là tiến không trệ ngại, vì vượt qua dòng các phiền não nên gọi là vô thượng, vì tất cả thế gian không có gì có khả năng hàng phục Ðược nên gọi là không có Ðáp Ðối.

Đạo ấy thành tựu các công Ðức như vậy và vô lượng công Ðức khác. Tất cả Bồ Tát Đại Sĩ do thừa Ðạo ấy nên có thể qua lại giáo hóa vô lượng chúng sanh, Ðây là trang nghiêm. Không có phiền não mà hiện vào phiền não, Ðây là trang nghiêm. Quán vô sanh mà chẳng chứng thiệt tế, Ðến môn không vô tướng vô tác mà hay giáo hóa những chúng sanh hành các kiến, các tướng, các nguyện, Ðây là trang nghiêm. Hiện nhập Thanh Văn, Duyên Giác Niết bàn mà chẳng bỏ sanh tử, Ðây là trang nghiêm. Hiện thọ sanh các loài mà chẳng Ðộng pháp tánh, hiện nói tất cả ngôn giáo mà chẳng Ðộng vô ngôn, Ðây là trang nghiêm. Hay hiện tất cả Phật sự mà chẳng bỏ Bồ Tát hạnh, Ðây là trang nghiêm.

Đây là Bồ Tát Ðại thệ trang nghiêm, Đại thừa trang nghiêm và Ðạo trang nghiêm vậy.

Bồ Tát dùng Ðại thệ trang nghiêm Ðể tự trang nghiêm nên có thể thừa Đại thừa thuận xuất thế gian thánh Ðạo, dầu chưa Ðược Nhứt thiết trí mà vì chúng sanh có thể hiện làm Phật sự”.

Lúc ấy trong Ðại chúng có một Bồ Tát tên là Bửu Đức hỏi Hư Không Tạng Bồ Tát: “Bạch Đại Sĩ ! Ngài Ðã tu xuất thế gian thành Ðạo này rồi chăng ?”.

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: “Đã tu, thưa Đại Sĩ”.

Bửu Đức Bồ Tát hỏi: “Ngài tu thế nào ?”.

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: “Như Ðược thanh tịnh Ðạo, tôi tu như vậy”.

Bửu Đức Bồ Tát hỏi: “Thế nào là thanh tịnh Ðạo ?”.

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: “Thưa Đại Sĩ ! Vì ngã tịnh nên Ðạo tịnh”.

Bửu Đức Bồ Tát hỏi: “Thế nào là ngã tịnh ?”.

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: “Như tam thế tịnh”.

Bửu Đức Bồ Tát hỏi: “Thế nào là tam thế tịnh ?”.

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: “Sắc thuở quá khứ tịnh vì sắc bổn tế không có Ðến vậy. Sắc thuở vị lai cũng tịnh vì sắc vị lai không có Ði vậy. Sắc thuở hiện tại cũng tịnh vì sắc hiện tại không trụ vậy. Đây là tam thế tịnh.

Thọ tưởng hành nhẫn Ðến thức cũng như vậy.

Nầy Đại Sĩ ! Vì thế trong tam thế tịnh nên ngã tịnh. Vì ngã tịnh nên gọi là Ðạo tịnh”.

Bửu Đức Bồ Tát hỏi: “Thưa Đại Sĩ ! Đạo tịnh như vậy hay làm Ðược gì ?”.

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: “Hay làm Ðại trí huệ quang minh. Do sức trí huệ minh ấy nên có thể biết tất cả pháp quá khứ và vị lai tế”.

Bửu Đức Bồ Tát lại hỏi: “Sao gọi là pháp quá khứ vị lai tế ?”.

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: “Tất cả pháp quá khứ tế vô sanh, nơi vị lai tế vô diệt, Ðây gọi là biết pháp quá khứ vị lai tế”.

Bửu Đức Bồ Tát hỏi: “Nếu thấy pháp quá khứ vị lai tế là thấy những gì ?”.

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: “Thấy hai Ðều ly”.

Bửu Đức Bồ Tát hỏi: “Sao gọi là hai Ðều ly ?”.

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: “Là ly Ðoạn và ly thường. Nầy Đại Sĩ ! Nếu có thấy pháp sanh và trụ trước nơi pháp thì là Ðoạn kiến và thường kiến. Vì có sanh thì có diệt. Có sanh có diệt thì là kiến chấp Ðoạn thường.

Nếu chẳng thấy có pháp từ tự tánh tha tánh sanh thì thấy nhơn duyên. Nếu thấy nhơn duyên thì thấy pháp. Nếu thấy pháp thì thấy Như Lai. Nếu thấy Như Lai thì thấy Như. Nếu thấy như thì chẳng trệ nói Ðoạn cũng chẳng chấp thường. Nếu chẳng thường chẳng Ðoạn thì không có sanh không có diệt”.

Bửu Đức Bồ Tát lại hỏi: “Bạch Đại Sĩ ! Nếu vô sanh vô diệt thì sao lại có danh số ?”.

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: “Vì giả ngôn thuyết mà gọi Ðó là pháp vậy. Như do có không rỗng nên có tên sắc sai biệt, Ðó là những màu sắc xanh vàng Ðỏ trắng, màu tím, màu pha lê, màu lưu ly, màu thô, màu tế và những hình sắc dài vắn vuông tròn. Hư không chẳng bị những sắc hình ấy làm nhiễm, mà tất cả sắc hình ấy tự tánh cũng rỗng không. Tất cả các pháp cũng như vậy Ðồng tánh hư không, chỉ giả ngôn thuyết mà có danh số thôi. Những là thiện pháp, bất thiện pháp, thế gian pháp, xuất thế pháp, pháp nên làm, pháp chẳng nên làm, pháp hữu lậu, pháp vô lậu, pháp hữu vi, pháp vô vi. Nhưng Bồ Tát chẳng làm những việc phi phước. Việc phước Ðược làm Ðều là hư dối chẳng phải chơn thiệt chẳng phải kiên cố.

Bồ Tát ấy biết tất cả hạnh và phi hạnh bình Ðẳng, bỏ lìa tất cả tướng. Vì thành tựu sức Bát Nhã Ba la mật nên hồi hướng Bồ Ðề, mà cũng chẳng thấy Bồ Ðề có tăng có giảm. Bồ Tát ấy chẳng ở trong sắc cầu Bồ Ðề, cũng chẳng ở trong thọ, tưởng, hành, thức cầu Bồ Ðề. Bồ Tát vì không cầu nên trụ trong khối thanh tịnh giới, tu vô nguyện giải thoát môn Ðầy Ðủ tất cả nguyện, biết tánh sanh tử Ðồng tánh Niết bàn. Bồ Tát ấy dầu nhập cứu cánh Niết bàn mà vì Ðoạn trừ chúng sanh hư vọng Ðiên Ðảo nên hành Bồ Tát hạnh nhưng cũng không có hành pháp Ðược hành. Bồ Tát như vậy nhập vào nơi Niết bàn hạnh Bồ Tát hạnh.

Nầy Đại Sĩ ! Phàm có sở tác Ðều là sanh tử, không có sở tác Ðây gọi là Niết bàn. Bồ Tát sở hành là không có sở tác. Vì vậy mà Bồ Tát gọi là nhập vào Niết bàn hạnh Bồ Tát hạnh.

Nầy Đại Sĩ ! Phàm có nhiễm trước y dựa vọng tưởng hí luận lấy tướng Ðây gọi là sanh tử. Không có nhiễm trước không y dựa không vọng tưởng không hí luận không lấy tướng, Ðây gọi là Niết bàn. Bồ Tát do tu không nhiễm trước y dựa vọng tưởng hí luận thủ tướng hành Bồ Tát hạnh Ðây gọi là Bồ Tát nhập Niết bàn hạnh Bồ Tát hạnh”.

Lúc Hư Không Tạng Bồ Tát nói pháp ấy, có năm trăm Bồ Tát Ðược Vô sanh Pháp nhẫn.

Đức Phật khen rằng: “Lành thay lành thay Hư Không Tạng Bồ Tát khéo nói pháp tánh xứng với Bồ Tát hạnh chơn thiệt không có khác”.

Hư Không Tạng Bồ Tát bạch rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn ! Đây là sự khéo lành của Ðức Thế Tôn, tại sao, vì do Phật huệ chiếu sáng nên chúng tôi Ðược có phần luận biện này.

Dụ như ánh sáng mặt nhựt chiếu Diêm Phù Đề, do sức sáng mặt nhựt mà người có mắt Ðược thấy các sắc tượng làm những sự nghiệp.

Do sức Ðại trí của Phật chiếu tất cả chúng sanh và các thế giới khác cũng như vậy. Chư pháp thiệt tánh chẳng thể ngôn thuyết, các ngôn thuyết Ðồng với hư không. Vì vậy nên các pháp chẳng thể Ðược danh số. Phàm pháp có danh số thì có hạn lượng. Phàm có hạn lượng thì là hữu vi. Phàm là hữu vi thì biết Ðược dứt Ðược tu Ðược. Phàm là biết Ðược dứt Ðược tu Ðược thì có Ðắc có chứng. Nếu ở nơi pháp có danh số mà tư duy tính lường phân biệt chẳng thấy có pháp Ðược biết, Ðược dứt, Ðược tu, Ðược Ðắc, Ðược chứng thì không có Ðắc, tại sao, vì tất cả pháp không có sanh vậy. Có thể chơn chánh thấy các pháp như vậy thì ở trong các pháp chẳng sanh ái nhiễm. Vì không có ái nhiễm thì không có trụ trước. Vì không trụ trước thì không kề cận. Vì không kề cận thì không thọ nhận không nắm lấy. Sao gọi là không thọ không lấy ? Đó là sắc hoặc thường hoặc vô thường Ðều không thọ không lấy. Thọ tưởng hành và thức hoặc thường hoặc vô thường Ðều không thọ không lấy.

Sắc hoặc khổ hoặc lạc, hoặc có ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh Ðều không thọ không lấy. Thọ tưởng hành và thức hoặc khổ lạc, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh bất tịnh Ðều không thọ không lấy.

Sắc hoặc không phi không Ðều không thọ không lấy. Thọ tưởng hành và thức hoặc không phi không Ðều không thọ, không lấy.

Sắc hoặc ly phi ly Ðều không thọ không lấy. Thọ tưởng hành thức hoặc ly phi ly Ðều không thọ không lấy.

Bồ Tát do không thọ không lấy nên Ðược vô thọ tam muội. Bồ Tát trụ trong tam muội vô thọ này rồi, chư Phật Thế Tôn dùng tâm thông vô thượng thọ ký cho Bồ Tát ấy. Bồ Tát ấy dầu nhập Niết bàn thấy tất cả chúng sanh cứu cánh Ðồng tánh Niết bàn, vì giáo hóa chúng sanh nên chẳng bỏ Ðại thệ trang nghiêm và Bồ Tát Ðại bi. Bồ Tát dùng chánh trí huệ thấy tất cả các hành ly tướng. Vì Bồ Tát dùng pháp nhãn thấy rõ ràng ly tướng nên có thể nói Như Lai trí minh”.

Bấy giờ Bửu Đức Bồ Tát hỏi Hư Không Tạng Bồ Tát: “Bạch Đại Sĩ ! Sao Ngài cớ gì tự ẩn trí của mình mà nói là do trí lực của Như Lai ?”.

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: “Nầy Đại Sĩ ! Đức Như Lai Ðâu chẳng dạy rằng nên ẩn lành tốt mà hiển bày dở xấu ư !

Nầy Đại Sĩ ! Tôi lại hỏi Ngài tùy ý Ngài Ðáp.

Nầy Đại Sĩ ! Nếu lúc không có Long Vương A Na Bà Đạt Đa thì ao A Nậy Đạt có thể chảy ra thành bốn con sông Ðể chúng sanh thọ dụng chăng ?”.

Bửu Đức Bồ Tát nói: “Không có, thưa Đại Sĩ “.

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: “Nầy Đại Sĩ ! Nếu không có Ðức Như Lai thì không có pháp luật, Bồ Tát không do Ðâu Ðể thành biển Ðại trí, cũng chẳng thể lợi ích tất cả chúng sanh. Do Ðức Như Lai xuất thế mới có pháp luật mà chư Bồ Tát Ðược thành biển Ðại trí, cũng có thể hóa Ðộ tất cả chúng sanh. Vì thế nên biết rằng tất cả Bồ Tát Ðược biện thuyết có thể dùng Ðó Ðể lợi ích chúng sanh Ðều là thần lực của Như Lai “.

Bửu Đức Bồ Tát lại hỏi: “Bạch Đại Sĩ ! Như Lai biện có thể chuyển Ðến tâm Bồ Tát chăng ?”.

Hư Không Tạng Bồ Tát Ðáp: “Không có”.

Bửu Ðức Bồ Tát hỏi: ” Như vậy thì thế nào vì do thần lực Như Lai mà Bồ Tát Ðưọc biện thuyết ư ?”

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: ” Nầy Ðại Sĩ! Ví dụ như khéo trồng cây ăn trái, nhơn duyên hòa hiệp bèn có trái có hột, nhưng cây chẳng phải là trái, mà trái thì chẳng rời cây.

Ðức Như Lai thuyết pháp, Bồ Tát ở trong pháp ấy vì khéo thuận hành bèn sanh Ðại trí minh biện. Nhơn nơi Ðức Phật thuyết pháp mà Ðược, cũng không có chuyển”.

Bửu Ðức Bồ Tát nói: ” Thật là hi hữu, thưa Ðại Sĩ! Nhơn duyên sanh pháp thậm thâm khó suy lường như vậy”.

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: “Nầy Ðại Sĩ! Tất cả các pháp cứu cánh vô sanh”.

Bửu Ðức Bồ Tát nói: “Nhưng các pháp nói là từ nhơn duyên sanh”.

Hư Không Tạng Bồ Tát hỏi: ” Nầy Ðại sĩ! Các pháp sanh rồi là sanh hay chưa sanh là sanh ?”.

Bửu Ðức Bồ Tát nói: ” Sanh rồi thì chẳng sanh, chưa sanh cũng chẳng sanh”.

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: “Vì vậy nên lìa vô sanh”.

Bửu Ðức Bồ Tát hỏi: ” Trong duyên có nhơn chăng ?”.

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: ” Không có”.

Bửu Ðức Bồ Tát hỏi:”Trong nhơn có duyên chăng ?”.

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: “Không có “.

Bửu Ðức Bồ Tát hỏi: ” ý Ðại Sĩ thế nào, hoặc nhơn hoặc duyên tự nó thiệt có tánh chăng ?”.

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: “Không có”.

Bửu Ðức Bồ tác hỏi: ” ý Ðại sĩ thế nào, các pháp không có nhơn duyên sanh ư ?”.

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: “Chẳng phải vậy. Nầy Ðại Sĩ! Vì thế nên tất cả pháp không có tự tánh không sanh không khởi không xuất. Do vì duyên chẳng sanh nhơn, nhơn chẳng sanh duyên, tự tánh chẳng sanh tự tánh, tha tánh cũng chẳng sanh tha tánh, tự tánh chẳng sanh tha tánh, tha tánh chẳng sanh tự tánh. Vì vậy nên nói tất cả pháp tự tánh vô sanh. Vì như vô sanh vô diệt nên pháp tánh thiệt tế cũng vô sanh vô diệt. Như như pháp tánh thiệt tế là sở giác của Như Lai. Tất cả các pháp cũng như vậy, vô sanh vô diệt”.

Bửu Ðức Bồ Tát hỏi: ” Thưa Ðại Sĩ! Như Lai cũng chẳng xuất thế ư ?”.

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: ” Việc ấy không nên nói. Tại sao, vì Ðức Như Lai nơi tất cả pháp Ðều chẳng thể nói Ðược, chẳng nói xuất cũng chẳng Ðược nói chẳng xuất.

Nếu có ai hỏi rằng Ðức Như Lai xuất thế ư hay chẳng xuất thế ư ? Người trí vì chẳng hủy báng Như Lai nên thôi chẳng trả lời”.

Bửu Ðức Bồ Tát lại hỏi: “Nên thôi như thế nào ? “.

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: ” Như pháp tánh trụ, nên thôi như vậy”.

Bửu Ðức Bồ Tát hỏi: ” Thế nào là pháp tánh trụ ?”.

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: ” Như hư không tánh trụ, trụ không có sở trụ, pháp tánh cũng trụ như vậy. Như pháp tánh chúng sanh tánh cũng vậy. Như chúng sanh tánh tất cả các pháp cũng vậy. Như tất cả pháp, Như Lai cũng trụ như vậy, trụ không có sở trụ. Vì không có trụ xứ nên không có trụ không có chẳng trụ. vì vậy nên chẳng Ðược nói là sanh chẳng Ðược nói là diệt”.

Bửu Ðức Bồ Tát nói: ” Thưa Ðại Sĩ! Sự xuất thế của Như Lai thiệt là thậm thâm thậm thâm vậy”.

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: “Nầy Ðại Sĩ! Nếu có thể như thiệt biết rõ duyên sanh pháp thì gọi là Phật xuất thế”.

Bửu Ðức Bồ Tát hỏi: “Thưa Ðại Sĩ! Ai sẽ hiểu thuyết nầy ?”.

Hư không Tạng Bồ Tát nói: “Nầy Ðại Sĩ! Nếu là người ở trong tất cả các pháp không Ðược có tăng giảm”.

Bửu Ðức Bồ Tát hỏi:”Thưa Ðại Sĩ! Sao gọi là tăng ?”.

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: “Nầy Ðại Sĩ! Tăng ấy Ðó là tăng thượng cú, nghĩa là ở trong không có mà vọng sanh tăng thượng vậy.

Vô tăng thượng cú là bình Ðẳng cú, là vô Ðẳng cú, là vô văn tự cú,là vô cú, là vô giáo cú.

Trong vô giáo ấy không có cú không có tăng thượng cững không có tâm ý thức, vì vậy nên là chẳng phải cú.

Dụ như dấu chim bay trong hư không, cứu cánh Ðã không có, sẽ không có, mà nói là dấu chim bay. Cũng vậy, ở trong tất cả các pháp không có tự cú. Không có cú mà giả gọi là cú, như không có dấu chim mà giả gọi là dấu chim.

Cũng vậy, Như Lai xuất thế cũng không có xuất mà giả gọi là xuất. Vì vậy mà người trí chẳng nên thủ trước. Vì không thủ trước nên giả gọi là xuất mà thường y chỉ nơi vô xuất. Tại sao, vì vô sanh là thiệt tánh của tất cả pháp vậy. Vô sanh thì vô sở hữu, vì vậy mà gọi tất cả các pháp vô sở hữu là tánh. Vô sở hữu tánh không có trụ xứ. vì vô trụ xứ nên là vô trụ tế. Tất cả các pháp vô trụ tế tức là thiệt tế. Thiệt tế tức là nhứt thiết pháp tế. Vì vậy nên nói tất cả các pháp với thiệt tế bình Ðẳng.

Nói thiệt tế ấy là ba trường phần Ðoạn tế, là bất khả hoại tế, là bất Ðoạn bất thường tế, là như thiệt tế, là tam thế Ðẳng tế vậy.

Dùng những tế như vậy Ðều dồng nhứt thiết pháp tế. Tại sao, vì thiệt tế với ngã tế không hai không khác.Vì thiệt tế với nhơn tế, chúng sanh tế, thọ mạng tế, dưỡng dục tế không hai không khác. Thiệt tế với ngã kiến tế không hai không khác. Ở trong ngã kiến không có thiệt tế. Nếu có thể thiệt biết như vậy thì không có hai mươi thứ ngã kiến. Tại sao, vì trong thiệt tế không có một, không có nhiều vậy.

Thiệt tế Ðồng với bình Ðẳng, không lai không khứ, không tận không diệt, vì thiệt tế cứu cánh rỗng không vậy. Vì vậy mà nói tất cả các pháp là vô tận môn, là vô tận tế.

Niết bàn ấy vô tận, nghĩa là rỗng không vậy, là vô tánh vậy. Như Niết bàn vô tận vô bất tận, tất cả các pháp cũng như vậy. Vì vậy nên nói tất cả pháp Ðồng với Niết bàn.

Các Pháp vô Ðẳng vô bất Ðẳng vì không không có sánh Ðôi vậy. Dụ như hư không không có sánh Ðôi, các pháp cũng như vậy.

Nếu người thấy có sánh Ðôi nói có Niết bàn, Ðã nói có Niết bàn bèn cầu Niết bàn thì trái nghịch với bực hiền thánh.

Vì Ðã nói có Niết bàn bèn nói: nầy nên biết, nầy nên dứt, nầy nên chứng, nầy nên tu, nầy nên sanh, nầy nên diệt. Người hành chẳng tròn Ðủ như vậy thì chẳng thể như thiệt biết, chẳng thể như thiệt thấy, thì chẳng biết chẳng hiểu chẳng thấy. Vì chẳng biết chẳng hiểu tất cả các pháp nên thủ trước nơi văn tự, ở trong các pháp vọng sanh tranh cạnh. Người sanh sự tranh cạnh thì ở trong Phật pháp là kẻ Ðáng thương vậy.

Tại sao, vì như Ðức Thế Tôn dạy rằng: pháp Sa Môn chẳng nên tranh cạnh “.

Bấy giờ Tôn giả A Nan bạch Ðức Phật rằng: ” Bạch Ðức Thế Tôn thật là hi hữu. Ðại Sĩ nầy biện tài có thể rất sâu rành rẽ khó hiểu khó lường như vậy. Nơi tất cả pháp chẳng trừ người thọ, như thân tự chứng có thể nói như vậy”.

Hư Không Tạng Bồ Tát nói với Tôn giả A Nan: “Thưa Ðại Ðức! Tôi Ðã tự thân chứng biết, vì vậy nên như chỗ Ðược chứng biết có thể nói như vậy.Tại sao, vì thân tôi tức là hư không. Do hư không mà chứng biết tất cả các pháp Ðược ấn hư không ấn.

Thưa Ðại Ðức A Nan! Phàm chư Bồ Tát tu thân khéo hiểu Ðược thân thì có thể dùng thân ấy làm các Phật sự hiện các loại hình tượng mà cũng chẳng thối nơi chơn pháp thân, lại cũng chẳng rời thân do kiết sử nghiệp nhơn sanh, và lại chẳng quá nơi bình Ðẳng pháp tánh biến hiện hoá thân Ðều Ðược tự tại, ở tất cả Phật quốc Ðộ khắp có thể thị hiện, trọn rồi chẳng ẩn thân ứng hóa. Tất cả việc làm ấy Ðều có thể gọi Ðó là thân chứng hành”.

Tôn giả A Nan hỏi: Bạch Ðại Sĩ! ở nơi pháp phải chăng Ngài có chứng ư ?”.

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: “Thưa Ðại Ðức A Nan! Tôi chẳng thấy pháp rời nơi thân, thân rời nơi pháp “.

Tôn giả A Nan hỏi:”Nếu Ðại Sĩ thân chứng,Ðại Sĩ Ðược quả A La Hán ư?”.

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: “Thưa Ðại Ðức! Không có Ðược chẳng Ðược, vì vô sở Ðắc vậy. Nơi tất cả các pháp không có phiền não hành vì ly tham dục sân hận ngu si vậy. Ðây gọi là A La Hán”.

Tôn giả A Nan hỏi: “Thưa Ðại Sĩ! Lúc nào Ðại Sĩ sẽ bát Niết bàn ?”.

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: ” Thưa Ðại Ðức! Bực A La Hán không có bát Niết bàn, vì biết tất cả các pháp cứu cánh là Niết bàn, cũng không có quan niệm Niết bàn.

Hàng phàm ngu có phân biệt hí luận nói rằng Ðây là sanh tử Ðây là Niết bàn. Bực A La Hán không có hí luận như vậy.

Tôn Giả A Nan nói: ” Thưa Ðại Sĩ! Như tôi hiểu nghĩa Ðại Sĩ nói thì luận về Bồ Tát chẳng nên nói là phàm phu, cũng chẳng nên nói là hữu học, chẳng nên nói là vô học. Tại sao, vì bỏ lìa hai tướng vậy”.

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: “Lành thay lành thay, thưa Ðại Ðức A Nan! Do vì chẳng phải phàm phu, chẳng phải hữu học, chẳng phải vô học, nên các nơi các chỗ Ðều có thể thị hiện, nơi tất cả chổ ấy cũng chẳng thủ trước”.

Lúc ấy có năm trăm vị Ðại Thanh Văn Ðồng Ðem y Uất Ða la tăng của mình mặc dâng lên Hư Không Tạng Bồ Tát. Dâng y rồi Ðồng thanh nói rằng: “Có chúng sanh nào thâm tâm phát Vô thượng Bồ Ðề mau Ðược lợi lành chẳng rơi ra ngoài pháp tạng Ðại trí như vậy”.

Những y Uất Ða la tăng Ðược dâng cúng ấy liền chẳng còn hiện. Chư Ðại Thanh Văn hỏi Hư Không Tạng Bồ Tát: “Bạch Ðại Sĩ! Những y ấy Ðến ở Ðâu vậy ?”.

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: ” Vào trong tạng của tôi. Ðức Như Lai biết Ðó sao các Ngài chẳng hỏi”.

Chư Ðại Thanh Văn bạch Ðức Phật: ” Bạch Ðức Thế Tôn! Những y ấy Ðến ở chỗ nào vậy ?.

Ðức Phật nói: “Nầy chư Tỳ Kheo; Phương Ðông quá vô lượng a tăng kỳ chư Phật quốc Ðộ có thế giới tên là Ca Sa Tràng, Phật hiệu Sơn Vương Như Lai. Hư Không Tạng Bồ Tát Ðã khiến những y ấy Ðến thế giới Ðó”.

Chư Ðại Thanh Văn lại nói: ” Bạch Ðức Thế Tôn; Do nhơn duyên gì mà Hư Không Tạng Bồ Tát khiến y Ðến thế giới Ðó ?”.

Ðức Phật nói: “Muốn dùng những y ấy ở thế giới kia làm Phật sự. Ở nơi Ðây Hư Không Tạng Bồ Tát nói pháp môn như hư không Ðẳng tam muội. Tam muội nầy ở trong những y ấy sẽ diễn pháp âm Ðó: Trong thế giới Ca Sa Tràng có vô lượng a tăng kỳ chúng Bồ Tát do nghe pháp âm Ðó nên Ðược vô sanh pháp nhẩn.

Chư Tỳ Kheo nên biết Bồ Tát làm các thứ phương tiện như vậy lợi ích chúng sanh”.

Lúc nói pháp nầy ở trên hư không mưa vô lượng hoa màu hoàng kim, trùm khắp nhà Diệu Bửu Trang Nghiêm Ðường. Trong các kim sắc hoa ấy phát xuất pháp âm như vầy:

Có chúng sanh nào tin pháp Ðược Hư Không Tạng Bồ Tát nói, khéo thuận tư duy phân biệt nghĩa ý thì sẽ Ðược ấn bất thối chuyển ấn, quyết Ðịnh Ðược Ðến Ðạo tràng Bồ Ðề Vô Thượng”.

Tôn giả A Nan bạch Ðúc Phật: “Bạch Ðức Thế Tôn; Ðây là thoại ứng gì, mưa kim sắc hoa ấy phát ra diệu âm như vậy vui Ðẹp chúng sanh ?”.

Ðức Phật nói: “Nầy A Nan; Có Phạm Thiên tên Quang Minh Trang Nghiêm từ cung trời Phạm Thiên cùng với sáu mươi tám trăm ngàn Phạm chúng Ðều muốn Ðến nơi nầy”.

Ðức Phật nó xong, chúng Phạm Thiên bỗng Ðến tại Diệu Bửu Trang Nghiêm Ðường Ðảnh lễ chân Phật hữu nhiễu bảy vòng rồi Ðứng một phía chắp tay hướng lên Ðức Phật bạch rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn; Thật là hi hữu, Hư Không Tạng Bồ Tát bất khả tư nghị thanh tịnh giới tụ tịnh tu các thiền Ðịnh, thiện phân biệt Ðại trí huệ hay du hí các Ðại thần thông, khéo hay Ðầy Ðủ Ðại hoằng thệ nguyện, khéo hay thành tựu Ðại quyền phương tiện, khéo hay trang nghiêm thân khẩu ý, khéo ở trong các pháp thành tựu sức Ðại tự tại. Thân khẩu và ý của Hư Không Tạng Bồ Tát Ðây Ðều không có làm không có phân biệt ức tưởng mà hay hiện thần biến trang nghiêm bất khả tư nghị , lại hay hiển hiện vô lượng trăm ngàn pháp môn, cũng hay xuất nhập trăm ngàn các môn tam muội, từ xưa Ðến nay thường thích tu tập thành tựu các thiện pháp.

Bạch Ðức Thế Tôn! Chư Bồ Tát chẳng nên ở nơi quá khứ xưa tu thiện căn mà chẳng biết nhơn của nó, tập họp các thiện căn cũng nên không nhàm.Tại sao, vì do thuở trước vun trồng thiện căn quả báo nên hay hiện thần biến bất khả tư nghị như vậy “.

Ðức Phật nói với Phạm Thiên: “Ðúng vậy Ðúng vậy, như lời Phạm Thiên nói. Chư Bồ Tát Ðã thành tựu thiện căn tư lương và xuất yếu trí phương tiện nên có thể hiện những sự công Ðức trang nghiêm bất khả tư nghị như vậy, không có ức tưởng phân biệt cũng không chẳng phân biệt”.

Phạm Thiên bạch Ðức Phật: “Bạch Ðức Thế Tôn; Thế nào là Bồ Tát tập họp thiện căn tư lương và xuất yếu trí phương tiện ?”.

Ðức Phật bảo Quang Minh Trang Nghiêm Phạm Thiên:”Nầy Phạm Thiên; Thiện căn có ba thứ: Ðó là vô tham thiện căn, vô sân thiện căn và vô si thiện căn. Ðây gọi là thiện căn.

Tư lương là bỏ tất cả sở hữu tu tâm từ quán các pháp. Ðây gọi là tư lương.

Phương tiện là bỏ lìa phàm phu Ðịa, chẳng mong muốn Thanh Văn Ðịa và Bích Chi Phật Ðịa mà tiến vào chư Bồ Tát Ðịa. –Dây gọi là phương tiện.

Trí là trí biết bỏ pháp bất thiện, trí biết tập họp thiện pháp, trí biết hồi hướng Bồ Ðề. –Dây gọi là trí.

Bồ Tát hay an trụ những chánh hạnh như vậy, Ðây gọi là xuất yếu.

Còn nữa, thiện căn là hay phát tâm Vô thượng Bồ Ðề. Tư lương là cầu tất cả thiện pháp. Phương tiện là thiện căn Ðã làm hay chưa làm trọn chẳng bỏ quên. Trí là biết tâm như ảo huyễn biến hóa. Hiện tiền biết rõ các pháp như vậy, Ðây gọi là xuất yếu.

Còn nữa, thiện căn là thuần chí. Tư lương là phát Ðộng. Phương tiện là thâm tâm. Trí là không trì, không Ðộng, không năng. Thực hành các pháp như vậy gọi là xuất yếu.

Còn nữa, thiện căn là dục thiện pháp. Tư lương là thắng tiến. Phương tiện là an trụ bất phóng dật, trí là xả bỏ tất cả sở y. Nếu hay hành các hạnh như vậy thì gọi là xuất yếu.

Còn nữa, thiện căn là chánh tính. Tư lương là chẳng bỏ bổn nguyện. Phương tiện là chẳng bỏ niệm và Ðịnh. Trí là huệ. Hay chánh trụ các hạnh như vậy thì gọi là thành tựu thiện căn tư lương trí phương tiện xuất yếu.

Còn nữa, thiện căn là làm vui Ðẹp tất cả thiện tri thức. Tư lương là cung cấp vật cần dùng cung kính cúng dường tôn trọng lợi ích. Phương tiện là nơi các thiện tri thức tưởng như Phật. Trí là biết thời và phi thời mà hỏi pháp. Hay chánh trụ các hạnh như vậy thì gọi là xuất yếu.

Còn nữa, thiện căn là thiện thuận nghe pháp. Tư lương là thọ trì chẳng bỏ quên. Phương tiện là theo pháp Ðược nghe có thể khéo quán. Trí là theo pháp Ðược nghe mà làm. Hay chánh trụ các hạnh như vậy thì gọi là xuất yếu.

Còn nữa, thiện căn là gặp Phật vui mừng. Tư lương là hộ trì tất cả Ba la mật các nhiếp pháp và các pháp trợ Ðạo. Phưong tiện là hay từ một Ðịa Ðến một Ðịa. Trí là Ðược vô sanh pháp nhẫn. Bồ Tát hay chánh trụ các hạnh như vậy thì gọi là xuất yếu”.

Quang Minh Trang Nghiêm Phạm Thiên bạch rằng: ” Bạch Ðức Thế Tôn Dức Như Lai có thể dùng nghĩa bốn câu mà tổng nói tất cả Bồ Tát hạnh. Bạch Ðức Thế Tôn; Tất cả Phật pháp phải nên ở trong Ðó mà cầu”.

Hư Không Tạng Bồ Tát nói với Phạm Thiên: “Nầy Phạm Thiên; Một câu cũng có thể nhiếp hết tất cả Phật pháp, Ðó là câu ly dục, tại sao, vì tất cả Phật pháp Ðồng với ly dục. Như Phật pháp tất cả pháp cũng vậy.

Còn nữa, một câu rỗng không tổng nhiếp tất cả Phật pháp. Tại sao, vì tất cả Phật pháp Ðồng với rỗng không vậy. Như Phật pháp, tất cả pháp cũng vậy.

Còn có các một câu tổng nhiếp tất cả Phật pháp, Ðó là câu vô tướng, là câu vô nguyện, là câu vô tác, là câu vô sanh, là câu vô khởi, là câu như, là câu pháp tánh, là câu chơn tế, là câu ly, là câu diệt, là câu tận, là câu Niết bàn tổng nhiếp tất cả Phật pháp, tại sao, vì tất cả Phật pháp Ðồng với Niết bàn vậy. Như Phật pháp tất cả các pháp cũng vậy.

Nầy Phạm Thiên; Ðó là một câu tổng nhiếp tất cả Phật pháp, tại sao, vì những câu như vậy Ðều chẳng phải câu, tất cả Phật pháp chẳng phải câu mà giả danh là câu.

Còn nữa, nầy Phạm Thiên; Dục là ly dục cú, tại sao, vì tánh ly dục là dục vậy. Tất cả Phật pháp cũng Ðồng tánh ấy.

Sân là ly sân cú, tại sao, vì tánh ly sân là sân vậy. Si là ly si cú, tại sao, vì tánh ly si là si vậy. Tất cả Phật pháp cũng Ðồng tánh ấy.

Thân kiến là thiệt tế cú. Tại sao, vì tánh thiệt tế tức là thân kiến. Tất cả Phật pháp cũng Ðồng tánh ấy.

Vô minh là minh cú, tại sao, vì tánh minh là vô minh vậy. Tất cả Phật pháp cũng dồng tánh ấy.

Nhẫn Ðến khổ não là ly khổ não cú, tại sao, vì tánh ly khổ não là khổ não vậy. Tất cả Phật pháp cũng Ðồng tánh ấy.

Sắc uẩn là hư không cú, tại sao, vì tánh hư không tức là sắc vậy. Tất cả Phật pháp cũng Ðồng tánh ấy.

Thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn là hư không cú, tại sao, vì tánh hư không tức là thọ, tưởng, hành, thức vậy. Tất cả Phật pháp cũng Ðồng tánh ấy.

Sắc Ðến thức là vô tác cú, tại sao, vì tánh vô tác tức là sắc, thọ, tưởng, hành, thức vậy. Tất cả Phật pháp cũng Ðồng tánh ấy.

Ðịa Ðại là hư không cú, tại sao, vì tánh hư không tức là Ðịa Ðại vậy. Tất cả Phật pháp cũng Ðồng tánh ấy.

Thủy Ðại, hỏa Ðại, phong Ðại là pháp giới cú, tại sao, vì tánh pháp giới tức là Ðịa, thủy, hỏa, phong Ðại vậy. Tất cả Phật pháp cũng dồng tánh ấy.

Nhãn là Niết bàn cú, tại sao, vì tánh Niết Bàn tức là nhãn vậy. Tất cả Phật pháp cũng Ðồng tánh ấy.

Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là Niết bàn cú, tại sao, vì tánh Niết bàn tức là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý vậy. Tất cả Phật pháp cũng Ðồng tánh ấy.

Nấy Phạm Thiên; Ðó là một câu tổng nhiếp tất cả Phật pháp. Bồ Tát nhập vào những môn nhứt nhứt trí như vậy Ðều thấy tất cả Phật pháp nhập vào một câu.

Nầy Phạm Thiên; Ví dụ như Ðại hải có thể nuốt hết tất cả các dòng nước. Trong mỗi mỗi câu tổng nhiếp tất cả Phật pháp cũng như vậy…

Ví như hư không Ðều có thể bao dung tất cả sắc tướng. Trong mỗi mỗi câu tổng nhiếp tất cả Phật pháp cũng như vậy.

Tất cả Phật pháp như vậy hoặc nhiếp hoặc chẳng nhiếp, hoặc nói hoặc chẳng nói Ðều bất tăng bất giảm, vì cứu cánh ly tướng vậy.

Nầy Phạm Thiên; Ví dụ như toán sư luôn luôn lấy thẻ toán bày bố trên bàn toán, nhưng trong bàn không có thẻ, trong thẻ không có bàn, tại sao, vì cứu cánh chẳng tương ưng vậy, vì cứu cánh ly vậy.

Ở trong mỗi mỗi câu trên như vậy, vì giả danh số mà nói tất cả Phật pháp Ðều nhiếp vào một câu, mà các Phật pháp chẳng thể danh số toán Ðếm Ðược, tại sao, vì cứu cánh chẳng tương ưng vậy, vì cứu cánh ly vậy.

Nầy Phạm Thiên; Như Phật pháp danh số tức là tất cả pháp danh số, tại sao, vì tất cả các pháp tức là Phật pháp, tại sao, vì những pháp phi pháp và phi phi pháp ấy tự tánh rỗng không vậy, tự tánh ly vậy, tự tánh cứu cánh vô tánh vậy. Vô tánh tức là hư không, tánh hư không Ðồng tánh tất cả pháp. Pháp tánh ấy chẳng phải tướng sanh, chẳng phải tướng diệt, chẳng phải tướng hữu xứ, chẳng phải tướng vô xứ. Vì vậy nên tất cả pháp gọi là không có tướng không chẳng tướng”.

Lúc Hư Không Tạng Ðại Bồ Tát nói pháp ấy, trong hàng Phạm chúng có một vạn hai ngàn Phạm Thiên Ðều phát tâm Vô thượng Bồ Ðề. Còn có năm trăm Phạm Thiên từ xưa Ðã trồng gốc lành, Ðược vô sanh pháp nhẫn.

Lúc bấy giờ trong Ðại chúng có một Bồ Tát tên là Bửu Thủ hỏi Hư Không Tạng Bồ Tát rằng: “Bạch Ðại Sĩ; Thật là hi hửu, tất cả các pháp và Phật pháp thậm thâm khó lường chẳng thể nghĩ bàn.

Thưa Ðại Sĩ; Sao gọi là Ðặt căn bổn tất cả Phật pháp ?”.

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: “Nầy Bửu Thủ; Bồ Ðề tâm là Ðặt căn bổn tất cả Phật pháp. Tất cả pháp do an trụ tâm Bồ Ðề thì Ðược tăng trưởng”.

Bửu Thủ Bồ Tát hỏi:”Thưa Ðại Sĩ; Tâm Bồ Ðề ấy Ðược pháp nào nhiếp chẳng quên mất có thể mau Ðến bực bất thối chuyển ?”.

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: ” Nầy Bửu Thủ; Tâm Bồ Ðề ấy Ðược hai pháp nhiếp thủ Ðược chẳng quên mất mau Ðến bực bất thối chyển. Ðó là thuần chí và cứu cánh vậy”.

Bửu Thủ Bồ Tát hỏi: ” Thưa Ðại Sĩ ; Hai pháp ấy Ðược bao nhiêu pháp nhiếp ?”.

Hư không Tạng Bồ Tát nói: “Hai pháp ấy Ðược bốn pháp nhiếp lấy. –Dó là thuần chí thì Ðược chẳng hư trá và chẳng siểm khúc nhiếp. Cứu cánh thì Ðược vô ngã và thượng tiến nhiếp. –Dây gọi là hai pháp Ðược nhiếp bởi bốn pháp vậy”.

Bửu Thủ Bồ Tát lại hỏi: ” Thưa Ðại Sĩ; Bốn pháp ấy Ðược mấy pháp nhiếp ?”.

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: ”Bốn pháp ấy Ðược tám pháp nhiếp lấy; Ðó là chẳng hư trá thì Ðược chẳng do dự và thể chơn tịnh nhiếp. Chẳng siểm khúc thì Ðược chánh trực và chánh trụ nhiếp. Vô ngã thì Ðược chẳng lui mất và tinh tiến nhiếp. Thượng tiến thì Ðược công Ðức tư lương và trí tư lương nhiếp. –Dây là bốn pháp Ðược nhiếp bởi tám pháp vậy”.

Bửu Thủ Bồ Tát lại hỏi: ” Thưa Ðại Sĩ; Tám pháp ấy Ðược nhiếp bởi mấy pháp ?”.

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: ” Tám pháp ấy Ðược mười sáu pháp nhiếp lấy. Ðó là chẳng do dự thì Ðược Ðại từ và Ðại bi nhiếp. Thể chơn tịnh thì Ðược thân Ðiều và tâm Ðiều nhiếp. Chánh trực thì Ðược nhẫn nhục và nhu hòa nhiếp. Chánh trụ thì Ðược chẳng kiêu mạn và không trệ ngại nhiếp. Chẳng lui mất thì Ðược kiên cố và sức lực nhiếp. Thượng tiến thì Ðược như sở tác và chánh hạnh nhiếp. Công Ðức tư lương thì Ðược thỉ phát và cứu cánh chẳng bỏ nhiếp. Trí tư lương thì Ðược cầu Ða văn và tư duy pháp Ðược nghe nhiếp. Ðây là tám pháp Ðược mười sáu pháp nhiếp”.

Bửu Thủ Bồ Tát lại hỏi: ” Thưa Ðại Sĩ; Mười sáu pháp ấy lại Ðược mấy pháp nhiếp ?”.

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: “Mười sáu pháp ấy Ðược nhiếp bởi ba mươi hai pháp. Ðó là Ðại từ thì Ðược vô ngại tâm và tâm bình Ðẳng nơi tất cả chúng sanh nhiếp. Ðại bi thì Ðược không nhàm mỏi và siêng cung cấp Ðầy Ðủ tất cả chúng sanh nhiếp. Thân Ðiều thì Ðược không xúc nhiễu và không gia hại nhiếp.

Tâm Ðiều thì Ðược chánh Ðịnh và tịch tĩnh nhiếp. Nhẫn nhục thì Ðược chánh thọ giáo và thuận hành nhiếp. Nhu hòa thì Ðược tàm và quí nhiếp. Không kiêu mạn thì Ðược khiêm ti và kính lễ nhiếp. Không trệ ngại thì Ðược không nhơ uế và chẳng hung dữ nhiếp. Kiên cố thì Ðược chẳng sai phạm sở hành và thành tựu bổn nguyện nhiếp. Lực thì Ðược trụ chánh ý và chẳng Ðiệu Ðộng nhiếp. Như sở tác thì Ðược như thuyết và năng hành nhiếp. Chánh hạnh thì Ðược chánh pháp và chánh tiến nhiếp. Thỉ pháp thì Ðược tất thắng và bất thối nhiếp. Bất xả bỏ thì Ðược thích hơn và thượng cầu nhiếp. Cầu Ða văn thì Ðược thân cận thiện tri thức và vui Ðẹp thiện tri thức nhiếp. Tư duy pháp Ðược nghe thì Ðược trí huệ và khéo quán nhiếp. –Dây là mười sáu pháp Ðược nhiếp bởi ba mươi hai pháp”.

Bửu Thủ Bồ Tát lại hỏi: ” Thưa Ðại Sĩ; Ba mươi hai pháp ấy lại Ðược bao nhiêu pháp nhiếp ?”.

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: “Ba mươi hai pháp ấy Ðược nhiếp bởi sáu mươi bốn pháp. Ðó là vô ngại tâm thì Ðược hộ ngã và hộ bỉ nhiếp. Tâm bình Ðẳng nơi tất cả chúng sanh thì Ðược vô biệt dị và nhứt vị nhiếp. Không mỏi mệt thì Ðược quán như mộng và biết sanh tử như ảo huyễn nhiếp. Siêng cung cấp Ðầy Ðủ tất cả chúng sanh thì Ðược thần thông và phương tiện nhiếp. Chẳng xúc nhiễu thì Ðược hổ thẹn và tin có nghiệp báo nhiếp. Chẳng gia hại thì Ðưọc thiểu dục và tri túc nhiếp. Chánh Ðịnh thì Ðược không phát não nhiệt và không tán thất nhiếp. Tịch tỉnh thì Ðược xả bỏ ngô ngã và lìa ngã sở nhiếp. Thọ chánh giáo thì Ðược cầu pháp và thích muốn pháp nhiếp. Thuận hành thì Ðược kính trọng và bình Ðẳng không mõi mệt nhiếp. Tàm thì Ðược nội tâm dứt trừ và ngoài chẳng hành nhiếp. Quí thì Ðược tin ưa Phật trí và ở chổ khuất chẳng làm ác nhiếp. Khiêm ti thì Ðược chẳng ngạo mạn và biết tự hạ mình nhiếp. Lễ kính thì Ðược thân Ðoan và tâm trực nhiếp. Không nhơ uế thì Ðược Ðủ có Ðịnh tĩnh và tu tập huệ nhiếp. Chẳng hung dữ thì Ðược chẳng thô bạo và chẳng lưỡng thiệt nhiếp. Chẳng sai phạm sở hành thì Ðược chẳng xả bỏ Bồ Ðề tâm và niệm Ðạo tràng nhiếp. Thành tựu bổn nguyện thì Ðược xả bỏ ma nghiệp và Phật lực hộ trì nhiếp. Chánh trụ ý thì Ðược chẳng khinh tháo và chẳng Ðiệu loạn nhiếp. Chẳng diệu Ðộng thì Ðược như thạch sơn và chẳng di chuyển Ðược nhiếp. Như thuyết thì Ðược sở tác thiện nghiệp và không nhiệt não nhiếp. Năng hành thì Ðược không hư dối và chẳng bỏ chỗ hướng về nhiếp. Chánh phát thì Ðược lìa biên kiến và thuận quán thậm thâm nhơn duyên nhiếp.

Chánh tiến thì Ðược thiện xảo và phương tiện nhiếp. Tất thắng thì Ðược chẳng giải Ðãi và dũng mãnh nhiếp. Bất thối thì Ðược Ðại dục và tăng tiến nhiếp. Thích hơn thì Ðược thấy Phật và nghe pháp nhiếp.Thượng cầu thì Ðược bỏ lỗi hoạn của các bực Ðịa và Ðược công Ðức của các Ðịa nhiếp. Thân cận thiện tri thức thì Ðược không ghét ganh và tin ưa nhiếp. Vui Ðẹp thiện tri thức thì Ðược kính thuận và chẳng trái nghịch lời dạy bảo nhiếp. Trí huệ thì Ðược vô thường quán và vô ngã quán nhiếp. Thiện quán thì Ðược tu vô tướng và chẳng dựa Niết bàn nhiếp. Ðây là ba mươi hai pháp Ðược nhiếp bởi sáu mươi bốn pháp”.

Bửu Thủ Bồ Tát lại hỏi: “Thưa Ðại Sĩ; Sáu mươi bốn pháp ấy còn Ðược mấy pháp nhiếp ?”.

Hư không Tạng Bồ Tát nói: “Sáu mươi bốn pháp ấy Ðược một trăm hai mươi tám pháp nhiếp.

Hộ ngã thì Ðược dứt tất cả ác và thành tựu tất cả thiện căn nhiếp. Hộ bỉ thì Ðược nhẫn nhục và nhu hòa nhiếp. Vô biệt dị thì Ðược tâm như nước và tâm như gió nhiếp. Nhứt vị thì Ðược pháp giới quán và như như quán nhiếp. Như mộng quán thì Ðược vô di chuyển quán và vô chơn thiệt quán nhiếp. Như ảo huyễn thì Ðược vừa theo tánh và vô tự tánh quán nhiếp. Các thần thông thì Ðược liễu nghĩa và liễu trí nhiếp. Phương tiện thì Ðược Ðại bi và Bát Nhã Ba la mật nhiếp. Hổ thẹn thì Ðược chẳng che giấu lỗi phạm và hối quá nhiếp. Tin có nghiệp báo thì Ðược bất phóng dật và sợ ác Ðạo nhiếp. Thiểu dục thì Ðược ở trong sách có chừng hạn và lìa ô uế trước nhiếp. Tri túc thì Ðược dễ vừa và dễ nuôi nhiếp. Không phát não thì Ðược cứu cánh và cứu cánh biên tế nhiếp. Không tán thất thì Ðược Ðắc nhẫn và bất thối chuyển Ðịa nhiếp. Xả ngô ngã thì Ðược chẳng chấp ngã thân và chẳng chấp thọ mạng nhiếp. Lìa ngã sở thì Ðược vô tham và vô si nhiếp. Cầu pháp thì Ðược trí và Ðoạn nhiếp. Thích muốn pháp thì Ðược chẳng ham ngũ dục và lìa phiền não nhiếp. Kính trọng thì Ðược sanh ý tưởng là Phật và tưởng cứu lành nhiếp. Không mỏi mệt thì Ðược thân nhẹ và siêng năng ít ngủ nhiếp. Nội tâm Ðoạn trừ thì Ðược thân niệm xứ và thọ niệm xứ nhiếp. Ngoài chẳng hành thì Ðược tâm niệm xứ và pháp niệm xứ nhiếp. Tin ưa Phật trí thì Ðược thâm kính trọng và tịnh tín nhiếp. Ở chỗ khuất chẳng làm ác thì Ðược tự chứng biết và chư Thiên thần chứng biết nhiếp. Chẳng ngạo mạn thì Ðược chẳng tự khen và chẳng chê người nhiếp. Biết tự hạ mình thì Ðược chẳng hư xưng và chẳng hiển bày Ðức tốt của mình nhiếp. Thân Ðoan thì Ðược chẳng hành ba nghiệp bất thiện và chẳng phạm cấm giới nhiếp. Tâm trực thì Ðược thường xét lỗi mình và chẳng nói chỗ dở của gnười nhiếp. Ðủ có Ðịnh tĩnh thì Ðược tâm tịch tĩnh và dứt phiền não nhiếp. Tu trí huệ thì Ðược tuyển chọn các pháp và biết vô ngã nhiếp. Chẳng thô bạo thì Ðược thường làm việc lợi ích và thuận nhẫn nhiếp. Chẳng lưỡng thiệt thì Ðược tự Ðủ quyến thuộc và hòa hiệp biệt ly nhiếp. Chẳng bỏ tâm Bồ Ðề thì Ðược chúng sanh và Phật trí nhiếp. Niệm Ðạo tràng thì Ðược muốn phá ma chúng và thành chánh giác nhiếp. Bỏ ma sự thì Ðược chánh giác và chẳng bỏ chí Bồ Ðề nhiếp. Phật thần lực gia trì thì Ðược kiên cố hành và thiện thuần chí nhiếp. Chẳng khinh tháo thì Ðược giữ vững các căn và chẳng bỏ cảnh giới nhiếp. Chẳng Ðiệu loạn thì Ðược quán khổ và quán không nhiếp. Như thạch sơn thì Ðược chẳng cao và chẳng hạ nhiếp. Chẳng di chuyển Ðược thì Ðược dứt ái và trừ sân nhiếp. Sở tác thiện nghiệp thì Ðược trí sở tác nghiệp và bỏ ma sự nhiếp. Không nhiệt não thì Ðược tịnh giới và tịnh Ðịnh nhiếp. Không hư cuống thì Ðược thành thiệt ngữ và chẳng mong quả báo nhiếp. Chẳng bỏ chỗ hướng về thì Ðược thành tựu nghiệp bực hiền và chẳng hành khiếp nhược nhiếp. Lìa biên kiến thì Ðược quán vô sanh và quán chẳng bại hoại nhiếp. Thuận quán thậm thâm nhơn duyên thì Ðược quán nhơn và quán duyên nhiếp. Thiện xảo thì Ðược Ðệ nhứt không tranh cạnh và chẳng ngạo mạn nhiếp. Phương tiện thì Ðược ly phương tiện và vô sanh phương tiện nhiếp. Chẳng giải Ðãi thì Ðược thân lực và tâm lực nhiếp. Dũng mãnh thì Ðược tâm thắng tiến và hại oán Ðịch nhiếp. Ðại dục thì Ðược chẳng cầu lợi dưỡng và chẳng tiếc thân mạng nhiếp. Tăng tiến thì Ðược không ngu tối và chẳng thối hườn nhiếp. Thấy Phật thì Ðược tu niệm Phật và tịnh tiến nhiếp. Nghe pháp thì Ðược thích Ðến chỗ giảng dạy và thích thưa hỏi nhiếp. Bỏ lỗi hoạn các Ðịa thì Ðược chẳng tán loạn hành và bỏ lìa ác tri thức nhiếp. Ðược công Ðức của các Ðịa thì Ðược phương tiện hồi hướng và chẳng bỏ bổn hành nhiếp. Không ghét ganh thì Ðược có thể thí cho tất cả và vật vừa ý mà xả bỏ nhiếp. Tin ưa thì Ðược vô cấu hành và tâm chẳng trược nhiếp. Kính thuận thì Ðược biết thời biết chỗ hạp nên của thế gian và tùy thuận hành nhiếp. Chẳng trái nghịch lời dạy bảo thì Ðược bỏ trừ bất tịnh và tịnh chánh hạnh nhiếp. Vô thường quán thì Ðược quán Ðộng chuyển và quán bại hoại nhiếp. Vô ngã quán thì Ðược chẳng có tác giả và chẳng có thọ giả nhiếp. Tu vô tướng thì Ðược chẳng duyên cảnh giới và trừ giác quán nhiếp. Chẳng dựa Niết bàn thì Ðược trừ bỏ vô minh và dứt ái trước nhiếp. Ðây là sáu mươi bốn pháp Ðược một trăm hai mươi tám pháp nhiếp “.

Bửu Thủ Bồ Tát nghe Hư Không Tạng Bồ Tát phân biệt những pháp môn như vậy rồi, vui mừng hớn hở Ðược chưa từng có, liền bạch Hư Không Tạng Bồ tát: “Bạch Ðại Sĩ ; Thật là hi hữu, Ðại Sĩ có thể thành tựu biện tài nhanh lẹ như vậy và phân biệt biện thuyết rất giỏi. Các sự Ðược hỏi Ðều hay giải bày Ðược hết.

Như nay tôi hiểu ý nghĩa và văn tự của Ðại Sĩ nói, dùng phương tiện như vậy hoặc một kiếp hoặc giảm một kiếp nói chẳng hết Ðược và biện luận cũng chẳng dứt”‘.

Ðức Phật bảo Bửu Thủ Bồ Tát: “Ðúng vậy Ðúng vậy, nầy Bửu Thủ; Ðúng như lời ông nói. Bồ Tát Hư Không Tạng ấy nếu diễn nói nghĩa một câu, hoặc một kiếp hay giảm một kiếp nói chẳng hết Ðược, biện cũng chẳng dứt. Hư Không Tạng Bồ Tát có vô lượng vô biên bất khả tư nghị biện tài như vậy “.

Bấy giờ Bửu Thủ Bồ Tát dùng bàn tay che trùm khắp nhà Diệu Bửu Trang Nghiêm Ðường, trong bàn tay ấy xuất hiện vô lượng hoa hương anh lạc y phục những món trang sức và những tràng phan lọng Ðẹp, tuôn ra những món cúng dường thượng diệu như vậy Ðể cúng dường Ðức Như Lai và Hư Không Tạng Bồ Tát, trên không có trăm ngàn âm nhạc chẳng trỗi mà tự kêu.

Trong tiếng âm nhạc ấy phát ra những bài kệ vi diệu ca ngợi Ðức Như Lai:

Gìn Ðức dạy Ðức Ðủ trăm phước
Tâm ý Ðiều phục niệm chẳng Ðộng
Sa Môn Ðại Sĩ xuống Trời Người
Mười phương Bồ Tát Ðều hiện Ðến
Danh xưng oai Ðức Ðấng tự tại
Ðiều phục chúng sanh trừ si tối
Hay Ðộ trời người Ðang nổi trôi
Ðóng cửa ác Ðạo khiến thanh tịnh
Ðại Thánh khéo nói âm vi diệu
Không sai không lầm âm thanh tịnh
Ba cõi không sánh không ba Ðộc
Thế Tôn nói pháp cho chúng vui
Ý niệm kiên cố ưa tịch tĩnh
Tối thắng thập lực ai cũng phục
Ðã bỏ siểm khúc Ðược cam lộ
Không có trần lụy chúng quy ngưỡng
Thế Tôn ở chúng chẳng Ðộng chuyển
Mà Ðộ vô lượng chúng mười phương
Tùy chúng sanh hành hay tùy thuận
Phật tử cũng thích tu hạnh ấy
Mặt nhựt không che hay chiếu khắp
Hay khiến các hoa Ðược Ðua nở
Phật trí huệ quang soi tối tăm
Phật tử Ðược tỏ cũng như vậy
Như gió vô ngại núi chẳng Ðộng
Sạch như hư không sáng như nhựt
Phật tử phóng quang mưa cam lộ
Vì vậy tôi lạy Phật Bồ Tát.
Ðại Thiên nước biển còn lường Ðược
Mười phương hư không còn bước dược
Tâm các chúng sanh còn Ðồng Ðược
Công Ðức của Phật chẳng cùng tận.
Trên không âm nhạc vang ra mhững bài kệ vi diệu ấy rồi , ma vương Ba tuần nghiêm bị bốn binh chủng Ðến chỗ Ðức Phật, hóa thân trưởng giả lễ chưn Ðức Phật Ðứng ở một phía mà bạch Phật rằng:”Bạch Ðức Thế Tôn! Thật là hi hữu, các bực Ðại Sĩ ấy có thể thành tựu các thứ thần biến bất khả tư nghị còn có thể thị hiện mhững sự trang nghiêm bất khả tư nghị như vậy.

Bạch Ðức Thế Tôn! Ðời vị lai có bao nhiêu chúng sanh nghe thần biến bất khả tư nghị nầy mà Ðược khai ngộ quyết Ðịnh chẳng nghi ?

Ðức Phật nói:”Nầy Ba Tuần! Trong Ðời vị lai ít có chúng sanh hoặc một người hoặc hai người nghe kinh Ðiển thần biến bất tư nghị nầy mà Ðược tin hiểu thì ít có lắm.

Nầy Ba Tuần! Như một sợi lông chia làm trăm phần, lấy một phần lông chấm lấy một giọt nước biền trong Ðại hải. ý của ông nghĩ thế nào, giọt nước Ðược chấm lấy ấy so với nước cả Ðại hải ít nhiều thế nào ?

Ba Tuần bạch rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn; Ðược lấy rất ít, số còn lại rất nhiều “.

Ðức Phật nói: “Nầy Ba Tuần; Như nước Ðược lấy rất ít, chúng sanh nghe kinh Ðiển thần biến bất tư nghị nầy mà có thể tin hiểu Ðược thì rất ít cũng như vậy. Như trong Ðại hải nước còn lại rất nhiều, chúng sanh chẳng tin hiểu Ðược kinh Ðìển thần biến bất tư nghị nầy rất Ðông nhiều cũng như vậy.

Nầy Ba Tuần; Nếu có một người trong thờì gian số kiếp bằng số cát sông Hằng , mỗi ngày Ðem trân bửu Ðầy cả Ðại Thiên thế giới dùng Ðể bố thí, người nầy Ðược phước chẳng bằng thiện nam tử thiện nữ nhơn nghe kinh Ðiển thần biến bất tư nghị nầy mà có thể tin hiểu Ðược phước nầy rất là mhiều. Tại sao, nếu là người tin hiểu kinh Ðiển nầy, thì biết người ấy thân từ Thích Ca Mâu Ni Phật nghe kinh Ðiển nầy tin hiểu không nghi. Tại sao, vì nếu là chúng sanh chưa vun trồng thiện căn nghe kinh Ðiển khó Ðược thế gian tin nầy mà có thể tin Ðược thì không có lẽ ấy.

Nầy Ba Tuần sau khi Phật bát Niết Bàn lúc pháp sắp diệt có Ðông chúng sanh kiêu mạn . Những chúng sanh ấy chấp văn tự của Phật nói vì chẳng biết phương tiện nên họ riêng sanh tranh cạnh, bỏ pháp tư duy, bỏ chánh hạnh của mình, vì lợi dưỡng danh dự y phục uống ăn mà tự ràng buộc, thích luận bàn các sự việc thế tục và sách luận văn từ thế tục mà chẳng luận bàn Ðệ nhứt nghĩa Ðế, chẳng thích suy gẫm Phật vô thượng Ðạo, họ lại còn hướng Ðến người khác mà luận chê kinh Ðiển chơn thiệt thâm diệu nầy, Ðây là phỉ báng chư Phật. Họ chứa họp khối vô lượng khổ não lớn. Các hạng ma thần ma thiên tá trợ người ấy, vì lợi dưỡng cung kính và danh dự nên họ lại thêm phóng dật ngạo mạn. Do ngạo mạn mà các người ấy thấy có ai trì giới hiền thiện thọ trì Ðọc tụng kinh Ðiển nầy, họ bèn khi dễ ghét ganh hủy báng. Các người ngu si nầy hiện Ðời phá phạm cấm giới. Trong bọn ấy hoặc vì sợ khó sanh sống, hoặc vì hổ thẹn nơi người nên có kẻ giả mặc ca sa, hoặc xả giới hoàn tục. Những kẻ nầy thân hư mạng chết Ðọa Ðịa ngục A Tỳ thọ khổ báo.

Nầy Ba Tuần; Trong Ðời vị lai có chúng sanh cầu Bồ Tát thừa mới phát Ðạo tâm căn lành cạn ít nắm lấy nhơn duyên chỉ chấp văn tự chẳng rõ Ðược nghĩa, thọ trì Ðọc tụng kinh Ðiển thậm thâm như vầy và lúc vì người diễn nói, thì bị người khác khinh khi chê trách. Vì bị người khinh chê nên bèn bỏ các kinh Ðiển thậm thâm như vầy mà Ðọc tụng các kinh tương ưng với Thanh Văn thừa, Bích Chi Phật thừa. Vì bị ràng buộc bởi lợi dưỡng danh dự các vật cần dùng nên họ trở lại hủy báng các kinh Ðiển thậm thâm chơn thiệt như vầy. Họ cũng khinh miệt người thọ trì Ðọc tụng các kinh Ðiển ấy, cho Ðến chẳng muốn Ðưa mắt nhìn ngó. Họ thường thích hạnh thấp kém mà thối thất pháp Ðại thừa Bồ Tát. –Dó là thối thất tâm thuần chí và thâm tâm. Ma thần ma thiên Ðược những người nầy bèn cố gắng làm nhiều cách hoại loạn tâm họ cho Ðến khiến chẳng nghe các kinh ấy, dầu cho có nghe thì khiến sanh lòng hủy báng không tin. Các người nầy cũng còn chứa họp vô lượng tội thành tựu nghiệp phá pháp, lìa hẳn Tam Bửu chẳng Ðược thấy Phật nghe Pháp cúng dường tăng. Tạ sao, vì ở trong pháp luật Ðược Phật nói mà sanh nghi do dự vậy”.

Bấy giờ ma vương Ba Tuần tự thấy mình có lỗi nên lo rầu sợ sệt Ðến lạy chưn Phật rồi Ðứng qua một phía.

Hư Không Tạng Bồ Tát hỏi: ” Nầy Ba Tuần; Có chi mà ngươi lo rầu tiều tụy run sợ như người thất chí mà Ðứng qua một phía vậy ?”.

Ma vương Ba Tuần nói: “Thưa Ðại Sĩ; Tôi từ nơi Phật nghe nói những sự Ðáng sợ như vậy nên tôi lo rầu sợ sẽ bị Ðọa ác Ðạo, ai sẽ cứu tôi. Ở trong pháp luật của Phật dạy tôi luôn luôn làm vô lượng sự trở ngại.Vì vậy mà tôi lo sợ lắm”

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: “Nầy Ba Tuần; Trong Phật pháp có pháp xuất tội. Ông nên Ðến chỗ Thế Tôn thành tâm sám hối các tội ác Ðã làm chớ có làm lại nữa. Nếu ông có thể như vậy thì sẽ Ðược lợi ích tốt chẳng luống uổng”.

Nghe lời khuyên ấy, Thiên ma Ba Tuần liền Ðến chỗ Ðức Phật năm vóc gieo xuống lạy chưn Ðức Phật ngước nhìn Phật rơi nước mắt mà bạch rằng:”Bạch Ðức Thế Tôn; Nay tôi thành tâm sám hối từ xưa Ðến nay ở trong pháp luật của Ðức Phật dạy thường làm vô lượng sự trở ngại. Ngưỡng mong Ðức Như Lai vì lòng từ bi thương xót thọ tôi sám hối”.

Ðức Phật nói: “Lành thay, lành thay, nầy Ba Tuần; Ông có thể tự thấy các việc ác Ðã làm, là thượng thiện thay người có thể ăn năn tội lỗi như vậy ở trong Phật pháp thì làm rộng lớn pháp tạng Như Lai. Chư Phật cũng thọ người ấy sám hối. Vì vậy nên từ nay ông chớ nên phạm nữa”.

Ðức Thế Tôn bảo chư Bồ Tát: “Các Ðại Sĩ; Nay các người Ðều riêng nói pháp quá ma giới hành Ðể tỏ lòng thương Thiên ma Ba Tuần vậy “

Trong Ðại chúng có Bồ Tát tên Kim Sơn Vương bạch Ðức Phật rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn; Nếu có người phòng hộ nội giới thì chưa quá ma giới. Nếu thấy tất cả các giới Ðồng Phật giới, biết Phật giới ấy tức là phi giới, Bồ Tát nầy có thể quá ma giới”.

Bửu Ðức Bồ Tát bạch rằng:”Bạch Ðức Thế Tôn; Còn có chỗ dựa cậy nương nhờ là chưa khỏi ma giới. Nếu chẳng dựa cậy nương nhờ biết tất cả pháp vô sở Ðắc có thể vì chúng sanh nói pháp không sở y, Bồ Tát nầy có thể quá ma giới”.

Bửu Thủ Bồ Tát bạch rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn; Nếu có thủ lấy ngã và ngã sở Ðây là ma giới. Nếu không có thủ ngã và ngã sở thì không có tranh cạnh. Vì không có tranh cạnh thì không có tâm hành. Tâm hành còn không có huống là có ma giới ư! Ðây là Bồ Tát có thể quá các ma giới vậy.

Vô Tranh Dũng Bồ Tát bạch rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn; Nếu có xúc có ly thì có tranh tụng, có tranh tụng thì ma Ðược tiện lợi. Nếu không xúc không ly thì tự mình không có tranh tụng, cũng chẳng làm cho người tranh tụng, vì Ðược vô ngã vậy. Người không não hành có thể quá ma giới”.

Bửu Tư Bồ Tát bạch rằng:”Bạch Ðức Thế Tôn; Nếu có vọng tưởng phân biệt thì là phiền não và có phiền não xứ thì là ma giới. Nếu có Bồ Tát biết tất cả pháp không có tướng mạo, nơi các phiền não thì không vọng tưởng. Hoặc nội hoặc ngoại cũng chẳng biết khác. Vì bỏ lìa tất cả vọng tưởng phân biệt Ðây là Bồ Tát có thể quá ma giới”.

Lạc Hành Bồ Tát bạch rằng: ” Bạch Ðức Thế Tôn; Nếu có chỗ thích chỗ chẳng thích thì có yêu có ghét. Nếu có yêu có ghét thì có ma giới. Nếu có Bồ Tát bỏ lìa yêu ghét bình Ðẳng hành ở trong các pháp không có hai tưởng, Ðược nhập bất khả tư nghị giới”. Ðây là Bồ Tát có thể quá ma giới.

Ly Tranh Bồ Tát bạch rằng: ” Bạch Ðức Thế Tôn; Ma giới do ngã mà phát khởi. Nếu Bồ Tát có thể biết Ðược ngã Ðược vô ngã nhẫn thì biết ngã tịnh, vì biết ngã tịnh nên biết tất cả pháp tịnh, vì biết tất cả pháp tịnh nên biết tất cả pháp tánh tịnh như hư không. Ðây là Bồ Tát có thể quá ma giới”.

Pháp Tự Tại Bồ Tát bạch rằng: ” Bạch Ðức Thế Tôn; Nếu thuận phiền não pháp thì bị ái sai sử mà ma Ðược tiện lợi. Nếu có Bồ Tát ở trong các pháp rất Ðược tự tại tự nhiên khai ngộ, vì Ðược chư Phật thọ ký, nơi Bồ Tát pháp trọn chẳng thối chuyển. Ðây là Bồ Tát có thể quá ma giới”.

Sơn Tướng Kích Vương Bồ Tát bạch rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn; Nếu tâm có khuyết lậu thì là ma giói. Nếu Bồ Tát giới không khuyết lậu tâm không khuyết lậu thành tựu tất cả pháp không hành, Ðây là Bồ Tát có thể quá ma giới”.

Hỉ Kiến Bồ Tát bạch rằng: ” Bạch Ðức Thế Tôn; Nếu người chẳng thấy Phật chẳng nghe pháp thì ma Ðược tiện lợi. Nếu Bồ Tát thường thấy chư Phật mà chẳng thủ trước sắc tượng, thường nghe pháp mà chẳng trụ trước văn tự do vì thấy pháp thì là thấy Phật . Vì không ngôn thuyết nên có thể nghe pháp. –Dây là Bồ Tát có thể quá ma giới “.

Ðế Võng Bồ Tát bạch rằng:”Bạch Ðức Thế Tôn; Nếu có cậy có Ðộng thì là ma giới. Nếu Bồ Tát khéo thuận tinh tiến biết tất cả pháp cứu cánh không có tướng thành tựu mà không cậy không Ðộng. Ðây là Bồ Tát có thể quá ma giới“.

Ðức Minh Vương Bồ Tát bạch rằng:”Bạch Ðức Thế Tôn; Nếu hành hai pháp thì ma Ðược tiện lợi. Nếu Bồ Tát biết tất cả các pháp Ðồng với pháp tánh thì chẳng thấy ma giới cùng pháp tánh có khác, biết pháp giới cùng ma giới bình Ðẳngvì chẳng hai tướng vậy. Ðây là Bồ Tát có thể quá ma giới “.

Hương Tượng Bồ Tát bạch rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn; Nếu Bồ Tát khiếp nhược sợ pháp thậm thâm thì ma Ðược tiện lợi. Nếu dũng kiện Bồ Tát khéo có thể không Ðạt ba môn giải thoát, ở trong các pháp thậm thâm chẳng kinh chẳng sợ, vì có thể hiện tiền chứng biết các pháp thiệt tánh. –Dây là Bồ Tát có thể quá ma giới”.

Di Lặc Bồ Tát bạch rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn; Như nước trong biển Ðồng một vị mặn.

Trong biển Phật pháp cũng Ðồng một pháp vị, Ðó là giải thoát vị, ly dục vị. Nếu Bồ Tát khéo hiểu pháp một vị, Ðây là Bồ Tát có thể quá ma nghiệp”.

Hư Không Tạng Bồ Tát bạch rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn; Như hư không cứu cánh vô cấu, cứu cánh sáng sạch, cứu cánh chẳng bị tất cả khói bụi mây mù làm rối nhiễu. Cũng vậy tâm bồ tát như hư không, biết rõ tất cả các pháp tánh thường thanh tịnh, cũng chẳng bị tất cả khách trần phiền não làm rối nhiễu Ðược Ðến bỉ ngạn Bát Nhã Ba la mật lìa các tối tăm, nơi các pháp dược huệ quang minh. Ðây là Bồ Tát có thể quá ma giới”.

Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử Bồ Tát bạch rằng: ” Bạch Ðức Thế Tôn; Nếu có ngôn ngữ thì có trệ ngại, nếu có trệ ngại thì có ma giới. Nếu pháp chẳng bị tất cả ngôn thuyết biểu thị bèn không trệ ngại. Sao gọi là pháp chẳng ngôn thuyết Ðược ? Ðó là Ðệ nhứt nghĩa. Trong Ðệ nhất nghĩa cũng không có văn tự và nghĩa. Nếu Bồ Tát có thể hành Ðệ nhất nghĩa Ðế, nơi tất cả pháp Ðều không có sở hành. Ðây là Bồ Tát có thể quá ma giới, vì không có sở quá vậy “.

Ðức Phật nói với Ma vương rằng: ” Nầy Ba Tuần; Ông có nghe nói pháp quá ma giới chăng ? “

Ma vương bạch rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn; Tôi Ðã có nghe “.

Ðức Phật nói: ” Nầy Ba Tuần; Nếu có người hành những pháp ấy thì tất cả các ma không làm gì Ðược. Nếu có ma muốn ở nơi hành nhơn ấy mà phát khởi các ma sự thì trọn chẳng thể làm Ðược mà còn gây nên vô lượng tội lỗi. Vì vậy nên , Ba Tuần nầy, ông phải phát tâm Vô thượng Bồ Ðề, ở nơi pháp quá ma giới ấy phải kiên trì phụng hành. Nếu ông có thể hành như vậy thì có thể quá tất cả quốc giới ma.

Nầy Ba Tuần; Dụ như bợn dơ Ðóng từ cả trăm năm, có thể trong một ngày giặt rửa sạch sẽ. Cũng vậy, trong trăm ngàn kiếp chứa họp các nghiệp bất thiện, vì Phật pháp mà khéo thuận tư duy trong một ngày một giờ Ðều có thể tiêu diệt.

Nầy Ba Tuần; Như cỏ khô chứa họp Ðống lớn như núi Tu Di, lấy chút lửa ném vào thì mau cháy hết. Cũng vậy dùng ít sức huệ có thể trừ diệt vô lượng khối tối tăm. Tại sao ?

Vì sáng trí huệ dũng mãnh mà vô minh thì kém yếu vậy “.

Lúc ấy ma vương Ba Tuần nghĩ rằng:

Ðức Thế Tôn Ðại từ vì thương xót tôi mà nói cho tôi về pháp Bồ Ðề tâm. Nay tôi nên ở chỗ Ðức Như Lai vun trồng chút ít căn lành.

Nghĩ xong, ma vương Ba Tuần hóa ra tám vạn bốn ngàn lọng báu rất Ðẹp lạ với vô lượng hoa hương anh lạc hương bột hương xoa, rồi bảo quyến thuộc mình rằng: ” Chư Phật Thế Tôn xuất thế rất khó, các người nên Ðồng Ðến chỗ Ðức Thế Tôn Ðể cúng dường “. Trong Thiên ma quyến thuộc có tám vạn bốn ngàn chúng cùng ma vương Ba Tuần Ðem Ðồ cúng như lọng báu hoa hương dâng lên Ðức Phật và Ðồng phát tâm Vô thượng Bồ Ðề.

Ngoài ra cón có các Thiên ma quyến thuộc chẳng có tín tâm chẳng phát tâm Bồ Ðề, họ hiện hình tướng cười chê luận bàn về ma vương Ba Tuần rằng:” Thật là hi hữu cho Ba Tuần có thể ở trước Sa Môn Cù Ðàm trá hiện tướng Ðốc tín như vậy, coi Cù Ðàm như người chí thân. Hoặc là Ba Tuần muốn ở nơi Sa Môn Cù Ðàm học chú thuật nên nay ở trước mặt Cù Ðàm ca ngợi chăng ? “.

Trong chúng ấy có ma tử Xử Diện và các ma tử Ðều không có tín tâm Ðều nói rằng: “Giả sử Sa Môn Cù Ðàm dùng các phương thuật hồi chuyển ma vương, chúng ta sẽ lập các phương tiện làm cho kinh Ðiển như vậy chẳng lưu bố Ðược, dầu có lưu bố cũng làm cho ít người hộ trợ , cũng làm cho ít người tín thọ phụng hành bị nhiều người khinh tiện, thường lạc ở Ðịa phương biên Ðịa chẳng cho tuyên truyền tại trung tâm các nước, chúng ta sẽ khiến các chúng sanh bần cùng không oai Ðức Ðược nghe và thường bị người có oai Ðức hào phú chẳng tin chê trách “.

Bấy giờ Ðức Thế Tôn bảo Hư Không Tạng Bồ Tát: “Nầy Ðại Sĩ! Ông có nghe các ma tử nói lời ác ấy chăng ?”.

Hư Không Tạng Bồ Tát bạch rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Tôi có nghe”

Ðức Phật nói: “Nầy Hư KHông Tạng; Vì vậy mà ông nên hộ trợ an ủi kinh Ðìển thậm thâm vi diệu như vậy vì Ðể hàng phục các ma thần”.

Hư Không Tạng Bồ Tát bạch rằng: ” Bạch Ðức Thế Tôn; Mười phưong chư Phật Ðều Ðã hộ trì kinh Ðiển như vậy. Chúng tôi cũng nên an ủi thọ trì”.

A bạt Ðê, bạt Ðê, tỳ bạt Ðê, bà hê Ða nâu tán Ðề, Ðầu lâu Ðà la ni, niết già Ða niết già Ða ni, xa mế bát già Ða ni, mê la dục Ðê, già lâu na niết nựu Ðề, tát giá bạt Ðê, phù Ða lặc sai, Ðạt ma niết chiết Ðê, Ðạt ma lặc sai, úc cưu ly, thi cưu ly, hưu lâu hưu lâu hưu lâu Ðức ca ly, Ða bà bà Ðế Ðê, thi la nâu bà Ðế Ðê, a xoa dạ niết thế trì, chỉ xa bà ca lợi thí, phật Ðà yết Ðề mị Ðê, Ðạt ma huất kỳ la nê, tăng già nâu kìm mế, a nâu Ðầu lệ.

Chẳng thể tế Ðộ Ðược
Quyến thuộc ma hư hoại
Nếu ai phạm kinh nầy
Không có các Ðao trượng
Thuận chỗ lành mình làm
Là chỗ làm chư Thánh
Những câu lành và tốt
Thuận với dòng giải thoát
Phá các luận ngoại Ðạo
Hàng phục các chúng ma
Tứ Thiên Vương thường hộ
Và cùng Thiên Ðế Thích
Phạm Thiên Vương thế chủ
Hàng chư Thiên phụng Phật
Người hộ trì Bồ Ðề
Chư Thiên thần như vậy
Thường phải nên ủng hộ
Hàng phục các chúng ma
Vì lợi ích chúng sanh
Mà thọ trì chánh pháp
Hộ trì thuyết pháp sư
Ðều phải nên ủng hộ
Hư Không Tạng Bồ Tát nói chú ấy rồi, tức thì nhà Diệu Bửu Trang Nghiêm Ðường và cả Ðại Thiên thế giới chấn Ðộng sáu cách.

Lúc các ma tử thấy trên không có năm trăm Mật Tích Lực Sĩ cầm chày kim cương chói sáng như lửa rất Ðáng sợ.

Chư Mật Tích xướng lên rằng: ” Nếu có ma tử và ma thần nào nghe chú ấy mà không phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề, chúng ta sẽ Ðập bể Ðầu họ thành bảy phần.

Chư ma tử và các quyến thuộc kinh sợ run rẩy lông trên thân Ðều dựng Ðứng, liền chắp tay lễ Ðức Phật mà bạch rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Chúng tôi nay phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề. Lành thay Thế Tôn mong cứu chúng tôi khỏi sự kinh hoàng nầy Ðể Ðược an vui vô úy “.

Ðức Phật bảo Tôn Giả A Nan rằng: “Trước Ðây các ma tử nầy có nói rằng: Chúng ta ở Ðời sau nơi kinh Ðiển nầy sẽ làm trở ngại. Ắt sẽ xứng với bổn thệ ấy mà làm trở ngại. Kinh Ðiển như Ðây chỉ sẽ do Phật thần lực và chư Bồ Tát thọ trì mà sẽ Ðược lưu bố trong Ðời, nhưng không có Ðược nhiều người thọ trì phân biệt giải thuyết.

Nầy A Nan! Ông có thấy các ma tử vì muốn thoát khỏi sự kinh sợ mà phát tâm Vô thượng Bồ Ðề chăng ?”.

Tôn Giả A Nan bạch rằng: ” Bạch Ðức Thế Tôn; Tôi Ðã thấy “.

Ðức Phật nói: ” Nầy A Nan! Lời nói phát tâm ấy sẽ làm nhơn rời lìa ma sự cho các ma tử, vì họ chẳng thâm tâm phát tâm Vô thượng Bồ Ðề vậy.

Nầy A Nan; Ðời vị lai sẽ có Phật xuất thế hiệu là Vô Cấu Tướng Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri, ma vương Ba Tuần nầy ở chỗ Ðức Phật ấy sẽ bất thối chuyển phát tâm Vô thượng Bồ Ðề . Ðức Phật Vô Cấu Tướng biết Ba Tuần thâm tâm thành tựu nên sẽ thọ ký Vô thượng Bồ Ðề cho. Lúc vị lai ấy, vẫn làm ma vương thâm tâm kính tin nơi chánh pháp Như Lai.

Như lúc Phật Di Lặc xuất thế, có ma vương tên là Ðạo Sư thâm tâm kính tin Phật, Pháp và Thánh chúng. Năm trăm ma tử nầy cũng sẽ ở lúc Ðó sanh trong hàng ma, họ sẽ ở chỗ Phật Di Lặc, vì Bồ Ðề mà vun trồng các căn lành, cho Ðến lúc Ba Tuần thành Phật sẽ thọ ký Vô thượng Bồ Ðề cho họ.

Nầy A Nan; Ma vương Ba Tuần nay dầu phát tâm Vô thượng Bồ Ðề mà vẫn do dự bất Ðịnh chút ít. Dầu vậy ông ấy sẽ lần lần thành tựu vô lượng công Ðức làm bực Thế Tôn như Phật hiện nay “.

Lúc bấy giờ trong Ðại chúng có vô lượng vô biên chư Thiên, thế nhơn Ðế Thích, Phạm Thiên, Hộ Thế Thiên Vương nghe Ðức Phật thọ ký cho ma vương Ba Tuần sẽ Ðược thành Vô Thượng Bồ Ðề, tất cả Ðều vui mừng hớn hở than chưa từng có Ðồng chắp tay hướng lên Phật bạch rằng: ” Thật là hi hửu, ai Ðược thấy Phật ắt Ðược thành tựu vô lượng khối pháp bửu công Ðức. Tại sao, hoặc có chúng sanh chẳng tin muốn làm nhiễu loạn Như Lai mà Ðược thấy Phật, hoặc có chúng sanh gặp gở thấy Phật , thì làm nhơn lành cho kẻ ấy nhẫn Ðến làm nhơn khiến họ Ðược Niết bàn.

Bạch Ðức Thế Tôn; Trừ ngoài Ðức Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri, còn có ai có thể phân biệt biết rõ căn chúng sanh như vậy ?”.

Ðức Phật bảo hàng chư Thiên và thế nhơn rằng: ” Như lời các người Ðã nói, có ai Ðược thấy Phật thì Ðều nhờ lợi ích cả. Các người nên biết rằng hoặc có chúng sanh thiện căn Ðều hết, trong vô lượng vô số na do tha kiếp không có phần Ðược thân ngưới, các chúng sanh nầy thấy Phật bèn làm nhơn lành nhẫn Ðến khiến họ Ðược Niết bàn.

Ðức Như Lai có thể làm phước Ðiền vô thượng vô lượng bất tư nghì như vậy .

Nầy chư Thiên nhơn; Tâm tánh thường thanh tịnh mà phàm phu chúng sanh chẳng thể như thiệt thấy. Vì chẳng thể như thiệt thấy biết Ðược nên nói là cấu. Còn người có thể chơn chánh thấy biết thì nói là tịnh. Nhưng trong Ðệ nhứt thiệt nghĩa không có một pháp nào là khả tịnh khả ố cả. Các người nên biết các phiền não không có phương không có xứ chẳng nội chẳng ngoại, do vì chẳng thiện thuận tư duy nên sanh phiền não, còn thiện thuận tư duy thì không có phiền não. Người tăng giảm chẳng bình Ðẳng thì sanh phiền não, còn không tăng giảm thì không phiền não . Hư ngụy vọng tưởng thì sanh phiền não, không vọng tưởng thì không phiền não. Vì vậy mà Phật nói như thiệt biết tà kiến thì là chánh kiến, mà tà kiến cũng chẳng tức là chánh kiến. Người có thể như thiệt biết thì không hư vọng tăng giảm thủ trước,vì vậy nên gọi là chánh kiến.

Nầy chư Thiên nhơn! Như Ðại Ðịa thủy giới phong giới y nơi hư không mà trụ. Hư không không có chỗ y trụ, như vậy thì Ðại Ðịa cũng không chỗ y trụ mà giả có tên là y trụ. Các người nên biết như vậy. Khổ y nơi nghiệp nghiệp y nơi kiết sử, mà khổ nghiệp kiết sử Ðều không có sở y, vì tâm tánh thường thanh tịnh vậy. Do Ðó mà biết rằng tất cả các pháp không có căn bổn Ðều không có chỗ trụ, do giả ngôn thuyết mà nói là có, thiệt thì không có vậy. Do cớ nầy nên nói tất cả pháp bổn tánh thường tịnh cứu cánh vô sanh vô khởi.

Nầy chư Thiên Nhơn! Pháp môn ấy gọi là tánh thường tịnh pháp môn. Bồ Tát thông Ðạt pháp môn nầy thì không bị các phiền não làm nhiễm ô, cũng chẳng cậy dựa pháp môn thanh tịnh ấy, vì Ðã xả bỏ tất cả các cậy dựa Ðộng lay vậy. Do Ðây mà Ðược Ðạo bình Ðẳng quá ma giới nhập vào Phật giới, cũng có thể nhập vào Ðược chúng sanh giới mà chẳng Ðộng pháp giới. Biết tất cả pháp không có giới không có phi giới , có thể mau Ðến Nhứt thiết trí giới”.

Lúc Ðức Phật nói pháp ấy, có năm trăm Bồ Tát Ðược Vô sanh Pháp nhẫn.

Bấy giờ Trưởng giả Thân Việt ở trong chúng rời chỗ ngồi Ðứng vậy Ðến lễ chưn Phật mà bạch rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Ðức Phật vì chúng tôi mà nói kinh Ðiển thậm thâm nầy.

Trước kia tôi vì xúc não Phật nên làm hầm lửa lớn và dâng cơm có Ðộc. Nhưng Ðại thánh Như Lai là Ðấng chẳng thể làm hại Ðược, do Ðó nên tôi Ðối với Phật sanh lòng kính trọng. Từ ngày ấy Ðến nay, lòng nghi hối của tôi còn chưa có thể trừ dứt. Hôm nay từ nơi Ðức Phật Ðược nghe kinh Ðiển thậm thâm vi diệu nầy lòng nghi hối liền trừ tâm không chướng ngại Ðược hạnh an lạc. Vì vậy mà nay tâm kính tin của tôi càng thêm tăng trưởng. Nay trong nhà tôi có nhiều của cải châu báu sẽ mang cúng dường Phật Pháp và Tăng cùng các Sa Môn, Bà La Môn kẻ nghèo cùng hạ tiện xin ăn.

Bạch Ðức Thế Tôn! Có ai Ðược nghe kinh Ðiển dứt tất cả kiết phược thậm thâm nầy mà còn tham lấy các thứ của cải vật chất!”.

Hư Không Tạng Bồ Tát bạch rằng: ” Bạch Ðức Thế Tôn! Thật là hi hữu, chư Phật Như Lai Vô Thượng Bồ Ðề rất là thậm thâm khó lường biết Ðược. Nếu có Bồ Tát ở Ðời vị lai xả thân mạng mình và lợi dưỡng danh dự mà có thể thọ trì Phật Bồ Ðề rất là khó có”.

Trong Ðại chúng có sáu mươi tám ức Bồ Tát Ðứng dậy chắp tay hướng lên Phật Ðồng nói kệ rằng:

Thế Tôn diệt Ðộ rồi
Chúng tôi có thể nhẫn
Xả thân thọ mạng mình
Ðể hộ trì chánh pháp
Xả lợi dưỡng danh dự
Rời lìa các tham trước
Nguyện hộ trì chánh pháp
Vì Ðược Phật trí vậy
Bị mắng chửi quở trách
Và lời khinh chê chọc
Vì có hộ chánh pháp
Sẽ nhẫn nhịn nhận Ðó
Bị khi dễ phá cợt
Xướng nói kêu ác danh
Sẽ dùng lòng từ nhẫn
Ðể hộ trì kinh nầy
Tỳ kheo Ðời vị lai
Chấp trước ham các cõi
Cùng ma làm bè Ðảng
Phỉ báng Phật chánh pháp
Phá cấm giới làm ác
Chuyên nghiệp thế tục lụy
Bị danh lợi che trùm
Nên chẳng thích chánh pháp
Cậy biết các tục Ðiển
Kiêu mạn và phóng dật
Cao khoe mình hay giỏi
Khinh miệt người chánh hạnh
Thường bỏ chỗ nhàn tĩnh
Thích ở chốn ồn ào
Học văn từ thế tục
Chấp chặt lấy ngô ngã
Chẳng biết giáo hóa người
Chẳng trao giồi trí huệ
Bỏ tọa thiền niệm Phật
Chẳng gần kề Tam Bửu
Người không có trí huệ
Kết bè Ðảng cầu lợi
Siêng cùng chung kiết sử
Thích thọ người dâng cúng
Thấy người từ tâm thí
Tham tiếc như của mình
Thường qua Ðến chỗ người
Luận nói những thế sự
Ruộng nhà và nghề nghiệp
Cùng những sự bán buôn
Siêng ham cầu lợi tức
Còn tự sưng Sa Môn
Ngạo mạn chấp lấy có
Dựa cậy nơi tà kiến
Nghe nói pháp tánh không
Sẽ kinh hoàng sợ hải
Họ lánh xa chánh pháp
Chỉ biết cầu hiện báo
Họ sẽ hư vọng nói
Phi pháp nói là pháp
Tai hoạn lớn như vậy
Các Tỳ Kheo tệ ác
Ma cùng với ma tử
Lại sẽ tá trợ nhau
Kinh văn thì là một
Nói nghĩa Ðều riêng khác
Ðều luận theo ý mình
Kẻ ngu sẽ như vậy
Các kinh Ðiển thâm diệu
Hay làm cho giải thoát
Họ sẽ ngăn trở Ðó
Trái lại nói sự cạn
Ta thắng còn ngươi liệt
Do thắng nên Ðắc quả
Ở trong các Phật pháp
Sẽ tranh cạnh như vậy
Lúc cạnh tranh như vậy
Chúng sanh bị phá hoại
Bị phi pháp tri thức
Làm cho phải não bức
Vị lai mạt thế ấy
Lòng rất Ðáng lo sợ
Chúng tôi trì chánh pháp
Ðấng cứu thế chỗ nói
Chúng tôi thường từ tâm
Chẳng rời bỏ pháp luật
Sanh khởi chánh Ðại bi
Ðể thủ hộ cho Ðời
Phá giới thích làm ác
Chẳng an trụ chánh pháp
Sa Ðọa nơi Ðạo nào
Chúng tôi thường lo thương
Thấy cố ý làm ác
Hủy báng nơi chánh pháp
Chúng tôi trọn chẳng cùng
Chung làm thân bạn Ðảng
Thường dùng sức chúng tôi
Khéo thủ hộ lỗi miệng
Thấy những người vô dụng
Chẳng nói lỗi của họ
Chúng tôi trụ dồng thánh
Ðầu Ðà hộ tịnh giới
Ở chánh Ðịnh tu huệ
Thường siêng năng tu hành
Lìa ồn náo thế gian
Thích ở chỗ nhàn tĩnh
Không tham trước như nai
Khéo Ðiều phục tri túc
Nếu lúc Ðến tụ lạc
Nhiếp các căn ít nói
Thấy người diễn thuyết pháp
Cùng nhau luận chánh pháp
Ái ngữ làm lợi ích
Ðể giáo hóa chúng sanh
Lại thuyết pháp cho họ
Khiến họ dứt ác hạnh
Chúng tôi vì chánh pháp
Kẻ ở xa tôi Ðến
Vì họ mà thuyết pháp
Ðể lợi ích cho họ
Nếu thấy hàng phàm ngu
Có người kém mất ấy
Tôi chỉ nên tự hộ
Trụ chánh pháp hành nhẫn
Hủy nhục hay cung kính
Tôi sẽ vững như núi
Chẳng nhiễm pháp thế gian
Làm Ðạo Sư cho Ðời
Các Tỳ Kheo phạm giới
Nếu Ðến quở trách họ
Bảo tự xét lỗi mình
Ðó sẽ là nghiệp báo
Sẽ vì các hạng ấy
Những chúng sanh ganh ghét
Trước tỏ lời thân thiện
Hiện làm cách cung kính
Người ấy liền quan niệm
Ta cũng là Sa Môn
Thành tựu Ðức hạnh ấy
Không bị tiếng xấu chăng
Các người phạm cấm giới
Như là người thất chí
Nghe kinh nầy lo sợ
Như sứt mũi soi gương
Những phương tiện phải làm
Họ chẳng muốn nghe theo
Lại còn bảo người khác
Rằng chẳng phải chánh pháp
Họ còn bảo quốc vương
Phá lòng tin thần dân
Phỉ báng pháp chơn chánh
Rằng chẳng phải Phật nói
Chúng tôi ở lúc nầy
Do thần lực của Phật
Vì hộ trì chánh pháp
Nên chẳng tiếc thân mạng
Thế Tôn biết chúng tôi
Lời nói không hề sai
Sẽ kiên trì thủ hộ
An trụ chánh pháp ấy
An trụ lời thành thiệt
Ðúng như lời mà làm
Vui Ðẹp chư Như Lai
Mới thành tựu Bồ Ðề
Hư Không Tạng Bồ Tát khen chư Bồ Tát rằng: ” Lành thay lành thay, nầy chư Ðại Sĩ! Các Ngài có thể phát nguyện thành thiệt thọ trì Ðại pháp vô thượng thậm thâm vi diệu của Như Lai, thật là rất tốt vậy”.

Hư Không Tạng Bồ Tát bạch Ðức Phật :“Bạch Ðức Thế Tôn! Có thiện nam tử thiện nữ nhơn thọ trì Ðọc tụng kinh Ðiển nầy thì Ðược bao nhiêu phước ?”.

Ðức Phật nói: “Nầy Hư Không Tạng! Ví như cả mười phương mỗi phương Ðều có mười Ðại Thiên thế giới, Ðem nghiền nhỏ tất cả Ðại Thiên thế giới ấy thành vi trần họp chung thành một Ðống. Giả sử có người thành tựu thần túc vô lượng oai Ðức thọ mạng lâu dài, người nầy mang Ðống vi trần ấy Ði phương Ðông quá số thế giới bằng số Ðống vi trần ấy mới bỏ rơi xuống một vi trần. Cứ như vậy Ði qua phương Ðông mãi Ðến bỏ rơi hết số vi trần ấy, nhưng các thế giới vẫn chẳng hết. Như Ði qua phương –Dông bỏ rơi vi trần, Ði qua chín phương kia bỏ rơi hết số vi trần cũng như vậy, nhưng các thế giới cũng chẳng hết.

Nầy Hư Không Tạng! Các thế giới như vậy chừng có nhiều chăng ?”.

Hư Không Tạng Bồ Tát bạch rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Số thế giới ấy rất nhiều rất nhiều vô lượng vô biên chẳng thể Ðếm biết Ðược”.

Ðức Phật nói: “Nầy Ðại Sĩ! Các thế giới ấy hoặc có dính vi trần hay không dính vi trần Ðều Ðem họp cả lại làm một thành cao rộng bằng nhau, trong thành chứa Ðầy hột Ðình lịch. Số hột Ðình lịch nầy có thể Ðếm biết Ðược chăng ?”.

Hư Không Tạng Bồ Tát bạch rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Giả sử dùng thí dụ còn chẳng rỏ Ðược huống là có thể Ðếm biết, chỉ trừ Ðức Như Lai, không ai có thể Ðếm biết Ðược”.

Ðức Phật nói: “Nầy Ðại Sĩ! Ðúng như vậy, Ðúng như vậy, như lời ông nói, chỉ có Như Lai biết Ðược số hột Ðình lịch ấy. Nầy Ðại Sĩ! Nếu như có người thành tựu thần túc vô lượng oai Ðức có thể dùng miệng thổi những hột Ðình lịch ấy rải tan mười phương, một hột Ðình lịch rơi xuống một thế giới, trong chẳng quá một hột. Nầy Ðại Sĩ ! Theo ý ông nghĩ thế nào ? Những thế giới Ðược hột Ðình lịch rơi xuống ấy chừng có nhiều không ?”.

Hư Không Tạng Bồ Tát bạch rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Những thế giới ấy chẳng phải tâm lực có thể phân biệt Ðược. Giả sử có phân biệt khiến tâm người phải mê loạn”.

Ðức Phật nói: “Nầy Ðại Sĩ! Nay Phật bảo với ông, nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn hành Bồ Tát Ðạo, ngày ngày Ðem vô lượng trân bửu Ðầy cả những thế giới ấy Ðể bố thí không hề thôi nghỉ cũng chẳng làm việc khác.

Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn thọ trì Ðọc tụng thơ tả kinh Ðiển thậm thâm nầy, chẳng cầu lợi dưỡng, vì Bồ Ðề mà diễn nói cho người, nhẫn Ðến chỉ làm cho một người sau khi nghe rồi khuyên ở nơi Vô thượng Bồ Ðề nhẫn Ðến phát một niệm lành, vì muốn khiến chánh pháp Ðược còn lâu ở thế gian vậy. Công Ðức của người nầy hơn người bố thí kia cả trăm lần, ngàn lần, trăm ngàn vạn lần, nhẫn Ðến chẳng phải toán số thí dụ biết Ðược. Huống là có thể khiến người nghe pháp nầy an trụ nơi Vô thượng Bồ Ðề. Tại sao, vì có thể diễn nói vô lượng thiện căn thành tựu chư Bồ Tát như vậy Ðể hộ trì chánh pháp.

Nầy Ðại Sĩ! Phật chẳng thấy Bồ Tát còn có pháp nào khác có thể hơn chánh hạnh kiên cố nhiếp các thiện pháp giáo hóa chúng sanh nầy”.

Hư Không Tạng Bồ Tát bạch rằng: ” Bạch Ðức Thế Tôn! Thật là hi hữu, Như Lai bất khả tư nghị, Ðại pháp của Như Lai cũng bất khả tư nghị. Như Ðại pháp của Như Lai bất khả tư nghị, người thọ trì kinh Ðiển nầy Ðược công Ðức cũng bất khả tư nghị.

Ngưỡng mong Ðức Như Lai hộ trì kinh nầy vì Ðời dương lai khiến các thiện nam tử thiện nữ nhơn thọ trì chánh pháp tay Ðược kinh nầy ôm ở trong lòng chẳng rời lìa. Nếu là người Ðáng lìa khỏi sanh tử thì chẳng từ người khác nghe pháp mà tự nhiên Ðược khai ngộ Bồ Ðề. Ngộ Bồ Ðề rồi lại rộng vì người mà diễn nói”.

Ðức Phật nói: “Nầy Ðại Sĩ! Lắng nghe lắng nghe, khéo suy nghĩ Ðó, Phật sẽ vì hộ kinh Ðiển nầy mà nói chương cú triệu thỉnh Hộ Thế Tứ Thiên Vương, Thiên Ðế Thích, Phạm Thiên Vương các vị Thần Thiên. Do vì Ðược chương cú nầy triệu thỉnh nên chư Thiên chư Thần ấy sẽ ủng hộ các thuyết Pháp sư thọ trì kinh nầy lúc diễn nói kinh Ðiển thậm thâm khó Ðược Ðời tin ấy, làm cho không ai làm trở ngại Ðược. Ðó là hoặc bị quốc vương Ðại thần Ðuổi ra khỏi nước, hoặc bị bịnh nặng, hoặc lúc Ðấu tranh nổi lên, hoặc quốc Ðộ có tật dịch. Lúc các sự tai nạn ấy phát khởi do sức thần chú làm cho liền tiêu diệt chẳng trở ngại Ðược. Những gì là thần chú chương cú ? Liền nói chú rằng:

Ðầu Ðầu lệ, Ðề Ðề lệ , Ðà dạ ki Ðế, Ðà dạ la già la, ni Ðế Ðề, tỳ bà tri, xa mế, xa di Ða tỳ, mục xí, chiên Ðế Ðê, ni kỳ noa nễ, a nâu Ða lệ, minh da la ni, bà ki tư, bát tha thâu Ðà ni, bát Ðà nâu chỉ, bát Ðà tán Ðề, bát nhã mâu lệ, a bà cứu lệ, phù Ðà lặc sai, luật na tát chi, Ða bà tát chi, Ða bà bát Ðê .

Tùy Phật ý, thuận Pháp tánh, cung kính Tăng, thế chủ tín hộ thế Tứ Vương vì các Phật tử thọ trì chú nầy hộ trì người thuyết pháp” .

Lúc ấy Tứ Thiên Vương liền Ðứng dậy chắp tay hướng lên Phật mà bạch rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn; Chúng tôi sẽ hộ trì các Phật tử thọ trì kinh nầy. Liền nói chú rằng: Thủ tì, thủ bà bát Ðê, thủ Ðề Ðế, mục Ða ủng, Ðà lê ủng, Ðà la ni, phả Ðam mế, a kỳ ủng khiếp ti, a mục xí, Ðà la ni Ðà ủng, tẩu thủ sái hê na, tì Ðề tì Ðà lại tán Ðề, tam mế, bà dạ mế, ma lại di, ba phiến Ða Ðề, hưu hưu, hê hê, khưu lâu khưu lâu lệ”.

Lúc Tứ Ðại Thiên Vương nói chú bất khả phạm ấy rồi, Thiên Ðế Thích liền Ðứng dậy tâm tịnh vui vẻ chắp tay hướng lên Phật mà nói kệ rằng:

Lúc Ðời mạt Ðói kém
Các Ðại Sĩ lớn rộng
Thọ trì nói kinh nầy
Tôi sẽ hầu hạ họ.
Nói kệ xong, Thiên Ðế Thích liền nói chú rằng:

Di Ðê, thủ tì, ma ha di Ðê, Ðạt ma di Ðê, thiên Ða già lệ, ma di Ðê, tát giá di Ðê, na Ðề mế, a nâu Ða lệ, a nâu Ðầu ủng, a nâu lặc sai, tát bà tát Ðỏa a nâu già hê, a na nâu Ða ti, tu ký Ðê, a tỳ lô Ðề, a tỳ già hê, phù Ðề bồ xá mế, nhị ly, yết tha ni Ðê, nê Ðề la ni, a na tha bà sai Ðế, mế Ðê, mế Ðê xà gia tư, tu sa la.

Các Ngài khởi thiền lạc
Ðến hộ người trì pháp
Các thế giới Thế Tôn
Thảy Ðều Ðồng thọ trì.
Phạm Tự Tại Thiên Vương Ðứng dậy khen Thích Phạm Hộ Thế chư Thiên rằng: ” Lành thay, lành thay; Các Ngài bèn có thể vì hộ chánh pháp, vì trì pháp, vì người thuyết pháp mà phát Ðại trang nghiêm. Các Ngài Ðúng là phải nên như vậy rất Ðược tiện nghi tùy theo pháp luật của Như Lai trụ thế lâu hay mau, trong thời gian ấy sẽ có người hiểu biết chánh hành pháp hành. Trong bao nhiêu thời gian ấy hàng chư Thiên và thế nhơn sẽ rất hưng thạnh cung Ðiện nhà cửa dẫy Ðầy. Sau khi chánh pháp nầy diệt, hàng chư Thiên và thế nhơn trở lại giảm ít, cung Ðiện nhà cửa trống hoang”.

Ðức Phật nói với Di Lặc Bồ Tát rằng: ” Nầy Di Lặc! Ông thọ trì kinh Ðiển thậm thâm nầy Ðọc tụng biên chép rộng vì người mà diễn nói.

Nầy Di Lặc! Nay Phật Ðem kinh Ðiển thậm thâm như Ðây phó thác ông Ðể Ðại pháp nầy còn lâu ở thế gian, Ðể hàng phục các chúng ma, Ðể lợi ích tất cả chúng sanh, Ðể tất cả ngoại Ðạo chẳng Ðược tiện lợi, Ðể dạy bảo chư Bồ Tát gần kề kinh nầy chẳng xa rời, vì muốn khiến Phật pháp Ðại minh còn lâu ở thế gian mà chẳng suy diệt vậy, vì khiến giống Phật Pháp Tăng chẳng Ðoạn tuyệt vậy”.

Di Lặc Bồ Tát liền bạch Phật rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Lúc Ðức Như Lai còn tại thế và sau khi diệt Ðộ, tôi sẽ thường thọ trì kinh Ðiển thậm thâm nầy rộng tuyên lưu bố. Tại sao, vì người thọ trì pháp nầy thì là thọ trì chánh pháp của tất cả chư Phật quá khứ vị lai hiện tại, chớ chẳng phải chỉ thọ trì chánh pháp của một Ðức Phật.

Bạch Ðức Thế Tôn! Tôi cũng vì tự hộ pháp của mình vậy.

Bạch Ðức Thế Tôn! Tôi thường cùng Ðại chúng chư Thiên câu hội ở Ðâu Suất Thiên cung thường vì họ mà rộng diễn nói kinh Ðiển thậm thâm nầy. Tôi còn sẽ làm cho người thọ trì Ðọc tụng kinh nầy tay họ Ðược kinh nầy ôm giữ trong lòng chẳng rời quyển kinh.

Bạch Ðức Thế Tôn! Ðời mạt thế sau, nếu lúc pháp muốn diệt, có ai thọ trì kinh nầy rồi vì người mà diễn nói, nên biết Ðó là do oai thần của Di Lặc kiến lập vậy.

Bạch Ðức Thế Tôn! Trong lúc ấy dầu có nhiều ma sự nhiễu loạn hành nhơn, các người thuyết pháp vì dựa nơi phiền não ma nên bị ma nhiếp trì mà chẳng thích kinh nầy chẳng siêng tu tập tranh cạnh thị phi lẫn nhau, chúng tôi sẽ Ðồng siêng làm phương tiện khiến người thuyết pháp ưa thích kinh nầy thường siêng tu tập Ðọc tụng thông thuộc rộng vì người mà diễn nói”.

Ðức Phật nói: ” Lành thay, lành thay, nầy Di Lặc! Ông có thể vì hộ trì chánh pháp mà làm sư tử hống. Chẳng phải chỉ hôm nay ông ở trước ta làm sư tử hống, mà ông cũng ở trước vô lượng a tăng kỳ chư Phật quá khứ làm sư tử hống hộ trì chánh pháp”.

Ðức Phật bảo Tôn giả A Nan: ” Nầy A Nan! Ông có thọ trì kinh nầy chăng?”.

Tôn giả A Nan bạch rằng: ” Bạch Ðức Thế Tôn! Do thần lực của Phật nên tôi Ðã thọ trì”.

Ðức Phật nói: ” Nầy A Nan! Ông thường nên vì hàng tứ chúng mà rộng phân biệt giải nói kinh nầy. Nếu có người trước Ðã vun trồng thiện căn thích pháp thù thắng, những người như vậy Ðược nghe kinh nầy rồi có thể tin hiểu thọ trì Ðọc tụng rộng diễn nói cho mọi người. Người ấy sẽ Ðược vô lượng vô biên bất khả tư nghị khối Ðại công Ðức”.

Tôn giả A Nan bạch rằng: ” Bạch Ðức Thế Tôn! Sẽ gọi tên kinh nầy là gì và phải phụng trì thế nào ?”.

Ðức Phật nói: “Nầy A Nan! Kinh nầy tên là Khuyến Phát Chư Bồ Tát Trang Nghiêm Bồ Ðề. Phải phụng trì như vậy”.

Lúc ấy Công Ðức Trang Nghiêm Bồ Tát ở trong Ðại chúng Ðứng dậy gối hữu chấm Ðất chắp tay hướng lên Phật bạch rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Thật là hi hữu, Ðức Như Lai vì ủng hộ chánh pháp và người thuyết pháp nên khéo có thể tán thán kinh nầy như vậy.

Bạch Ðức Thế Tôn! Hàng tân học Bồ Tát vì Bồ dề nên vun trồng thiện căn, Ðem các thứ hoa hương, anh lạc, hương bột, hương xoa siêng cúng dường Phật mà chẳng thọ trì kinh nầy, người ấy có thành tựu Ðệ nhứt cúng dường mà cúng dường Như Lai chăng ?”.

Ðức Phật nói: ” Nầy thiện nam tử! Chẳng thành Ðệ nhứt cúng dường Như Lai, cũng chẳng thể dùng nhơn duyên ấy Ðể Ðược vô lượng công Ðức. Chẳng bằng thiện nam tử thiện nữ nhơn thọ trì kinh nầy công Ðức rất nhiều”.

Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:

Như Lai dùng Phật nhãn
Những Phật Ðộ Ðược thấy
Cùng khắp cả mười phương
Ðều rộng lớn vô biên
Bao nhiêu thế giới ấy
Ðựng Ðầy những trân bửu
Bồ Tát Ðem báu nầy
Thường dùng Ðể bố thí
Nếu có người ở nơi
Kinh vi diệu thậm thâm
Chánh pháp vô sở Ðắc
Ðược chư Như Lai nói
Mà có thể thọ trì
Vì người rộng diễn thuyết
Công Ðức của người nầy
Còn nhiều hơn người kia
Hoa hương và anh lạc
Hương xoa và hương bột
Lọng báu với tràng phan
Những y phục thượng diệu
Mang những món cúng nầy
Ðầy khắp các thế giới
Cúng dường chư Như Lai
Hồi hướng về Phật Ðạo
Nếu Ðời mạt thế sau
Lúc chánh pháp sắp diệt
Nơi chánh pháp cứu thế
Siêng tu tập hộ trợ
Thọ trì nơi chánh pháp
Thường hành bất phóng dật
Khối công Ðức người nầy
Còn nhiều hơn người kia
Mười phương các thế giới
Tất cả những Ðại hải
Hương du tối thượng diệu
Ðựng Ðầy tất cả biển
Làm tim Ðèn rất lớn
Dường như núi Tu Di
Thắp sáng Ðể cúng dường
Tất cả chư Như Lai
Ðời mạt thế sau nầy
Lúc chánh pháp sắp diệt
Biết chúng sanh thế gian
Bị vô minh che trùm
Nếu người có thể thắp
Cây Ðuốc chánh pháp lớn
Người nầy Ðược công Ðức
Còn hơn người trước kia
Chỗ Ðược thấy của Phật
Vô lượng chư Như Lai
Dầu trong ức ngàn kiếp
Mang các thứ cúng dường
Các y phục cõi trời
Món vừa ý cúng dường
Mà chẳng hay thọ trì
Kinh Ðiển thâm diệu nầy
Nếu người ở chư Phật
Biết là có ơn nặng
Nên ủng hộ Tam bửu
Ðể báo Ðáp ơn Phật
Vì muốn lợi chúng sanh
Nên thọ trì Ðọc tụng
Rộng nói kinh Ðiển nầy
Phước nhiều hơn người kia
Ta dùng sức Phật nhãn
Những chúng sanh Ðược thấy
Nếu có thể dạy bảo
Ðều thành trời Thích Phạm
Người nầy Ðược công Ðức
Chẳng bằng người biên chép
Thọ trì kinh Ðiển nầy
Ðược công Ðức rất nhiều
Toàn Ðại Thiên thế giới
Có bao nhiêu chúng sanh
Nếu người hay giáo hóa
Ðều thành thánh nhị thừa
Nếu có người hay phát
Tâm Bồ Ðề vô thượng
Hộ trì kinh Ðiển nầy
Công Ðức lại hơn kia
Công Ðức thọ trì kinh
Nếu là có hình sắc
Sẽ Ðầy khắp tất cả
Mười phương các thế giới
Chỉ trừ trí vô thượng
Của chư Phật Như Lai
Không còn ai biết Ðược
Công Ðức người thọ trì
Như trí của Như Lai
Rộng khắp vô biên tế
Hư không và pháp giới
Cũng rộng vô biên tế
Có thể thọ trì Ðược
Kinh pháp nầy của Phật
Ðược công Ðức vô biên
Cũng như hư không kia.
Nghe Phật nói kệ ấy xong, Công Ðức Trang Nghiêm Bồ Tát bạch rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Nay tôi tin hiểu nghĩa thú Ðược Như Lai nói, năm trăm năm sau lúc pháp sắp diệt, các chúng sanh phát tâm Ðại thừa mà có người chẳng thọ trì kinh pháp nầy, nên biết là bị ma nhiếp sa ra ngoài Phật pháp.

Bạch Ðức Thế Tôn; Nay tôi có khả năng sau khi Ðức Như Lai diệt Ðộ thọ trì kinh nầy Ðể Phật pháp còn lâu ở thế gian”.

Lúc bấy giờ vì phó chúc kinh Ðiển thậm thâm nầy nên Ðức Thế Tôn phóng ánh sáng lớn chiếu khắp mười phương vô lượng a tăng kỳ chư Phật thế giới. Chư Như Lai ở các thế giới ấy cũng vì phó chúc kinh pháp nầy nên Ðồng phóng ánh sáng nơi lông trắng giữa chân mày chiếu khắp cả mười phương thế giới không Ðâu là chẳng chiếu khắp.

Lúc nói kinh nầy rồi, Ðức Như Lai dùng thần lực phóng ánh sáng lớn ấy, vô lượng a tăng kỳ chư Phật thế giới chấn Ðộng sáu cách. Có vô lượng a tăng kỳ chúng sanh phát tâm vô thượng Ðạo. Có vô lượng a tăng kỳ Bồ Tát Ðược Vô Sanh Pháp nhẫn. Còn có vô lượng a tăng kỳ Bồ Tát Ðược thiện căn Nhứt sanh Bổ xứ. Lại còn có quá vô lượng a tăng kỳ chúng sanh Ðược Thanh văn thừa trụ bực học vô học.

Ðức Phật nói kinh nầy rồi, Hư Không Tạng Bồ Tát, Tôn giả A Nan, Ðại chúng chư Bồ Tát, chư Thanh Văn, chư Thiên thế nhơn nghe lời Phật nói Ðều rất vui mừng.