Kinh Hiền Ngu

Kinh Hiền Ngu

Trương Văn Chiến 34

Phẩm XIX. SA DI HỘ GIỚI

Người đã thọ giới phải giữ giới, dầu cho mất thân mạng cũng không nên phá giới. Tại sao? Giới là nền tảng của người tu Đạo, là một lối đi vững chắc qua Trời Người lên cõi Phật, là một bí pháp hết lậu nghiệp, là con đường thẳng vào thành Niết Bàn, là chốn an lạc giải thoát đời đời.

Người giữ giới được thanh tịnh, công đức ấy vô lượng vô biên; ví như biển lớn, sâu không đáy, rộng không bờ, thâu nạp muôn loài, như A Tu La Ma Kiệt ngư, cùng tất cả các loài thủy tộc.

Giới cũng như thế, thâu nạp những người tam thừa, sinh trưởng ở đó.

Biển lớn kia có rất nhiều vàng, bạc, ngọc lưu ly, pha lê, xà cừ, mã não, san hô, hổ phách.

Nhân có giới mới sinh ra các pháp lành; bốn phi thường, ba mươi bảy phẩm trợ đạo, thiền, tam muội, giải thoát, giải thoát tri kiến v.v…

Bể lớn kia đáy bằng ngọc kim cương, chung quanh bằng núi kim cương, có bốn sông lớn chảy vào luôn luôn, mà nước bể vẫn không đầy vơi.

Biển giới cũng thế, lấy giới làm đáy, lấy luận làm núi vây quanh, bốn A hàm làm sông, muôn dòng nước chảy vào trong bằng phẳng không thêm bớt.

Tại sao các sông vẫn chảy vào biển, mà nứơc biển vẫn không đầy? Vì sức lửa ở ngục A Tỳ bốc lên, nên nước biển vẫn không đầy, các sông thường chảy ra biển, nên nước biển không bao giờ vơi.

Biển giới của Phật Pháp cũng thế, không phóng dật tham lam cảnh dục nên không tăng, đủ công đức nên không giảm. Như thế biết rằng giữ giới là một công đức lớn lao.

Sau thời Phật vào Niết Bàn, nước An Đà có một vị Tỷ Khưu, tu hạnh Đầu Đà thích ở nơi vắng vẻ, oai nghi đầy đủ, giới đức hoàn toàn.

Khi Phật còn tại thế, Ngài thường khen các vị tu hành Đầu Đà!

Những vị Tỷ Khưu tu hạnh Đầu Đà không hay ở chung với Tăng chúng; vì những vị ấy ít lòng dục, tri túc, không bỏn xẻn tham lam tích trữ, thường ngày đi xin ăn ngồi trơ trên mặt đất, không nhà không cửa, ngày chỉ một bữa ăn, với một tấm áo là đủ, lại chăm tọa thiền tụng kinh. Những người như thế rất đáng tôn trọng, mới xưng đáng ngôi Pháp Vương Tử.

Trái lại những vị Tăng không có một trong đức hạnh nói trên, phần nhiều chỉ đa dục, lòng tham không biết chán, súc tích tiền của, tham lam tật đố, ghen ghét đầy lòng si ái mê muội, bởi thế cho nên mất công đức lớn, khiến cho người dân chán ghét, có khi còn làm cho người ta phỉ báng Tam Bảo là khác.

Vị Tỷ Khưu nói trên đức hạnh thuận hòa, có đủ lục thông, tam minh và tám phép giải thoát oai nghi đĩnh đạc, tiếng khen vang dội muôn phương, đáng làm một vị Sa Môn.

Bấy giờ có một người Ưu Bà Tắc tin kính ngôi Tam Bảo, giữ năm điều răn cẩn thận, lại chăm bố thí tu đức, được nhiều người khen ngợi Ưu Bà Tắc nguyện chung thân cúng dàng vị Tỷ Khưu nói trên.

Phúc cúng dàng theo nhân hưởng quả: Nếu thỉnh Tăng đến nhà cúng dàng các vị phải đi đường xa, hoặc nóng, lạnh, gió, giá, rét, bị mỏi mệt xảy ra thì làm phế bỏ sự hành đạo của chư Tăng. Người thí chủ sau có được hưởng quả báo tốt lành nhưng phải mệt nhọc, còn các vị đi ngoài đường khất thực thì không kể, mới có thể được, phúc báo ấy thì hơn, còn những vị tại chùa mình mang thức ăn lại nơi cúng dàng thì lai sinh được hưởng phúc báo tự nhiên, không khó nhọc mà vật chất tự nhiên đầy đủ tùy ý muốn.

Ông Ưu Bà Tắc này vì lòng tin chắc chắn, nên ông sai người mang đến tận nơi cúng dàng.

Sa Môn có bốn thứ hay dở khó nhận xét, cũng như quả Am La xanh chín khó hiểu biết.

– Cũng có vị Tỷ Khưu coi tướng mạo oai nghi đĩnh đạc, ung dung văn vẻ thế mà trong bụng đầy sân si, làm các hạnh phi pháp phá giới. Tỷ như quả Am La ngoài vỏ coi chín đẹp, nhưng trong lòng sống sượng.

– Cũng có vị bề ngoài coi thô sơ, oai nghi tầm thường bên trong có đầy đủ đức hạnh nào trí tuệ thiền định đạo đức. Cũng như quả Am La trong chín, ngoài xanh.

– Cũng có vị hình tướng cục mịch nói năng thô lỗ, không có oai nghi đức độ, phá giới tạo ác, trong lòng dầy sân si, ngã mạn tật đố tham dục. Cũng như quả Am La trong ngoài đều xanh.

– Cũng có vị oai nghi nghiêm chỉnh giữ giới thanh tịnh, bên trong đầy đủ đạo đức, trí tuệ rộng sâu, thiền định giải thoát, cũng như quả Am La trong ngoài đều chín.

Tại thành này có ông Trưởng Giả tin kính ngôi Tam Bảo, sinh được cậu con trai, ông muốn cho cậu đi xuất gia và nghĩ rằng:

– Phải tìm một vị Minh Sư đạo đức học vấn tinh thông, cho con mình nương theo, ở bầu thì tròn, ở ống thì dài, gần người lành, thì phát sinh lòng lành, gần kẻ ác sẽ tập nhiễm thói ác. Ví như gió không có thơm hôi, thổi qua rừng Thiên Đàn thì thấy gió thơm tho, nếu thổi qua Thiêm Bặc thì thấy gió hôi thối, cũng như tấm áo sạch để ở bồ hương, áo ấy sẽ thơm, nếu để chỗ hôi dĩ nhiên bị hôi. Gần bậc thiện trí thức, tính tình cao thượng, gần kẻ hèn hạ lòng dạ xấu xa.

Nghĩ như vậy rồi ông dẫn con đến vị Tỷ Khưu nói trên thưa rằng:

– Bạch Đại Đức! Cháu trai này là con của tôi, muốn để xuất gia tu học, kính xin Đại Đức từ bi tế độ!

Vị Tỷ Khưu dùng đạo nhãn quan sát, xem căn khí có lớn lao không? Có thể làm hưng long cho Phật Giáo được không? Có thể tu trì giới hạnh được không? Mới nhận lời, xem xong đáp:

– Quý hóa! Ông cho cháu đi xuất gia để nối chí Phật chủng, hay lắm tôi vui lòng tế độ!

Trưởng Giả vui mừng lễ tạ ra về.

Đoạn này nói người Ưu Bà Tắc cúng dàng vị Tỷ Khưu: Một hôm Ưu Bà Tắc có người bạn thân rủ đi xem hội, ông muốn cho cả nhà cùng đi, nhưng nghĩ “ai là người coi nhà, nếu bắt buộc một người ở lại thì không đành lòng” ông họp gia đình lại nói rằng:

– Mai đi xem hội, ai vui lòng ở lại coi nhà?

Cô con gái của ông đáp: – Thưa cha! Con xin coi nhà để cha mẹ và toàn gia đi xem hội!

Ông vui vẻ nói: – Hay lắm! Con ở nhà trông nhà cho cha, chớ đi chơi đâu nhé!

Sáng ngày mai cả nhà đi hết, ông quên không dặn con gái dâng cơm vị Tỷ Khưu, cô đóng chặt cửa ngõ vào nhà ngồi xem sách, đọc chuyện để giải buồn.

Bữa cơm ngọ đã tới mặt trời chừng xết trưa. Vị Tỷ Khưu không thấy mang cơm đến, thầm nghĩ rằng:

– Người trần tục bận nhiều công việc, hôm nay có lẽ họ quên dâng cơm?

Ngài gọi chú Sa Di con ông Trưởng Giả lại bảo:

Con đi lại nhà ông Ưu Bà Tắc lấy cơm, hôm nay có lẽ họ quên. Theo lời Phật dạy, con phải giữ oai nghi cho cẩn thận, vào các thôn xóm không được sinh tâm tham trước, tỷ như con ong lấy mật, chỉ cốt lấy mật, chứ không làm tổn thương đến sắc hương của hoa. Con cũng phải như thế, đến nhà người ta, chớ sinh lòng tham sắc đẹp v.v…giữ được cấm giới, là giữ được đạo. Ông Đề Bà Đạt Đa tuy tụng được nhiều kinh, vì tạo ác phá giới phải đọa vào địa ngục A Tỳ, ông Cù Ca Lợi tội phỉ báng phá giới phải đọa địa ngục, ông Chu Lợi Bàn Đặc chỉ tụng được câu kệ, vì giữ giới hoàn toàn nên được chứng quả La Hán. Giới là lối vào đạo Niết Bàn, là nhân thụ hưởng khoái lạc, cõi trời cõi người.

Tỷ như quy chế trường trai ba hoặc bốn tháng, của phái Bà La Môn họ mời những vị cao minh giữ giới trong sạch trước hết họ đưa cho mỗi vị một phong bao, trong để vị ngọt. Bọn ấy có một người tuy học cao nhưng tính tình không được liêm khiết tham mùi ngọt ăn hết, tới ngày nhập hội mọi người xuất trình phong bao để vào, ông này không có phong bao cũng bước vào, người gác cửa hỏi:

– Phong bao của ông đâu?

– Có, nhưng đã ăn hết vị ngọt!

– Thôi! Ông không được vào nữa, ông tham một chút mùi ngọt thiệt hại cho ông bốn tháng các mùi thơm ngon và các trân bảo khác, thôi ông đi ra!

Cũng thế! Con vào thôn xóm chớ tham một việc nhỏ, lỡ phá giới của tam thế chư Phật, thì mất các sự khoái lạc của năm món dục, vui trong cõi nhân, thiên, và những Pháp Bảo! Vô lậu ba mươi bảy phẩm trợ đạo Niết Bàn v.v…Phải nhớ! Chớ phá giới của tam thế chư Phật, làm ô nhục cho Tam Bảo cha mẹ, Sư Tăng.

– Dạ! Lạy thầy con xin ghi nhớ!

Sa Di lễ tạ lui ra, mang bình đeo bát đến nhà kia, gõ cửa. Cô gái chạy ra hỏi:

– Ai gõ cửa đấy! Có việc gì?

– Thưa! Tôi là Sa Di lại lấy cơm về dâng thầy!

Cô ngó thấy Sa Di đến vui vẻ bụng bảo dạ rằng:

– Ta hằng mong ước được gặp, hôm nay thật là toại nguyện cho ta lắm!

Mở cửa chắp tay vái chào:

– Mô Phật! Mời Ngài vào nhà con!

Cô này xinh đẹp vô song, dong tư yểu điệu, năm ấy mới mười sáu tuổi, vì tình yêu nồng nhiệt phát động lòng dâm dục mạnh như lửa đốt! Cô làm ra vẻ õng ẹo, chớp mắt dương mi, lườm nguýt cười nói lộ tướng dâm dục.

Sa Di nói: – Cô này có chứng bệnh phong hay sao? Điên cuồn như vậy hay bệnh dương giản?

Cô đáp: – Em không có bệnh chi hết!

Sa Di thầm nghĩ: – Cô gái này ý muốn phá hủy giới đức thanh tịnh của ta đây, ta phải nhớ lời thầy dạy: Cẩn thận giữ oai nghi. Sa Di vốn vững lòng không thay đổi ý chí, cô này lễ dưới chân thưa rằng:

– Bạch ngài! Em luôn luôn ước nguyện được gặp để ngỏ bày tâm sự, nhưng chưa gặp lúc nào vắng vẻ em tưởng tượng Ngài có tâm thương em, nhà em giàu có vàng bạc đầy kho chẳng khác gì bảo tàng của nhà vua Tỳ Sa Môn Thiên Vương trên thượng giới, nhưng chưa có người làm chủ. Vậy Ngài hãy ném lòng làm chủ nhà em, em cùng Ngài loan phượng trăm năm, suốt đời em xin tôn kính hầu hạ, xin đừng từ chối để mãn nguyện lòng mông ước của em.

Sa Di thầm nghĩ: – Ta có tội gì gặp các duyên này? Ta thà chết ở đây chứ không chịu phá giới của tam thế chư Phật. Ngày xưa có vị Tỳ Khưu đến nhà dâm nữ, bị cưỡng bách hành dục, còn đâm đầu vào hố lửa chết, quyết không chịu phạm giới, các Tỷ Khưu bị cướp lấy cỏ trói, chịu gió gào, nắng hét, trùng cắn, vì giữ giới không dám dứt cỏ mà đi, con ngang nuốt chuỗi ngọc, Tỷ Khưu nhìn thấy, vì giữ giới bị đánh vỡ đầu mà không nói; thuyền bị ngụp vào biển, Hạ Tọa Tỷ Khưu dâng phao cho Thượng Tọa, còn mình chịu chết chìm nơi biền cả. Các tiền bối đã khinh thân hộ giới mình là kẻ nào mà không giữ giới? Riêng những người đó là đệ tử Phật hay sao? Là vì họ giữ được giới cấm, Ðức Thế Tôn là thầy của họ, không phải là thầy của ta hay sao? Hột hồ ma ép chung với hoa thiềm bặc thì hôi, ta đã gặp được bậc thiện trí thức dạy bảo ta, dắt dìu ta, học đạo vô vi giải thoát an lạc, còn tham chi tình ái, tạo nghiệp luân hồi sinh tử làm gì, thà chết thân nầy quyết không phá giới để ô nhục cho Tam Bảo, phụ mẫu Sư Tăng. Nếu ta ra về, sợ cô tránh sự hổ thẹn, với sự nồng nàn của lòng dâm dục của cô, lôi kéo ta, phỉ báng ta, thôn xóm họ biết thì không tránh được sự ô nhục! Ta sẽ quyên sinh tại đây!

Đáp rằng: – Cô hãy cho tôi vào phòng nghỉ, thư thả tôi sẽ thưa chuyện cùng cô.

– Vâng! Mời Ngài vào phòng khách!

Vào phòng, Sa Di đóng cửa chặt, cởi áo giắt lên giá hoan hỷ quỳ thẳng chắp tay hướng về thành Câu Thi Na, nơi Phật nhập Niết Bàn tự thệ nguyện:

– Kính lạy Ðức Thế Tôn! Con không bỏ Phật, Pháp, Tăng, không bỏ Hòa Thượng A Xà Lê và không bỏ chánh giới của Như Lai, chính con vì hộ trì giới để xin bỏ thân này. Nguyện cho con sinh vào nơi nào cũng được hạnh phùng ngôi Tam Bảo, và được xuất gia học đạo, tu phạm hạnh thanh tịnh tẩy trừ cho hết lậu nghiệp, thành đạo vộ thượng Bồ Đề.

Khấn nguyện xong rút dao đâm cổ chết! Máu chảy linh láng thân thể đỏ ngầu.

Cô đứng ngoài chờ lâu quá, nóng ruột bước lên gõ cửa bước vào, nhìn thấy tình nhân Sa Di của mình chết nằm trên mặt đất, coi rất rùng rợn, cô thất sắc, lúc đó lòng dục nguội lạnh, tâm hồn tán loạn hoảng hốt, lấy tay cào lên đầu làm cho tóc rối như tơ, tỏa che khắp mặt, lăn khóc mê hồn, rồi ngất đi.

Khi cha mẹ cô trẩy hội về đứng ngoài cửa gọi con gái, gọi mãi không thấy trả lời, sai người trèo qua vào trong mở cổng, ông vào phòng thấy con gái như thế, sửng sốt hỏi:

– Ôi! Con sao thế con? Cha đi vắng ở nhà ai làm phạm đến tiết hạnh con đấy ư? Con nói cho cha hay.

Cô yên lặng không nói sao cả, và thầm nghĩ:

– Nếu mình nói thật cho cha nghe thì rất xấu hổ, nếu đổ lỗi cho bác Sa Di, thì vô tình mình đã vu oan cho người lương thiện, tội ấy đọa địa ngục chịu khổ vô cùng, thôi cứ nói rõ cho cha ta nghe là hơn.

– Thưa cha! Hôm nay Hòa Thượng sai bác Sa Di đến nhà ta lấy cơm, con quá yêu người đòi hỏi lòng yêu cho toại ý muốn, nên con quấy nhiễu người, và bắt theo ý muốn của con. Sư bác Sa Di quyết giữ giới thanh tịnh nên người vào phòng tự sát, con nghĩ thân con nhơ bẩn lại làm hạ thanh tịnh của người, tội ấy không phải nhỏ, con sợ quá, cũng không biết làm thế nào được nữa, xin cha xá tội.

Ông vẫn thản nhiên không kinh khủng gì, vì ông tự biết đó là do nghiệp báo sử nhiên, ông nói:

– Tất cả muôn pháp đều thuộc vô thường, con chớ có lo!

Ông bước vào phòng tới trước thi hài Sa Di, lễ bái khen rằng:

– Quý hóa thay! Khí cao như trời mây, tri kiến như sắt đá, bỏ mạng để họ giới của tam thế chư Phật, trên đời có một không hai.

Luật nước ấy, nếu tu sĩ nào chết ở nhà ai thì nhà ấy phải nộp cho chính phủ một ngàn quan tiền vàng. Theo lệ có một không hai.

Nhà vua hỏi:

– Khanh có lỗi gì?

– Tâu bệ hạ! Có một tu sĩ chết tại nhà hạ thần.

– Vì lý do gì?

Ông cứ thực trình bày như trên cho vua nghe.

Nhà vua nghe xong, cũng cảm phục tâm hồn cao thượng của Sa Di và nói:

– Sa Di bỏ mạng để họ giới, không có lỗi gì, khanh mang tiền về, ta sẽ đi cùng khanh.

Nhà vua lên xe đi đến nhà ông Ưu Bà Tắc, thấy Sa Di thân đỏ như cây gỗ chiên đàn, một lòng kính cẩn lễ sát đất, khen lao công đức. Nhà vua đưa một cỗ xe quý nhất rước ông Sa Di ra nơi bằng phẳng cao sạch, lấy các thứ gỗ để đứng trên đài cao cho các người dân xem coi, giữa lúc đó vua tuyên bố rằng:

– Người con gái này có thể đẹp nhất thời nay, trong hàng nữ lưu, nhưng con người còn chịu ách được dục vọng kìm hãm nơi tâm ai là không yêu quý mê say! Đây ông Sa Di vì chưa đắc đạo, đem thân sinh tử hộ giới bỏ mạng thực là hiếm có trên thế gian này!

Sau nhà vua mời Hòa Thượng lên đài thuyết pháp, xong cuộc thuyết pháp này có rất nhiều người phát tâm xuất gia trì giới, ai nấy đều cảm mến đức tin cao thượng của Sa Di, cúi đầu lễ Hòa Thượng mà lui.