Kinh Hiền Ngu

Kinh Hiền Ngu

Trương Văn Chiến 30

Phẩm XLI. ƯU BÀ TƯ

Chính tôi được nghe: Một thời ở nước Xá Vệ, tại vườn Cấp Cô Độc, cây của Kỳ Đà.

Thuở đó nước La Duyệt Kỳ có hai anh em người lái buôn, cùng ở một nơi. Người anh hỏi con gái ông Trưởng Giả, nhưng cô ấy hãy còn ít tuổi, nên chưa cho xin cưới.

Vì sự sinh kế cho đời, nên người anh ra nước ngoài buôn bán, không biết vì lý do gì mà lâu năm không về. Cô con ông Trưởng Giả đã lớn, chờ đợi sợ muộn xuân, tục thường nói:

“Trai trẻ mãi, gái có thời”.

Nên ông Trưởng giả gọi cậu em đến bảo rằng:

– Anh của chú đi xa, chắc chết rồi nên không thấy về, vậy tôi gả con gái tôi cho chú, ý chú nghĩ sao?

– Dạ, thưa Trưởng giả! Không được! Anh tôi hãy còn sống và tôi không bao giờ làm những chuyện kỳ quặc như vậy!

Từ đó trở đi, ông Trưởng giả luôn luôn thúc đẩy phải lấy con gái ông, nhưng anh vẫn kiên nhẫn không nghe.

Ông bất đắc dĩ phải mạo ra một lá thư, cho người lái buôn khác mang lại, ý nói rằng:

– Anh của chú đã chết lâu rồi.

Khi bắt được thơ, mở xem biết rằng anh mình đã chết, đương buồn phiền thương anh! Thì ông Trưởng giả đến hỏi:

– Hôm nay tại sao chú buồn thế?

– Thưa Trưởng giả, tôi vừa nhận được tin anh tôi đã chết từ lâu!

– Thôi chú ạ! Sự sinh tử chết sống của con người là thường! Việc chết thì lo việc chết, còn việc sống phải lo việc sống! Giờ đây tôi hỏi thực chú: con gái tôi có định kết duyên với nó thì xin trả lời, bằng không tôi sẽ định liệu cho nó?

Cũng do ông ép uổng quá, nên anh phải nhận lời.

Từ đó trai gái hai người kết duyên với nhau, chẳng bao lâu cô vợ đã có mang.

Người em yên trí rằng: Anh mình chết, mình chẳng lấy vợ của anh, thì kẻ khác cũng lấy, đương cuộc nồng nhiệt yêu nhau của đôi vợ chồng trẻ! Bỗng nhiên được tin anh ở nước ngoài trở về, người em sợ quá! Chạy trốn sang nước Xá Vệ.

Sau khi chạy trốn thì các bạn thân của người anh lại khám nghiệm té ra cô đã đánh đọa thai từ lâu.

Người em tìm đến chốn Phật ngự, thấy Phật anh ta tủi thẹn, cúi đầu lễ dưới chân, bạch Phật rằng:

– Kính lạy Ðức Thế Tôn! Con tới đây một lòng thành kính, cầu xuất gia tu học, cúi xin Ngài từ bi tế độ!

Phật hoan hỷ cho nhập làm Sa Môn và cải tên là Ưu Bà Tư, Chăm chỉ tu hành, chẳng bao lâu đã đắc quả A La Hán, đủ thần thông đạo lực.

Người anh khi về tới nhà, biết em đã lấy vợ của mình, nổi giận hầm hầm đi tìm để giết, tìm mãi không thấy. Có người họ mách em anh sang nước Xá Vệ, và đã theo Phật làm Sa Môn.

Anh ấy bỏ ra năm trăm lượng vàng, thuê người giết, và cùng đi sang nước Xá Vệ, tới nơi thấy Ưu Bà Tư đương tọa thiền, người đó tự phát sinh tâm từ bi nghĩ như vầy:

– Ta nỡ nào giết ông Tỷ Khưu kia, ông có thù oán gì với ta, nhưng nếu ta không giết thì sao lấy được số vàng này?

Trương cung bắn soành một tiếng, cái tên ấy trúng phải người anh, kêu la dữ dội oán hận mà chết, linh hồn đọa sinh làm con rắn độc, ở hố cổng nơi ấy, chờ thời cơ để cắn chết báo thù; một hôm bò qua ngưỡng cửa bị cánh cổng khép lại chết mất, tuy chết nhưng lòng uất hận chưa nguôi, nên lại nguyện sinh làm con trùng độc ở ngay phòng Ưu Bà Tư. Chờ khi Ưu Bà Tư tọa thiền nhảy xuống giữa đỉnh đầu đốt chết.

Trong chúng Đại Khưu, thấy ông Ưu Bà Tư chết một cách tự nhiên, không hiểu tại sao? Ngài Xá Lợi Phât biết nguyên uỷ như vậy, bạch với Phật rằng:

– Kính lạy Ðức Thế Tôn! Ưu Bà Tư Tỷ Khưu hiện đã đắc La Hán quả; còn bị trùng đốt chết, cúi xin chỉ giáo cho chúng con được biết nguyên do?

Phật nói: – Xá Lợi Phất ông nên biết: Đây cũng một nghiệp báo từ thời quá khứ; thuở bấy giờ có một vị Bích Chi Phật tu trong rừng đá đắc quả, một hôm có người đi săn, đặt lưới bắt cầm thú, vị Bích Chi Phật vì lòng thương nhân vật, nên Ngài hóa phép làm cho họ không bắt được con nào. Vì thế người đi săn tức giận, dùng tên độc bắn Ngài. Muốn cho người đó khỏi tội báo lâu đời, biết ăn năn tội lỗi của mình, nên Ngài bay lên hư không hiện ra mười tám phép thần túc.

Người đi săn thấy thế, sợ hãi trách mình, sinh lòng kính cẩn tới trước tạ lỗi, cầu xin xá tội.

Ngài cũng hoan hỷ cho sám hối. Sau khi về nhà bị trùng độc đốt chết, thần hồn đọa xuống địa ngục; khi hết tội địa ngục trong năm trăm kiếp bị trùng độc mà chết, cho đến ngày nay đắc đạo A La Hán, còn phải tội bị trùng độc cắn chết. Người đi săn thuở đó chính là Tỷ Khưu Ưu Bà Tư ngày nay, bởi lúc đó ác tâm hại vị Bích Chi Phật, nhưng lại biết sám hối, và phát nguyện đời sau được gặp Thánh Sư, tu đắc phép thần túc, bởi thế được gặp Ta và đắc đạo quả.

Khi Phật nói xong, Ngài Xá Lợi Phất và tất cả mọi người trong đại chúng, ai nấy đều sợ hãi nghiệp báo từ tâm nóng giận phát khởi chuyên lòng khắc ý, tẩy trừ sân hỏa, nguyện thanh tam độc, vui mừng tạ lễ lui ra.