Phẩm XXXIII. LÊ KỲ DI
Chính tôi được nghe: Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, tại vườn cây của ông Cấp Cô Độc và Thấi Tử Kỳ Đà. Tại bản triều vua Ba Tư Nặc có ông quan đại thần tên là Lê Kỳ Di, nhà giàu, sinh được bảy người con trai; sáu cậu đã lập gia đình xong xuôi, còn cậu thứ bảy chưa có vợ, ông tự nghĩ:
Tuổi đã già yếu, còn đứa con trai út, nếu lập gia đình cho nó thì phải tìm nơi xứng đáng, và con người xinh đẹp.
Một hôm có người bạn thân dòng Phạm Chí đến chơi, trong lúc chuyện trò vui vẻ! Ông nói:
– Thưa bác! Tôi còn thằng cháu trai út, muốn lấy vợ cho nó, nhưng chưa tìm được nơi đâu xứng đáng. Bác từ trước đến nay đi du lịch các nước đã nhiều, vậy phiền bác nơi đâu con nhà tử tế, có nết tinh khiết, hiền hậu hòa nhã, để bác giới thiệu cho cháu một người!
– Dạ! Việc chi chứ việc ấy, tôi có thể giúp được.
Qua thời gian sau, ông bạn thân này sang nước Đặc Xoa Thị Lợi, gặp năm trăm đồng nữ đi hái hoa. Ông theo sau để quan sát, tới một suối nước chảy cô nào cô ấy đều tụt giày dẹp lội qua, duy có một cô để cả giày lội theo, đi một lát tới con sông nhỏ, các cô kia đều vén quần lội qua, nhưng cô nói trên, không vén để cả quần lội theo, khi đi tới rừng cây, các cô kia đều trèo lên cây hái hoa, bắt trái, cô này không trèo, đợi các cô kia xuống, xin được rất nhiều, ông tới trước hỏi cô kia rằng:
– Thưa cô, tôi xin hỏi cô một vài điều có được không?
– Dạ, xin ông cứ hỏi, không sao!
– Vừa đây qua suối, các cô kia đều tụt giày dép lội qua riêng cô không tụt là có ý gì?
– Thưa ông, sở dĩ giày dép, chính là để giữ cho cái chân, khỏi dẫm phải gai góc mảnh sành, và các vật có thể làm hại chân; trên mặt đất, còn có thể trong thấy mà tránh, dưới nước làm sao trông thấy, những gai góc độc trùng mà tránh, vì thế nên tôi không tụt!
Ông hỏi tiếp: – Qua sông, các cô kia đều vén quần lội, riêng cô để cả quần là ý nghĩa chi?
– Thưa ông người con gái, phải có sự kín đáo nhiệm nhặt, lõa lồ thân thể, thô con mắt bàng quang, và tự thẹn cho mình nên tôi không vén!
Ông hỏi tiếp: – Các cô kia đều trèo cây, tại sao cô không trèo?
– Thưa ông leo cây sợ càng gãy, làm nguy hai cho mình, vì thế nên tôi không trèo?
Xin lỗi cô tên chi, cha mẹ cô thế nào!
– Thưa ông tên tôi là Tỳ Xá Ly, mẹ tôi là em vua Ba Tư Nặc tên là Đàm Ma La Tiện. Phạm tội trốn sang nước này, làm bạn với ba tôi sinh ra tôi.
– Cha mẹ cô bình sinh cả chứ?
– Dạ, thưa ông, cha mẹ cháu hãy còn bình sinh cả!
– Tôi muốn theo cô về thăm ông bà có được không?
– Dạ, thưa ông được!
– Cô đưa ông về tới nhà, rồi vào thưa với cha rằng:
– Thưa cha, có người Bà La Môn muốn vào thăm cha!
Ba cô bước ra nhà khách, hai người gặp nhau, chuyện trò vui vẻ! Ông Bà La Môn thưa rằng:
– Thưa ông, cô gái này là con ông phải không?
– Dạ, thưa phải cháu ngoan lắm!
– Ông đã lập gia đình cho cháu chưa?
– Dạ, chưa có, cháu còn đi học!
– Thưa ông, nước Xá Vệ có quan Đại thần là Lê Kỳ Di ông có quen không à?
– Dạ, chính tôi quen ông ấy đã lâu.
– Thưa ông, cậu con trai út của ông Lê Kỳ Di, người thông minh lắm muốn để xin cô gái của ông cho cậu ấy, có được không ạ?
– Dạ, được lắm, tôi rất bằng lòng, là vì ông ấy với tôi là bạn thân, hơn nữa nhà ông ấy là dòng quý phái, đôi bên đều xứng đôi cả.
– Dạ, xin ông tôi cáo lui.
Ông định về báo tin cho ông Lê Kỳ Di nhưng lại gặp một người bạn thân về nước Xá Vệ, ông biên thơ gửi cho ông Lê Kỳ Di.
Được thơ rồi, ông Lê Kỳ Di sắm sửa lễ vật, và tiền bạc lên xe sang nước Đặc Xoa Thị Lợi, đến nơi ông sai người vào hỏi han các công việc trước.
Ông Đàm Ma La Tiện tiếp đãi rất trịnh trọng. Lê Kỳ Di tới sau, chủ khách tương kiến hai họ vui vẻ! Hỏi han trao đổi ý kiến, thỏa thuận cuộc hôn thú của hai nhà, công việc đã xong, họ trai đưa cô dâu về nước Xá Vệ. Khi bước ra đi bà mẹ dặn cô rằng:
– Con về nhà chồng luôn phải mặc áo mới đẹp, ăn uống cho ngon lành, ngày nào cũng phải soi gương, chớ quên lời mẹ dặn!
– Dạ, lạy mẹ con xin vâng lời mẹ dăn không dám trái.
Ông Lê Kỳ Di nghe thấy bà dâu gia dặn con gái như vậy, tự hậu để tâm và thầm nghĩ rằng:
– Nhân sinh nhất thế, khổ, vui, áo mặc, miếng ăn ngon đâu có nhất định, ngày nào cũng soi gương, thực là cả một sự vô lý.
Sau khi hai họ từ biệt bước lên đường, cô dâu cùng chàng rể, ngựa võng nghênh ngang, người đông như hội, pháo nổ vang trời, cũng hình như một đám rước thần. Nửa đường tới một nhà hàng có hiên mát mẻ, những người đi trước đều vào nhà này nghĩ, cô dâu tới sau thưa với bố chồng rằng:
– Thưa cha! Nhà này không nghỉ được, mau mau phải ra ngoài nghỉ!
Ông cũng phải theo ý cô ra nghỉ một nơi khác, cũng có số người không chịu đi, một lát có đàn voi tới, cọ vào cột làm đổ nhà đè chết mấy người. Ông Lê Kỳ Di thầm nghĩ rằng:
– Mình thoát chết là nhờ con dâu!
Rồi lại bắt đầu đi, tới một bờ khe suối, mọi người dừng chân đứng nghỉ. Cô đến sau nói rằng:
– Nghỉ ở đây không hay, phải lên ngàn cao kia mới được!
Khi đó mọi người đều phải theo lời cô, lên tới ngàn cao, chỉ trong chốc lát mây kéo đen, sấm sét vang dội, mưa như trút nước xuống, chảy tràn ngập cả bờ khe suối ấy, ông Lê Kỳ Di tự niệm rằng:
– Ta thoát chết hai lần là do con dâu cứu sống!
Lại bắt đầu đi, lúc về tới nhà, họ hàng thân quen kẻ xa người gần, tấp nập đến chào mừng.
Hôm đó ông Lê Kỳ Di thiết đãi họ hàng ăn uống rất linh đình vui vẻ! Cuộc nghinh hôn tới đây đã xong.
Một hôm ông Lê Kỳ Di họp gia đình lại nói rằng:
– Các con, bây giờ cha đã già yếu, việc gia đình cha không thể kham nổi, tất cả cơ nghiệp tài sản này, kho tàng chìa khóa, con nào đảm đang nổi, cha sẽ giao phó cho?
Sáu cô dâu đều từ chối không dám nhận, cô Tỳ Xá Ly thứ bảy, đứng lên thưa rằng:
– Thưa cha các chị con không ai dám nhận, vậy con xin nhận để đỡ cha!
Ông Lê Kỳ Di vui vẻ giao phó cho cô tất cả công việc trong gia đình. Từ đó cô chăm chỉ thức khuya dậy sớm, bảo ban thầy tớ các công việc rất chu đáo, tới bữa dâng cơm cha mẹ ăn trước, sau đến các anh các chị cháu trai cháu gái, rồi đến các gia nhân, phân phó công việc được ổn thỏa, rồi cô mới đi ăn cơm, thường thường cứ như thế.
Ông thấy cô là một người trung kiên cẩn thận, khác hẳn những người thường, và quái sao? Không thấy cô theo lời mẹ dặn lúc bước ra đi.
Ông hỏi: – Trước khi con về làm dâu, mẹ con có dặn: Phải mặc áo mới đẹp, ăn thức ăn ngon lành, và ngày nào cũng soi gương, thế sao con không theo lời của mẹ con đã dặn?
Cô quỳ xuống thưa rằng:
– Thưa cha! Mẹ con dặn mặc áo mới đẹp nghĩa là: Áo mặc bao giờ cũng phải cho sạch sẽ, lúc khách tới nhà quan chiêm cho khỏi thô con mắt. Dặn con ăn thức ăn ngon lành: Không phải ăn những thứ thịt ngon béo, ý mẹ con dặn bao giờ cũng phải ăn sau, lúc đói gặp thứ ngon cũng tốt cả. Còn soi gương, là không phải gương bằng đồng bằng kính, ý nói phải dậy sớm bao phất trong nhà những giường ghế cho sạch sẽ cẩn thận, chăn chiếu mền mùng cho gọn gàng. Mẹ con dặn là ý như vậy!
– Ừ, hay lắm! Mẹ con là người có đức lớn, cha cũng phải kính phục.
Ông mừng thầm con dâu có tài, có đức, tinh thần minh mẫn, biệt đãi hơn trước, từ đó công việc trong gia đình ông cứ thản nhiên, không phải nghĩ tới.
Một hôm nhà vua cùng triều thần văn võ bá quan, đương ngồi trên bảo điện để bàn việc nước, tự nhiên thấy những chùm lúa tám cánh rơi xuống sân rồng, họ nhìn lên trời thấy một đàn chim nhạn bay qua, thấy thứ lúa quý, nhà vua giao cho mỗi ông quan một ít về trồng.
Ông Lê Kỳ Di đem về giao cho cô Tỳ Xá Ly là con dâu thứ bảy, đặn rằng: – Lúa này nhà vua giao cho đem về trồng, con hộ cha việc đó.
Sau một thời gian Vương Phu Nhân mắc bệnh, các thầy lang chẩn mạch xong tâu với vua rằng:
– Tâu Bệ Hạ, bệnh của phu nhân, phải dùng thứ lúa tám cánh ở bãi biển thì khỏi!
Nhà vua triệu các quan vào nói rằng:
– Trước đây tôi có giao cho các ông thứ lúa tám cánh, đem về trồng, nay lúa đã chín chưa?
Các ông kia tâu rằng: – Tâu Bệ Hạ! Vì không hợp thủy thổ, lúa có lên, nhưng không kết quả. Ông Lê Kỳ Di về nhà hỏi con dâu rằng:
– Con trồng lúa tám cánh có tốt không? Nhiều hột không? Nhà vua đương cần làm thuốc cho Hoàng Hậu!
– Thưa cha mùa này con trồng được nhiều lúa, tốt lắm, nếu dùng làm thuốc thì cấp cho toàn quốc cũng đủ!
– Con đem cho cha một ít vào dâng vua?
– Dạ, để con cho người xay giã cẩn thận đã.
Hôm sau ông đem gạo tám cánh vào dâng vua rồi tâu rằng:
– Tâu Bệ Hạ, tuân theo thánh chỉ, hạ thần trồng được rất nhiều, nay xin dâng Hoàng Thượng một mớ gạo tám cánh đã làm cẩn thận!
– Tốt lắm, Khanh khéo tay trồng cấy!
Vua sai người đem gạo ấy nấu cơm.
Hoàng Hậu ăn xong thì khỏi bệnh.
Thời đó nước Đặc Xoa Thị Lợi với nước Xá Vệ có sự xích mích về việc thương mãi, nên thường hay xảy ra cuộc xung đột giữa hai nước.
Tuy thế nhưng vua nước Đặc Xoa Thị Lợi vẫn còn e dè, sợ nước Xá Vệ có nhiều nhân tài, nên nhà vua lập thế để thử xem có hay không thì biết.
Lần đầu sai người mang sang nước Xá Vệ hai con ngựa cái, để xem có thể phân biệt được con nào là mẹ: con nào là con? Vì hai con đều lớn bằng nhau.
Khi đó tất cả vua quan triều thần văn võ bá quan đều không thể phân biệt nổi, đâu là mẹ, đâu là con.
Ông Lê Kỳ Di về nhà có vẻ buồn!
Cô dâu hỏi: – Thưa cha, hôm nay cha vào triều có chuyện chi? Thấy cha không vui!
– Con ơi! Nước Đặc Xoa Thị Lợi, cử người mang sang hai con ngựa cái, để xem con nào là mẹ, con nào là con, tất cả triều thần văn võ bá quan đều không ai biết, nếu không giảng nổi, họ sẽ đem quân sang đánh, vì thế nên cha buồn!
– Thưa cha việc ấy không khó! Chỉ lấy một bó cỏ ngon, cho ăn, nếu thấy con nào ăn thong thả và nhường, là mẹ, con nào ăn dành và hốp tốp là con.
Cha nghe có lý, vào tâu vua như lời cô nói. Nhà vua sai người lấy cỏ cho ngựa ăn thử, quả thấy như lời cô nói là đúng. Nhà vua kêu sứ thần đến chỉ vào con ngựa ăn chậm là mẹ, con ăn bốp là con, Sứ thần chịu nhận là phải. Sau khi sứ ra về, nhà vua rất mừng! Phong thưởng tước lộc cho ông Lê Kỳ Di rất nhiều.
Sứ thần về tới nước nhà tâu vua đúng sự thật như trên. Nhà vua lại mang sang hai con rắn, dài bằng nhau, lớn bằng nhau, đố biết con nào đực, con nào cái.
Tuân lệnh lần thứ hai, Sứ thần mang rắn sang hỏi vua Ba Tư Nặc, lần này từ vua đến quan tịt mít, không ai giải đáp nổi.
Ông Lê Kỳ Di về nhà nói với con dâu rằng:
– Con ơi: Hôm nay nước Đạc Xoa Thị Lợi, mang sang hai con rắn hỏi con nào đực, con nào cái, tất cả vua quan trong triều không ai đoán quyết nổi, vậy con có cách gì biết, nói cho cha rõ?
– Thưa cha, việc ấy cũng không khó! Chỉ lấy một thước lụa rất nhẵn, mềm, nhũn trải trên một cái nong, bỏ nó vào rồi nhìn xem: con nào nằm im, con hay chạy thì biết: vì con cái thuộc âm tính, thấy mát êm bụng, lòng dục phát động, nên nó nằm im; con đực thuộc dương tính (nóng động tính) thấy người thì sợ muốn tìm lối tẩu thoát nên chạy lung tung.
Ông nghe có lý, vào tâu vua như lời nói trên. Vua sai người lấy lụa làm đúng, quả nhiên thấy rõ sự thực.
Một diệu kế này biết đúng, nên nhà vua sai người gọi Sứ đến bảo cho biết. Sứ thần phải phục cái tài của nhà vua nhận xét đúng sự thật.
Sau khi Sứ thần ra về, nhà vua rất hài lòng và thưởng cho ông Lê Kỳ Di rất nhiều vàng bạc.
Sứ thần về tâu vua Đặc Xoa Thị Lợi sự nhận xét đúng của vua Ba Tư Nặc, nhà vua vẫn còn chưa tin hẳn, nên lại bắt sứ thần mang sang cây gỗ dài một trượng, gốc ngọn bằng nhau nhẵn trơn không óc dấu, vết, đố biết gốc ngọn?
Sứ thần tuân mạng mang sang nước Xá Vệ, lần này cũng không ai biết. Ông Lê Kỳ Di lại về hỏi con dâu:
– Con ơi! Lần này nước Đặc Xoa Thị Lợi mang sang một cây gỗ nhẵn trơn không có mấu vết, đố biết gốc ngọn, trong triều không ai quyết đoán nổi, vậy con có cách gì nói cho cha hay?
– Thưa cha, việc ấy càng không khó, chỉ đem bỏ xuống sông thì biết: đầu nào chìm là gốc; đầu nào nổi là ngọn; vì gốc bao giờ cũng nặng, nên chìm; ngọn bao giờ cũng nhẹ, nên nổi.
Ông Lê Kỳ Di tâu vua như lời nói trên, vua sai đem ra sông bỏ, quả nhiên một đầu chìm, và một đầu nổi, vua gọi Sứ ra nói rằng:
– Sứ thần ông nên biết: đầu chìm kia là gốc, đầu nổi là ngon.
Sứ thần nói: – Dạ Tâu Bệ Hạ, đúng như lời Ngài nói, hạ thần xin chịu!
Sứ thần về bản quốc tâu vua rằng:
– Tâu Bệ Hạ! Lần này vâng lệnh Bệ Hạ đưa gỗ sang, họ đều nói đúng cả, như vậy biết rằng nước Xá Vệ có rất nhiều nhân tài, theo như hạ thần nhận thấy.
Nhà vua nghe nói cũng phải cảm phục, và thôi việc gây chiến với nước Xá Vệ. Muốn để hai nước có tình thân mật, nên nhà vua nước Đặc Xoa Thị Lợi sai người mang vàng bạc và các của quý sang biếu vua Ba Tư Nặc rồi gởi lời nói:
– Chúng tôi đáng khen ngợi trong nước của nhà vua, lắm hiền tài vậy từ nay nên gắng công tu nghĩa hiếu, và dạy dân theo chánh giáo.
Khi đó vua Ba Tư Nặc triệu ông Lê Kỳ Di bào cung hỏi rằng:
– Các việc giải đáp vừa qua, tại sao Khanh biết?
– Tâu Bệ Hạ! Đó là con dâu của hạ thần, chứ tiểu thần đâu có trí tuệ siêu nhân, hơn các hàng nam tử văn khoa nhà vua nghe nói rất quý kính, rồi tặng cho có chức “Đệ tam muội”.
Qua một thời gian nữa, cô Tỳ Xá Ly đẻ được ba mươi quả trứng, bửa ra được ba mươi hai cậu con trai, cậu thứ nhất, đoan nghiêm đặc sắc, sau lớn tuổi, sức lực hùng mạnh vô song, có thể đánh nổi ngàn người, cha mẹ rất yêu quý! Trong nước ai cũng kính nể. Sau cưới vợ cho các cậu, nguyên những con gái các nhà hào hiền trong nước.
Bà Tỳ Xá Ly vốn là người tín sùng ngôi Tam Bảo, thường hay đi nghe Phật thuyết pháp. Hôm ấy bà thỉnh Phật và chư Sư về cúng trai. Khi Phật dùng cơm xong thăng tòa thuyết pháp, cả nhà người lớn người nhỏ đều đắc quả Tu Đà Hoàn, duy có cậu con út của bà, sự hiểu biết kém, nên không đắc đạo quả gì. Cậu hãy còn có tính hung hăng, ngày ngày cỡi voi trắng đi chơi, hôm đó đi qua một cái cầu gỗ lớn, giữa cầu con trai quan Phụ Tướng ngồi trên xe, hai cậu tranh nhau: cậu nào cũng cậy ta là con nhà quan lớn, không chịu tránh. Cậu con bà Tỳ Xá Ly nổi giận, trên mình voi nhảy xuống, đẩy đổ xe và con quan con Phụ Tướng xuống hào lầy, thấy trược cả thân thể, máu me chảy đầm đìa trở dậy vừa đi vừa khóc, về nhà thưa với cha rằng:
– Thưa cha, con ứt của bà Tỳ Xá Ly vô cớ đẩy xe và con xuống hào; làm con bị đau đớn như thế này!
Quan Phụ Tướng thấy con đau quá nổi giận nói:
– Nó sức lực khỏe mạnh, hơn nũa lại thân với nhà vua, thôi con đừng khóc nữa, để cha trả thù cho!
Ông quan Phụ Tướng này mượn người làm ba mươi hai cái roi ngựa bằng thất bảo, trong ruột roi, cắm một con dao nhọn, rồi ông mang đi tặng cho con trai bà Tỳ Xá Ly mỗi cậu một cái.
Các cậu này còn ít tuổi, tính khí nông nổi, được roi vui mừng thường mang roi đi chơi, vô tâm, không hiểu cái thâm ý của quan Phụ Tướng.
Luật nước cấm ngặt khi vào nhà vua không được đeo dao, nếu ai trái lệnh sẽ bị tội tử hình.
Những con bà Tỳ Xá Ly ra vào nhà vua, là chuyện thường, không ai được cấm đoán, vì nhà vua rất yêu đãi đối với bà Tỳ Xá Ly.
Hôm đó quan Phụ Tướng vào tâu vua rằng:
– Tâu Bệ Hạ, ba mươi con bà Tỳ Xá Ly, khỏe mạnh lắm, một người có thể địch được ngàn người, chúng đương mưu kế để hại nhà vua!
Nhà vua nghe ông nói, nhưng cũng chưa lấy gì làm tin; ông lại thưa rằng:
– Tâu Bệ Hạ, việc này hạ thần quan sát có sự thật, và có bằng chứng lắm! Vì hạ thần thấy mỗi cậu có một cái roi; trong roi đều có một con dao nhọn ở trong ruột!
Nhà vua liền sai người lấy roi xem, quả nhiên thấy con dao ở trong roi thực, chứng tỏ như thế, nhà vua sai các lực sĩ, gọi ba mươi hai cậu vào trong cung, thu hết roi, rồi xử tử ngầm không cho ai biết, chặt đầu ba mươi hai cậu bỏ vào hòm gỗ niêm phong cẩn thận, mang lại cho bà Tỳ Xá Ly.
Giữa ngày hôm ấy, bà Tỳ Xá Ly mời Phật và chư Sư về nhà cúng trai, trong nhà đương nhộn nhịp; kẻ bưng cơm người rót nước tấp nập, bà thấy người nhà vua khiêng một cái hòm đến, tự mừng thầm và nói rằng:
– Hôm nay có lẽ nhà vua cho người mang các món ăn tốt đến giúp ta cúng dàng hẳn!
Bà sai người mở xem.
Phật nói: – Hãy khoan! Để ta dùng cơm xong rồi sẽ mở!
Khi thụ trai xong, Ðức Phật gọi bà lên ngồi một bên Ngài nói rằng:
– Thân này vô thường, nó chịu đựng những sự đau khổ! Rồi lại thành không, chính là không có ta; kiếp sống rất nhiều nguy hiểm tai nạn, sợ hãi mà nó không tồn lập được bao lâu; nó trói buộc bằng mọi sự phiền não, chua xót khó tả xiết, ân ái có ngày biệt ly! Thương luyến lẫn nhau, làm thân mình và thức tâm mệt nhọc, không ích gì cho đạo, ta nói đây, chỉ riêng những người có trí tuệ, mới nhận thức được pháp thiết yếu này.
Nghe Phật nói xong bà tín ngộ, liền chứng được quả A Na Hàm, vui mừng chắp tay bạch Phật rằng:
– Kính lạy Ðức Thế Tôn, con xin bốn đều như sau:
Con xin cúng dàng các vị Tỷ Khưu bệnh, và các món ăn tùy theo bệnh.
Con xin cúng dàng các vị khán bệnh.
Các vị Tỷ Khưu ở xa tới con xin cúng dàng trước.
Các vị Tỷ Khưu đi xa con xin cúng dàng lương thực.
Lạy Ðức Thế Tôn! Các vị bệnh hoạn vì không có thuốc tốt và món ăn ngon lành nên bệnh lâu khỏi, hoặc khó chữa, hoặc nhân thế mà bị mạng chung. Các vị khám bệnh phải trông nom bệnh nhân, nên không đi khất thực được, vì thế nên con xin cúng. Các vị ở nơi xa mới tới, chưa quen biết ai, đi khất thực gặp chó dữ hoặc gặp kẻ bất nhân làm thương tổn đến thân thể, hoặc sỉ nhục, vì thế nên con xin cúng dàng trước. Các vị đi xa phải có bè bạn, nếu không có lương thực đem theo hoặc đi không kịp, đường sá nguy hiểm, nhiều độc thú, đi một mình, sợ mắc tai nạn, vì thế nên con xin cung cấp lương thực.
Ðức Thế Tôn thấy bà xin bốn việc ấy nên Ngài khen rằng:
– Quý hóa có tâm như thế công đức rất lớn, như thế cũng khác chi cúng Phật!
Nói xong Ðức Phật và chư sư trở về rừng Kỳ Hoàn.
Sau khi Ðức Phật đã về, bà sai người mở hòm xem nhà vua cho cái gì, trái lại thấy ba mươi hai cái đầu lâu người, chính là con trai của bà. Vì bà đã hiểu biết đời là vô thường, và đắc quả A Na Hàm, tâm ái luyến thế gian đã đoạn hết, nên không có ảo não khóc than gì mà chỉ nghĩ thoáng câu:
– Đau khổ thay! Thương xót thay có sinh tất có tử; nổi chìm trong năm thú; khổ gì đến như thế!
Bấy giờ ba mươi hai nhà vợ, nghe biết con rể chết về tay nhà vua, họ nói rằng:
– Nhà vua vô cớ giết oan người lương thiện!
Lòng thương con rể phẫn uất nổi lên cực độ! Họ đem quân đến vây kinh thành nhà vua để báo thù.
Vua Ba Tư Nặc chạy sang với Phật, họ đuổi theo, sang vây rừng Kỳ Hoàn. Khi đó tôi (A Nan) ra mời họ vào để hỏi nguyên ủy là câu chuyện gì.
Ba mươi hai ông bố vợ của con bà Tỳ Xá Ly vào lễ Phật xong lui về một bên, tôi quỳ thẳng bạch Phật rằng:
– Kính lạy Ðức Thế Tôn! Ba mươi hai người con của bà Tỳ Xá Ly, đời quá khứ có tạo ác gì với nhà vua không? Mà nay bị ông giết, cúi xin Ngài chỉ giáo cho chúng con được rõ?
Phật dạy: – Truyện oan trái tiền khiên này, về đời quá khứ, cách đây đã lâu lắm. Thuở bấy giờ có ba mươi hai người chơi thân với nhau, một hôm đi bắt trộm được một trâu, để ăn uống cùng nhau cho thỏa chí. Gần đấy có một bà lão nhà nghèo, lại không có con, nên các anh này đưa trâu để giết nhờ. Bà cũng vui vẻ cho giết, trong nhà bà có đủ củi đóm, nồi nấu, dao, quạt, cho mượn. Lúc sắp giết, con trâu quỳ xuống nói rằng:
– Xin các anh tha tôi! Nếu các anh giết tôi đời sau tôi cũng không tha các anh đâu, dầu cho các anh tới ngày được đạo giải thoát, tôi quyết định trả thù bằng được.
Mấy anh thấy trâu nói, nhưng lòng bất nhân không nghe, xúm nhau lại vật trâu ra giết, mổ, sả, xào xáo, chưng kho, ăn uống no say. Bà lão hôm đó cũng được bữa no, rồi nói rằng:
Nhờ các anh được bữa thịt nên thân, hết thèm thuồng.
A Nan ông nên biết: Con trâu thuở đó, nay là vua Ba Tư Nặc, các anh ăn trộm trâu, ngày đó, nay là ba mươi hai người con của bà Tỳ Xá Ly. Bởi quả báo ấy nên trong năm trăm đời thường bị ông giết lại, cho đến ngày nay không thôi. Bà lão là người giúp đỡ và vui mừng trong cuộc giết trâu, nên trong năm trăm đời phải làm mẹ những người này, mà chịu lấy sự thống khổ chua xót ấy!
Nghe xong biết rõ câu chuyện oán báo của đôi bên, tôi lại hỏi Phật rằng:
– Kính lạy Ðức Thế Tôn! Những người này có phúc gì được sinh vào nhà giàu sang và thân thể khỏe mạnh, cúi xin Ngài chỉ bảo cho?
Phật dạy: – A Nan ông nên biết: Đây cũng là một đời quá khứ, thời Ðức Phật Ca Diếp, có một bà lão biết tin kính ngôi Tam Bảo, nhà rất giàu một hôm bà lấy các thứ hương hoa với dầu để sơn tháp, đi nữa đường gặp ba mươi hai cậu con trai, nhân dịp bà khuyên các cậu ấy rằng:
– Các cậu đi đâu? Đây có một việc phúc đức lắm, hôm nay tôi đi sơn tháp Phật, nếu các cậu sơn giúp tôi, thì đời được sức lực khỏe mạnh và đẹp đẽ!
– Thế ư cụ? Vâng cụ đã dạy, các cháu xin đi. Sơn xong các cậu ấy đều thưa rằng:
– Thưa cụ! Do cụ khuyên các cháu trồng phúc lành, xin đem công đức này, nguyện cho cháu sinh nơi nào cũng được tôn vinh phú quý, và đời đời chúng cháu được làm con cụ; cụ là mẹ chúng cháu, và được gặp Phật nghe pháp chóng đắc đạo quả!
Bà lão nói: – Quý hóa! Các cậu phát nguyện như thế! Nhờ công đức Tam Bảo gia hộ, sau này thế nào chả được như nguyện!
A Nan ông nên biết: Bà lão thuở đó nay là bà Tỳ Xá Ly, ba mươi cậu con trai này đó, nay làm con trai bà.
Khi đó những quan quân vây rừng Kỳ Hoàn, nghe Phật nói xong họ biết rằng đó là do sự oan báo trả nợ của đôi bên, nên lòng căm giận của họ tự nhiên tiêu mất, rồi tự đến trước vua Ba Tư Nặc tạ lỗi.
Tới đây Ðức Thế Tôn, nhân vì bốn chúng đệ tử, nói rộng các thiện nghiệp nên tu, ác nghiệp nên bỏ, và giảng giải rõ ràng pháp Tứ Diệu Đế.
Đức Phật thuyết xong, tất cả mọi người ai nấy đều vui mừng, tạ lễ lui ra.