Kinh Pháp-Cú

Kinh Pháp-Cú

Trương Văn Chiến 38
Kinh Phap Cu
Mục lục
[04]

XXI.- Phẩm Tạp-lục
214) Tích chuyện công-đức xưa của Đức Phật. – Kệ số 290.
215) Tích chuyện một bà hay ăn hột gà. – Kệ số 291.
216) Tích chuyện các tỳ-kheo đan dép cỏ. – Kệ số 292 và 293.
217) Tích chuyện Trưởng-lão Phát-di-gia, người thấp-lùn – Kệ số 294 và 295.
218) Tích chuyện con của người đốn củi. – Sáu bài Kệ, từ số 296 đến số 301.
219) Tích chuyện vị tỳ-kheo ở Tỳ-da-ly. – Kệ số 302.
220) Tích chuyện về vị gia-chủ Chi-ta. – Kệ số 303.
221) Tích chuyện cô Chu-la-sử. – Kệ số 304.
222) Tích chuyện Trưởng-lão độc-cư Y-kha. – Kệ số 305.

XXII.- Phẩm Địa-ngục

223) Tích chuyện bà Sơn-đà-ly. – Kệ số 306.
224) Tích chuyện Tôn-giả Mục-kiền-liên thấy ngạ-quỉ. – Kệ số 307.
225) Tích chuyện các tỳ-kheo tăng-thượng-mạn. – Kệ số 308.
226) Tích chuyện thanh-niên Khê-ma-ca. – Kệ số 309 và 310.
227) Tích chuyện vị tỳ-kheo xem nhẹ giới-cấm nhỏ. – Kệ số 311, 312, 313.
228) Tích chuyện người vợ ghen-tuông. – Kệ số 314.
229) Tích chuyện các tỳ-kheo qua muà an-cư nơi biên-ải – Kệ số 315.
230) Tích chuyện nhóm loã-thể Ni-kiền-tử. – Kệ số 316 và 317.
231) Tích chuyện nhóm người dị-giáo. – Kệ số 318 và 319.

XXIII.- Phẩm Voi

232) Tích chuyện bà Mã-can-di-hoa. – Kệ số 320, 321 và 322.
233) Tích chuyện người quản-tượng. – Kệ số 323.
234) Tích chuyện người cha già bị các con ruồng-bỏ. – Kệ số 324.
235) Tích chuyện vua Ba-tư-nặc ăn quá no. – Kệ số 325.
236) Tích chuyện Sa-di Sà-nhu. – Kệ số 326.
237) Tích chuyện con voi già. – Kệ số 327.
238) Tích chuyện con voi hầu-hạ Phật. – Kệ số 328, 329 và 330.
239) Tích chuyện Ma-vương cám-dỗ Phật. – Kệ số 331, 332 và 333.

XXIV.- Phẩm Tham-ái

240) Tích chuyện con cá vàng. – Kệ số 334, 335, 336 và 337.
241) Tích chuyện con heo nái – Sáu bài Kệ từ số 339 đến số 343
242) Tích chuyện tên trộm bị xử tử. – Kệ số 344
243) Tích chuyện các người tù bị xiềng-xích – Kệ số 345 và 346
244) Tích chuyện Hoàng-hậu Khê-ma – Kệ số 347
245) Tích chuyện người diễn trò nhào lộn – Kệ số 348
246) Tích chuyện người thiện-xạ – Kệ số 349 và 350
247) Tích chuyện Tôn-giả La-hầu-la bị Ma khuấy – Kệ số 351 và 352
248) Tích chuyện ẩn-sĩ Ưu-ba-ca – Kệ số 353
249) Tích chuyện Trời Đế-Thích thưa hỏi Phật – Kệ số 354
250) Tích chuyện một người tuyệt-tự – Kệ số 355
251) Tích chuyện vị Thiên-nam An-khư-ra – Kệ số 356, 357, 358, và 359

XXV.- Phẩm Tỳ-kheo.

252) Tích chuyện năm vị Tỳ-kheo cãi nhau về năm căn – Kệ số 360 và 361
253) Tích chuyện vị Tỳ-kheo giết con thiên-nga – Kệ số 363
254) Tích chuyện Tỳ-kheo Cơ-khả-ly – Kệ số 363
253) Tích chuyện Trưởng-lão Pháp-hỉ – Kệ số 364.
256) Tích chuyện vị Tỳ-kheo muốn ngả theo Đề-bà – Kệ số 365 và 366
257) Tích chuyện người bố-thí hoa quả đầu mùa – Kệ số 367
258) Tích chuyện mẹ của Trưởng-lão Sơn-na – Chín bài Kệ từ số 368 đến 376
259) Tích chuyện Tỳ-kheo nhìn hoa lài rơi khi ngồi Thiền – Kệ số 377
260) Tích chuyện Trưởng-lão San-ta-kha – Kệ số 378
261) Tích chuyện Trưởng-lãi Nan-ga-la – Kệ số 379 và 380
262) Tích chuyện Tỳ-kheo Hoa-kha-ly – Kệ số 381
263) Tích chuyện Sa-di Sữ-mã – Kệ số 382

XXVI.- Phẩm Bà-la-môn

264) Tích chuyện vị Bà-la-môm gọi tâng cac vị Tỳ-kheo – Kệ số 383
265) Tích chuyện về hai pháp: Chỉ và Quán – Kệ số 384
266) Tích chuyện Ma-vương thưa hỏi Phật – Kệ số 385
267) Tích chuyện một vị Bà-la-môn hỏi Phật – Kệ số 386
268) Tích chuyện Tôn-giả A-nan nhìn hào-quang Phật – Kệ số 387
269) Tích chuyện một vị Bà-la-môn ẩn-sĩ – Kệ số 388
270) Tích chuyện nhẫn-nhục của Tôn-giả Xá-lợi-phất – Kệ số 389 và 390
271) Tích chuyện Ni-bà Ba-xà-ba-đề – Kệ số 391
272) Tích chuyện Tôn-giả Xá-lợi-phất lạy mỗi đêm – Kệ số 392
273) Tích chuyện vị Bà-la-môn Gia-thi-la – Kệ số 393
274) Tích chuyện vị Bà-la-môn lừa gạt – Kệ số 394
275) Tích chuyện Ni-bà Kỷ-sa-cơ tu khổ-hạnh – Kệ số 395
276) Tích chuyện vị Bà-la-môn ở Xá-vệ đến hỏi Phật – Kệ số 396
277) Tích chuyện Tỳ-kheo Úc-ga – Kệ số 397
278) Tích chuyện đấu trâu – Kệ số 398
279) Tích chuyện bốn anh em lỗ-mãng – Kệ số 399
280) Tích chuyện Tôn-giả Xá-lợi-phất bị mẹ nhiếc-móc – Kệ số 400
281) Tích chuyện Ni-bà Bích-Liên – Kệ số 401
282) Tích chuyện người nô-lệ đắc quả A-la-hán – Kệ số 402
283) Tích chuyện Ni-bà Khê-ma – Kệ số 403
284) Tích chuyện Trưởng-lão Thi-sa và vị thần-linh – Kệ số 404
285) Tích chuyện vị Tỳ-kheo bị đánh-đập – Kệ số 405
286) Tích chuyện bốn vị Sa-di – Kệ số 406
287) Tích chuyện Trưởng-lão Đại-Phan – Kệ số 407
288) Tích chuyện Trưởng-lão Phí-linh-đa – Kệ số 408
289) Tích chuyện vị Tỳ-kheo lượm vải – Kệ số 409
290) Tích chuyện Tôn-giả Xá-lợi-phất và việc dâng y – Kệ số 410
291) Tích chuyện Tôn-giả Mục-kiền-liên bị hiểu lầm – Kệ số 411
292) Tích chuyện Sa-di Lê-va-ta – Kệ số 412
293) Tích chuyện Trưởng-lão Can-đà – Kệ số 413
294) Tích chuyện Trưởng-lão Sĩ-hoa-ly – Kệ số 414
295) Tích chưyện Trưởng-lão Sơn-đà – Kệ số 415
296) Tích chuyện Trưởng-lão Gia-tị-la – Kệ số 416
297) Tích chuyện Giô-thi-ca
298) Tích chuyện Trưởng-lão Na-ta-bút (1) – Kệ số 417
299) Tích chuyện Trưởng-lão Na-ta-bút (2) – Kệ số 418
300) Tích chuyện Trưởng-lão Van-di-sa – Kệ số 419 và 420
301) Tích chuyện Ni-bà Đàm-ma – Kệ số 421
302) Tích chuyện Trưởng-lão Chi-man – Kệ số 422
303) Tích chuyện ông Đề-va-hy – Kệ số 423

Xin thưa nốt vài điều.

-ooOoo-

XXI.- Phẩm TẠP-LỤC.

(214).- Tích chuyện cômg-đức xưa của Đức Phật.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến các công-đức về tiền-kiếp của Đức Phật Thích-ca.

Thuở ấy ở xứ Tỳ-da-ly, trời hạn-hán, cỏ cây khô-héo, muà-màng ruộng vườn đều hư-hỏng, gây nên nạn đói-kém nặng-nề; nhiều người chết đói. Thây người nằm ngổn-ngang chẳng được chôn-cất, khiến bịnh dịch lan-tràn. Theo mùi tử-khí, các bầy ác-quỉ đến gây thêm tác-hại. Dân chúng chẳng biết tìm đường nào để sống-sót. Họ nghe nói có Đức Phật ở nước Xá-vệ, lòng từ-bi thường hay cứu khổ, cứu nạn cho chúng-sanh, nên mới cử người đến thưa cùng các vị hoàng-tử xứ Ly-xa, đến thỉnh Đức Phật. Vương-tử Đại-ly mới cùng một phái-đoàn các người Ba-la-môn trong vùng, đến yết-kiến vua Tần-bà-sa-la nhờ nhà vua đến thỉnh Đức Phật, vì hiện Ngài đang ngụ gần thành Vương-xá, thủ-đô xứ Ma-kiệt-đà của vua Tần-bà-sa-la.

Khi vua Tần-bà-sa-la đến gặp Đức Phật, trình-bày sự thống-khổ của dân-chúng trong xứ Tỳ-da-ly, Đức Phật liền nhận lời đến viếng xứ ấy, trước là giúp đỡ các nạn-nhơn đói-khổ, sau là để tạo cơ-duyên tốt cho dân-chúng trong vùng biết đến Chánh-pháp và chứng-đắc quả-vị. Vua Tần-bà-sa-la rất vui lòng, ra lịnh sửa-sang đường-xá từ thành Vương-xá đến tận bờ sông Hằng, cứ độ vài do-tuần, cho dựng một nhà nghỉ mát, có đầy đủ tiện-nghi về thực-phẩm. Bên kia bờ sông Hằng, vương-tử Đại-ly cũng chuẩn-bị y như thế, từ bờ sông đến thành Tỳ-da-ly. Đến ngày lên đường, Đức Phật cùng với đông-đảo tỳ-kheo rời thành Vương-xá, ngày đi đêm nghỉ; vua Tần-bà-sa-la theo tiễn chơn đến bờ sông Hằng, rồi mới quay về.

Hôm Đức Phật và chư tăng vừa vượt qua khỏi sông Hằng, trời đổ mưa dầm liên-tiếp trong nhiều ngày, nước chảy tràn khắp, cuốn các tử-thi ở Tỳ-da-ly trôi theo sông ra biển cả. Nhờ đó, quang-cảnh ở Tỳ-da-ly được đổi mới, sạch-sẽ; bầu không-khí trở nên dễ chịu, uế-khí tan-rả, các loài chim kên-kên ăn xác người chết bỏ bay đi cả; bịnh dịch ngưng lan-tràn. Đức Phật lại khiến Tôn-giả A-nan cùng một số tỳ-kheo đi diễn-hành qua đường-phố trong thành, vừa đi vừa đọc tụng Kinh Tam-Bảo. Nghe tiếng tụng Kinh, các ác-quỉ hoảng-sợ, bỏ chạy cả, và các bịnh-nhơn lần lần hồi-phục, cùng rủ nhau theo sau Tôn-giả đến hầu Đức Phật . Trong bảy ngày liền, Đức Phật giảng Kinh Tam-Bảo, và Tôn-giả A-nan hằng ngày hướng-dẫn các tỳ-kheo đi vòng quanh thành tụng-đọc Kinh ấy. Thành Tỳ-da-ly trở lại bình-thường sau một tuần-lễ. Các vị hoàng-tử xứ Ly-xa rất vui mừng, mở đại-hội bố-thí và cúng-dường Đức Phật cùng chư Tăng rất là trọng-thể. Sau đó, các vị hoàng-tử và dân-chúng cùng đi tiễn Đức Phật và chư Tăng trở về, đến tận bờ sông Hằng.

Bên kia bờ sông Hằng, vua Tần-bà-sa-la cùng với quan-dân đang chờ đón Đức Phật và chư Tăng, trong khung-cảnh thật tưng-bừng và trang-nghiêm. Trên không-trung, chư Thiên nghinh đón trong tiếng nhạc trời. Long-vương, vua loài rồng, cùng quyến-thuộc cũng có mặt. Sau khi mọi người đảnh-lễ và dưng-cúng lễ-vật lên tăng-đoàn xong, Long vương thỉnh Đức Phật cùng chư tỳ-kheo ngồi lên thuyền rồng, trang-hoàng bằng các loại hoa sen màu sắc thật rực-rỡ, đi viếng Long-cung. Đức Phật muốn tỏ lòng quí-trọng Long-vương, nên nhận lời. Ngài thi-triển thần-thông, ánh-sáng năm màu chiếu rực-rỡ lên; quang-cảnh ấy giống như khi trước, lúc Đức Phật vừa từ cung Trời Đao-lợi trở lại thế-gian.

Khi cả đoàn trở về thành Vương-xá, các tỳ-kheo rất hoan-hỉ được chứng-kiến cảnh tráng-lệ vừa qua, vô cùng khen ngợi công-đức của Đức Phật trong việc cứu-độ dân-chúng ở Tỳ-da-ly. Đức Phật bảo: “Nầy chư Tăng, chẳng phải vì việc cứu-độ vừa qua, hay đã thi-triển thần-thông trên sông Hằng, mà nay Như-Lai được sự cúng-dường trọng-thể. Đó thật ra là nhờ trong đời quá-khứ, Như-Lai đã có nhiều công-đức tuy nhỏ nhưng đã đem đến các phước-báu ngày nay.” Rồi Đức Phật mới kể lại tiền-kiếp, như sau:

Vào thuở xa-xưa, ở thành Ta-xi-la, có một người Bà-la-môn tên là San-kha, có được một người con trai tên Sử-sĩ-mã rất thông-minh.Ông San-kha gởi con đến học với một vị Bà-la-môn khác về khoa thiên-văn. Sử học rất tấn-bộ, chẳng bao lâu, kiến-thức đã ngang với thầy, nên được thầy giới-thiệu đến thọ-giáo với một vị Bích-chi-Phật. Vị nầy bảo Sử, phải thọ-giới làm tỳ-kheo, mới được chỉ-dạy. Sử vâng lời và từ đó giữ-gìn giới-luật rất đầy-đủ, tu-tập thiền-định rất tinh-tấn, trong một thời-gian đã tự mình chứng-ngộ được Bốn Chơn-lý Nhiệm-mầu và đắc quả-vị Bích-chi-Phật. Nghiệp-báo đời trước đã sớm dứt, nên Sử-sĩ-mã chẳng sống lâu thêm, liền nhập Niết-bàn. Ông San-kha tìm đến Ta-xi-la thăm con, hay tin con đã nhập-diệt, lòng rất đau-buồn, mới thiêu-xác con, lấy xá-lợi đem thờ trong ngôi tháp. Hằng ngày, ông quét dọn sạch-sẽ chung quanh tháp, trang-trí với nhiều bông hoa rừng đẹp-đẽ. Đức Phật kết-thúc câu chuiyện: “Chính nhờ công-đức dựng tháp để kính-lễ một vị Bích-chi-Phật đó mà ngày nay Như-lai hưởng được phước-báu cúng dường vừa qua của Trời và người.”

Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:

Chính nhờ từ bỏ dục-lạc nhỏ,
Mà ta tìm thấy phước-lạc to.
Thú vui nhỏ-nhặt, người hiền bỏ,
Phước lớn Niết-Bàn, cố tìm lo.
(Kệ số 290.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Tạp-lục: Tạp = có nhiều thứ khác nhau, lẫn-lộn; Lục = ghi chép. Phẩm Tạp-lục ghi chung lại các bài Kệ có nhiều đề-mục khác nhau.

– Tiền-kiếp Tiền = trước; Kiếp = nhiều đời; Tiền-kiếp là các cuộc đời trước, trước đời hiện-tại nầy.

– Thành Ty-da-ly, xứ Ly-xa: tên các điạ-danh nầy, tiếng Pali là thành Vesàli, xứ Licchavi, ở miền Bắc Ấn-độ xưa.

-Hạn-hán = trời nắng lâu ngày chẳng mưa, thiếu nước nên cây cỏ khô-héo.

– Bịnh dịch = bịnh truyền-nhiễm lây nhanh sang kẻ khác, dễ chết.

– Tác-hại: Tác = làm; Hại = tổn-hại; Tác-hại là tàn-ác gây tổn-hại.

– Từ-bi: Từ = thương người mà mang lại niềm vui; Bi = xót, tội-nghiêp cho kẻ khác mà cứu khổ họ.

– Vua Tần-bà-sa-la, thành Vương-xá, nước Ma-kiệt-đà: tiếng Pali: vua Bimbisara, thành Ràjagaha, nước Magadha, xưa ở miền Bắc Ấn.

– Chánh-pháp: giáo-lý của Đức Phật, tiếng Pali là Dhamma.

– Sông Hằng: một con sông lớn ở Ấn-độ, tiếng Pali là Gangà.

– Do-tuần: đơn-vị đo chiều dài đường-xá, hơn một cây-số; tiếng Pali là Yojana.

– Tử-thi: Tử = chết; Thi = thây ma; Tử-thi là thây chết chưa chôn cất

– Uế-khí: Uế = dơ bẩn; Khí = hơi; Uế-khí ở đây là mùi hôi-thối.

– Đi diễn-hành: Diễn = trải qua; Hành = đi; Đi diễn-hành là nhiều người đi trong trật-tự, từ-từ bước qua các đường phố lớn trong thành.

– Kinh Tam-Bảo: Tam = ba; Bảo = kho-tàng quí-báu. Trong Phật-học, chữ Tam-Bảo nói về sự quí-báu của (1) Đức Phật, (2)Chánh-pháp của Phật và (3) Tăng-già, đoàn-thể các đệ-tử tu theo giáo-lý của Phật. Tiếng Pali là Ratana Sutta (Ratana = kho báu; Sutta = Kinh). Chữ Tam Bảo thường được nói gọn là: Tam-Bảo = Phật, Pháp, Tăng.

– Đại-hội bố-thí: cuộc bố-thí, phát chẩn, tặng cơm gạo, quần-áo cho những người nghèo-khổ.

– Cúng-dường: đọc trại từ chữ Hán-Việt: cung-dưỡng; cung = cung-cấp; dưỡng = nuôi-dưỡng.

– Trọng-thể: Trọng = lớn, nặng; Thể = hình-thể; Trọng-thể là rất lớn, rất trang-trọng.

– Chư Thiên = Chư = số nhiều, số đông; Thiên = Trời.

– Long-vương: Long = rồng; Vương = vua.

– Quyến-thuộc: Quyến = gia-quyến, bà-con; Thuộc = thân-thuộc, họ-hàng.

– Long-cung: Long =rồng; Cung = cung-điện.

– Thi-triển thần-thông = biến-hoá ra các phép-tắc lạ-thường; ở đây, Đức Phật phóng hào-quang (= phát ra ánh-sáng) năm màu rực-rỡ.

– Đức Phật từ cung Trời Đao-lợi trở lại thế-gian: sau khi giảng pháp ở trên cõi Trời Đao-lợi cho mẹ nghe, Đức Phật trở lại chùa Kỳ-viên, ở thế-gian nầy. Xin xem lại Tich chuyện số 149, trang 464, Tập 3

– Tráng-lệ = thật hết là đẹp-đẽ.

– Thành Ta-xi-la: tên thành nầy ở nước Xá-vệ, tiếng Pali là Taxila

– San-kha, Sử-sĩ-mã: các tên nầy, tiếng Pali là Sankha, Susìma.

– Bà-la-môn: phiên-âm chữ Brahmana, giai-cấp tu-sĩ ở Ấn-độ.

– Thiên-văn: khoa-học khảo-sát các vị tinh-tú trong không-gian.

– Kiến-thức: Kiến = thấy; Thức = biết; Kiến-thức là sự hiểu-biết.

– Thọ-giáo: Thọ = nhận lãnh; Giáo = chỉ dạy. Thọ-giáo = theo học.

– Bích-chi-Phật: vị tu-hành tự mình giác-ngộ và giải-thoát vào thời chẳng có Chánh-pháp của một đức Phật nào. Tiếng Pali là Pacceka-Buddha, còn được dịch là Duyên-giác. Vị Bích-chi-Phật chỉ có sự tự-giác, chẳng có sự giác-tha (giúp cho kẻ khác giác-ngộ theo).

– Bốn Chơn-lý Nhiệm-mầu: chữ Hán-Việt là Tứ-Diệu-Đế, gồm có: (1)Khổ-đế, đời là Khổ; (2) Tập-đế, nguyên-nhơn của Khổ là Tham-ái; (3) Diệt-đế, sự tận-diệt hết Khổ, tức là Niết-bàn; (4) Đạo-đế, con đường đưa đến cảnh hết Khổ(Niết-bàn), tức là Bát-Chánh-Đạo.

– Niết-Bàn: chữ Phạn là Nirvana, chữ Pali là Nibbana, cảnh-giới đã dứt hết mọi khổ. Người chứng Niết-Bàn đã diệt hết mọi phiền-não, lià mọi tham-dục, hằng sống tự-tại trong cảnh tịch-diệt, hết tái-sanh.

– Nhập-diệt: Nhập = vào; diệt = tiêu mất. Nhập-diệt tức là chết đi.

– Dục-lạc: Dục = ham-muốn; Lạc = vui; Dục-lạc là ham các thú vui về vật-chất, về thân-xác; vì dục-lạc chỉ là tạm-bợ.

– Phước-lạc: niềm vui chơn-thật và bền-vững về tinh-thần; Phước-lạc ở đây là hạnh-phước thoát được mọi khổ, tự-tại trong Niết-Bàn.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất dài, có thể chia ra làm ba phần: (1) nạn chết-đói vì hạn-hán ở Tỳ-da-ly; (2) Đức Phật cứu-độ dân-chúng ở Tỳ-da-ly; (3) trong một tiền-kiếp làm người Bà-la-môn, Đức Phật có công xây tháp và kính-lễ một vị Bích-chi-Phật.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là sự tiếp-đón long-trọng của Trời, Người trong dịp Đức Phật đến thành Tỳ-da-ly để cứu nạn cho dân-chúng, chẳng phải vì công-đức cứu-độ đó mà được hưởng phước-báu, mà chính là do trong một tiền-kiếp làm người Bà-la-môn, Ngài đã xây tháp thờ-cúng một vị Bích-chi-Phật, nên nay Ngài mới được sự cung-kính của Nhơn,Thiên. Ý Đức Phật muốn khuyên ta đừng bỏ qua các việc thiện nhỏ, phải dứt-bỏ các thú-vui nhỏ mà tìm phước-báu lớn là được chứng-nhập cảnh Niết-bàn.

(2) Ý-nghĩa của Bài Kệ số 290:

Tuy bài Kệ chỉ có bốn câu ngắn, gọn, dễ hiểu, nhưng tầm quan-trọng đối với người tu tại-gia rất là to lớn. Tại sao? Vì bài Kệ vạch rõ hai con đường: một đường chạy theo các thú-vui vật-chất, thoả-mãn các nhu-cầu thể-xác, tạm thời; còn một đường nêu rõ phước-báu to lớn, được thoát khỏi vĩnh-viễn cảnh khổ-đau của cuộc đời, ra khỏi vòng sanh-tử, tử-sanh lẩn-quẩn của cõi Luân-hồi lận-đận và chứng được cảnh-giới an-vui, tự-tại của Niết-Bàn. Bài Kệ dạy rõ: từ bỏ các thú-vui nhỏ, để cố tìm lo chứng được Niết-Bàn là phước-báu to lớn, bền chặt nhứt. Bằng cách nào? Học-tập và ứng-dụng Chánh-pháp trong cuộc sống hằng ngày.

Nói cách khác, bài Kệ chỉ ra hai con đường: sống buông-trôi theo thú-vui vật-chất tạm-bợ, để phải chịu khổ triền-miên trong cảnh tái-sanh, và lối sống tu-hành, biết khước-từ các dục-lạc (ham-muốn về thể-xác), tìm theo các lạc-thú tinh-thần, dẹp hết phiền-não, dứt mọi lậu-hoặc, để sớm chứng-đắc cảnh an-nhiên, tự-tại của Niết-Bàn. Con đường nào đưa tới Niết-Bàn? Đó là con đường thánh-đạo, tức là Bát-Chánh-Đạo.

HỌC TẬP:

1.- Học thuộc lòng bài Kệ, để ghi nhớ sự so-sánh giữa hai việc: dục-lạc nhỏ và phước-báu lớn.

2.- Tập dứt bỏ các thói-quen nhỏ mà xấu, như: mỗi sáng, khi tỉnh-giấc, hay “nằm nướng” trên giường; nay hăng-hái ngồi dậy rửa mặt, lo đi ngồi thiền hay niệm Phật ngay.

3) Tập khước-từ vài thú-vui nhỏ như ngồi nán xem thêm phim Chưởng, nên tắt sớm Tivi, lên giường xem qua vài đoạn Kinh rồi dỗ giấc ngủ.

4) Chứng được Niết-Bàn là điều cao-xa đối với người tu tại-gia, nhưng nhường-nhịn nhau một câu khiến cho gia-đình khỏi rầy lộn, từ-chối lời mời của bạn ghé quán rượu “nhậu sơ ba sợi”, để về nhà sớm phụ vợ dọn cơm cho vui, thì sẽ khỏi bị … cằn-nhằn, lỗ tai khỏi phải “nhức-nhối”, tâm khỏi hờn mát, tránh được những cái khổ… nho-nhỏ đó, đấy là đang bước đến ngưỡng cửa của Niết-Bàn ở thế-gian!

(215).- Tích chuyện một bà hay ăn hột gà.

Tích chuyện nầy giống với Tích chuyện Nữ-quái Kha-ly, số (4),trang 17, Tăp 1.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến người đàn-bà hay ăn hột gà.

Thuở ấy, ở một làng gần thành Xá-vệ, có một người đàn-bà nuôi một con gà mái đẻ trứng; mỗi ngày, gà vừa đẻ xong, bà lượm trứng đem vào bếp, luộc ăn. Con gà mái lòng đau-khổ vì mất trứng chẳng nở gà con, nên phát lời nguyền sẽ trả mối thù đó. Trong kiếp tới, gà mái đầu-thai làm mèo, còn người đàn-bà lại thành gà mái, bao nhiêu gà con sanh ra lần-lượt bị mèo cắn chết hết. Đến kiếp tới, một đàng sanh làm beo gấm ăn thịt nai con của nai-mẹ. Cứ thế mà mối thù truyền kiếp kéo dài hết đời nầy sang đời khác. Cho đến khi Đức Phật thị-hiện ở nước Xá-vệ, thì một đàng sanh ra làm đàn-bà, còn một đàng làm ngạ-quỉ.

Một hôm, người đàn-bà cùng chồng, bồng con về thăm quê mẹ. Dọc đường, trời nóng, người chồng xuống ao tắm; người đàn-bà bỗng trông thấy ngạ-quỉ đi tới, chực bắt con mình, mới lật-đật bồng con, chạy vào chùa Kỳ-viên, đặt con dưới chơn Đức Phật nhờ che-chở. Ngạ-quỉ rượt theo đến cổng chùa, bị ngăn lại. Đức Phật nhìn thấy, bảo cứ cho vào, để Ngài phán dạy. Sau khi nghe hai bên trình-bày mối thù truyền-kiếp, Đức Phật bảo: ‘Nầy hai tín-nữ, nếu hai bà chẳng đến đây gặp Như-Lai, thì mối thù truyền-kiếp giữa hai bà chẳng bao giờ chấm-dứt. Hận-thù đâu dập-tắt được hận-thù. Chỉ có lòng từ-bi mới khiến hận-thù được giải-kết.”

Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây, nhờ đó mà người đàn-bà chứng được sơ-quả Tu-đà-huờn và ngạ-quỉ xin quy-y Tam-Bảo:

Ai gieo đau-khổ cho người,
Để tìm hạnh-phước vui-tươi cho mình;
Kẻ ấy bị hận-tình ràng-buộc
Biết bao giờ thoát được oán-thù.
(Kệ số 291.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Đầu-thai: Theo giáo-lý nhà Phật, mỗi chúng-sanh mãn đời nầy được tái-sanh vào đời sau; khi nhập vào thai mẹ, gọi là đầu-thai.

– Truyền-kiếp = kéo dài từ đời nầy sang nhiều đời khác.

– Thị-hiện: Thị = bày tỏ ra; Hiện = nổi lên, cho thấy rõ; chữ Thị-hiện ở đây muốn nói Đức Phật giáng-sanh ở cõi đời nầy, hiện lên cho thấy.

– Ngạ-quỉ: quỉ đói; một hạng chúng-sanh thuộc đường dữ, bụng to, cổ nhỏ, thường bị đói-khát. Tiếng Pali là Peta.

– Giải-kết: Giải = mở ra; Kết = buộc lại. Giải-kết là mở chỗ buộc ra

– Sơ-quả Tu-đà-huờn: Sơ = đầu-tiên; Quả = quả-vị, kết-quả tu-hành thành-công. Tu-đà-huờn là quả-vị thứ nhứt, còn gọi là Nhập-lưu, được vào dòng Thánh, hoặc Thất-Lai, chỉ còn tái-sanh cõi người bảy lần nữa; tiếng Pali là Sotàpatti.

– Quy-y Tam-Bảo: Quy = trở về; Y = nương-tựa; Tam = ba; Bảo = ngôi báu; Quy-y Tam-Bảo là nương-tựa tinh thần vào ba ngôi báu; tức là tin-tưởng vào Phật, Pháp và Tăng.

– Hận-tình = tình-cảm thù-oán; như chữ Hận-thù.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện nầy giống với Tích chuyện Nữ-quái Kha-ly, có ý-nghĩa dạy ta, thù-oán chỉ nên cởi mở ra, chớ đừng đem thù trả oán; thù-oán vì thế cứ kéo dài mãi chẳng thôi, ràng-buộc cả hai bên, chẳng bao giờ được giác-ngộ và giải-thoát.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 291:

Ý-nghĩa của bài Kệ rất rõ-ràng, khuyên ta chớ nên vì hạnh-phước của mình, gây thù-oán với kẻ khác. Vì thù-oán gây ra ràng-buộc, khiến ta phải mắc vòng Luân-hồi mãi, chẳng giải-thoát được.

HỌC TẬP:

1.- Học thuộc lòng bài Kệ, để dạy trẻ, anh chị em trong nhà chớ giận nhau, chẳng chịu nhìn mặt, hay nói chuyện cùng nhau.

2.- Ăn hột gà, có tội sát-sanh không? Hột gà có “trống”, có mầm-mống của gà-con sẽ nở ra. Nếu không, chẳng có tội sát-sanh.

(216).- Tích chuyện các tỳ-kheo đan dép cỏ.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại thành Bá-đi-gia, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến các vị tỳ-kheo lo đan dép cỏ để mang.

Thuở ấy, tại một tu-viện ở thành Bá-đi-gia, có một số tỳ-kheo để công ra tìm cỏ lau, đan thành dép và dùng hoa khô trang-trí lên quai dép. Đức Phật biết được sự-việc đó, mới quở rằng: “Nầy các tỳ-kheo, các ông đã từ-bỏ đời sống thế-tục, gia-nhập Tăng-đoàn là để lo tu-hành cho sớm được giác-ngộ và giải-thoát. Cớ sao lại lãng-phí thì-giờ, lo đan dép cỏ, kết hoa khô vào quai, mang đi để khoe đẹp?”

Rồi Đức Phật mới nói lên hai bài Kệ sau đây, nhờ đó mà một số tỳ-kheo biết nỗ-lực hành-thiền, sớm chứng được quả-vị A-la-hán:

Chẳng làm điều đáng làm,
Chẳng nên làm, lại làm.
Thiếu tỉnh-giác, kiêu-căng,
Lậu-hoặc ắt gia-tăng.
(Kệ số 292.)

Năng quán thân bất-tịnh,
Siêng làm điều đáng làm,
Tránh điều chẳng nên làm,
Thông-suốt và giác-tỉnh,
Lậu-hoặc ắt tiêu-trừ.
(Kệ số 293.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Bá-đi-gia: tên thành-phố nầy tiếng Pali là Baddiya.

– Thế-tục: Thế = đời; Tục = thường; Đời sống thế-tục là đời sống thường, có gia-đình, trong xã-hội.

– Tăng-đoàn: Tăng = tu-sĩ Phật-giáo. Cứ bốn vị tăng trở lên tu chung với nhau, thành một Tăng-đoàn. Tiếng Pali là Sangha, Tăng-già

– A-la-hán: quả-vị thứ tư, cao nhứt, dứt hết phiền-não, lìa bỏ mọi ham-muốn, thoát khỏi cảnh khổ Luân-hồi, chứng được Niết-Bàn an-vui, tự-tại. Tiếng Pali là Arahant.

– Tỉnh-giác: Tỉnh = chẳng mê; Giác = biết. Người tỉnh-giác khi làm, nói, nghĩ điều gì thì trong tâm biết rõ mình đang làm, nói hay nghĩ về đìều ấy, và chỉ điều ấy mà thôi, chẳng hề lo ra, luôn luôn chú-ý.

– Lậu-hoặc: Lậu = rỉ chảy ra; Hoặc = điều sái-quấy. Chữ Lậu-hoặc chỉ các điều sái-quấy khởi lên trong lòng, bộc-lộ ra ( =rỉ-chảy) bằng hành-động xấu, hay lời nói thô-ác. Cùng nghĩa với chữ phiền-não.

– Kiêu-căng = làm phách, tự-cao và khoe-khoang.

– Quán = ngồi Thiền, tâm yên-tịnh và suy-nghĩ sâu-xa về một đề-tài; thường nói là quán-tưởng hay quán-chiếu.

– Quán Thân bất-tịnh: Bất = chẳng; Tịnh = sạch. Quán Thân bất-tịnh là suy-nghi sâu-xa về tấm thân vật-chất nầy, bề ngoài xem là đẹp mà bên trong chứa nhiều chất dơ-dáy, như máu, mủ, ghèn, nước tiểu, phẩn, v.v. Do quán thấy chỗ dơ trong thân mà sanh ra nhàm-chán thân, chẳng chạy theo sắc đẹp nữa; nhờ đó mà biết thân nầy sẽ tan-rả theo lẽ Vô-thường. – Phép qán Thân bất-tịnh là một trong bốn phép quán của Tứ-niệm-xứ: (1) quán Thân bất-tịnh; (2) quán Thọ ( = cảm-giác) là khổ; (3) Tâm là vô-thường; (4) Pháp ( = muôn sự-vật) là vô-ngã Tu theo phép quán Tứ-niệm-xứ được thuần-thục, thông-suốt được ba lẽ: Khổ, Vô-thường, Vô-ngã thì sẽ chứng được quả-vị A-la-hán.

– Gia-tăng, Tiêu-trừ: Gia = thêm lên; Tăng = hơn lên; Tiêu = mất; Trừ = bớt. Hai chữ Gia-tăng và Tiêu-trừ nầy đối-nghịch nhau, một đàng thì thêm lên, còn một đằng mất đi hết.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất giản-dị, Đức Phật quở các tỳ-kheo đan dép, chẳng lo hành Thiền, cho chóng được giác-ngộ và giải-thoát.

(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 292 và 293:

Bài Kệ trước nói khi nào lậu-hoặc gia-tăng; bài Kệ sau chỉ cách tiêu-trừ lậu-hoặc. Cách nào? Phải luôn luôn tỉnh-giác, nỗ-lực tu-tập quán-chiếu về thân bất-tịnh.

(217).- Tích chuyện Trưởng-lão Phát-di-gia, người thấp-lùn.

Tích chuyện nầy hơi giống các Tích chuyện: số (65) và số (197).

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến vị Trưởng-lão Phát-di-gia, người thấp-lùn.

Thuở ấy, có một nhóm tỳ-kheo từ phương xa đến yết-kiến Đức Phật. Lúc bấy giờ, có Trưởng-lão Phát-di-gia dáng người thấp-lùn, đang đứng ở cuối phòng. Đức Phật hướng về phía Trưởng-lão, bảo các vị tỳ-kheo rằng: ‘Nầy chư tỳ-kheo, các ông có trông thấy vị Tăng đang đứng phía kia không? Đó là người đã giết xong cha cùng mẹ, nay ra đi nhẹ-nhàng, chẳng còn chút khổ-đau nào cả.” Vừa nghe xong lời nói của Đức Phật, chúng tỳ-kheo rất ngạc-nhiên, chẳng hiểu được thâm-ý của Đức Phật, mới xin Đức Phật giải-thích thêm.

Đức Phật liền đọc hai bài Kệ sau đây để giải-thích lời ẩn-dụ:

Giết cha NGÃ-MẠN, mẹ ÁI-DỤC,
Diệt ĐOẠN-KIẾN,THƯỜNG-KIẾN hai vua,
Tổng-Tài ÁI-LUYẾN vừa thu-phục,
Vương-quốc MƯỜI HAI XỨ đánh thua,
Phạm-Chí ra đi chẳng sầu-muộn.
(Kệ số 294.)

Giết cha, giết mẹ vừa xong,
Bà-la-môn dòng hai chúa, giết luôn.
Ngũ hổ-tướng NGHI-NAN diệt hẳn,
Phạm-Chí ra đi chẳng ưu-phiền.
(Kệ số 295.)

Xin lưu-ý: Tích chuyện và Bài Kệ mới đọc qua, thấy khó hiểu, vì ý của Đức Phật được nói ra thành lời ẩn-dụ, nghĩa là nói thí-dụ một cách thầm-kín; vì thế mà khó hiểu được ngay. Xin chịu khó đọc qua PHẦN TÌM HIỂU, rồi trở lại đọc Tích chuyện và hai bài Kệ, sẽ rõ hơn.

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Phát-di-gia: tên vị Trưởng-lão thấp-lùn nầy, tiếng Pali là Bhaddiya

– Thâm-ý: Thâm = sâu-kín; Ý = ý-tưởng; Thâm-ý là ý sâu bên trong, tuy khó hiểu liền, nhưng đó mới thật là ý của người muốn nói.

– Lời ẩn-dụ: Ẩn = dấu kín; Dụ = thí-dụ. Lời ẩn-dụ là lời nói thí-dụ một cách bóng-bảy, ý sâu dấu-kín trong sự so-sánh của thí-dụ. Như muốn nói, tôi đói bụng, mà lại nói, trong bụng tôi có kiến cắn, vì bụng đói cồn-cào, tựa như bị con kiến cắn vậy. Ở đây, Đức Phật nói giết cha, giết mẹ, là ý Ngài muốn nói, đã diệt xong các nguyên-nhơn khiến ta phải tái-sanh ra lại; vì các nguyên-nhơn đó làm cho ta tái-sanh, thì chúng cũng như là cha, là mẹ đã sanh ra ta vậy. Hễ diệt được các nguyên-nhơn gây tái-sanh nầy xong, thì thoát khỏi vòng Luân-hồi, tức là đâu còn phải sanh lại để chịu đau-khổ nữa. Nguyên-nhơn nào gây ra sự tái-sanh? Đó là ngã-mạn và ái-dục.

– Ngã-mạn: Ngã = ta; Mạn = kiêu-mạn, tự-cao. Ngã-mạn, tiếng thường là làm phách, coi Ta là hơn cả, chẳng muốn Ta bị thua thiệt, bị hao-mòn, bị chết mất. Vì còn quá trọng cái Ta như thế, nên khi lìa đời, chẳng muốn cái Ta mất đi, cho nên phải tái-sanh để cái Ta tiếp-tục sống nữa, đó là nguyên-nhơn gây ra tái-sanh vậy. Vì thế, Đức Phật gọi ngã-mạn là “cha”. Tiếng Pali gọi ngã-mạn là Mana.

– Ái-dục: Ái = thương, thích; Dục = ham-muốn. Ái-dục là một tình-cảm sâu-đậm nhứt của con người, thúc-dục ta phải khao-khát, đòi hỏi chiếm cho được điều mình thương, việc mình thích; như thèm-khát các thú-vui vật-chất, thoả-mãn các giác-quan, hưởng-thọ khoái-lạc giữa nam-nữ, tất cả những dục-lạc do cuộc sống mang lại. Vì sự khao-khát đó, nên sanh ra sự cố bám chặt vào đời sống sướng thì ít mà khổ lại nhiều nầy; do đó, ái-dục được Đức Phật xem là nguyên-nhơn gây ra Khổ, trong Chơn-lý thứ hai của Tứ Diệu-đế, tức là Tập-đế. Vì ái-dục là nguyên-nhơn gây ra cảnh Khổ trong cuộc tái-sanh trong vòng Luân-hồi, cho nên Đức Phật mới ví như bà mẹ sanh con vậy. Tiếng Pali gọi ái-dục là Tanhà.

– Đoạn-kiến: Đoạn = cắt rời, làm đứt đoạn; Kiến = ý-kiến. Đoạn-kiến là một tà-kiến, một tư-tưởng sai-lầm, cho rằng con người khi chết đi là hết, chẳng còn gì nữa, chẳng có đời sau, cũng như chẳng có đời trước; đó là “cắt đứt” cuộc sống vốn vô-thủy, vô-chung ( = chẳng biết lúc bắt đầu, cũng chẳng biết khi nào chấm dứt), chẳng có quả-báo chi cả. Người chấp vào đoạn-kiến chỉ biết làm sao để hưởng-thụ thật nhiều ngay trong hiện-tại, chẳng kể chi thiện-ác, vì họ đâu có tin vào Luật Nhơn-quả, chết đi là hết cả kia mà. Vì đoạn-kiến khiến họ có lối sống như thế, nên đoạn-kiến được xem như một ông vua đã sai-khiến dân chúng trong nước phải mang tà-kiến sai-lầm nặng-nề đó, bị ràng-buộc mãi trong kiếp sống trầm-luân, khổ-ách của Luân-hồi, chẳng thấy biết được ánh-sáng của sự tự-do giải-thoát . Tiếng Pali gọi đoạn-kiến là Ucchedaditthi.

– Thường-kiến: Thường = thường còn, chẳng hề mất đi; Kiến = ý-kiến. Thường-kiến cũng là một tà-kiến, một tư-tưởng sai-lầm, cho rằng con người có sẵn một linh-hồn bất-diệt, nay sống đây, dầu có phạm vào điều gì sái-quấy, hay thực-hiện được việc gì đạo-đức đi nữa, cũng chẳng có ảnh-hưởng chi đến linh-hồn bất-diệt kia cả, một mai thân nầy chết đi, linh-hồn đó vẫn tiếp-tục mãi trong một thế-giới thường-hằng, chẳng biến-diệt. Người vướng vào thường-kiến cũng phủ-nhận luật Nhơn-quả, lý Luân-hồi, chỉ tin vào cuộc sống ở cõi đời hiện-tại nầy, chẳng hề lo nghĩ đến các cõi ác khác, mà cái “linh-hồn” kia sẽ phải sa-đoạ. Vì thường-kiến thúc-dục con người cứ đinh-ninh sẽ giữ mãi được hiện-trạng, nên được ví như một ông vua đã khiến dân chúng cứ vui sống mãi trong thân-phận khổ nhiều sướng ít nầy, cứ bị trôi lăn trong vòng lẩn-quẩn của Luân-hồi mà chẳng hề nghĩ đến việc giải-thoát khỏi, để được tự-do, tự-tại. Tiếng Pali gọi Thường-kiến là Sassataditthi.

– Tổng-Tài: đây là dịch rất gượng chữ Pali sànucaram, vị quan trông coi kho bạc của nhà vua; Tổng-Tài ở đây muốn nói đến vị tổng-trưởng tài-chánh, người chịu trách nhiệm về tiền-bạc trong nước.

– Ái-luyến: Ái = thương, thích; Luyến = mê-luyến, say-đắm, đeo chặt. Ái-luyến là thái-độ bám-viú vào, ôm chặt lấy vào điều mình thương, vào việc mình thích, chẳng thể rời ra được, vì thế mà bị ràng-buộc nặng-nề. Sự ái-luyến sanh ra từ lòng ái-dục, vì thèm-khát mà trở nên bám chặt vào sự ước-muốn được có mãi, chẳng cho mất đi. Đây là sự thương-mến đi quá mức, trở nên một nết xấu, ràng-buộc nhiều.

Tiếng Pali gọi sự Ái-luyến là Nandiràga.

– Thu-phục: Thu = thâu giữ; Phục = làm cho phải tuân theo lịnh mình; Thu-phục là đã thắng và buộc kẻ kia phải phục-tùng mình.

– Vương-quốc: Vương = vua; Quốc = đất nước; Vương-quốc là cõi đất nước của một vị vua cai-trị; ở đây chữ Vương-quốc dùng theo nghĩa bóng, chỉ đến thân-tâm con người cùng hoàn-cảnh chung quanh

– Mười hai xứ: chữ Xứ ở đây dùng theo nghĩa bóng, chỉ vào sáu căn ( = mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý) và sáu trần ( = sáu hình-thể của cảnh-vật: màu-sắc, âm-thanh, mùi, vị, cảm-xúc và tư-tưởng); đó là chỉ sáu nội-nhập ( = các cơ-quan thâu nhận cảnh-vật bên ngoài đem vào tâm; nội = trong; nhập = đưa vào) và sáu ngoại-nhập ( = các hình-thái từ bên ngoài xuyên qua các giác-quan đi vào tâm; ngoại = bên ngoài). Ở đây, nói đánh thua Mười hai xứ Vương-quốc, có nghĩa là đã làm chủ được các giác-quan, biết tự-kềm-chề, khiến cho thân-tâm chẳng bị cảnh-vật bên ngoài lôi cuốn nữa. Tiếng Pali gọi các Căn là Indriya và các Trần là Dhàtu, sáu nội-nhập là Ajjhatta àyatana, sáu ngoại-nhập là Bahiddha àyatana.

– Phạm-Chí: cùng nghĩa với chữ Bà-la-môn (Brahmana), là bực tu-sĩ, đạo-đức cao. Ở đây, chữ Phạm-chí chỉ bực tu-sĩ đã đắc được quả-vị A-la-hán, diệt hết phiền-não, lìa mọi dục-vọng, chứng được vô-sanh ( = chẳng còn bị tái-sanh trong Luân-hồi), an-vui và tự-tại.

– Bà-la-môn dòng hai chúa: câu văn nầy khúc-mắc, nếu nói cho xuôi lại thì: hai chúa dòng Bà-la-môn. Hai chuá dòng Bà-la-môn ở đây nhắc lại hai Vua là Đoạn-kiến và Thường-kiến, được nói đến ở bài Kệ trước, số 194. Câu “Bà-la-môn dòng hai chúa, giết luôn” có nghĩa là đã diệt bỏ hẳn hai tà-kiến về đoạn-kiến và thường-kiến xong rồi.

– Ngũ-hổ-tướng NGHI-NAN: Ngũ-hổ-tướng là năm vị tướng mạnh-mẽ như cọp; Nghi-nan = nghi-ngờ, ở đây là nghi-ngờ, chẳng chịu tin theo Chánh-pháp của Đức Phật. Sao lại gọi là ngũ-hổ-tướng? Ba chữ nầy dùng theo nghĩa bóng, để chỉ năm điều ngăn-che, danh-từ Hán-Việt gọi là ngũ-cái, năm cái nấp-vung che đậy, dấu kín bên trong, chẳng thấy được Sự-Thật; đó là: (1) tham, (2) sân, (3) thùy-miên ( = mê ngủ nhiều), (4) trạo-hối ( = quá xao-động) và nghi-nan. Vì nghi-nan là vị “tướng” thứ năm trong ngũ-cái, nên mới gọi là ngũ-hổ-tướng.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc một nhóm tỳ-kheo từ phương xa đến yết-kiến Đức Phật. Họ được Đức Phật chỉ cho thấy Trưởng-lão Phát-di-gia, và nói cho họ biết, đó là người đã giết cha, giết mẹ, nay ra đi một cách tự-tại. Các vị tỳ-kheo rất ngạc-nhiên khi nghe nói như thế. Họ được Đức Phật đọc hai bài Kệ giải-thích, mới hiểu thâm-ý Đức Phật là muốn nói đến một vị tỳ-kheo đã chứng được quả-vị A-la-hán.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là: muốn chứng được quả-vị A-la-hán, cần phải diệt xong các phiền-não, dứt các tà-kiến, kềm-chế các giác-quan, giữ tâm an-tịnh trước hoàn-cảnh chung quanh; các điều nầy được Đức Phật kể tiếp ra trong hai bài Kệ.

(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 294 và 295:

Ý-nghĩa của hai bài Kệ là: con đường tu-tập để đi đến quả-vị A-la-hán gồm có những bước nào? Xin phân-tách từng câu và giải nghĩa thêm về các lời ẩn-dụ của Phật đã nói trong hai bài Kệ:

1) Giết cha NGÃ-MAN, mẹ ÁI-DUC: chẳng phải là giết cha-mẹ thật của mình, mà giết hay là diệt bỏ các nguyên-nhơn gây nên sự tái-sanh trong cõi đời nầy. Cha Ngã-mạn, Mẹ Ái-dục mới thật-sự khiến ta phải tái-sanh để mang lấy thân-tâm nầy sống trong cuộc Luân-hồi.

2) Diệt ĐOAN-KIẾN, THƯžNG-KIẾN hai vua: hai tà-kiến Đoạn và Thường nầy thúc-đẩy ta sống cuộc đời chẳng đúng theo đạo-đức, cũng tựa như hai Vua buộc ta phải sống theo luật-lệ trong nước của các vị ấy. Diệt hai vua đó là lìa bỏ hai tà-kiến ấy.

3) Tổng-tài ÁI-LUYẾN vừa thu-phục: Tổng-tài là Tổng-trưởng Tài-chánh, vị cầm giữ kho bạc trong nước; ý so-sánh ở đây là gọi sự say-đắm của Ái-luyến như sẵn có tiền, có bạc, dễ xài-phí để chạy theo các sự ham-muốn. Thu-phục được vị nầy, sự ái-luyến nầy, tức là nắm lại được quyền tự làm chủ lấy mình, tự biết kềm-chế lấy mình.

4) Vương-quốc MƯžI HAI XỨ đánh thua: thắng được nước kia gồm có mười hai xứ. Xứ nào? Đó là sáu căn cộng với sáu trần. Tâm bên trong yên-tĩnh được là nhờ khéo biết lúc nào nên đóng, lúc nào nên mở, sáu cánh cửa nhìn ra ngoài, chận được sáu hình-thể của cảnh-vật bên ngoài chẳng len vào được khuấy rối tâm. Đánh thua ở đây là biết điều-phục các căn vậy.

5) Phạm-Chí ra đi chẳng sầu-muộn: Phạm-Chí tức là Bà-la-môn, ở đây chỉ vị tu-sĩ Phật-giáo, đó là vị Trưởng-lão Phát-di-gia đã chứng được quả-vị A-la-hán. Vị Phạm-Chí đắc quả đó từ nay sống cuộc đời tự-tại, an-vui trong cảnh Niết-bàn, nên khi ra đi chẳng còn sầu-muộn.

Về bài Kệ thứ nhì, số 295:

1) Giết cha, giết mẹ vừa xong: diệt xong Ngã-mạn là cha, Ái-dục là mẹ, hai đấng sanh-thành đã đưa ta tái-sanh vào cõi đời nầy.

2) Bà-la-môn dòng hai chúa, giết luôn: nói lại cho xuôi câu: giết luôn cả hai vua dòng Bà-la-môn. Hai vua đó là hai tà-kiến: đoạn-kiến và thường-kiến, đã nói qua trong bài Kệ trước.

3) Ngũ-hổ-tướng NGHI-NAN diệt hẳn: ông tướng-lãnh thứ năm, mạnh như cọp nầy chỉ vào sự Nghi-ngờ, thiếu tin-tưởng vào Chánh-pháp của Đức Phật. Sao lại gọi là ông tướng thứ năm? Vì ông ấy đứng hàng thứ năm trong năm “ông” trong ngũ-cái, là năm điều ngăn-che, chẳng cho ta thấy được Chơn-lý. (Năm ông nào vậy? Xin xem lại Phần Nghĩa Chữ ở trên.)Hễ diệt được sự Nghi-nan, bắt đầu tin-hiểu Chánh-pháp, thì vững bước trên con đường tiến đến đạo-quả.

4)Phạm-Chí ra đi chẳng ưu-phiền: Vị Phạm-Chí nầy, đắc quả A-la-hán, chính là Trưởng-lão Phát-di-gia, mà Đức Phật muốn giới-thiệu với các tỳ-kheo khi họ đến đảnh-lễ Đức Phật, nói trong Tích chuyện.

HỌC TẬP:

1.- Nếu bỏ công ra học thuộc lòng hai Bài Kệ, mà chẳng tìm hiểu hết ý-nghĩa ẩn-kín, thì chẳng có ích-lợi chi nhiều cho việc tu-tập. Vì hai bài Kệ chứa nhiều danh-từ chuyên-môn trong Phật-học, nên Phần Tìm Hiểu cũng giúp ích được đôi chút, nhưng phần quan-trọng chính là ở chỗ người tu-hành, phải tự-mình thực-hành, bằng không đó chỉ là sự hiểu-biết về danh-từ suông mà thôi.

2) Hai tà-kiến: đoạn-kiến và thường-kiến, sở dĩ ta vướng phải, là vì: hoặc vì chưa hiểu thấu các hình-thức và sự nguy-hiểm của hai tà-kiến đó; hoặc đã biết nhưng vì tự-cao, chẳng chịu tin theo Chánh-pháp, cứ ngoan-cố giữ mãi tà-kiến. Bỏ được không, chỉ do quyết-tâm.

3) Xin để dịp khác sẽ bàn thêm về cách dứt được Ái-Dục.

(218).- Tích chuyện con của người đốn củi.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến người con của kẻ đốn củi.

Thuở ấy, ở thành Vương-xá có một người tiều-phu hằng ngày thường cùng với đứa con trai vào rừng đốn củi. Hôm ấy, trời xế chiều, họ đốn được một xe củi, mới quay về. Dọc đường, hai cha con dừng lại bên nghĩa-địa, lấy cơm ra ăn. Họ cởi cái ách khỏi cổ của đôi bò, thả cho chúng đi ăn cỏ. Hai con bò đi từ bụi cỏ nầy sang bãi cỏ khác, chẳng mấy chốc đã đi xa; đến khi người tiều-phu sực nhớ, nhìn lại chẳng thấy đôi bò đâu cả. Ông liền dặn con cứ ngồi lại bên xe, chờ ông chạy đi kiếm. Theo dấu chơn bò, người cha đi mãi vào thành. Đến khi tìm được hai con thú, thì trời đã tối mò, cửa thành đã đóng lại, ông chẳng trở ra được để tìm con. Đứa con chờ cha mãi chẳng thấy trở lại, đành nằm xuống dưới gầm xe, đánh một giấc ngủ ngon.

Trời càng về khuya, theo cơn gió lộng, có hai hồn ma đi lang-thang, nhìn thấy đứa bé nằm ngủ dưới gầm xe, mới dừng lại khuấy rối. Nào kéo chơn, kéo tay, nào hù doạ; nhưng đứa trẻ vốn là một Phật-tử thuần-thành, chẳng sợ-hãi, chấp tay, miệng niệm “Mô Phật” vang lên, lòng tưởng đến công-đức của Phật-đà. Nghe tiếng niệm Phật, hai hồn ma hoảng sợ, định bỏ chạy, nhưng nhìn thấy đứa trẻ thơ-ngây đang nằm một mình, e nó bị hại, mới sanh lòng thương. Rồi một hồn ma ở lại bên xe, canh chừng, còn hồn ma kia đi tìm thức ăn cho nó. Vào đền vua, hồn ma ấy thấy trong nhà bếp có dọn sẵn một mâm cơm, liền bưng đi, để lại một miếng giấy làm tin.

Sáng hôm sau, người nhà bếp thấy mất mâm cơm, có tờ giấy trên bàn, mới đem trình Vua Tần-bà-sa-la. Vua đọc mảnh giấy xong, biết nơi tìm, mới sai người ra nghĩa-địa. Được hạch hỏi, đứa bé chỉ trả lời là đêm qua bị ma nhát, nó liền niệm Phật được bình-yên, rồi sau đó, cha mẹ nó dọn cơm cho nó ăn, ăn xong nó nằm xuống ngủ, nó chỉ biết có thế mà thôi. Vua ra lịnh dẫn cha con người tiều-phu đến chùa, trình lên Đức Phật sự-việc đêm qua. Nhà vua hỏi: “Bạch Thế-tôn, lòng tưởng-niệm đến công-đức của Phật-đà, chí thành niệm “Mô Phật” như thế, có đủ năng-lực tránh được các tai-hoạ chăng?” Đức Phật bảo: “Nầy Đại-vương, tâm hằng tỉnh-giác tưởng-niệm đến sáu việc nầy, sẽ giúp ta tránh khỏi tội-ác và tai-hoạ.”

Rồi Đức Phật đọc lên sáu bài Kệ sau đây, kể rõ sáu việc đó:

Hằng tỉnh-giác, chuyên-cần thúc-liễm,
Các đệ-tử Phật Gotama,
Chẳng kể ngày ngày, đêm đêm qua,
Công-đức Phật-đà luôn tưởng-niệm.
(Kệ số 296.)

Hằng tỉnh-giác, chuyên-cần thúc-liễm,
Các đệ-tử Phật Gotama,
Chẳng kể ngày ngày, đêm đêm qua,
Công đức Chánh-pháp luôn tưởng-niệm.
(Kệ số 297.)

Hằng tỉnh-giác, chuyên-cần thúc-liễm,
Các đệ-tử Phật Gotama,
Chẳng kể ngày ngày, đêm đêm qua,
Công-đức Tăng-già luôn tưởng-niệm.
(Kệ số 298.)

Hằng tỉnh-giác, chuyên-cần tinh-tấn,
Các đệ-tử Phật Gotama,
Chẳng kể ngày ngày, đêm đêm qua,
Sắc-thân bất-tịnh luôn tưởng-quán.
(Kệ số 299.)

Chuyên-cần tinh-tấn, hằng tỉnh-giác,
Các đệ-tử Phật Gotama,
Chẳng kể ngày ngày, đêm đêm qua,
Luôn vui với đức vô-hại-tác.
(Kệ số 300.)

Chuyên-cần tinh-tấn, hằng giác-tỉnh,
Các đệ-tử Phật Gotama,
Chẳng kể ngày ngày, đêm đêm qua,
Luôn vui thoả-thích tu thiền-định.
(Kệ số 301)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Tiều-phu = người đốn củi trong rừng để đem bán.

– Vương-xá: tên thủ-đô xứ Ma-kiệt-đà (Magadha), tiếng Pali là Ràjagaha. Gần thành Vương-xá, vua Tần-bà-sa-la (Bimbisara) có xây tịnh-xá Trúc-lâm (Veluvana), trong vườn trúc, để dưng-cúng Đức Phật.

– Ách: thanh gỗ cứng, đè lên cổ trâu, bò, để buộc chúng vào xe.

– Gầm xe = bên dưới chiếc xe, khoảng giữa hai bánh xe.

– Gió lộng = gió thổi lồng-lộng, gió thổi mạnh.

– Hồn ma = theo sự tin-tưởng trong Phật-học, đây là một hạng chúng-sanh vô-hình, đi lang thang, vất-vưởng, thuộc vào đường dữ, thường gọi là ngạ-quỉ hay là quỉ đói.

– Hù-doạ = doạ nạt, khiến cho sợ-hãi.

– Phật-tử thuần-thành: người tin theo đạo Phật, tuân theo Chánh-pháp, siêng-năng đi chùa nghe giảng pháp, sống có đạo-đức. (Thuần = chuyên-cần, đứng-đắn, tốt; Thành = nhiệt-thành, thành-thật.)

– Mô Phật: nói tắt bốn chữ Nam-mô Phật-đà, tiếng Pali là Namo Buddhassa, có nghĩa là Chí-tâm đảnh-lễ Đức Phật, kính lạy Đức Phật.

– Nghĩa-địa = bãi tha-ma, nơi chôn cất người chết.

– Hạch hỏi = tra hỏi, hỏi cho kỹ để biết Sự-thật; điều-tra.

– Tỉnh-giác: Tỉnh = tỉnh-táo, chẳng mê; Giác = biết. Người tỉnh-giác là người luôn luôn chú-ý, đang làm, nói hay nghĩ điều gì, trong tâm biết rõ mình đang làm, nói hay nghĩ về điều đó và chỉ điều đó thôi.

– Thúc-liễm: Thúc = bó-buộc; Liễm = gom-góp lại; Thúc-liễm là giữ mình cẩn-thận, chẳng lơ-là, chẳng phóng-túng, tự canh-chừng lấy mình, ráng giữ để tránh các lỗi-lầm, tội-ác.

– Phật Gotama = Đức Phật Thích-ca; Gotama là họ, đọc là Gô-ta-ma, phiên-âm Hán-Việt là Cồ-đàm.

– Tưởng-niệm: luôn luôn ghi nhớ trong lòng, chẳng hề quên.

– Tăng-già: phiên-âm chữ Pali Sangha, đoàn-thể tu-sĩ Phật-giáo có từ bốn vị tu chung với nhau trở lên; dịch là Giáo-hội Phật-giáo.

– Tưởng-quán Sắc-thân bất-tịnh: Tưởng-quán = tâm an-định suy-nghĩ sâu-xa về một đề-tài thiền-quán. Sắc-thân: tấm thân vật-chất; Bất-tịnh: Bất = chẳng; Tịnh = trong-sạch. Quán-tưởng sắc-thân bất-tịnh là một phép quán, trong Kinh Tứ-niệm-xứ, riêng quán về tấm thân con người, bề ngoài xem đẹp-đẽ, mà bên trong chứa ba-mươi-hai chỗ dơ-dáy, đáng gớm-ghiếc; hễ siêng tu-tập về đề-tài thiền-quán nầy sẽ dứt bỏ được sự say-mê theo các thú-vui xác-thịt, từ từ diệt bỏ được cái Ngã, thấy rõ tấm thân nầy hay biến-đổi rồi sẽ hoại-diệt, gây ra đau-khổ, nhờ đó mà thấu-hiểu được các lẽ Vô-thường, Khổ và Vô-ngã.

– Vô-hại-tác: dịch gượng chữ Pali Ahimsa, đức-tánh chẳng hề làm tổn-hại ai, ngay cả đối với kẻ thù, đối với loài côn-trùng nhỏ-nhít đi nữa. (Vô = chẳng; Hại = gây sự tổn-hại; Tác = làm.)Danh-từ vô-tác-hại còn được dịch là Vô-não (Não = não-hại, gây sự phiền-não, tổn-hại.)

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện tuy dài, có thể tóm-tắt lại như sau: một đứa bé bị ma nhát, liền niệm Phật thật to, nhờ đó mà chẳng bị hại.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là nhờ tâm hằng tỉnh-giác, luôn luôn tưởng-niệm đến lời Phật dạy, nên tránh được tai-hoạ và tội-ác.

(2) Ý-nghĩa của sáu bài Kệ từ số 296 đến số 301:

Đọc kỹ sáu bài Kệ, ta thấy chúng giống nhau gần hết, chỉ trừ ở mỗi bài, nơi câu chót, có bốn chữ khác nhau:

1) Phần giống nhau giữa sáu bài Kệ: Các đệ-tử Phật luôn luôn tỉnh-giác, tâm hằng tưởng-niệm hoặc đến công-đức Phật, Pháp, Tăng, hoặc quán-tưởng sắc-thân bất-tịnh, hoặc vui trong tánh vô-hại-tác, hoặc thoả-thích trong Thiền-định.

2) Phần khác nhau về đề-mục tưởng-niệm hay quán-tưởng:

a)Bài Kệ số 296 nói về sự Tưởng-niệm công-đức Phật: đó là tưởng-niệm về sự tự-giác, giác-tha và giác-hành viên-mãn của Đức Phật. Nói cách khác, Đức Phật là bực tự mình giác-ngộ lấy, đi dạy kẻ khác giác ngộ theo, và công-cuộc dạy-dỗ kẻ khác của Ngài đã được hoàn-thành tốt-đẹp.

b) Bài Kệ số 297 nói về Tưởng-niệm công-đức Chánh-pháp: đó là tưởng-niệm về Giáo-pháp của Đức Phật đã chỉ rõ cho chúng ta thấy được con đường giác-ngộ và giải-thoát khỏi mọi khổ-đau.

c) Bài Kệ số 298 nói về Tưởng-niệm công-đức Tăng-già: đó là dạy ta biết noi theo tấm gương tốt tu-hành của các vị đệ-tử của Đức Phật, lìa bỏ mọi ham muốn ràng-buộc, giữ giới-luật nghiêm-minh.

d) Bài Kệ số 299 nói về Quán-tưởng về sắc-thân bất-tịnh: nhờ đó mà lìa bỏ được các thú-vui thể-xác, thấu-hiểu rõ được các lý-lẽ vô-thường, khổ và vô-ngã, để tiến lần đến sự giác-ngộ.

e) Bài Kệ số 300 nói về Quán-tưởng về đức vô-hại-tác: nhờ chẳng làm hại ai, biết đem ơn ra báo oán, diệt được sân-hận, rải Tâm Từ-bi rộng đến muôn loài, khiến cho cuộc sống chung trở nên hài-hoà

f) Bài Kệ số 301 nói về sự Thoả-thích tu Thiền-định: nhờ đó sớm đắc định-tâm, khiến cho Trí-huệ Bát-nhã được phát-sáng, sớm đến nơi giác-ngộ và giải-thoát.

Tóm lại sáu bài Kệ là sáu đề-tài Thiền-quán, dùng để suy-nghĩ sâu-xa khi ngồi Thiền, và để áp-dụng trong đời sống đạo-đức.

HỌC TẬP:

1.- Sáu bài Kệ tuy dài, nhưng cũng dễ nhớ; nếu muốn học thuộc lòng, chỉ cần học thuộc bài thứ nhứt; đến các bài kế, nhớ đổi bốn chữ đầu-tiên của câu chót.

2.- Học-tập về sáu bài Kệ, chẳng phải cố học sao thuộc nằm lòng, ngâm-nga lên cho thú-vị, mà phải đem các lời Phật dạy ra thi-hành trong đời sống hằng ngày, như:

– Tưởng-niệm công-đức Tam-Bảo, Phật, Pháp, Tăng: trong các khoá lễ, miệng đọc Quy-y Phật, thân cúi xuống lạy, thì trong tâm phải nhớ đến các công-đức của Phật; Quy-y Pháp và Tăng cũng vậy;

– Khi Quán thân bất-tịnh, nên soát lại ngày hôm nay, có bớt các đòi hỏi về ăn mặc được phần nào chưa, bụng còn muốn các món trang-sức đắt tiền không, soát lại để bỏ bớt từ từ, đó là làm thanh-tịnh cho phần tinh-thần của thân-tâm.

– Học đức vô-hại-tác bằng các hành-vi nhỏ-nhặt trước, vứt bỏ mấy chai thuốc giết sâu-bọ ngoài vườn; rồi đến thái-độ hoà nhã, bị đạp chơn nơi đông người, biết vui nhường bước chẳng hề cãi-vã.

– Tập thoả-thích tu Thiền-định, bằng cách tự-kiểm lại tâm mình, trước khóa Thiền, bụng có viện cớ nầy, cớ nọ để bỏ qua không, trong khi ngồi, có bực mình khi nghe tiếng động không, sau khi ngồi, lòng mình có thanh-thản nhẹ-nhàng hơn trước khi ngồi thiền không?

(219).- Tích chuyện vị tỳ-kheo ở Tỳ-da-ly.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại tịnh-xá Trúc-lâm, gần thành Vương-xá, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến một vị tỳ-kheo ở Tỳ-da-ly chẳng thấy thoả-thích trong nếp sống xuất-gia.

Thuở ấy, vào một đêm rằm, trời trong sáng, dân-chúng trong thành Tỳ-da-ly mở hội hoa-đăng, vui đùa, ca múa thật tưng-bừng rộn-rịp, để mừng trăng-sao. Tại nơi tu-viện, một vị tỳ-kheo đứng dưới gốc cây cổ-thọ, lặng-lẽ nhìn ánh-sáng rực-rỡ nơi kinh-thành, lòng chán-nản, chép miệng than: “Trên cõi đời nầy, chẳng ai có thân-phận buồn-khổ hơn thân-phận tỳ-kheo của ta nữa!” Vào lúc ấy, vị thọ-thần trên cây cổ-thọ nghe thấy, mới hiện lên đứng bên cạnh và nói: “Nầy thầy tỳ-kheo, các kẻ bị đoạ trong địa-ngục rất thèm-khát cuộc sống trên các cõi Trời. Các người lao-động trong thành cũng ước mong được tự-tại trong cảnh rừng vắng-vẻ nơi tu-viện nầy.” Nghe nói thế, vị tỳ-kheo liền tỉnh-ngộ, hiểu được lời khuyên kín-đáo và tỏ ra hối-tiếc đã có ý-nghĩ chẳng tốt đối với đời sống xuất-gia.

Sáng hôm sau, vị tỳ-kheo ấy đến yết-kiến Đức Phật, trình lại lời nói của vị thọ-thần. Đức Phật dạy thêm: “Nầy tỳ-kheo, cuộc sống của chúng-sanh trong cõi Luân-hồi, đều mang sẵn nỗi-niềm đau-khổ cả.”

Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây, nhờ đó vị tỳ-kheo giác-ngộ, nỗ lực tu-tập, chẳng bao lâu chứng được quả-vị A-la-hán:

Rời khỏi nhà, đi tu là khó,
Vui hạnh tỳ-kheo, khó lắm thay!
Chủ gia-đình hằng ngày chịu khổ;
Gần người chẳng hợp, khổ nào tày?
Luân-hồi trôi lặn đắng cay,
Chớ theo khổ, phải dứt ngay Luân-hồi.
(Kệ số 302.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Tỳ-da-ly: tên thành nầy, tiếng Pali là Vesàli.

– Tịnh-xá Trúc-lâm = tu-viện cất trong vườn Trúc, tiếng Pali là Veluvana, do vua Tần-bà-sa-la dưng-cúng Phật, gần thành Vương-xá.

– Xuất-gia: Xuất = ra khỏi; Gia = nhà. Trong Phật-học, chữ xuất-gia có nghĩa là rời khỏi nhà, lìa cuộc sống trong gia-đình, đi tu. Đối-nghĩa với xuất-gia là tại-gia, người tu-hành còn sống trong gia-đình.

– Hoa-đăng: Hoa = bông-hoa; Đăng = đèn; Hội hoa-đăng là buổi lễ vui treo đèn, kết hoa.

– Cổ-thọ: Cổ = xưa; Thọ = cây to lớn; Cổ-thọ là cây lâu năm, to lớn

-Thân-phận: cảnh-ngộ; vận-mạng, hoàn-cảnh đời sống của mình.

– Thọ-thần: Thọ = cây cổ-thọ; Thần = thần-linh. Thọ-thần là một vị thần-linh, thuộc hạng A-tu-la, sống trên cây cối.

– Tự-tại = tự-do, chẳng bị ràng-buộc.

– Tỉnh-ngộ: Tỉnh = hết mê, thức-tỉnh; Ngộ = hiểu; Tỉnh-ngộ là biết rõ trước mình đã lầm, nay theo điều đúng.

– Luân-hồi: Luân = bánh xe; Hồi = trở lại. Phật-học tin rằng, chúng-sanh sau cuộc sống nầy sẽ sanh trở lại, vào một cuộc sống mới, để phải chết đi rồi tái-sanh mãi, như bánh xe cứ quay tròn. Tiếng Pali là Samsàra.

– Giác-ngộ: Giác = biết rõ; Ngộ = hiểu thấu. Người giác-ngộ là người đã hiểu rõ Chơn-lý, biết đúng lẽ sống chết của chúng-sanh. Đức Phật là bực đại-giác.

– Quả-vị: kết-quả của việc tu-hành đã thành-công. Có bốn quả-vị trong hàng Thanh-văn là các đệ-tử sống gần bên Phật, nghe kinh mà tu-tập (Thanh = tiếng nói; Văn = nghe; tiếng Pali là Sàvaka); đó là (1) Tu-đà-huờn (Sotàpatti) hay Nhập-lưu, hay Thất-Lai, còn bảy lần tái-sanh; (2) Tư-đà-hàm (Sakadàgamì) hay Nhứt-Lai, còn một lần tái-sanh; (3) A-na-hàm (Anàgami) hay Bất-Lai, chẳng sanh lại cõi người; (4) A-la-hán (Arahant), chứng được vô-sanh, hết phải tái-sanh.

– A-la-hán: quả-vị thứ tư, cao nhứt trong hàng Thanh-văn. Bực A-la-hán đã diệt xong các phiền-não, lià bỏ mọi ham-muốn, chẳng phải tái-sanh nữa (gọi là chứng vô-sanh), sống an-vui, tự-tại trong cảnh Hữu-dư Niết-bàn, đến khi tịch-diệt ( = chết), thì vào Vô-dư Niết-bàn.

– Hạnh Tỳ-kheo: Hạnh = hạnh-kiểm, đức-hạnh; Tỳ-kheo phiên-âm tiếng Pali là Bhikkhu, hay Bí-sô hoặc Tỳ-khưu, còn dịch là Khất-sĩ, tức là tu-sĩ Phật-giáo phải đi xin ăn, tuân theo 250 điều giới-luật, sống xa gia-đình thế-tục. Phái nữ là tỳ-kheo-ni (Bhikkhuni) thọ 348 giới-luật.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại một vị tỳ-kheo đứng nơi tu-viện vắng-vẻ, hướng nhìn về cảnh vui nhộn của hội hoa-đăng trong thành Tỳ-da-ly, cảm thấy buồn-tẻ, mới than-thở về thân-phận tỳ-kheo của mình. Một vị thọ-thần nghe thấy hiện lên bảo cho biết, ở dưới địa-ngục có kẻ còn đang đau-khổ, ở trong thành còn có người lao-động thiếu tự-do. Vị tỳ-kheo sực-tỉnh, hối-tiếc đã nghĩ chẳng tốt về nếp sống xuất-gia. Hôm sau, vị ấy được Đức Phật dạy thêm, chúng-sanh phải chịu khổ đau nhiều trong ba đường dữ, vậy nên phải cố-gắng tu-tập để ra khỏi cảnh tái-sanh của vòng Luân-hồi lẩn-quẩn.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là: xuất-gia đi tu được là đang có phước lớn, vì đã chọn đúng con đường giải-thoát dứt khoát mọi khổ-đau.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 302:

Bài Kệ chẳng có chữ chi khó hiểu cả, nhưng ý-nghĩa rất thâm-sâu, xin phân-tách từng câu:

1) Rời khỏi nhà, đi tu là khó: Tại sao khó? Vì trong lòng còn bận-bịu, quyến-luyến đời sống ở nhà. “Rời khỏi nhà” nghĩa sâu ở đây là lìa bỏ “nhà phiền-não”, tức là thân-tâm còn đeo nặng tham, sân, si.

2) Vui hạnh tỳ-kheo, khó lắm thay: Tại sao khó? Vì phải tuân giới-luật đã nhiều, lại nghiêm-khắc; nhưng tự khép mình trong kỷ-luật, đó lại chính là đang tự giải-thoát mình ra khỏi phiền-não và tội-ác, nên đấy mới là niềm vui của hạnh tỳ-kheo mà ít người biết đến.

3) Chủ gia-đình hằng ngày chịu khổ: Tại sao khổ? Vì phải vật lộn với đời để mưu-sanh, tranh sống cho mình và cho gia-đình mình.

4) Gần người chẳng hợp, khổ nào tày: Tại sao gần người chẳng hợp lại chẳng khổ nào bằng? Vì trái ý nhau, chống-đối nhau luôn, sanh ra khó chịu, khổ-sở. Nhưng câu nầy còn nhắc đến bảy nỗi khổ khác nữa: sanh, già, bịnh, chết, thương mà xa nhau, cầu mà chẳng được, thân-tâm chẳng thăng-bằng.

5. Luân-hồi trôi lặn đắng cay: Tại sao đắng cay? Vì sẽ phải đoạ vào các đường dữ: điạ-ngục, quỉ đói và thú-vật.

6) Chớ theo khổ, phải dứt ngay Luân-hồi: Dứt bằng cách nào? Chỉ có cách duy-nhứt là tu-hành theo Chánh-pháp, và con đường nhanh và chắc nhứt là “vui theo hạnh tỳ-kheo” đó.

(220).- Tích chuyện về vị gia-chủ Chi-ta.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến vị gia-chủ tên là Chi-ta.

Thuở ấy ở thành Mã-chi-kha, có một người gia-chủ tên Chi-ta, rất giàu-có, được nghe Tôn-giả Xá-lợi-phất giảng pháp, nên chứng được đạo-quả A-na-hàm. Chi-ta dùng năm trăm xe bò chở đầy thực-phẩm và lễ vật, cùng với cả ngàn bạn đạo, lên đường đến chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, để đảnh-lễ Đức Phật. Sau hơn một tháng, cả đoàn đến nơi. Trong khi Chi-ta và các bạn đạo đang yết-kiến Đức Phật thì trên không-trung chư Thiên rải hoa trời xuống như mưa. Chi-ta và cả ngàn bạn đạo lưu lại chùa Kỳ-viên trọn tháng, hằng ngày dâng cúng thực-phẩm lên Đức Phật và chư Tăng và nghe giảng Chánh-pháp.

Đến gần ngày từ-giả, Chi-ta đem tất cả những bảo-vật còn lại trong các xe, chất hết vào kho chùa; nhưng lạ thay, đến lúc quay về, các xe bò đều đầy vật quí như cũ. Tôn-giả A-nan biết chư Thiên đã ban-cấp cho Chi-ta, mới vào trình Đức Phật: “Bạch Thế-tôn, vì Chi-ta đã dưng-cúng lên Đức Phật và chúng tăng nên được chư Thiên hiến- tặng lại các quí-vật; chẳng biết khi Chi-ta đi bố-thí ở những nơi khác, có được khen-ngợi và ban-tặng của-cải như thế không?” Đức Phật bảo: “Nầy A-nan, một người tin-tưởng vào Phật-pháp như Chi-ta, đức-hạnh đầy-đủ, rộng lòng bố-thí như thế, đi đâu lại chẳng được cung-kính và dâng-hiến của cải.”

Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:

Niềm tin đủ, vẹn-toàn giới-hạnh,
Danh-tiếng cao, tài-sản dồi-dào,
Dù cho đi đến nơi nào,
Vị nầy cũng được kính chào, tôn-vinh.
(Kệ số 303.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Chi-ta: tên người chủ gia-đình nầy, tiếng Pali là Citta ( = tâm.)

– Mã-chi-kha: tên thành-phố nầy, tiếng Pali là Macchikàsanda.

– Tôn-giả Xá-lợi-phất: Tôn-giả = người đáng tôn-trọng; Xá-lợi-phất = tên tiếng Pali Sariputta, vị đại-đệ-tử của Phật Thích-ca, được nổi tiếng là thông-minh bực nhứt.

– Đạo-quả A-na-hàm: Đạo = đường-lối, cách thức tu-hành, tiếng Pali là Magga; Quả = kết-quả tu-hành thành-công, tiếng Pali là Phala; A-na-hàm tiếng Pali là Anàgàmi, là quả-vị thứ ba, dịch là Bất-Lai, chẳng trở lại cõi người nữa, sanh lên Trời, tu tiếp sẽ chứng A-la-hán.

– Đảnh-lễ = cúi đầu lạy để làm lễ ra mắt bực trưởng-thượng.

– Chư Thiên = các vị Trời.

– Chánh-Pháp: Chánh = chơn-chánh, đứng-đắn; Pháp = phép tu. Chánh-pháp là lời Phật dạy cách tu-hành để giác-ngộ và giải-thoát.

– Bảo-vật: Bảo = quí-báu. Các bảo-vật như là vàng bạc, ngọc-ngà.

– Thế-tôn: Thế = thế-gian; Tôn = tôn-kính; Thế-tôn là bực được cả thế-gian tôn-kính. Các đệ-tử thưa với Phật bằng Thế-tôn; Phật tự xưng là Như-lai.

– Bố-thí: Bố = rộng khắp; Thí = tặng,. Bố-thí là hiến-tặng tiền-của, phẩm-vật, hoặc công-sức, hay lời khuyên, an-ủi, cho người cần đến.

– Tôn-vinh = kính trọng và khen ngợi với mọi người.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện kể lại việc một gia-chủ giàu-có tên là Chi-ta, cùng với đông-đảo các bạn-đạo, đi cả tháng, chở thực-phẩm và bảo-vật đến cúng-dường Đức Phật và chư Tăng ở chùa Kỳ-viên. Khi họ đảnh-lễ Đức Phật, chư Thiên trên Trời rải hoa xuống khen ngợi. Họ ở lại trọn tháng để cúng-dường thực-phẩm và nghe Phật giảng Chánh-pháp. Trước khi ra về, Chi-ta đem tặng hết các quí-vật trong xe, cất vào kho trong chùa; nhưng chư Thiên đã khiến cho các xe đầy trân-bảo như cũ.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là công-đức bố-thí chẳng hề mất, người bố-thí được mọi người kính-trọng và giúp-đỡ của-cải thêm để bố-thí.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 303:

Bài Kệ kể ra bốn điều-kiện để được mọi người kính-trọng: (1) đầy đủ niềm tin vào Phật-pháp, (2) giữ vẹn giới-luật, (3) có tiếng tốt, (4) của-cải nhiều, sẵn lòng bố-thí.

( 221).- Tích chuyện cô Chu-la-sử.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến cô Chu-la-sử, con gái của đại-cư-sĩ Cấp-cô-độc.

Ông Cấp-cô-độc vốn là một Phật-tử rất thuần-thành, mua khu vườn của Thái-tử Kỳ-đà để xây cất chùa Kỳ-viên dưng cúng Đức Phật và Tăng-đoàn. Thuở nhỏ, ông cùng học một trường với ông Úc-gia, một người theo phái ngoại-đạo. Hai người thân nhau, nên ông Cấp-cô-độc gả con gái là Chu-la-sử cho con trai ông Úc, ở xa cách đó hơn một trăm hai mươi do-tuần. Từ khi về làm dâu nhà ông Úc, cô Chu thường khen ngợi công-đức của Đức Phật. Bà mẹ chồng mong-mỏi có dịp được yết-kiến Đức Phật.

Một hôm, bà mẹ chồng bảo con dâu, bà muốn cung-thỉnh Đức Phật và chư Tăng về nhà để cúng-dường. Cô Chu rất mừng, đem hương-hoa lên trên từng gác thượng, hướng về chùa Kỳ-viên, cầu nguyện rằng: “Bạch Thế-tôn, con là Chu-la-sử thành-tâm phụng-thỉnh Thế-tôn và chư Tăng ngày mai đến nhà con, để mẹ con kính dâng lễ-vật cúng-dường trai-tăng.” Nguyện xong, cô Chu tung các cành hoa lên không-trung, lạ thay, hoa bay theo gió thổi đến chùa Kỳ-viên, kết thành tràng, lơ-lửng giữa chánh-điện, nơi Đức Phật đang thuyết-pháp. Sau thời pháp, cư-sĩ Cấp-cô-độc đứng lên thỉnh Phật ngày mai đến thọ-thực tại nhà mình. Đức Phật từ-chối, bảo rằng Ngài vừa nhận lời đến thọ-trai ở nhà cô Chu-la-sử. Ông Cấp-cô-độc rất ngạc-nhiên, bạch với Đức Phật: “Bạch Thế-tôn, nhà của Chu ở cách thành Xá-vệ nầy hơn trăm do-tuần.” Nhưng Đức Phật bảo: “Nầy thiện-nam-tử, đúng vậy, nhưng một việc thiện dầu cách xa hàng trăm do-tuần, cũng vẫn sáng rõ lồ-lộ.” Rồi Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:

Người lành dầu ở thật xa,
Sáng lồ-lộ giống như toà Tuyết-sơn.
Chẳng ai nhìn kẻ ác, gần hơn,
Như mũi tên bay trong đêm tối.
(Kệ số 304.)

Sáng hôm sau, Đức Phật cùng chư Tăng ngồi trên nhiều chiếc thiên-xa, trang hoàng rực-rỡ, giữa tiếng nhạc trời, bay đi trong giây phút đã đến nhà ông Úc-gia. Toàn thể gia-đình ra nghinh-tiếp, ông Úc rất đổi tán-thán vẻ trang-nghiêm của Tăng-đoàn, nên thành-tâm dưng-cúng lễ-vật lên Đức Phật. Sau đó, cả nhà được ngồi nghe Đức Phật giảng Chánh-pháp. Đức Phật lưu lại đây trong bảy ngày dạy đạo, khiến cho cả nhà ông Úc đều quy-y Tam-Bảo.

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Chu-la-sử: tên người con gái của ông Cấp-cô-độc, tiếng Pali là Cùlasubhaddà.

– Cấp-cô-độc: danh-hiệu người đời tặng ông Anàthapindika, vì ông xuất nhiều tiền-bạc ra bố-thí, cứu-giúp người đơn-côi, nghèo-khổ

– Úc-gia: tên người ngoại-đạo nầy, tiếng Pali là Ugga.

– Do-tuần: đơn-vị đo chiếu dài đường-xá ở Ấn-độ xưa, vào khoảng hơn một cây-số. Tiếng Pali là yojana.

– Ngoại-đạo: Ngoại = ngoài. Ngoại-đạo là các môn-phái tu-hành chẳng theo đạo Phật. Vào thời Đức Phật, ở Ấn có sáu phái ngoại-đạo.

– Từng gác thượng = sân thượng, từng cao nhứt trong nhà.

– Phụng-thỉnh: thành-tâm kính mời.

– Trai-tăng: Trai = bữa ăn chay; Tăng = tu-sĩ Phật-giáo. Trai-tăng là dâng cúng thực-phẩm lên các tu-sĩ Phật-giáo.

– Tràng = các bông-hoa được xâu lại thành vòng hoa lớn.

– Chánh-điện: căn phòng lớn thờ Phật tại chùa.

– Cư-sĩ: Cư = ở, ở nhà; Sĩ = người. Cư-sĩ là người tu tại-gia theo đạo Phật, có đạo-đức cao và danh-tiếng lớn.

– Thọ-thực, Thọ-trai: ăn cơm chay.

– Thiện-nam-tử: Thiện = lành; Nam = đàn-ông; Tử = con trai. Thiện-nam-tử là người đàn-ông có lòng làm lành. Phái nữ gọi thiện-nữ-nhơn.

– Tuyết-sơn: dãy núi Hi-mã-lạp-sơn, Himalaya, cao nhứt thế-giới.

– Thiên-xa = chiếc xe trên trời. (Thiên = trời; Xa = xe.)

– Tán-thán: khen-ngợi.

– Tam-Bảo: Tam = ba; Bảo = quí-báu. Tam-Bảo là ba ngôi quí-báu: Phật, Pháp và Tăng ( = Đức Phật, Giáo-pháp và các đệ-tử của Phật.)

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc cô Chu-la-sử đem hương-hoa lên sân thượng, hướng về chùa Kỳ-viên cầu-nguyện, cung thỉnh Đức Phật đến nhà để cúng-dường trai-tăng. Truyện kể hai việc nhiệm-mầu: thứ nhứt là lời cầu-nguyện của cô Chu cảm-ứng đến Đức Phật ở xa, cách đó hơn trăm dặm; thứ hai là hôm sau, Đức Phật cùng chúng Tăng ngồi trên thiên-xa bay từ chùa Kỳ-viên đến nhà cô Chu. Hai việc lạ thường nầy có thể gây thắc-mắc, khiến nhiều người chẳng tin. Nhưng sự cầu-nguyện được cảm-ứng chính do tâm thành-khẩn của người cầu đã phát ra những luồng sóng tư-tưởng chuyển-động đến tâm thanh-tịnh của Đức Phật. Và sự di-chuyển trên không-trung là do sức thần-thông của Đức Phật. Ngày nay, hai việc đó dễ-dàng xảy ra nhờ ở vô-tuyến-điện truyền-tin và phi-cơ hàng-không, cũng chẳng có chi là mê-tín.

Tuy nhiên ý-nghĩa của Tích chuyện chẳng phải ở hai việc nhiệm-mầu đó, mà chính là lời đáp của Đức Phật với ông Cấp-cô-độc: “Việc thiện dầu ở xa cũng vẫn sáng rõ lồ-lộ.”Tại sao? Vì việc lành cũng như hương bay theo chiều gió, toả rộng khắp nơi, mọi người đều nhìn thấy; đấy là lời khuyên ta nên theo con đường lành.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 304:

Khác với Tích chuyện, bài Kệ chẳng chứa một sự nhiệm-mầu nào cả, mà lại nói lên một sự-thật mọi người đều biết: người lành dầu ở thật xa cũng vẫn sáng rõ được mọi người đều trông vào; còn kẻ dữ dầu có ở gần đi nữa, ai cũng lánh xa như tránh mũi tên độc.

HỌC TẬP:

1) Có mấy thái-độ cầu-nguyện sai-lầm cần nên tránh:

– đem hương-hoa, lễ-vật vào chùa, cầu cho con thi đậu, mình được buôn may bán đắt, đó chẳng khác gì đi lo-lót đấng thiêng-liêng.

– trong lời khấn, thường hứa sẽ ăn chay mấy tháng, hoặc phóng-sanh chim, cá, để tạ ơn, đó nào khác gì trả tiền công cho sự linh-ứng.

2) Cầu-nguyện đứng-đắn là tâm thành-khẩn hướng về người thân, rải lòng Từ đến người ấy, có nhiệt-thành mới có hiệu-quả: kẻ đang cầu thì an-tâm; thân-nhơn hưởng điển lành do tâm từ mang đến.

(222).- Tích chuyện Trưởng-lão độc-cư Y-kha.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến vị Tỳ-kheo thường sống một mình là Trưởng-lão Y-kha.

Trưởng-lão Y-kha rất ít khi gia-nhập vào các nhóm tỳ-kheo thảo-luận hay trò chuyện. Trưởng-lão thường im-lặng, đứng riêng một mình nơi vắng-vẻ. Trưởng-lão sống một mình, đi một mình, đứng một mình, mà ngồi, nằm cũng một mình. Nhiều vị tỳ-kheo khác chẳng thích thái-độ độc-cư đó, cho rằng Trưởng-lão chẳng có tinh-thần hoà-hợp, mới đến trình với Đức Phật. Đức Phật chẳng những chẳng hề quở-trách Trưởng-lão Y-kha, trái lại Ngài còn khen thái-độ sống một mình đó và bảo: “Nầy chư tỳ-kheo, biết sống một mình mà không buồn chán như tỳ-kheo Y-kha là điều đáng nên bắt chước!”

Rồi Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:

Ngồi một mình, nằm cũng một mình,
Đi một mình, lòng không buồn chán.
Tự mình điều-phục chính mình,
Sống vui thoải-mái cảnh rừng xanh.
(Kệ số 305.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Trưởng-lão: Trưởng = lớn; Lão = già. Chữ Trưởng-lão dành cho vị tu-hành đã lâu năm, chứng-đắc quả-vị. Tiếng Pali là Thera.

– Độc-cư: Độc = cô-độc, riêng một mình; Cư = ở. Độc-cư là lối sống riêng một mình nơi vắng-vẻ.

– Y-kha: đây là danh-hiệu mà các vị tỳ-kheo khác đặt cho Trưởng-lão độc-cư; tiếng Pali là Ekavìhàri (Eka = một; vihàri = đang cư-trú.)

– Hoà-hợp = có tinh-thần hoà-hợp thì thường tham-gia vào đời sống chung, sanh-hoạt chung, chẳng có sự tranh-cãi.

– Điều-phục = sửa đổi lại cho đúng, giữ đúng trong vòng kỷ-luật. Tự điều-phục là tự mình kềm chế lấy mình trong kỷ-luật tu-hành.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất giản-dị, thuật lại việc một vị Trưởng-lão sống độc-cư ngay trong chùa, giữa những bạn đồng-tu. Trưởng-lão đi một mình, đứng một mình, ngồi một mình, nằm cũng một mình, tâm luôn tỉnh-giác, lòng chẳng buồn chán. Các vị tỳ-kheo khác hiểu lầm cho đó là thái-độ thiếu hoà-hợp trong Tăng-đoàn, nhưng Đức Phật lại khen lối vui sống trong cảnh độc-cư đó và khuyên các tỳ-kheo nên bắt chước.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là nhờ biết luôn luôn quay vào bên trong, lòng hằng tỉnh-giác, người tu-hành theo dõi mọi biến-chuyển của tâm, khiến các vọng-tưởng thưa dần, sớm chứng được định-tâm.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 305:

Bài Kệ cũng rất giản-dị nhưng ý-nghĩa lại rất thâm-trầm, xin phân-tách từng câu:

1) Ngồi một mình, nằm cũng một mình: thông thường, ngồi một mình hay nhớ chuyện cũ, tưởng việc sắp đến; nằm một mình thì thả hồn mơ-mộng; đó chưa hẳn là đang sống một mình, còn đang “làm bạn” với các ý-nghĩ vẩn-vơ đó. Người biết sống một mình, khi ngồi, khi nằm, tâm giữ chánh-niệm, theo dõi nhịp thở ra vào đều-đặn, cùng với sức sống bên trong nhập lại “làm một”, đấy mới thật-sự là đang sống một mình.

2) Đi một mình, lòng không buồn chán: thông thường khi đi một mình, hay trông cho mau đến, dọc đường bị cảnh-vật bên ngoài lôi-cuốn, đó chưa hẳn là đi một mình, vì còn có nơi sắp đến, có cảnh-vật dọc đường, đi theo làm bạn đồng-hành. Chỉ khi bước chơn lên, đặt chơn xuống, tâm biết rõ mình đang đi, bao giờ đến, cảnh gì vui, chẳng màng đến, chỉ nương theo nhịp thở ra vào của chính mình mà di-chuyển, mới sớm đắc được định-tâm trong việc thiền-hành.

3) Tự mình điều-phục chính mình: tâm theo dõi mỗi cử-động trên thân, mỗi biến chuyển trong tâm, đó là tự-điều-phục, làm sao vọng-tưởng có dịp khởi lên được để đánh mất định-tâm.

4) Sống vui thoải-mái cảnh rừng xanh: tâm an-định trong cảnh sống một mình, đó là niềm vui nhẹ-nhàng, thoải-mái, kéo dài mãi, bất cứ ở nơi đâu, thì “cảnh rừng xanh, cảnh-giới Niết-bàn” chắc cũng chẳng hơn nhiều cảnh độc-cư thật-sự đó bao nhiêu đâu.

-ooOoo-

XXII.- Phẩm ĐỊA-NGỤC.

(223).- Tích chuyện bà Sơn-đà-ly.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến bà Sơn-đà-ly, người ngoại-đạo, muốn làm giảm thanh-danh của Đức Phật.

Thuở ấy, các nhóm ngoại-đạo nhận thấy các tín-đồ của họ lần lần ngả theo Phật-giáo, số phẩm-vật lợi-dưỡng của họ bị giảm bớt, nên mới tìm cách phá-hoại thanh-danh của Phật. Họ bàn mưu tính kế với một thiếu-phụ trẻ đẹp tên Sơn-đà-ly, để vu tội dâm cho Đức Phật.

Mỗi buổi chiều trời chạng-vạng, bà Sơn ăn mặc diêm-dúa, đi về hướng chùa Kỳ-viên, gặp ai hỏi thì đáp, vào chùa ngủ chung với Phật ở hương-phòng. Gần đến cổng, bà ta lại rẽ sang khu-vực nhóm ngoại-đạo. Đến sáng sớm ra về, dọc đường khoe với kẻ khác, đêm qua bà ở trong hương-phòng. Cứ như thế, được ba hôm, nhóm ngoại-đạo mướn bọn côn-đồ say rượu rình giết chết bà Sơn, đem thây chôn dưới đống rác phía sau chùa. Chúng sai người đến tố-cáo nơi đền Vua rằng, các tỳ-kheo đã giết bà Sơn-đà-ly để che-dấu tội dâm của Đức Phật.

Chưa kịp điều-tra sự thật cho rõ-ràng, các quan đã cho phép bọn ngoại-đạo đi khắp đường phố trong thành, rêu-rao tội các tỳ-kheo đã giết người dấu xác để che đậy sự dâm-loạn của tu-sĩ Cồ-đàm. Thấy dân-chúng xôn-xao, nhà Vua ra lịnh truy-tầm hung-thủ, bắt được bọn côn-đồ say rượu, họ thú-nhận đã lấy tiền của nhóm ngoại-đạo mà thi-hành tội-ác. Nhà vua liền bắt các kẻ chủ-mưu dẫn đi khắp thành, hô to lên: “Chính chúng tôi mới là kẻ giết người để vu-oan tội dâm cho tu-sĩ Cồ-đàm.” Thanh-danh của Đức Phật chẳng hề bị thương-tổn.

Nơi chùa Kỳ-viên, khi nghe các tỳ-kheo tường trình lại biến-cố vừa qua, Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:

Người nói dối phải sa địa-ngục,
Kẻ làm ác, chối: “chẳng có làm”,
Cả hai bị địa-ngục giam,
Ác-nghiệp đã làm, đồng khổ kiếp sau.
(Kệ số 306.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Sơn-đà-ly: tên người đàn-bà nầy, tiếng Pali là Sundarì.

– Lợi-dưỡng: Lợi = có ích-lợi; Dưỡng: nuôi-dưỡng. Lợi-dưỡng là các phẩm-vật, tiện-nghi cung-cấp cho người tu-hành để nuôi thân.

– Vu tội = đặt điều nói xấu khiến cho người khác mắc tội oan.

– Chạng-vạng: trời sắp tối.

– Hương-phòng: căn phòng có hương thơm dành cho Đức Phật, tiếng Pali là Gandhakutì.

– Cồ-đàm: họ của Đức Phật Thích-ca, tiếng Pali là Gotama.

– Truy-tầm hung-thủ = lùng kiếm kẻ đã gây tội-ác (giết người).

– Thanh-danh: danh-tiếng tốt; danh-dự.

– Điạ-ngục: Điạ = đất; Ngục = nhà giam tù. Theo giáo-lý nhà Phật, kẻ làm tội-ác nặng, khi chết đi, phải chịu hình-phạt nơi cõi u-tối, gọi là Điạ-ngục (tiếng Pali là Niraya). Điạ-ngục là một trong ba đường dữ, hai đường kia là quỉ đói và súc-sanh ( =thú-vật.)

– Ác-nghiệp = những việc ác đã làm tạo nên ác-nghiệp. (Nghiệp = những hành-động đã làm, gồm có việc làm, lời nói và ý-tưởng.)

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc các nhóm ngoại-đạo bị mất tín-đồ vì họ đi theo Phật-giáo, muốn vu tội dâm cho Đức Phật, nên họ nhờ bà Sơn-đà-ly giả làm người đi lại với Phật, rồi sai kẻ côn-đồ giết chết, dấu xác bà sau chùa. Về sau, nhà vua cho điều-tra ra sự-thật, bắt được kẻ chủ-mưu, truyền dẫn đi khắp thành, nói lên tội-ác của họ.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là lời Phật nói trong bài Kệ: kẻ nói dối sẽ bị sa điạ-ngục.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 306:

Bài Kệ nêu rõ tội nói dối, vu oan kẻ khác và chối tội, sẽ phải chịu hình-phạt sa vào điạ-ngục khi chết đi. Nhưng ngay trong hiện đời, kẻ quen nói dối chẳng bao giờ được sự tín-nhiệm của ai cả. Sự nói dối tạo nên ác-nghiệp, đeo theo người nối dối, phải chịu khổ trong kiếp tới nữa. Vì lẽ đó, giới-luật thứ tư của người tu tại-gia là cấm nói sai sự-thật, chỉ trừ một trường-hợp duy-nhứt là nói dối để cứu mạng người.

(224).- Tích chuyện Tôn-giả Mục-kiền-liên thấy ngạ-quỉ.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại tịnh-xá Trúc-lâm, gần thành Vương-xá, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến các ngạ-quỉ do Tôn-giả Mục-kiền-liên nhìn thấy.

Thuở ấy, Tôn-giả Mục-kiền-liên cùng với một vị Trưởng-lão, một hôm đi từ trên đỉnh núi Linh-thứu xuống, đến triền núi, bỗng thấy một con quỉ-đói, thân hình ốm-o như một bộ xương khô. Tôn-giả nhìn kỹ, lại thấy thêm bốn vị tỳ-kheo mặc áo vàng, đang oằn-oại trong ngọn lửa bốc cháy. Khi về đến tịnh-xá, Tôn-giả mới trình với Đức Phật những điều trông-thấy. Đức Phật bảo: “Vào thời Đức Phật Ca-diếp, có bốn tỳ-kheo đã phạm nhiều tội-ác, họ vừa mãn hạn trong điạ-ngục xong, nay phải chịu nốt hình-phạt trong kiếp ngạ-quỉ bị lửa đốt cháy.”

Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:

Nhiều người khoác áo cà-sa,
Tâm chưa nhiếp-phục, ác-tà nhiễm-ô.
Vì nghiệp dữ đẩy xô vào điạ-ngục,
Cảnh khổ nầy do ác-hạnh sanh ra.
(Kệ số 307.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Mục-kiền-liên: tên vị đại-đệ-tử của Phật, giỏi nhứt về thần-thông, tiếng Pali là Moggallàna.

– Tịnh-xá Trúc-lâm, thành Vương-xá: tu-viện nầy do vua Tần-bà-sa-la (Bimbisàra), nước Ma-kiệt-đà (Magadha), xây cất gần thủ đô Vương-xá (Ràjagaha), trong vườn trúc, để dâng-cúng Đức Phật. Tịnh-xá Trúc-lâm, tiếng Pali là Veluvana.

– Linh-thứu: chim kên-kên; ngọn núi giống hình chim kên-kên xoè hai cánh ra; nơi đây Đức Phật giảng Kinh Pháp-Hoa. Tên ngọn núi nầy, tiếng Pali là Gijjhakùta.

– Ngạ-quỉ = quỉ đói; một hạng chúng-sanh ở cõi dữ, thân ốm, bụng to, cổ nhỏ, luôn đói khát. Tiếng Pali là Peta.

– Phật Ca-diếp: Đức Phật Kassapa ra đời trước Đức Phật Thích-ca.

– Điạ-ngục = cõi u-tối, nơi các tội-nhơn chịu hình-phạt khi chết.

– Cà-sa: tiếng Pali là Kasaya, áo choàng bên ngoài, màu vàng, của tu-sĩ Phật-giáo.

– Nhiếp-phục: điều-phục, tuân theo kỷ-luật. Tâm nhiếp-phục chẳng còn chạy lang-thang nữa, biết tập-trung tư-tưởng và chú-tâm.

– Ác-tà: Ác = dữ; Tà = xiêng-xéo, chẳng đúng-đắn.

– Nhiễm-ô = Nhiễm = lây, dính dơ; Ô = ô-trọc; dơ-dáy.

– Ác-hạnh: Ác = xấu, dữ; Hạnh = hạnh-kiểm; Ác-hạnh là tánh-tình xấu- ác, thường gây ra tội-lỗi.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện nầy giống với Tích chuyện số (207), trang 607, Tập 3 nói về vì sao phải tái-sanh làm ngạ-quỉ, tức là quỉ đói. Ở Tích chuyện nầy, bốn vị tỳ-kheo vào thời Đức Phật Ca-diếp, vì chẳng giữ đúng giới-luật, tâm buông-lung, phạm nhiều tội-ác, nên sau khi mãn hạn ở điạ-ngục ra, phải sanh làm quỉ đói bị lửa đốt cháy. Theo kinh-sách, khi còn sống mà quá bỏn-xẻn, rít-róng, keo-kiệt, thì kiếp sau sẽ vướng vào đường dữ của quỉ đói, đó là ý-nghĩa của Tích chuyện.

Nhơn đây, xin nói thêm về sáu cõi trong Luân-hồi: chúng-sanh tùy theo nghiệp mà được sanh vào một trong sáu cõi, chia ra ba đường lành và ba đường dữ:

– Ba đường lành: (1) cõi Trời; (2) cõi Người; (3) cõi A-tu-la, tức là cõi thần-linh;

– Ba đường dữ: (4) điạ-ngục; (5) ngạ-quỉ; (6) súc-sanh.

Tùy theo nghiệp lành hay dữ, chúng-sanh cứ trôi lăn mãi trong sáu cõi của Luân-hồi. Tu chứng được quả-vị A-la-hán, mới dứt.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 307:

Bài Kệ nói về các vị tỳ-kheo tu-hành chẳng đứng-đắn, phạm giới-luật, gây tội-ác, nên phải sa vào điạ-ngục. Sau một đời ở điạ-ngục rất lâu, lại phải tái-sanh làm ngạ-quỉ, chịu đói-khát trong một đời nữa. Đó là ý-nghĩa răn-dạy của hai câu: “Vì nghiệp dữ đẩy xô vào điạ-ngục; Cảnh khổ nầy do ác-hạnh sanh ra.” (Chữ “cảnh khổ nầy” ám-chỉ cảnh khổ của loài ngạ-quỉ.)

(225).- Tích chuyện các tỳ-kheo tăng-thượng-mạn.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ nơi rừng Đại-lâm, xứ Tỳ-da-ly, trong kỳ một giảng-pháp, có đề-cập đến một nhóm tỳ-kheo tăng-thượng-mạn.

Thuở ấy, xứ Hoa-di đang bị đói-kém, thực-phẩm khan-hiếm, dân chúng phải chịu đói khổ. Có một nhóm tỳ-kheo đến bên bờ sông Lạc-thuỷ, sống qua mùa an-cư kiết-hạ ở xứ đó. Họ bàn-luận cùng nhau làm cách nào để được dân-chúng cúng-dường thực-phẩm đầy-đủ . Họ kháo lên rằng trong nhóm có người nầy đã chứng được Đạo, người kia đã đắc được Quả, vị nọ thường vào Thiền-định. Mỗi khi có dân-chúng đến viếng, họ thưa gọi nhau bằng các quả-vị, xưng-tụng đạo-hạnh lẫn nhau, khiến cho dân-chúng lầm tin là họ đã thật-sự chứng-đắc, nên bớt phần thực-phẩm trong nhà, đem dâng-cúng dồi-dào cho họ.

Mãn mùa an-cư, chư Tăng quay về tịnh-xá để đảnh-lễ Đức Phật. Ngài thăm hỏi chư tỳ-kheo, đã trải qua mùa hè ra sao, tu-tập như thế nào. Hầu hết các vị tu-sĩ đều xanh-xao vì thiếu ăn trong ba tháng; chỉ riêng có nhóm tỳ-kheo sống bên bờ sông Lạc-thủy xem ra hồng-hào, lại có phần mập-mạp ra. Đức Phật hỏi họ: “Xứ Hoa-di đang đói kém, chư Tăng ở bên sông Lạc-thủy có gặp khó-khăn trong việc ăn-uống không?” Họ thưa, không. Đức Phật gạn hỏi lý-do, họ liền thưa lại việc họ gọi nhau bằng các quả-vị, nên được dân-chúng tin-tưởng cúng-dường đầy-đủ. Đức Phật hỏi lại: “Trong số các ông đây, ai đã thật-sự chứng được Đạo, Quả?” Chẳng ai đáp có. Đức Phật liền quở trách họ: “Chưa chứng-đắc mà bảo là đã chứng-đắc, đó là tăng-thượng-mạn, tỳ-kheo phải dẹp bỏ lòng ngã-mạn mới chứng được Đạo, Quả.”

Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:

Thà nuốt hòn-sắt đỏ lửa hồng,
Hơn ăn vật-thực được cúng-dường,
Nếu chưa giữ được tròn giới-hạnh:
Nghĩ, nói, làm, xấu cả ba đường.
(Kệ số 308.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Tăng-thượng-mạn: Tăng = gia-tăng, thêm; Thượng = trên; Mạn = kiêu-căng, quá tự-cao. Tăng-thượng-mạn là nết xấu hay khoe-khoang, của kẻ tu-hành, chưa chứng-đắc quả-vị mà tự nhận đã chứng-đắc.

-Rừng Đại-lâm, xứ Tỳ-da-ly: khu rừng lớn, tiếng Pali là Mahàvana trong xứ Vesàli, miền Bắc của Ấn-độ xưa.

– Xứ Hoa-di, sông Lạc-thuỷ: phiên-âm và dịch gượng hai điạ-danh nầy; tiếng Pali là xứ Vaggis, sông Vaggumudà ( =khả-ái và an-vui.)

– An-cư kiết-hạ: An-cư = ở yên; kiết-hạ = qua mùa hè.An-cư kiết-hạ: ở Ấn-độ mùa hè, mưa dầm, côn trùng sinh-sản nhiều, tỳ-kheo chẳng đi ra ngoài để khất-thực, ngại đạp chết côn-trùng, lưu lại tịnh-xá lo tu-tập, sống nhờ sự cúng-dường của các tín-đồ. Cứ mỗi mùa an-cư như thế, người tu tăng thêm một tuổi-đạo, được gọi là lạp-tuế.

– Đạo, Quả: Đạo = đường, đường-lối, cách-thức tu-hành; Quả = kết-quả việc tu-hành đã thành-công. Có bốn Đạo: Tu-đà-huờn-hướng, Tư-đà-hàm-hướng, A-na-hàm-hướng, A-la-hán-hướng và bốn Quả là Tu-đà-huờn-quả, Tư-đà-hàm-quả, A-na-hàm-quả và A-la-hán-quả.

– Thiền-định: tu Thiền và đắc định; khi ngồi Thiền, tâm an-định

– Ngã-mạn: tự-cao, phách-lối, coi cái Ngã ( =Ta) của mình là hơn hết

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại mưu-mô của các tỳ-kheo tăng-thượng-mạn, gọi nhau bằng các quả-vị còn chưa xứng vì họ chưa chứng được, với mục-đích là để dân-chúng lầm họ đã đắc đạo mà cúng-dường nhiều. Họ bị Đức Phật quở về tội tăng-thượng-mạn đó.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 308:

Bài Kệ khuyên các vị tu-hành phải tự-xét đức-hạnh của mình có đầy-đủ mới dám nhận lễ-vật cúng-dường của các tín-đồ hiến-tặng.

1) Hai câu đầu: thà chịu đói-khát chớ chẳng lạm-nhận của cúng-dường. Tại sao? Vì người đi tu mà lạm-nhận, sẽ bị sa vào điạ-ngục., để phải nuốt hòn sắt nóng đỏ.

2) Hai câu chót nhắc nhở đến ba nghiệp: thân, miệng, ý có trong-sạch, thì giới-đức mới được tròn vẹn.

(226).- Tích chuyện thanh-niên Khê-ma-ca.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến chàng thanh-niên đẹp trai, tánh hay trăng-gió, tên là Khê-ma-ca.

Khê-ma-ca là con nhà giàu-có, gọi cư-sĩ Cấp-cô-độc bằng bác. Dáng-vóc đẹp trai, ăn nói duyên-dáng, nên Khê được nhiều phụ-nữ trong vùng mê-say, do đó Khê đã phạm nhiều lần tội thông-dâm với kẻ đã có chồng. Đã bị bắt quả-tang cả ba lần, nhưng nhà chức-trách nể-nang cư-sĩ Cấp-cô-độc, nên chẳng truy-tố Khê về tội gian-dâm. Nhưng lần phạm tội sau cùng, cư-sĩ Cấp-cô-độc bắt dẫn Khê-ma-ca đến trình Đức Phật. Đức Phật giảng cho Khê-ma-ca biết sự đồi-bại của tội tà-dâm và các hậu-quả nặng-nề mà gian-phu, dâm-phụ phải chịu.

Rồi Đức Phật nói lên hai bài Kệ sau đây:

Bốn điều bất-hạnh đang chờ-chực
Kẻ dể-duôi dâm-dật vợ người:
Mang tai-hoạ, ngủ đâu yên giấc,
Ba: bị trách; bốn: sa điạ-ngục.
(Kệ số 309.)

Mang tai-hoạ, phải đọa vào đường dữ,
Vui phút giây, đôi dâm-đãng phập-phồng;
Vua lại ban-hành cực-hình xét-xử.
Vậy, đừng phạm tiết những ai có chồng.
(Kệ số 310.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Khê-ma-ca: tên chàng thanh-niên nầy, tiếng Pali là Khemaka.

– Tánh hay trăng-gió: nghĩa bóng là ham thích thú-vui với phụ-nữ

– Cư-sĩ Cấp-cô-độc: vị cư-sĩ nổi tiếng nầy, thường giúp đỡ kẻ cô-đơn, cất chùa Kỳ-viên; tên tiếng Pali là Anàthapindika.

– Thông-dâm, gian-dâm, tà-dâm: Dâm = sự giao-hợp giữa trai gái Gian-dâm, tà-dâm là tội-phạm lấy vợ hay lấy chồng của kẻ khác. Giới thứ ba của người tu tại-gia là cấm tà-dâm, phải có lòng trung-thành với nhau trong tình-nghĩa chồng-vợ. Đối với kẻ xuất-gia, giới-luật cấm hẳn việc dâm-dục, phải sống độc-thân.

– Bắt quả-tang = bị bắt tại trận, bị bắt đủ bằng-cớ đang phạm tội.

– Nể-nang = vị bụng, vì kính-nể mà bỏ qua chẳng nói đến.

– Truy-tố = đưa ra xét xử để trị tội.

– Đồi-bại = xấu-xa, hư-hỏng đáng phỉ-nhổ.

– Gian-phu, dâm-phụ: Gian-phu = đàn-ông gian; Dâm-phụ =đàn-bà dâm-đãng.

– Bất-hạnh: Bất = chẳng; Hạnh = may-mắn. Bất-hạnh = chẳng may

– Dể-duôi = thiếu sự tự kềm-chế, dễ theo điều quấy.

– Dâm-đãng, Dâm-dật = chạy theo thú-vui thể-xác giữa trai gái.

– Cực-hình = hình-phạt nghiêm-khắc, nặng-nề.

– Phạm tiết: vi-phạm trinh-tiết; vì gian-dâm khiến mất sự trung-thành giữa vợ-chồng.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc chàng Khê-ma-ca đẹp trai, con nhà giàu, ăn nói có duyên, ham-thích việc gió-trăng, phạm tội thông-dâm cùng phụ-nữ có chồng. Chàng được người bác là cư-sĩ Cấp-cô-độc dẫn đến nghe Đức Phật chỉ-dạy về tội-ác tà-dâm cần tránh, để khỏi bị các hậu-quả tai-hại, trong đó có việc sa vào điạ-ngục là nặng-nề nhứt.

(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 309 và 310:

Hai bài Kệ kể ra những hậu-quả tại-hại của tội tà-dâm:

1) Hai câu đầu của bài Kệ số 309 báo bốn điều bất-hạnh:

2) Câu thứ ba nêu ra hai hậu-quả: (1) mang tai-hoạ, vì người chồng trả thù; (2) ngủ chẳng yên-giấc, vì cứ lo-sợ lộ tội; (3) bị trách phạt; (4) sa vào điạ-ngục.

3) Câu đầu của bài Kệ số 310: “Mang tai-hoạ, phải đoạ vào đường dữ, đó là sa vào điạ-ngục, chịu hình-phạt nặng và lâu ở cõi âm.

4) Câu “Vui phút giây, đôi dâm-đãng phập-phồng” cho thấy rõ thú-vui thể-xác rất ngắn-ngủi, đâu bù lại sự lo-lắng kéo dài, sợ lộ tội.

5) Câu ‘’Vua lại ban-hành cực-hình xét-xử” nói rõ hình-phạt ngay trong hiện-đời nầy, bị tù-tội theo luật-lệ trong xã-hội.

6) Câu chót là lời kết-luận: đừng phạm tội tà-dâm.

(227).- Tích chuyện vị tỳ-kheo xem nhẹ giới-cấm nhỏ.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến một vị tỳ-kheo hay khinh thường các giới-cấm nhỏ.

Thuở ấy, có một vị tỳ-kheo vô-ý cắt đứt một nắm cỏ, phạm vào giới-luật cấm đốn cây, nhổ cỏ, trong Tăng-đoàn. Mặc dầu vị ấy đã theo đúng thủ-tục thú-tội mình với bạn đồng-tu rồi, nhưng trong tâm vẫn còn thắc-mắc, lo-ngại mình đã trót vi-phạm giới-luật. Một vị tỳ-kheo khác nghe than-thở, mới bảo: “Một vi-phạm nhỏ vào giới-luật, theo đúng thủ-tục thú-tội xong, thì kể như giới-đức đã được thanh-tịnh rồi, có chi mà phải thắc-mắc. Vả lại, nhổ cỏ là việc nhỏ, chẳng quan-trọng gì, nè, tôi thử nhổ cho bạn xem.” Nói xong, vị ấy cúi xuống vừa bứt một nắm cỏ, miệng vừa cười.

Sự-việc đó đến tai Đức Phật. Ngài cho gọi vị tỳ-kheo cố-tình nhổ cỏ ấy đến quở trách và nói lên ba bài Kệ sau đây:

Ai vụng nắm cỏ kusa,
Bàn tay bị cỏ cắt đứt.
Cùng thế ấy, đã xuất-gia
Hạnh Sa-môn mà lơ-là
Ắt phải sa điạ-ngục.
(Kệ số 311.)

Một hành-động làm cho có lệ,
Giữ giới-đức bị ô-nhiễm tệ,
Sống Phạm-hạnh một cách khả-nghi,
Chứng được quả cao, đâu có lẽ!
(Kệ số 312.)

Có điều cần phải làm, làm ngay,
Làm hăng say, làm hết năng-lực.
Sống cuộc đời tu-sĩ phóng-dật,
Chỉ làm tăng cát bụi tung bay.
(Kệ số 313.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Khinh thường = xem nhẹ, chẳng coi là quan-trọng chi cho lắm.

– Cấm đốn cây, nhổ cỏ: đây là một giới-cấm Phật đặt ra, để tránh sự sát-hại các loại côn-trùng sống dưới mặt đất.

– Thủ-tục thú-tội: theo Luật-tạng, các gìới-luật được phân ra thành trọng-cấm và khinh-cấm. Các tội năng như tội dâm, tội sát-sanh nếu phạm phải sẽ bị trục-xuất khỏi Tăng-đoàn. Các tội nhẹ, như nhổ cỏ, chỉ cần thưa thiệt với vị tỳ-kheo đồng-tu, tỏ lòng sám-hối là đủ.

– Giới-đức thanh-tịnh: giữ cho hạnh-kiểm, thái-độ của mình được đứng-đắn, chẳng bị tội-lỗi làm dơ-bẩn.

– Cỏ kusa: một loại cỏ có mùi thơm, lá bén như lá xả.

– Xuất-gia: Xuất = ra khỏi; Gia = nhà, gia-đình. Bực xuất-gia là người đã rời bỏ cuộc sống trong nhà, đi tu.

– Hạnh Sa-môn: Hạnh = giới-hạnh, hạnh-kiểm; Sa-môn = tu-sĩ Phật-giáo. Chữ Sa-môn có ba ý-nghĩa: (1) cần-giả, siêng làm việc lành; (2) tức-giả, thôi chẳng làm việc ác; (3) bần-giả, nguyện chịu nghèo-khổ để tu-hành.

– Làm cho có lệ = làm qua loa, chẳng chú tâm vào; như tụng kinh, miệng đọc thuộc lòng mà bụng lo ra, nghĩ đến việc … đi chợ.

– Ô-nhiễm tệ: Ô = đen, dơ; Nhiễm = dính, lây; Tệ = xấu, dở.

– Phạm-hạnh: hạnh tu thanh-tịnh, nguyện dứt bỏ hẳn sự dâm-dục

– Khả-nghi: đáng ngờ-vực, khó tin được.

– Phóng-dật: buông-lung, chẳng siêng-năng, cố-gắng chi cả.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Ý-nghĩa của Tích chuyện là chớ xem thường mọi điều gìới-cấm, dầu nặng, dầu nhẹ, lúc nào cũng phải tuân-phục. Vì nếu tỏ ra lơ-là, giới-đức sẽ bị nhiễm-ô, mất sự thanh-tịnh.

(2) Ý-nghĩa của ba bài Kệ số 311, 312 và 313:

Bài Kệ số 311 khuyên ta chớ lơ-là trong việc giữ gìn giới-luật, vì nếu đã nguyện giữ mà lại phá giới, sẽ bị tội sa vào điạ-ngục. Hai câu: “Ai vụng nắm cỏ kusa, Bàn tay bị cỏ cắt đứt” so-sánh sự sắc-bén của giới-luật với lá cỏ bén kusa; nếu chẳng khéo cầm-giữ sẽ bị đứt tay.

Bài Kệ số 312 chê-trách kẻ tu-hành giữ giới-luật một cách lấy lệ, làm cho có chừng vậy thôi. Thái-độ lơ-là nầy dễ khiến giới-đức bị nhiễm-ô, mất cả sự thanh-tịnh. Hậu-quả là chẳng thể nào chứng được đạo-quả.

Bài Kệ số 313 khuyên nên tu-hành cho thật tinh-tấn:

– “Có điều cần phải làm, làm ngay”: điều chi? Đó là việc giữ gìn giới-đức thanh-tịnh để chóng đến ngày giác-ngộ và giải-thoát.

– “Làm hăng-say, làm hết năng-lực”: đấy là thái-độ tinh-tấn của người tu-hành đang gắng sức, chẳng có lúc nào lơ-là cả.

– “Sống cuộc đời tu-sĩ phóng-dật, Chỉ làm tăng cát-bụi tung bay” Cuộc đời phóng-dật, ở đây, là chẳng biết, chẳng chịu, khép mình vào kỷ-luật của giới-đức. Như thế chỉ làm tăng thêm tội-lỗi, ví như cát-bụi dơ-bẩn tung bay lên, nêu gương xấu cho dân-chúng.

HỌC TẬP:

Tuy Tích chuyện cùng ba bài Kệ nói đến các vị xuất-gia tu-hành, nhưng chúng ta cũng rút ra được những bài học nhỏ về việc giữ gìn giới-luật cho người tu tại-gia.

1) Người Phật-tử tu tại nhà phải giữ trọn ngũ-giới gồm có: (1) chẳng sát-sanh; (2) chẳng trộm-cắp; (3) chẳng tà-dâm; (4) chẳng nói dối; (5) chẳng uống rượu. Đây là năm điều căn-bản của việc tu-hành tại-gia, có là bao, khi so-sánh với 250 điều của tỳ-kheo và 350 điều của tỳ-kheo-ni của các bực xuất-gia.

2) Xin kể vài điểm lơ-là thường thấy trong việc giữ ngũ-giới:

– ăn chay là để tránh sát-sanh; tối đói bụng, nói “Tối rồi, Phật đi ngủ, mình cứ ăn tô phở nhỏ cho hết xót ruột!”

– cấm trộm-cắp là để diệt lòng tham; trong sở sẵn giấy trắng, cứ lấy vài tờ ra viết thơ cho bạn, có hề chi!

– cấm tà-dâm là để giữ lòng trong-sạch, lại thích làm bộ lỡ đụng nhè-nhẹ vào người đẹp khác phái!

– cấm nói dối là để tôn-trọng sự-thật; đi xa về kể chuyện thường thêm-thắt vài chi-tiết vẽ-vời ra, cho câu chuyện thêm … dòn!

– cấm uống rượu là để trí-óc được sáng-suốt; trong buổi tiếp-tân, pha rượu loảng nhâm-nhi chơi, chút đỉnh mà, nào có hại chi đâu!

(228).- Tích chuyện người vợ ghen-tuông.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến việc một người đàn-bà tánh hay ghen-tuông, hành-hạ một đứa tớ gái.

Thuở ấy ở nước Xá-vệ có một người đàn-bà tánh hay ghen-tuông, nghi chồng mình tằng-tịu với đứa tớ gái. Bà ta bắt đứa tớ, đem trói lại, tra khảo, rồi trong cơn ghen-giận, bà xẻo tai, cắt mũi nó, đem giam nó vào phòng tối. Sau đó, bà theo chồng đến chùa để lạy Phật.

Một lát sau, thân-nhơn của đứa tớ gái, đến nhà chủ để thăm nó, nghe tiếng nó rên la trong phòng tối, mới vào cổi trói cho nó và dẫn nó đến chùa, thưa trình cùng Phật. Bấy giờ Đức Phật đang giảng pháp cho đông-đảo tín-đồ ngồi nghe. Sau thời pháp, thân-nhơn đứa tớ gái trình Phật sự-thể vì sao nó bị hành-hạ tàn-nhẫn như thế. Rồi họ chỉ vào thân-thể tiều-tuỵ, bị đánh-đập nhiều vết thương-tích trên mặt của đứa tớ gái cho mọi người trông thấy. Đức Phật bảo: “Nầy chư thiện-nam, tín-nữ, chớ nên làm điều ác, vì điều ác dầu dấu kín mấy đi nữa, cũng lộ ra sau nầy và đem lại đau-khổ ray-rứt cho người đã làm ác. Còn việc thiện dầu âm-thầm làm, cũng mang lại hạnh-phúc và yên-vui.”

Rồi đó Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:

Việc ác, tốt hơn, nên bỏ dứt,
Trót làm sanh ray-rứt trong lòng.
Việc thiện, tốt hơn, làm lập-tức,
Chẳng hề hối-tiếc khi làm xong.
(Kệ số 314.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Ghen-tuông: nết xấu sợ chồng hay vợ mình thương-yêu kẻ khác

– Tằng-tịu = dan-díu tình-ái với kẻ khác một cách bất-chánh.

– Tra-khảo = đánh-đập để vặn hỏi.

– Thân-nhơn: người thân trong gia-đình.

– Tín-đồ: Tín = tin-tưởng; Đồ = đồ-đệ; học trò. Tín-đồ = kẻ theo đạo.

– Thiện-nam, tín-nữ: Thiện = lành; Tín = tin-tưởng; Thiện-nam = đàn-ông làm lành; Tín-nữ = đàn-bà tin đạo. Ở đây, chỉ các tín-đồ.

– Ray-rứt: gây sự đau-khổ kéo dài, ngấm-ngầm bên trong tâm.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc người vợ ghen-tuông đánh-đập, hành-hạ một đứa tớ gái vì nghi nó dan-díu tình-ái với chồng mình, rồi giam nó trong phòng kín. Nhưng nó được thân-nhơn giải-cứu, dẫn đến trình cùng Đức Phật. Đức Phật bảo: “Việc ác dầu dấu kín, sớm muộn chi cũng lộ, rồi gây đau khổ ray-rứt trong lòng người làm ác…”

Ý-nghĩa của Tích chuyện là đừng vì ghen-tuông mà có những hành-động ác, hãy dẹp bỏ ngay sự sân-hận.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 314:

Bài Kệ số 314, chẳng nói đến việc đánh ghen trong Tích chuyện, chỉ phân-biệt rõ hai hành-động thiện và ác:

1) Việc ác sanh ray-rứt trong lòng: Tại sao? Vì người làm ác hối-tiếc đã gây đau-khổ cho người khác, trong lòng ray-rứt chẳng nguôi. Do đó, phải dứt bỏ ngay việc ác, mỗi khi ác-ý vừa khởi lên trong tâm.

2. Việc thiện nên làm ngay lập-tức: Tại sao? Nên làm, vì việc thiện đem an-vui đến cho kẻ khác và cho mình. Phải làm ngay lập-tức, vì nếu chần-chờ làm việc thiện, cơ-hội đi qua, sẽ mất dịp tạo thêm nghiệp lành cho bản thân.

(229). Tích chuện càv Tỳ-kheo qua mùa an-cư nơi biên-ải.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến một nhóm Tỳ-kheo qua mùa an-cư tại một nơi xa-xôi gần biên-giới.

Thuở ấy, vào mùa an-cư kết-hạ, có một nhóm Tỳ-kheo đến cư-trú tại một vùng gần biên-giới. Trong tháng đàu của mùa mưa, họ được dân-chúng trong vùng cung-cấp đày-đủ thực-phậm và các tiện-nghi khác.

Vào tháng thứ hai, vùng biên-giới bị giặc-giã đến cướp-phá, nhiều người dân bị giặc bắt đi. Dân chúng vì phải lo phòng-vệ cửa ải, cứu-trợ người bị thương, xây-dựng lại các nơi bị tàn-phá, nên chẳng thể cung-ứng đầy-đủ cho chư Tăng. Vì thế, các tỳ-kheo đã trải qua mùa an-cư trong thiếu-thốn, nhưng chẳng vì thế mà việc tu-tập bớt phần tinh-tấn.

Mãn mùa an-cư, chư Tăng quay về chùa, tường-trình lên Đức Phật kết-quả tu-tập trong ba tháng hè vừa qua. Được biết chư Tăng gặp khó-khăn nơi biên-ải, Đức Phật bảo: “Nầy chư tỳ-kheo, rất khó mà có được đời sống vật-chất đầy-đủ đủ tiện-nghi mà chẳng cần phải cố-gắng. Cũng như dân-chúng vùng biên-thuỳ đã phòng-vệ thị-trấn của họ, gìn-giữ cả bên trong thành cũng như bên ngoài ải, tỳ-kheo phải biết phòng-hộ thân-tâm mình, cả bên trong lẫn bên ngoài.”

Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây, nhờ đó một số tỳ-kheo nỗ-lực tu-tập mà chứng được quả-vị A-la-hán:

Canh-phòng cửa ải ngoài biên-giới,
Phải canh cả trong thành ngoài ải.
Tự phòng-vệ mình, nào có khác.
Gặp dịp tốt học Pháp, chớ bỏ qua,
Lỡ dịp, đau buồn khi sa cõi ác.
(Kệ số 315.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

-Biên-ải, Biên-giới, Biên-thuỳ: Biên =ngoài bià, gần lằn ranh; Ải = đồn-binh giữ giặc; Giới, Thuỳ = ranh-giới. Biên-ải là đồn lính đóng ngoài biên-giới, để giữ vững biên-thùy cho đất nước.

– An-cư kiết-hạ: An-cư = ở yên; Kiết hạ = trải qua mùa hè. An-cư kiết-hạ là trong thời-gian ba tháng hè, mưa dầm, các tỳ-kheo chẳng ra ngoài đi khất-thực, vì ngại đạp chết côn-trùng đang sanh-sản nhiều, lưu lại nơi tịnh-xá để tu-tập, sống nhờ sự cúng-dường của tín-đồ.

– Phòng-vệ, phòng-hộ: Phòng = đề-phòng; Hộ =Vệ = giữ gìn.

– Cung-ứng = châu-cấp cho đầy-đủ; tiếp-tế.

– Thị-trấn: Thị = chợ, thành-thị; Trấn = trấn-giữ; nơi được canh chừng. Thị-trấn là thành-phố được tăng-cường việc phòng-thủ.

– A-la-hán: quả-vị thứ tư, cao nhứt của bực tu-hành đã diệt hết các phiền-não, vượt các chướng-ngại, lìa bỏ mọi ham muốn, chứng được vô-sanh ( = chẳng phải tái-sanh trong Luân-hồi nữa), sống tự-tại trong cảnh-giới Niết-Bàn. Tiếng Pali là Arahant.

– Pháp = Chánh-pháp, lời dạy của Phật ghi trong Kinh-kệ, chỉ rõ đường-lối tu-hành để được giác-ngộ và giải-thoát.

– Cõi ác: ba đường dữ trong Luân-hồi: điạ-ngục, ngạ-quỉ, súc-sanh.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại mùa an-cư kiết-hạ của một nhóm tỳ-kheo đến sống gần biên-giới. Họ gặp phải khó-khăn trong vấn-đề ăn-uống, vì dân-chúng phải lo phòng-vệ cửa ải, nên chẳng cung-ứng đủ thực-phẩm. Đức Phật nhơn chuyện đó, dạy các tỳ-kheo phải biết phòng-hộ thân-tâm mình, cũng như dân-chúng phòng vệ cửa ải, bên trong cũng như bên ngoài.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là việc phòng-hộ thân-tâm phải luôn luôn gìn-giữ và điều-phục tâm bên trong cũng như các căn bên ngoài.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 315:

Bài Kệ số 315 khuyên ta nên phòng-hộ thân-tâm ta cũng như dân-chúng vùng biên-giới phòng-vệ cửa ải, cả trong thành lẫn ngoài ải. Như thế, người tu-hành phải, bên ngoài điều-phục các căn, bên trong tỉnh-giác, giữ chánh-niệm trong tâm. Nhưng cách phòng-vệ hữu-hiệu và bền-lâu nhứt, chính là việc học-tập Chánh-pháp; nếu có dịp được nghe Pháp mà bỏ qua, về sau hối-tiếc đã quá muộn, khi đau-khổ phải sa vào ba đường ác của cõi Luân-hồi.

HỌC TẬP:

1) Điều-phục các căn như thế nào? Mắt đừng chạy theo cảnh; tai đừng mê âm-thanh; mữi chớ quá thích mùi thơm; lưỡi chớ thèm vật ngon-ngọt quá; tay chớ ham sờ vật êm-láng; để giữ cho tâm yên.

2) Điều-phục tâm như thế nào? Luôn giữ chánh-niệm theo hơi thở ra vào nhẹ-nhàng, khiến cho tâm an-tịnh, chẳng vọng-động.

(230).- Tích chuyện nhóm loã-thể Ni-kiền-tử.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tai chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến nhóm tu-sĩ loã-thể Ni-kiền-tử.

Thuở ấy có nhóm tu-sĩ loã-thể Ni-kiền-tử đi khất-thực, tay cầm bình bát có miếng vải nhỏ che bên trên, mình chỉ quấn khố che hạ-bộ. Các vị tỳ-kheo trông thấy, bảo: ‘Các vị tu-sĩ Ni-kiền-tử có khố che phiá dưới, trông ra có phần trang-nhã hơn các ẩn-sĩ loã-lồ.” Các tu-sĩ Ni-kiền-tử đáp: “Chúng ta che phiá dưới thân-thể, chẳng phải là vì sợ xấu-hổ đâu. Chúng ta lấy vải đậy bình bát lại là để tránh bụi-bặm, vì trong bụi-bặm vẫn có sự-sống.”

Khi trở về chùa, các vị tỳ-kheo trình lại Phật những điều các tu-sĩ Ni-kiền-tử đã nói. Đức Phật bảo: “Nầy chư Tăng, bọn Ni-kiền-tử chỉ che hạ-bộ mà chẳng biết thẹn ở chỗ đáng thẹn, họ lại che bình bát, thẹn ở nơi chẳng đáng thẹn. Vướng-mắc tà-kiến như thế, họ sẽ sa vào đường dữ của Luân-hồi.”

Rồi Đức Phật mới nói lên hai bài Kệ sau đây, vài người trong nhóm Ni-kiền-tử nghe hiểu được, mới xin quy-y Tam-Bảo:

Chẳng đáng hổ-ngươi mà lại thẹn,
Việc đáng thẹn mà lại trơ-trẻn.
Tà-kiến đó, chúng-sanh nào ôm-ấp
Sẽ đoạ vào cõi thấp, khi tái-sanh.
(Kệ số 316.)
Chẳng đáng sợ mà lại hãi-hùng,
Việc đáng ghê mà lại dửng-dưng.
Tà-kiến đó, chúng-sanh nào ôm-ấp,
Sẽ đoạ vào cõi thấp, khi tái-sanh.
(Kệ số 317.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Loã-thể Ni-kiền-tử: Loã = loã-lồ, chẳng che-đậy; Thể = thân-thể; Ni-kiền-tử = phiên-âm tên nhóm tu-sĩ loã-thể, tiếng Pali là Nigantha.

– Khất-thực: Khất = đi xin, Thực = ăn. Theo giáo-lý nhà Phật, các tỳ-kheo theo hạnh khất-sĩ, hạ mình xuống đi xin ăn, để diệt lòng tự-ái và có dịp gặp dân-chúng để chỉ-dạy Chánh-pháp cho họ.

– Bình bát: tô chén lớn như cái nồi, bằng sành, bằng gỗ hay bằng đồng, dùng đựng thức-ăn khi xin được.

– Khố = mảnh vải nhỏ và dài, che phiá dưới, chẳng mặc quần.

– Hạ-bộ: Hạ = dưới, Bộ = bộ-phận. Hạ-bộ tức là bộ-phận sanh-dục

-Tà-kiến: Tà = xiêng-xéo; Kiến = ý-tưởng; Tà-kiến là ý-tưởng sai-lầm

– Đường dữ: Luân-hồi có ba đường dữ, điạ-ngục, ngạ-quỉ, súc-sanh

– Quy-y Tam-Bảo: Quy-y = Quy = trở về; Y = nương-tựa; Tam =ba; Bảo = ngôi báu. Đó là quay về nương-tựa nơi Phật, Pháp và Tăng.

– Hổ-ngươi = thẹn, mắc-cở.

– Trơ-trẻn: chẳng biết thẹn, chẳng biết mắc-cở, chai-lỳ lắm!

– Hãi-hùng: sợ-hãi lắm, ghê-sợ nhiều.

– Dửng-dưng = chẳng hề cảm-động, chẳng động tâm, trơ-trơ.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện mô-tả thái-độ chẳng đứng-đắn của nhóm loã-thể Ni-kiền-tử, chẳng thẹn chỗ đáng thẹn, lại thẹn chỗ chẳng đáng thẹn. Đức Phật dạy, thẹn và chẳng biết thẹn như thế, cùng với sự sợ và chẳng sợ đúng chỗ là đang vướng phải hai tà-kiến, sẽ đưa ta vào cõi thấp trong Luân-hồi, khi tái-sanh.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là phải gạt bỏ các tà-kiến, biết thẹn và sợ-hãi, khi lỡ làm việc ác.

(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 316 và 317:

Hai bài Kệ giống nhau ở hai câu chót: đưa ta tái-sanh vào đường thấp, và khác nhau ở chỗ thẹn và sợ chẳng đúng chỗ. Vướng vào hai tà-kiến thẹn và sợ chẳng đúng chỗ nầy, là vì chẳng thông-hiểu Chánh-pháp, chưa phân-biệt rõ điều chánh với điều tà.

HỌC TẬP:

Ứng-dụng: (1) biết thẹn khi lầm-lỗi; chẳng hề thẹn vì: màu da, nòi-giống, tật-nguyền, nghề lao-động, cảnh nghèo-khó. (2) biết sợ các đìều ác mà tránh; chẳng hề sợ vì: ma nhát, bạo-quyền, sự giàu-sang của kẻ khác cùng sự kỳ-thị.

(231).- Tích chuyện nhóm người dị-giáo.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Cây Sung, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến nhóm người theo Dị-giáo.

Thuở ấy, những người theo Dị-giáo thường dạy con cháu họ, chớ nên chơi đùa với những đứa trẻ theo Phật-giáo, chẳng được vào chùa Kỳ-viên, chẳng nên chào-kính các vị tỳ-kheo. Một hôm, lũ trẻ nô-đùa ngoài sân chùa, có một số khát nước, muốn nhờ các trẻ theo đạo Phật, vào chùa lấy nước đem ra cho chúng giải-khát. Một đứa đi vào chùa, gặp Đức Phật, Ngài bảo nó cứ trở ra mời bọn trẻ vào chùa mà uống nước. Cả bọn đồng vào trong. Sau khi chúng đã uống xong, Đức Phật hỏi han từng đứa và nhơn đó tùy theo sự hiểu-biết mỗi đứa mà giảng pháp cho chúng nghe. Bọn trẻ nghe hiểu, tỏ lòng quy-ngưỡng ba ngôi báu: Phật, Pháp và Tăng.

Về nhà, mấy đứa trẻ rất thích-thú, kể lại cho cha mẹ chúng nghe. Cha mẹ chúng phần đông ít học, hoảng-sợ lên: “Thôi rồi, trẻ con nhà mình bị Phật quyến-rũ, từ nay mình sẽ mang tiếng là phản-đạo mất rồi.” Họ khóc lên, kể lể; người hàng xóm nghe được, khuyên họ dẫn con lên chùa gặp Đức Phật. Họ nghe lời, đến chùa Kỳ-viên, lại được Đức Phật giảng cho nghe giáo-lý rồi Ngài nói lên hai bài Kệ sau đây, khiến cho cả cha con người theo Dị-giáo đều xin quy-y Tam-Bảo:

Chẳng sái-quấy lại bảo là sai,
Việc lỗi-lầm, lại bảo đúng ngay.
Tà-kiến đó, chúng-sanh nào ôm giữ
Sẽ sa vào cõi dữ, khi tái-sanh.
(Kệ số 318.)

Sai, bảo là sai.
Phải, bảo là phải.
Ai biết giữ chánh-kiến nầy
Vào cõi lành, khi sanh lại.
(Kệ số 319.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Dị-giáo: Dị = khác; Giáo = tôn-giáo. Dị-giáo là tôn-giáo khác với Đạo Phật; tạm dịch từ tiếng Pali là Titthi.

– Chùa Cây Sung: tạm dịch từ tiếng Pali là Nigrodàràma, (Nigrodha là loại cây lớn như cây da, có trái giống trái sung.)

– Quy-ngưỡng: Quy = quay về; Ngưỡng = ngưỡng-mộ, kính-trọng.

– Tam-Bảo = Ba ngôi báu: Tam = ba; Bảo = quí-báu. Tam-Bảo là ba ngôi quí-báu: (1)Đức Phật, bực đại-giác, (2)Chánh-pháp, lời Phật dạy đường-lối giác-ngộ và giải-thoát;(3) Tăng-già, các đệ-tử tu-hành theo đúng đường-lối của Phật.

– Quy-y: Quy = quay về; Y = nương-tựa. Quy-y là tìm về nương-tựa tinh-thần vào ngôi Tam-bảo.

– Cõi dữ: có ba cõi dữ trong Luân-hồi: (1) điạ-ngục, ngạ-quỉ ( =quỉ đói), súc-sanh ( =thú-vật). Cõi dữ, đường dữ, tiếng Pali: Duggati

– Cõi lành: ba cõi lành: (1) cõi Người; (2) cõi A-tu-la, thần-linh (Asura); (3) cõi Trời. Cõi lành, đường lành, tiếng Pali là Suggati.

– Chánh-kiến: Chánh = chơn-chánh, đứng-đắn; Kiến = kiến-thức. Có chánh-kiến là có kiến-thức ( = nghe thấy, hiểu-biết) thật đúng-đắn. Chánh-kiến đứng đầu trong Bát-chánh-đạo, con đường Thánh đưa ta đến cảnh-giới Niết-bàn. (Pali: Sammaditthi = Chánh-kiến.)

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại cơ-duyên rất may-mắn của nhóm người ngoại-đạo theo Dị-giáo, được Đức Phật dạy cho Chánh-pháp, biết rõ con đường giác-ngộ và giải-thoát. Họ bỏ được tà-kiến mê-tín, noi theo Chánh-kiến mà quy-y Tam-Bảo.

Ý-nghĩa của Tích chuyện: rời bỏ tà-kiến của Dị-giáo để theo Chánh-kiến của đạo Phật giải-thoát, đó chẳng phải là “phản-đạo”, mà là sự sáng-suốt và can-đảm biết thoát khỏi sự ràng-buộc của mê-tín.

(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 318 và 319:

Hai bài Kệ nêu rõ sự khác nhau giữa tà-kiến và chánh-kiến: sai, bảo là sai; đúng, bảo là đúng. Tà-kiến đưa ta vào cõi dữ, chánh-kiến dắt ta theo đường lành. (Tưởng ta nên học thuộc lòng hai bài Kệ nầy).

-ooOoo-

XXIII.- Phẩm VOI.

(232).- Tích chuyện bà Mã-can-di-hoa.

Tích chuyện nầy hơi giống với Tích chuyện số (15): Hoàng-hậu Sa-mã-hoa.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại tu-viện Cô-si-ta, nước Cô-sâm-bi, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến bà Mã-can-di-hoa.

Thuở ấy ở nước Cô-sâm-bi có một thiếu-nữ tên là Mã-can-di-hoa nhan-sắc rất lộng-lẫy, được nhiều vương-tôn, công-tử gấm-ghé. Cha cô còn chưa ưng gả cho ai, đến khi ông trông thấy dáng-mạo trang nghiêm của Đức Phật, trên đường khất-thực, ông liền ngỏ lời cầu-thân cùng Đức Phật. Đức Phật từ chối và bảo: “Đối với tấm thân bên trong đầy chất dơ-bẩn, nước tiểu và phẩn, ta chẳng muốn để chơn ta đụng phải.” Trước lời nói thẳng-thắn của Đức Phật, cha mẹ cô Mã-can-di-hoa sực tỉnh-ngộ, hiểu được lẽ vô-thường của sắc-thân, chứng được quả-vị A-na-hàm; nhưng cô Mã bị chạm tự-ái, rất căm-hận Đức Phật, nguyện sẽ trả thù.

Về sau, cô Mã được chọn vào hoàng-cung, vua Ưu-đề-na phong làm vương-phi. Khi hay tin Đức Phật và chư Tăng đến xứ Cô-sâm-bi, cô Mã liền cho thuê nhiều tay du-đãng cứ đi theo sau lưng Đức Phật, dùng lời thô-tục mà nhục-mạ Ngài. Tôn-giả A-nan chịu chẳng nổi các lời bỉ-ổi, hỗn-láo với Đức Phật như thế, mới xin Phật hãy rời thành Cô-sâm-bi đi sang xứ khác. Đức Phật từ-tốn nói: ‘Nầy A-nan, đi sang nơi khác, rồi cũng bị nhục-mạ nữa, thì phải làm sao? Chi bằng, cứ giải-quyết vấn-đề khó-khăn ngay tại đây. Cũng như con voi xông-pha tên đạn tứ phía ngoài mặt trận, ta vẫn thản-nhiên kiên-nhẫn hứng chịu các lời nói nhục-mạ kia, từ cửa miệng của bọn người còn thiếu đạo-đức!”

Rồi Đức Phật nói lên hai bài Kệ sau đây, khiến cho bọn du-đãng biết hối lỗi mà tự giải-tán:

Như voi chiến xông ngoài trận-mạc,
Hứng lằn tên, mũi đạn tơi-bời,
Như-Lai chịu phỉ-báng mọi lời
Của những người vẫn còn đức bạc.
(Kệ số 320.)

Voi, ngựa thuần mới đem dự hội.
Con nào nhuần-nhã được Vua cởi.
Quí nhứt, người đã luyện tinh-thông
Nhẫn-nhịn chịu mọi lời chửi-bới.
(Kệ số 321.)

Ngựa rặc giống, la con thuần nết,
Đại-tượng ngà dài, đều quí hết.
Nhưng tối-thượng lại chính là người
Trang-nghiêm giới-đức, tự điều-tiết.
(Kệ số 322.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Mã-can-di-hoa: tên người đẹp nầy, tiếng Pali là Màgandiyà.

– Tu-viện Cô-si-ta, nước Cô-sâm-bi: tên ngôi chùa nầy, tiếng Pali là Ghositàràma, ở nước Kosambi, thuộc miền Bắc Ấn-độ xưa.

– Vương-tôn = cháu vua; Công-tử = con quan.

– Gấm-ghé: muốn xin cưới làm vợ.

-Cầu-thân: nghĩa rộng ở đây là muốn gả con để làm thân với nhau

– Tỉnh-ngộ: Tỉnh = hết mê; Ngộ = hiểu được Sự-thật. Người tỉnh-ngộ là người nhận ra trước mình lầm, nay biết được Sư-thật.

– Sắc-thân = tấm thân vật-chất.

– Vô-thường: chẳng bền-chặt, hay biến-đổi để đi đến hoại-diệt

– A-na-hàm: quả-vị thứ ba, còn được dịch là Bất-lai, chẳng phải bị tái-sanh vào cõi người nữa, sanh lên trời, tu tiếp để chứng A-la-hán. A-na-hàm, tiếng Pali là Anàgàmi.

– Vua Ưu-đề-na: tên vua xứ Cô-sâm-bi, tiếng Pali là Udena.

– Vương-phi = vợ vua.

– Du-đãng = côn-đồ, bọn du-côn hay phá làng, phá xóm.

– Từ-tốn: nói-năng chẫm-rãi, điềm-đạm, chẳng hề tức-giận.

– Thản-nhiên: tâm yên-tịnh, lời nói hiền-hoà, lòng chẳng hờn-giận, dửng-dưng.

– Kiên-nhẫn = bền-chí.

– Nhục-mạ = nói lời xấu-ác nặng-nề để người nghe buồn-lòng.

– Giải-tán = bỏ đi chỗ khác.

– Trận-mạc = bãi chiến-trường, nơi đánh giết nhau.

– Như-Lai: tiếng Đức Phật tự xưng khi nói với kẻ khác; tiếng Pali là Tathàgata.(Như = như thế; Lai = đến; Người đã đến đây như thế vậy.)

– Đức bạc = thiếu đức-hạnh, đạo-đức còn mỏng-mảnh.

– Thuần = Nhuần-nhã = được luyện tập kỹ-lưỡng rồi, dễ sai-khiến.

– Rặc giống = (loài thú) chẳng lai giống, thuần một nòi, rất quí.

– La = giống lai giữa ngựa và lừa.

– Đại-tượng = con voi lớn.

– Ngà = một cặp răng nanh dài của voi, màu trắng đục, rất đẹp.

– Tối-thượng: Tối = hết sức, bực nhứt; Thượng = cao, trên. Tối-thượng là cao-quí nhứt, chẳng chi hơn được.

– Tự điều-tiết: Tự = chính mình; Điều = điều-phục, điều-khiển; Tiết = tiết-chế, chế-phục. Tự điều-tiết là tự mình biết giữ lấy kỷ-luật nghiêm-khắc, chẳng để sơ-hở mà phạm lỗi.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc bà Mã-can-di-hoa căm-hận Đức Phật đã chẳng khen bà đẹp, lại thẳng-thắn nói lên Sự-thật về tấm thân bất-tịnh của bà, bên trong chứa nhiều chất dơ-bản, nên bà mướn du-đãng theo chủi-rủa Đức Phật. Ngài thản-nhiên, kiên-nhẫn chịu đựng các lời nhục-mạ thô-tục của bọn côn-đồ mất dạy.

Ý-nghĩa của Tích chuyện dạy ta phải biết nhẫn-nhục khi nghe lời mắng-nhiếc, chẳng hờn-giận, chẳng để dạ thù-oán.

(2) Ý-nghĩa của ba bài Kệ số 320, 321 và 322:

Cả ba bài Kệ đều dạy ta nên nhẫn-nhục, nghe lời nhục-mạ mà chẳng khởi tâm lên tức-giận, chẳng hề để dạ căm-thù. Thái-độ nhẫn-nhục nầy được Đức Phật so-sánh với sự dõng-mãnh của con voi trận, sẵn-sàng hứng chịu lằn tên, mũi đạn chẳng chút nao-núng.

Ý-nghĩa của các bài Kệ khuyên ta nên cố-gắng tập-luyện cho tinh-thông sự nhẫn-nhục; đây là một đức-tánh rất quí-báu cho người tu-hành: tự chiến-thắng được lòng sân-hận bên trong tâm mình, hơn là cố tranh thắng với người đang làm nhục mình. Tự chiến-thắng đó mới là chiến-thắng “tối-thượng”, vẻ-vang nhứt.

(233).- Tích chuyện người quản-tượng.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến một vị tỳ-kheo trước kia làm nghề quản-tượng.

Thuở ấy, có hai vị tỳ-kheo đang đi dọc bờ sông A-xi-ra, trông thấy một người quản-tượng dẫn voi xuống sông tắm. Con voi lún bùn, rút chơn lên chẳng được, người quản-tượng lúng-túng chẳng biết làm thế nào để kéo voi ra giữa dòng. Một vị tỳ-kheo, nguyên trước làm nghề quản-tượng, cười bảo vị đồng-tu, mách cách thúc voi sao cho nó biết rút chơn khỏi bùn. Người quản-tượng nghe thấy, liền làm theo lời chỉ-dạy, con voi mới ngoan-ngoãn ngâm mình xuống nước.

Khi về đến tịnh-xá, vị tỳ-kheo thuật lại tài khéo điều-phục voi của bạn mình lên Đức Phật nghe. Đức Phật bảo: “Nầy chư Tăng, chẳng phải khoe tài khéo huấn-luyện voi mà kẻ tu-hành sớm đến được cảnh-giới Niết-bàn. Chỉ những ai khéo tự huấn-luyện mình mới sớm chứng được cảnh vô-sanh, an-lạc ấy.”

Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:

Chẳng phải cởi voi, ngựa ấy lên đàng,
Mà ta đến được Niết-bàn vô-sanh.
Chỉ có người tự-ngã khắc-phục
Đến được mục-tiêu, nhờ thuần-thục.
(Kệ số 323.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Quản-tượng: Quản = cai-quản, điều-khiển; Tượng = voi lớn. Người quản-tượng là kẻ chăn voi, huấn-luyện voi.

– Sông A-xi-ra: tên con sông nầy, tiếng Pali là Aciravatì.

– Mách: chỉ bảo cho.

– Điều-phục: Điều = điều-khiển; Phục = thâu-phục. Điều-phục voi là huấn-luyện voi, bắt nó theo lịnh của mình.

– Cảnh-giới Niết-bàn: Cảnh-giới = nơi, vùng, trong giới-hạn; Niết-Bàn: tiếng Phạn là Nirvana, tiếng Pali là Nibbana; đây là tâm-trạng (chớ chẳng phải một cõi nào trong không-gian) của bực tu-hành đã diệt xong các phiền-não, chướng-ngại, lìa mọi ham-muốn, chứng được vô-sanh ( =chẳng còn tái-sanh trong Luân-hồi), nay sống an-vui.

– Mục-tiêu: Mục = con mắt; Tiêu = cái mốc. Có nghĩa là mục-đích.

– Tự-ngã khắc-phục: Khắc-phục = thắng được và bắt theo lịnh của mình; Tự-ngã = cái “Ngã”, cái “Ta” của mình. Người đã khắc-phục tự-ngã của mình là người đã quên mình, xem thân-tâm nầy tạm-bợ, dẹp hết các phiền-não và tuân theo giới-luật đầy-đủ.

– Thuần-thục = nhuần-nhã, rành-rẽ lắm rồi.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc một vị tỳ-kheo, trước làm nghề quản-tượng, nhơn đi dọc bờ sông, thấy một người chăn voi lúng-túng chẳng biết làm sao thúc-đẩy voi ra khỏi vũng bùn, để ra sông tắm. Vị ấy cười nói với bạn đồng-tu cách-thức phải điều-phục voi làm sao cho nó ngoan-ngoãn theo lịnh mình. Người chăn voi nghe được, làm theo, dắt voi khỏi chỗ sa lầy. Khi Đức Phật nghe được sự-việc đó, Ngài quở vị tỳ-kheo cựu-quản-tượng và dạy rằng: “Chẳng phải nhờ điều-phục voi mà ta đến Niết-Bàn được, chỉ những ai biết điều-phục tự-ngã của chính mình mới chứng được Niết-bàn an-vui và tự-tại.”

Ý-nghĩa của Tích chuyện: chớ xao-lãng việc khắc-phục tự-ngã của mình, có tuân-hành giới-luật, nỗ-lực tu-tập mới chứng được Niết-Bàn.

(2).- Ý-nghĩa của bài Kệ số 323:

1) “Chẳng phải cởi voi, ngựa ấy lên đàng, Mà ta đến được Niết-Bàn vô-sanh”: vì Niết-bàn chẳng phải là nơi chốn, mà là một tâm-trạng của mình đã dứt hết phiền-não, cho nên chẳng có voi, có ngựa, hay phương-tiện chuyên-chở nào, đưa ta đến cảnh-giới ấy được.

2) “Chỉ có người tự-ngã khắc-phục”: người khắc-phục được tự-ngã là người làm chủ được thân-tâm mình, chẳng xem cái”Ta”, và những sự-vật “của Ta” là quí nữa.

3) “Đến được mục-tiêu, nhờ thuần-thục”: mục-tiêu nào? Đó là cảnh-giới an-vui tự-tại của Niết-bàn, khi tâm thanh-tịnh đã dứt xong các phiền-não, vượt mọi chướng-ngại và lià mọi ham-muốn.

(234).- Tích chuyện người cha già bị các con ruồng-bỏ.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại Tịnh-xá Trúc-lâm, gần thành Vương-xá, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến một cụ-già bị bốn người con trai ruồng-bỏ.

Thuở ấy, ở nước Xá-vệ có một vị Bà-la-môn nhà giàu-có, sanh được bốn người con trai; gia-tài lên đến tám mươi vạn đồng. Khi mỗi người con trai lập gia-đình riêng, cụ tặng cho mười vạn đồng. Đến khi bà vợ chết, cụ còn được bốn mươi vạn. Các con mới thưa, cha nay già-cả quá rồi, cứ đem số tiền chia cho chúng con, chúng con sẽ thay phiên nhau phụng-dưỡng cha. Cụ nghe lời, đem của cải ra phân-chia hết cho các con. Rồi cụ về ở chung với người con cả. Chưa đầy một tháng, người con dâu lớn đã bảo: “Cha có cho con trai trưởng của cha thêm vài ngàn đồng nào đâu, mà sao cha cứ ở lì tại đây mãi vậy? Bộ cha chẳng biết đường đi đến ở nhà mấy chú khác hay sao?” Nghe lời nói đó, tội-nghiệp! cụ già tủi thân đi sang nhà người con thứ. Cũng vậy, chưa được ba tuần-lễ, người con dâu thứ lại cũng nói với cụ những lời tương-tợ như lời của chị dâu lớn. Cụ lại dọn sang nhà đứa con thứ ba, rồi đến đứa con út, mà cũng chẳng được đối-xử khá hơn chút nào. Buồn lòng, cụ mang một cái bát, chống một cây gậy, đi xin ăn, lần bước đến chùa, vào thưa với Đức Phật.

Sau khi nghe cụ kể-lể nỗi lòng, bị các con lấy hết tiền, rồi hất-hủi, Đức Phật nói: “Nầy Bà-la-môn, nay ta dạy cho ông một bài thơ, cứ vừa đi xin, vừa đọc lên, nhứt là vào chỗ đông người:

Tôi nay có bốn người con,
Miệng thưa “Cha!” ngọt, mà lòng chẳng thương.
Nghe lời vợ, đuổi ra đường.
Tay cầm chiếc bát, thân nương gậy nầy.
Ai thương cảnh khổ già đây,
Nhớ cho bát, gậy hơn bầy con hư!”

Cụ chống gậy, ôm bát, nghêu ngao hát cả ngày. Dân-chúng nghe thấy, động lòng thương cụ và trách bốn người con trai quá bất-hiếu, hất-hủi cha già. Các người con hổ-thẹn, rước cha về nhà, mỗi ngày mỗi ngưòi dâng một mâm cơm đầy-đủ thức ăn ngon. Cụ chẳng dùng hết mỗi ngày đến bốn mâm, mới bảo con mang hai mâm đem vào chùa cúng-dường Đức Phật và chư Tăng. Nhơn đó, Đức Phật giảng Chánh-pháp cho họ nghe, Ngài lại nói đến lòng hiếu-thảo của con voi rừng tên là Tài-Hộ, bị bắt, bỏ cả ăn-uống, lòng thường nghĩ đến voi cha, voi mẹ trong rừng xanh.

Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:

Voi tên Tài-Hộ rất hung-hăng,
Khi phát-dục tiết mùi hôi-thối,
Bị bắt nhốt, chẳng chịu uống ăn,
Tưởng nhớ rừng voi, hằng mong-mỏi.
(Kệ số 324.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Ruồng-bỏ = đuổi đi, chẳng săn-sóc, chẳng giúp đỡ chi cả.

– Bà-la-môn: tiếng Pali là Brahmana, giai-cấp tu-sĩ ở Ấn-độ xưa.

– Phụng-dưỡng = chăm nuôi người bề trên.

– Con trai trưởng = người con trai lớn nhứt trong nhà.

– Con thứ = người con kế, sau người con trưởng.

– Hất-hủi = tỏ ra lạnh-nhạt, chẳng đối-xử tốt nữa.

– Bất-hiếu: Bất = chẳng; Hiếu = lòng thương cha-mẹ, biết lo săn-sóc, phụng-dưỡng cha mẹ.

– Cúng-dường = đọc trại hai chữ Hán-Việt cung-dưỡng; cung = cung-cấp;dưỡng =nuôi-dưỡng. Tiếng nhà chùa chỉ sự dưng-cúng lễ vật

– Tài-Hộ: tên con voi nầy, dịch nghĩa chữ Pali là Dhanapàla. (Dhana = tài sản; pàla = bảo-hộ, giữ-gìn)

– Phát-dục: Phát = khởi lên; Dục = dục-tình, ý-muốn giao-hợp với kẻ khác phái. Đây nói về con voi đang khởi dục-tình, muốn giao-hợp, phát ra mùi hôi-thối.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại một cụ-già, vì chia hết tài-sản cho các con đến sống ở nhà các con. Vì nghe lời vợ cứ nói ra nói vào, các con cụ hất-hủi cha, nên cụ buồn lòng cầm bát, chống gậy đi xin ăn. Cụ gặp Đức Phật, được dạy cho một bài thơ về con bất-hiếu, để đến chỗ đông người hát lên. Bị dân-chúng chê-bai, các người con hổ-thẹn mới rước cha về nuôi-dưỡng. Khi gặp các người con, Đức Phật kể lại chuyện con voi Tài-Hộ, mặc dầu hung-hăng, nhưng khi bị bắt, nó bỏ cả ăn-uống, lòng chỉ nhớ nghĩ đến voi cha, voi mẹ trong rừng.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là làm con phải hiếu-thảo với cha mẹ, kẻo lại thua con voi Tài-Hộ, dầu là thú-vật, còn biết thương cha mẹ.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 324:

Ý-nghĩa của bài Kệ là nêu lên lòng hiếu-thảo của một con voi, để làm gương cho những kẻ hất-hủi mẹ cha lúc tuổi già.

(235).- Tích chuyện vua Ba-tư-nặc ăn quá no.

Tích chuyện nầy giống với Tích chuyện số (162).

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến việc vua Ba-tư-nặc ăn quá no.

Thuở ấy, vua Ba-tư-nặc, xứ Câu-tát-la, sau một bữa ăn rất thịnh-soạn, đến chùa Kỳ-viên đảnh-lễ Đức Phật. Nhà vua ăn mỗi bữa cả mấy tô cơm, nhai cả đùi dê nấu cà-ri. Khi ngồi nghe Phật giảng, nhà Vua buồn ngủ, đầu cứ gật lên gật xuống, hai mắt muốn sụp lại. Sau thời pháp, Vua thưa: “Bạch Thế-tôn, hôm nay vì ăn no quá, buồn ngủ, con cảm thấy nhọc-mệt, chẳng chú tâm nghe pháp được.” Đức Phật bảo: “Nầy Đại-vương, những người tham ăn quá cũng đều cảm thấy nặng bụng và buồn ngủ như thế cả.”

Rồi Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây, nhờ đó vua Ba-tư-nặc biết bớt ăn, bụng thon lại, hăng-hái hoạt-động và vui-vẻ hơn xưa:

Người khờ lười-biếng, tham ăn
Vật-vờ, vất-vưởng, nằm lăn cả ngày.
Giống như con lợn mập thây,
Luân-hồi phải chịu, biết ngày nào ra.
(Kệ số 325.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Vua Ba-tư-nặc xứ Câu-tát-la: tên vị vua cai-trị xứ nầy, tiếng Pali là vua Pasenadi, nước Kosala, ờ miền Bắc Ấn-độ xưa.

– Thịnh-soạn = nói về bữa ăn có nhiều thức ăn ngon.

– Đảnh-lễ: cúi đầu làm lễ ra mắt bực trưởng-thượng.

– Thế-tôn: Thế = thế-gian; Tôn = tôn-trọng. Đức Phật được gọi là Thế-tôn, bực được cả thế-gian tôn-trọng.

– Vật-vờ, vất-vưởng = lừ-đừ, chẳng muốn làm gì cả, lười-biếng.

– Luân-hồi: Luân = bánh xe; Hồi = quay trở lại. Theo giáo-lý nhà Phật, chúng-sanh khi chết đi, lại sanh trở lại, để rồi lại chết nữa; cuộc sống lẩn-quẩn chịu khổ nhiều, sướng ít đó gọi là Luân-hồi, như bánh xe cứ quay một vòng rồi lăn trở lại mãi. Vì thế, người tu-hành phải lo diệt hết các phiền-não, dẹp mọi tham-muốn, để chứng được vô-sanh, dứt khoát ra khỏi cảnh tái-sanh lẩn-quẩn của Luân-hồi, đó là giải-thoát mọi khổ đau, được tự-tại mãi trong cảnh an-vui của Niết-Bàn.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất giản-dị, thuật lại vì ăn quá no, nên vua Ba-tư-nặc mệt-mỏi và buồn ngủ, chẳng nghe được bài pháp của Đức Phật.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là lời dạy của Đức Phật, nên ăn-uống vừa phải, chớ tham ăn và chớ lười-biếng.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 325:

Bài Kệ so-sánh kẻ tham ăn, lười-biếng như con heo ăn mập thây. Kẻ chỉ biết ăn cho sướng miệng, mập thây, sẽ mắc vòng Luân-hồi, vì chẳng chọn con đường tu-hành giải-thoát: đó là ý-nghĩa của bài Kệ.

HỌC TẬP:

1) Ăn-uống là để bồi-bổ cơ-thể; ăn quá mức, số dư tích-trữ lại sẽ gây ra phì-béo, chậm-chạp và lười biếng. Tập cho trẻ con ăn-uống đúng giờ, bỏ thói ăn quà vặt.

2) Ngoài thức ăn vật-chất ra, con người còn cần thức-ăn về tinh-thần: mỗi tuần siêng đi chùa, lạy Phật, nghe giảng kinh, đó là nuôi-dưỡng, bồi-bổ tinh-thần. Nên dắt con cháu nhỏ theo khi đi chùa.

(236).- Tích chuyện Sa-di Sà-nhu.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến một vị Sa-di tên là Sà-nhu.

Thuở ấy, Sa-di Sà-nhu tuy còn nhỏ tuổi nhưng cũng thông-thuộc nhiều kinh-kệ. Một hôm, các vị tỳ-kheo trộng tuổi bảo Sa-di Sà-nhu bước lên đài cao, ngồi tụng-đọc kinh-kệ cho đại-chúng nghe. Sa-di Sà-nhu vâng lời, sau khi tụng xong, chấp tay nói: “Nguyện đem công-đức nầy hướng về tất cả các cha mẹ đời nầy, đời trước của đệ-tử được hưởng nhiều phước-lạc.” Vào lúc đó, có một vị nữ-phi-thiên, vốn là mẹ của Sa-nhu trong tiền-kiếp, nghe được lời hồi-hướng, mới thốt lên rằng: ‘Lành thay! Lành thay! Nay được chia-xẻ phước-báu với con ta là Sà-nhu.” Nhờ công-đức hồi-hướng đó mà vị ấy được các hàng phi-thiên kính-trọng.

Mấy năm sau, Sà-nhu thọ giới tỳ-kheo một thời-gian, lại bỗng nẩy ra ý-định hoàn-tục. Sà-nhu trở về nhà cũ, xin mẹ trao lại cho mình y-phục của thường-nhơn. Người sanh-mẫu buồn lòng, thấy con có ý thoái-chuyển, mới khóc mà nói rằng: “Nay con đã xuất-gia, gia-nhập Tăng-đoàn, cầu đường giải-thoát, sao con lại thối-chí quay về cuộc sống khổ-lụy của thế-tục?” Cùng lúc ấy, vị phi-thiên, mẹ trong tiền-kiếp của Sa-nhu cũng nghe thấy, mới nghĩ, nếu con mình hoàn-tục, mình sẽ bị các phi-thiên khác chê-cười; bà mới nhập vào Sà-nhu, khiến Sà-nhu té ngửa xuống, sùi bọt mép. Cả nhà hoảng-hốt, cấp-cứu, đến khi tỉnh-dậy, Sà-nhu còn nghe tiếng mẹ cũ đang nói văng-vẳng: “Con đừng hoàn-tục, hãy mau trở lại chùa tu-hành để tìm đường giải-thoát, ra khỏi cảnh Luân-hồi lận-đận.”

Sau đó, khi Sà-nhu trở về tịnh-xá, các vị tỳ-kheo khác trình sự-việc lên Đức Phật. Sà-nhu được gọi đến, nghe Đức Phật dạy rằng: “Nầy tỳ-kheo, chẳng nên trở lại cuộc sống buông-lung của người thế-tục. Con muốn được an-vui, thì phải biết điều-phục tâm-ý, theo con đường Chánh-đạo, như anh quản-tượng dùng móc sắt răn-dạy và kiểm-soát con voi hung-hăng.”

Rồi Đức Phật mời nói lên bài Kệ sau đây, nhờ đó Sà-nhu sực-tỉnh, biết nỗ-lực tu-hành, chẳng bao lâu chứng được quả-vị A-la-hán:

Ngày trướcc, tâm lang-thang, lêu-lổng,
Đuổi theo thú-vui cùng dục-vọng.
Ngày nay, bằng chánh-niệm, kềm tâm
Như quản-tượng tay cầm móc dạy voi.
(Kệ số 326.)

TÌM HIỂU:

chùa chỉ số đông người đang ngồi nghe giảng-pháp.

– Phi-thiên: Phi = chẳng phải; Thiên = Trời. Phi-thiên là hạng thần-linh.

A.- Nghĩa Chữ:

– Sa-di: tiếng Pali là Sàmanera, người mới vào chùa tập-sự tu-hành, chưa thọ giới tỳ-kheo. Trong chùa thường gọi là chú tiểu.

– Sà-nhu: tên vị sa-di nầy, tiếng Pali là Sànu.

– Đại-chúng: Đại = lớn; Chúng = số đông. Đại-chúng là tiếng nhà chưa phải là Trời, còn gọi là A-tu-la (Asura), có thần-thông, tánh hay nóng-giận, thường gây tranh-chiến với chư Thiên.

– Tiền-kiếp: Tiền = trước; Kiếp = đời sống trước. Tiền-kiếp là những đời sống trước, trước đời hiện nay.

– Hồi-hướng: Hồi = trở về; Hướng = hướng về, quay về phiá. Hồi-hướng là xin hướng công-đức đến người mình đang cầu-nguyện cho.

– Lành thay: lời khen đã làm việc thiện; dịch tiếng Pali là Sàdhu.

– Hoàn-tục = Hoàn =trở lại; Tục = đời sống thế-tục. Hoàn-tục là thôi chẳng đi tu nữa, quay về sống lại trong gia-đình như trước.

– Sanh-mẫu: Sanh = đẻ ra; Mẫu = mẹ; Sanh-mẫu là người nẹ sanh mình ra trong cõi đời hiện nay.

– Thoái-chuyển: Thoái = lùi lại; Chuyển = động chuyển; Thoái-chuyển là đi thụt lùi; trở lại chỗ thấp-kém. Đối-nghĩa với chữ Tinh-tấn.

– Tăng-đoàn: Tăng = tu-sĩ Phật-giáo; Đoàn = đoàn-thể. Một tăng-đoàn gồm có ít nhứt bốn vị tăng-sĩ tu chung. Tiếng Pali là Sangha.

– Khổ-lụy = Khổ = đau-khổ; Lụy = phiền-lụy. Khổ-luỵ = phiền-khổ.

– Thế-tục = Thế = đời; Tục = thường; Thế-tục là đời sống thường, có gia-đình, chẳng tu-hành.

– Cấp-cứu: Cấp = gấp, mau; Cứu = cứu-giúp. Cấp-cứu là cứu ngay.

– Lận-đận = đau buồn, gặp nhiều khó khăn, khổ-sở.

– Buông-lung: thiếu kềm-chế, lười-biếng; đồng-nghĩa = phóng-dật

– Tịnh-xá = Tînh = yên-tịnh; Xá = nhà. Tịnh-xá là ngôi chùa nhỏ.

– Đìều-phục tâm-ý: giữ-gìn tâm chẳng cho khởi bụng quấy.

– Chánh-đạo = Chánh = chơn-chánh; Đạo = đường; tức là Bát-chánh-đạo, con đường Thánh tám ngành đưa ta ra khỏi cảnh Luân-hồi.

– Quản-tượng: Quản = cai-quản; Tượng = voi lớn; Quản-tượng là người chăn voi, huấn-luyện voi, điều-khiển voi.

– A-la-hán: quả-vị Thánh, chẳng còn tái-sanh nữa; tiếng Pali là Arahant. A-la-hán có ba nghĩa: (1) ứng-cúng = xứng đáng được Trời, Người cúng-dường; (2) sát-tặc = giết giặc, giặc phiền-não; (3) vô-sanh = chẳng còn tái-sanh nữa, ra khỏi Luân-hồi, vào cảnh Niết-bàn.

– Dục-vọng = Dục = muốn; Vọng = mong; Dục-vọng là các ham-muốn thấp-hèn về vật-chất.

– Chánh-niệm: Chánh = chơn-chánh, đứng-đắn; Niệm = ý-nghĩ. Người có chánh-niệm đang làm, nói hay nghĩ việc gì, thì biết rõ và chú-tâm vào việc đang làm, nói, nghĩ đó và chỉ việc đó mà thôi.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc vị Sa-di Sà-nu thông-thuộc nhiều kinh-kệ, sau khi thọ-giới tỳ-kheo một thời-gian, lại muốn hoàn-tục. Được cả hai bà mẹ, mẹ đương-thời và mẹ kiếp trước, cản-ngăn, Sà-nu trở lại chùa. Nghe Đức Phật dạy, phải kềm-chế tâm-ý mình như người quản-tượng điều-khiển voi, Sà-nu nỗ-lực tu-hành, chứng được quả-vị Thánh.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là đang tu mà có ý-định hoàn-tục, thì đó cũng như đang từ chỗ sáng mà quay về trong bóng tối, bỏ mất con đường giác-ngộ và giải-thoát để ra khỏi cảnh khổ của Luân-hồi.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 326:

Ý-nghĩa của bài Kệ so-sánh việc kềm-chế tâm-ý cũng như việc điều-khiển voi bằng móc sắt; lòng phải cương-quyết chẳng thối-chí. Kềm-tâm bằng cách nào? Luôn luôn giữ chánh-niệm trong tâm.

1) Hai câu đầu: Ngày trước, tâm còn vọng-động, chạy theo các thú-vui cùng dục-vọng( =ham-muốn), để tâm thả lỏng;

2) Hai câu chót: Ngày nay, biết dùng chánh-niệm kềm tâm lại, như người quản-tượng dùng móc sắt điều khiển con voi hung-hăng.

(237).- Tích chuyện con voi già.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề cập đến con già tên là Ba-vi-gia.

Voi Ba-vi-gia khi còn trẻ là một con voi chiến rất mạnh-mẽ, nay đã già-yếu. Một hôm, voi Ba-vi-gia ra bờ ao định xuống uống nước, rủi thay, chân bị sa lầy, chẳng rút ra khỏi bùn được. Vua Ba-tư-nặc xứ Câu-tát-la hay tin, liền sai một người quản-tượng đến giúp. Người quản-tượng đến nơi, nhận ra voi chiến Ba-vi-gia, mới cho gọi đoàn quân-nhạc tới. Rồi tiếng trống, tiếng kèn, tiếng chiêng khua vang lên thành một nhạc bản quân-hành hùng-dũng. Voi Ba-vi-gia cảm thấy như đang lâm trận, tinh-thần hăng lên, nhẹ-nhàng rút chơn ra khỏi vũng bùn, giữa tiếng hoan-hô vang-dậy.

Khi các tỳ-kheo thuật lại sự-việc trên, Đức Phật bảo: “Nầy chư tỳ-kheo, cũng như con voi rút chơn ra khỏi vũng bùn, các ông nên sớm thoát ra khỏi vũng sình kết-sử.”

Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây, nhờ đó nhiều vị tỳ-kheo nỗ-lực tu-tập, chứng được quả-vị A-la-hán:

Trong chánh-niệm, hãy tìm thích-thú,
Tâm-ý nên hết lòng phòng-thủ.
Như voi sa lầy cố rút chơn ra,
Hãy tự kéo khỏi vũng sình kết-sử.
(Kệ số 327.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Voi chiến Ba-vi-gia: tên con voi đánh giặc nầy, tiếng Pali là Pàveyyaka.

– Sa lầy: bị lún bùn, kẹt chơn dưới bùn chẳng rút ra được.

– Vua Ba-tư-nặc, xứ Câu-tát-la: tên vị vua nầy, tiếng Pali là Pasenadi, cai-trị xứ Kosala, ở miền Bắc Ấn-độ xưa.

– Quản-tượng: Quản = cai-quản, điều-khiển; Tượng = voi lớn. Quản-tượng là người chăn voi, huấn-luyện và điều-khiển voi.

– Quân-nhạc = ban nhạc nhà-binh.

– Chiêng = một loại nhạc-khí bằng đồng, hình giống cái mâm lớn

– Bản quân-hành: bản nhạc hành-quân, tấu lên trong khi quân lính đi ra trận, để làm tinh-thần chiến-sĩ phấn-khởi lên.

– Lâm trận = sắp giao-chiến, sắp đánh giặc.

– Chánh-niệm: ý-nghĩ chơn-chánh. Người giữ chánh-niệm là người đang làm, nói, nghĩ gì, thì trong tâm chú-ý, biết đến việc đang làm, nói, nghĩ đó và chỉ việc ấy mà thôi, chẳng lo ra đến chuyện khác.

– Kết-sử: Kết = ràng-buộc lại; Sử = sai-sử, sai khiến. Kết-sử còn được gọi là thúc-thằng (thúc = trói-buộc; thằng = sợi dây), tiếng Pali là Sanyojana, là những tình-cảm, tư-tưởng có tánh-cách ràng-buộc, gây ra phiền-não, và thúc-dục ta làm đìều quấy.

Theo giáo-lý Bắc-tông, có mười kết-sử, phân ra:

a) Ngũ độn-sử, năm mối kết-sử thấp: (1) thân-kiến ( = chấp thân nầy làm Ta, Pali: Sakkàyaditthi); (2) nghi ( = nghi ngờ Chánh-pháp, Pali: Vicikiccha); (3) giới-cấm-thủ ( = tin vào các nghi-thức cúng-tế tà-đạo, Pali: Silabhataparàmàsa); (4) tham (Kàmaràga); (5) sân ( = giận-hờn, Pali: Patigha). Diệt xong ngũ độn-sử, chứng quả A-na-hàm

b) Ngũ lợi-sử, năm mối kết-sử cao: (6) sắc-ái ( = mê-luyến cõi sắc-giới; Pali: Rùparàga); (7) vô-sắc-ái ( = mê-luyến cõi vô-sắc-giới; Pali: Arùparàga); (8) mạn ( =kiêu-căng, Phạn: mano); (9) trạo ( = giao-động, bối-rối; Pali: Uddaccha); (10) vô-minh ( = si-mê; Pali: Avijja). Diệt xong nốt ngũ lợi-sử, chứng quả A-la-hán.

Giáo-lý Nam-tông chia 10 thúc-thằng ( =kết-sử,Pali: Sanyojana) ra:

– ba thúc-thằng đầu-tiên, diệt xong, chứng quả-vị thứ nhứt là Tu-đà-huờn (Pali: Sotàpatti);

– hai thúc-thằng kế-tiếp, diệt xong, chứng quả-vị thứ hai là Tư-đà-hàm (Pali: Sakàdagàmi);

– cả năm thúc-thằng đầu-tiên ( = ngũ độn-sử), diệt xong, chứng quả-vị thứ ba là A-na-hàm (Pali: Anàgàmi);

– cả năm thúc-thằng chót ( = năm lợi-sử), diệt nốt, chứng quả thứ tư, cao nhứt là A-la-hán (Pali: Arahant).

Nhớ đủ cả mười kết-sử thì khó, chỉ cần nhớ ba mối chánh, gọi là tam độc ( = ba món thuốc độc): tham, sân, si.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện kể lại việc con voi Ba-vi-gia bị sa lầy, nhờ nghe tiếng quân-nhạc, hăng-hái tinh-thần lên mà rút chơn ra khỏi vũng bùn. Nhơn chuyện nầy, Đức Phật dạy các tỳ-kheo cũng nên rút chơn mình ra khỏi vũng sình kết-sử.

“Rút chơn ra khỏi vũng sình kết-sử”, có nghĩa là, đã diệt xong năm độn-sử và năm lợi-sử, tức là tất cả mọi phiền-não đã tận-diệt, như thế là đang chứng-đắc được quả-vị A-la-hán, thoát khỏi vòng tái-sanh lẩn-quẩn của Luân-hồi, hoàn-toàn được giải-thoát.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 327:

Ý-nghĩa bài Kệ nhắc nhở đến công-việc tu-tập của vị tỳ-kheo, diệt hết mười kết-sử để chứng quả-vị A-la-hán, thoát được vòng sanh-tử lận-đận của Luân-hồi.

Xin phân-tách từng câu bài Kệ:

1) Trong chánh-niệm, hãy tìm thích-thú: lời khuyên nầy khó thực-hiện được, nếu chẳng nỗ-lực bền-bỉ. Tại sao? Vì giữ chánh-niệm thì phải luôn luôn chú-ý đến bên trong tâm, mau mệt trí, dễ chán. Nhưng người hay xao-lãng, lơ-là, sống cũng như cái máy; chánh-niệm khiến ta sống trọn-vẹn với ta.

2) Tâm-ý nên hết lòng phòng-thủ: Phòng-thủ chống lại việc gì? Chống lại ác-ý, vì ác-ý xúi ta phải sa vào tội-lỗi, tạo nghiệp dữ. Chống lại vọng-tưởng, các ý vẩn-vơ, dắt tâm đi lang-thang, chạy theo ngoại-cảnh, đuổi theo các thú-vui thấp kém. Vậy phòng-thủ tâm-ý ở đây có nghĩa là thanh-lọc tâm-ý để sớm đạt được tâm thanh-tịnh.

3) Như voi sa lầy cố rút chơn ra: Voi phải tự mình nỗ-lực rút lấy chơn ra; đây là ý Phật dạy ta phải tự mình nỗ-lực, chớ chẳng phải chờ người khác đến … cứu-độ mình, cỏng giùm mình sang bờ giác.

4) Hãy tự kéo khỏi vũng sình kết-sử: Trong số mười món kết-sử, quan-trọng là ba món độc tham, sân, si vì chúng chi-phối các món kia. Có hai món dễ trừ là: (1)nghi, hễ tin vào Chánh-pháp thì hết nghi; (2)giới-cấm-thủ, bỏ được mê-tín dị-đoan, đừng xin xâm, chẳng cúng ông Địa nữa, đâu có khó!

(238).- Tích chuyện con voi hầu-hạ Phật.

Tích chuyện nầy giống với Tích chuyện số (5).

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại rừng Bà-li-lai, trong xứ Cô-sâm-bi, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến con voi Bà-li-gia.

Thuở ấy, chư Tăng ở Cô-sâm-bi chia rẻ thành hai nhóm, tranh-cãi nhau: một nhóm cho rằng Giới-luật là hơn, còn một nhóm bảo Kinh-tạng mới quí. Họ cãi nhau sôi-nổi, náo động cả nơi tu-hành. Đức Phật đã nhiều lần ngăn-cản chẳng được, Ngài bỏ đi, sống qua mùa hè một mình trong rừng, có con voi tên là Bà-li-gia phục-vụ.

Mãn mùa an-cư, Tôn-giả A-nan cùng chư tỳ-kheo đi vào rừng, thỉnh Phật trở về tịnh-xá. Tôn-giả A-nan thưa: “Bạch Thế-tôn, ba tháng mùa mưa, Thế-tôn ở một mình trong rừng, chắc thiếu-thốn nhiều.” Đức Phật bảo: “Nầy A-nan, đừng nói thế! Trong ba tháng qua, voi Bà-li-gia đã tận-tụy phục-vụ Như-Lai, như một người bạn tốt. Được một người bạn tốt như thế, ta nên chung sống với nhau; còn nếu gặp bạn chẳng hiền, thà cứ sống lẻ-loi một mình nơi rừng vắng còn hơn.”

Rồi Đức Phật nói lên ba bài Kệ sau đây:

Nếu gặp người hiền-trí hạnh lành,
Thích-hợp nhau làm bạn đồng-hành,
Hãy sống chung vui và giác-tỉnh,
Mọi hiểm-nguy sẽ vượt an-lành.
(Kệ số 328.)

Nếu chẳng gặp người đạo-đức cao,
Trí-huệ nhiều đáng kết thâm-giao,
Thà như Vua bỏ nước vừa chinh-phục,
Như voi giữa rừng, hãy sống lẻ-loi.
(Kệ số 329.)

Chẳng thà phải sống cô-đơn
Còn hơn kết bạn với phường người ngu.
Chẳng lo-âu, khước-từ ác-hạnh,
Sống thong-dong như cảnh voi rừng.
(Kệ số 330.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Rừng Bà-li-lai, xứ Cô-sâm-bi: tên khu rừng nầy, tiếng Pali là Pàlileyya, ở xứ Kosambi, miền Bắc Ấn-độ xưa.

– Voi Bà-li-gia: tên con voi nầy, tiếng Pali là Pàlileyyaka.

– Giới-luật, Kinh-tạng: Tất cả kinh-điển Phật-giáo gọi là Tam tạng, gồm có: (1)Luật-tạng ( =các giới-luật,Vinaya); (2)Kinh-tạng( =các Kinh Kệ,Suttanta); (3)Luận-tạng ( = luận về Chánh-pháp, Abhidhamma.) (Tam = ba; Tạng = cái giỏ đựng sách; tiếng Pali Tam-Tạng = Tipitaka.)

– Muà an-cư: Trong ba tháng mùa mưa, chư Tăng chẳng đi ra ngoài, sợ đạp chết con trùng sinh-sản nhiều, ở yên tu trong tịnh-xá.

– Thế-tôn, Như-Lai: Các đệ-tử Phật gọi Đức Phật là Thế-tôn ( = bực được cả thế-gian tôn-trọng), và Đức Phật tự xưng là Như-Lai ( = người đến đây như thế đó) khi nói chuyện với đệ-tử.

– Hạnh lành = đức-hạnh hiền-lành.

– Đồng-hành = cùng đi với nhau, bạn đường.

– Giác-tỉnh, Tỉnh-giác = trong tâm luôn giữ chánh-niệm, chẳng phút nào lơ-là, hằng chú-tâm.

– Kết thâm-giao: Thâm = sâu-đậm; Kết thâm-giao là kết tình bạn thân-mật, thấm-thiết.

– Chinh-phục = đánh thắng, thâu-phục được.

– Khước-từ ác-hạnh: Khước-từ = rời bỏ; Ác-hạnh = tánh dữ.

– Thong-dong = được tự-do, chẳng bị ràng-buộc.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc Đức Phật rời tịnh-xá vào rừng sống một mình, vì chư Tăng chẳng biết nghe lời Ngài để chấm dứt sự cãi-vã quá ồn-ào về Luật-tạng và Kinh-tạng. Mãn mùa an-cư, Tôn-giả A-nan khi thỉnh Phật trở về, có hỏi Đức Phật ba tháng qua có bị thiếu thốn nhiều chăng. Đức Phật đáp, không, vì Ngài được Voi Bà-li-gia hết lòng hầu-hạ. Nhơn đó Đức Phật bảo, gặp bạn hiền nên vui chung sống; còn gặp kẻ dữ, thà sống lẻ loi một mình chốn rừng hoang.

Ý-nghĩa của Tích chuyện: gặp bạn-đạo tốt, nên chung sống; chớ kết thâm-giao với kẻ kém đức-hạnh.

(2) Ý-nghĩa của ba bài Kệ số 328, 329 và 330:

Cả ba bài Kệ đều nói về sự lựa chọn bạn hiền để sống chung với nhau và tránh xa những người thiếu trí-huệ và đức-hạnh.

Xin phân-tách từng câu trong mỗi bài Kệ.

Bài Kệ số 328:

1) Nếu gặp người hiền-trí hạnh lành: Người hiền-trí hạnh lành, ở đây, chính là bực thiện-tri-thức, đã thông-hiểu Chánh-pháp, đức-hạnh cao-dày; nếu gặp được, đó là cơ-duyên may-mắn lớn, nên theo học;

2) Thích-hợp nhau làm bạn đồng-hành: Đồng-hành, hiểu theo nghĩa rộng là chẳng những cùng đi chung một đường mà còn theo chung một lối tu-hành, vì thế thích-hợp với nhau, nên kết bạn ngay;

3) Hãy sống chung vui và giác-tỉnh: Nhờ hợp nhau nên cuộc sống chung vui-vẻ; nhưng mỗi người phải tỉnh-giác, luôn luôn chú-ý, quán-sát bên trong tâm mình, để giúp nhau tự kềm-chế;

4) Mọi hiểm-nguy sẽ vượt an-lành: Nhờ chung-sức nhau nên khi gặp trở-ngại, sẽ vượt qua an-toàn. Trong việc tu-hành, hiểm-nguy to lớn nhứt là sự thoái-tâm, chán-nản; có bạn lành an-ủi, sẽ nung-chí lên.

Bài Kệ số 329:

1) Nếu chẳng gặp người đạo-đức cao, Trí-huệ nhiều, đáng kết thâm-giao: đây là thiếu thuận-duyên, chẳng có người xứng-đáng, đầy-đủ đức-hạnh, để kết thân-tình

2) Thà như Vua bỏ nước vừa chinh-phục: đây là thái-độ chẳng luyến-tiếc những gì mình vừa có được thêm, dứt khoát bỏ ra đi.

3) Như voi giữa rừng, sống lẻ-loi: Tuy lẻ-loi, nhưng được tự-do, chẳng bị phiền-lụy ràng-buộc, đó là “người biết sống một mình”.

Bài Kệ số 330:

1) Chẳng thà phải sống cô-đơn, Còn hơn kết bạn với phường người ngu: Tuy sống đơn-độc một mình, nhưng khỏi phải bị bọn người ngu theo phiền-nhiễu, thì còn chi tốt hơn nữa.

2) Chẳng lo-âu, khước-từ ác-hạnh: đây là hai đức-tánh quí trên đường tu: một là chẳng lo-âu, vì tâm đã an-định; hai là khước-từ điều ác, khiến thân-tâm thanh-tịnh, sớm dứt được nghiệp dữ.

3) Sống thong-dong như cảnh voi rừng: Cảnh thong-dong của voi rừng, đây chính là cảnh an-nhiên, tự-tại của bực đã chứng Niết-Bàn.

(239).- Tích chuyện Ma-vương cám-dỗ Phật.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại một tịnh-xá gần núi Tuyết-sơn, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến việc Ma-vương tới cám-dỗ Đức Phật.

Thuở ấy, Đức Phật cư-trú gần dãy núi Hi-mã-lạp-sơn. Ngài nhận thấy dân-chúng trong vùng bị ngược-đãi, các vị lãnh-chúa thì tàn-ác, bất-công. Đức Phật nghĩ cách giúp-đỡ dân-chúng thoát khỏi cảnh bị đàn-áp và khiến cho các vị lãnh-chúa phải cai-trị trong công-bằng luật-pháp. Bấy giờ, Ma-vương đoán biết ý-định của Đức Phật, mới hiện lên thưa với Phật: “Bạch Thế-tôn, sao Ngài lại chẳng lên làm Vua, cai-trị toàn-dân trong thanh-bình, an-lạc!” Đức Phật nhìn biết Ma-vương đến cám-dỗ, mới đáp: “Nầy Ma-vương hiểm-độc, chớ có cám-dỗ Như-Lai. Giáo-pháp của Như-Lai chẳng giống với lời dạy của ông chút nào cả. Đây hãy lắng nghe Chánh-pháp của Ta.”

Rồi đó, Đức Phật mới nói lên ba bài Kệ sau đây, Ma-vương nghe xong, bẽn-lẽn bỏ đi, biết chẳng khuấy-rối nổi Đức Phật:

Vui thay, gặp bạn khi cần!
Vui thay, biết đủ với ngần nầy đây!
Vui thay, thiện-nghiệp dầy khi chết!
Vui thay đau khổ diệt-trừ xong!
(Kệ số 331.)

Vui thay, phụng-dưỡng mẹ già!
Vui thay, hiếu-kính với cha trên đời!
Vui thay, phục-vụ Sa-môn!
Vui thay, thừa sự Thánh-nhơn ra đời!
(Kệ số 332.)

Vui thay, giữ giới tới già!
Vui thay, tín-niệm rất là bền lâu!
Vui thay thành-đạt trí mầu!
Vui thay ác-hạnh từ lâu khước-từ!
(Kệ số 333.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Ma-vương = Vua Ma; theo kinh-sách, đây là vị Thiên-vương ở cõi Trời Tha-hoá tự-tại, thường thích đi cám-dỗ kẻ khác làm điều quấy. Tiếng Pali là Màra.

– Hi-mã-lạp-sơn = Tuyết-sơn = dãy núi cao nhứt thế-giới (hơn tám ngàn mét), tuyết đóng quanh-năm, dọc theo biên-giới Ấn-độ và Trung-hoa. Tiếng Pali là Himalaya.

– Ngược-đãi: Ngược = bạo-ngược, ác; Đãi = đối xử.

– Lãnh-chúa: vị vua chúa cai-trị một vùng đất.

– Hiểm-độc: Hiểm = ác ngầm; Độc = dữ ác. Kẻ hiểm-độc hại ngầm người khác, mà làm bộ như thương-yêu, giúp-đỡ bề ngoài.

– Giáo-pháp: Giáo = dạy; Pháp = phép. Giáo-pháp, giáo-lý, là lời dạy trong Đạo khuyên người tu-hành.

– Chánh-pháp: Chánh = chơn-chánh, đứng-đắn; Pháp = phép tu. Trong Phật-học, chữ Chánh-pháp chỉ lời dạy của Đức Phật.

– Biết đủ với ngần nầy đây: biết đủ với những gì mình có, chỉ cần đến ngần ấy, chẳng tham đòi thêm. Biết đủ, tiếng Hán-Việt là tri-túc.

– Thiện-nghiệp: Thiện = lành; Nghiệp = tất cả hành-động, lời nói và ý-nghĩ của một người, có ảnh-hưởng đến vận-mạng người ấy.

– Phụng-dưỡng = nuôi-nấng, săn-sóc.

– Hiếu-kính: tỏ lòng kính-trọng và thương-yêu, giúp đỡ.

– Sa-môn: phiên-âm chữ Pali là Samana, nghĩa là tu-sĩ Phật-giáo. Có ba nghĩa: (1) cần-giả, siêng làm lành; (2)tức-giả, ngưng làm ác; (3) bần-giả, nguyện chịu nghèo-khó để tu-hành.

– Thánh-nhơn: bực Thánh, từ quả-vị A-la-hán trở lên (thoát khỏi tái-sanh của Luân-hồi.) Tiếng Pali là Ariya. Đối-nghĩa với phàm-phu.

– Giới: điều răn-cấm trong Đạo. Tiếng Pali là Sila.

– Tín-niệm: Tín = tin-tưởng; Niệm = ý-tưởng. Tín-niệm là niềm tin; ở đây là niềm tin vững chắc vào Tam-Bảo: Phật, Pháp và Tăng.

– Trí mầu = Trí-huệ nhiệm-mầu. Đây là Trí-huệ Bát-nhã Ba-la-mật, Prajna pàramità, thường dịch là Trí-Độ, cái Trí đưa ta đến bờ giác-ngộ.

– Ác-hạnh = hạnh-kiểm xấu-ác; cùng nghĩa với ác-nghiệp.

– Khước-từ: từ bỏ hẳn.

– Phục-vụ = hầu-hạ; giúp-đỡ.

– Thừa-sự = nhận làm việc giúp cho ai.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc Ma-vương đến cám-dỗ Đức Phật, thỉnh Ngài ra làm Vua. Đức Phật từ-chối mối danh-lợi nầy và giảng Chánh-pháp cho Ma-vương nghe.

(2) Ý-nghĩa của ba bài Kệ số 331, 332 và 333:

Cả ba bài Kệ đều nói đến niềm vui của bực tu-hành theo con đường giác-ngộ và giải-thoát. Xin vạch các niềm vui đó ở mỗi bài Kệ:

Bài Kệ số 331: niềm vui sống yên, chết lành.

1) Vui thay, gặp bạn khi cần!: đây là niềm vui có được bạn hiền giúp-đỡ mỗi khi cần đến;

2) Vui thay, biết đủ với ngần nầy đây!: niềm vui tri-túc, lòng thoả-mãn với những gì mình đang có, chẳng tham-cầu đòi hỏi thêm.

3) Vui thay, thiện-nghiệp dầy khi chết!: lià đời mà vui vì biết thiện-nghiệp sâu dầy của mình sẽ đưa mình đến cõi an-lành.

4) Vui thay đau khổ diệt-trừ đã xong!: đây là niềm vui thoát khổ Luân-hồi, vì đã diệt-trừ mọi phiền-não, chứng được vô-sanh.

Bài Kệ số 332: niềm vui báo bốn trọng-ân.

1. Vui thay, phụng-dưỡng mẹ già; Vui thay hiếu-kính với cha trên đời!: đây là niềm vui báo trọng-ân của cha-mẹ ngay khi còn sống.

2) Vui thay phục-vụ Sa-môn; Vui thay, thừa-sự Thánh-nhơn ra đời!: đây là niềm vui báo trọng-ân của Thầy, Tổ, được cúng-dường các bực Hiền-Thánh.

Bài Kệ số 333: niềm vui chuyên tu đến ngày viên-mãn.

1) Vui thay, giữ giới tới già!: đây là niềm vui trọn được giới-đức thanh-tịnh suốt đời.

2) Vui thay, tín-niệm rất là bền lâu!: niềm vui có đức tin kiên-cố

3) Vui thay thành đạt trí mầu!: niềm vui chứng Trí-huệ Bát-nhã Ba-la-mật đưa đến bờ giác-ngộ và giải-thoát.

4) Vui thay, ác-hạnh từ lâu khước-từ!: niềm vui đã từ lâu hoàn-toàn xa lánh con đường ác.

-ooOoo-

XXIV.- Phẩm THAM-ÁI.

(240).- Tích chuyện con cá vàng.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến một con cá vàng rất đẹp nhưng miệng phát ra mùi hôi.

Thuở ấy, có người đánh cá bắt được một con cá vàng rất xinh đẹp, mới đem dâng cho Vua để lãnh thưởng. Đức Vua trầm-trồ khen ngợi cá đẹp đang bơi lội tung-tăng, bỗng cá trồi lên mặt nước đớp mồi, miệng mở ra, toả một mùi hôi nồng-nặc. Vua lấy làm lạ, mới đem chậu cá đến chùa Kỳ-viên, thưa hỏi Đức Phật. Đức Phật bảo, cá vàng nầy, thân hình dẹp-đẽ nhưng miệng phát ra mùi hôi-thúi, vì đang chịu quả-báo của tội-ác đã làm trong tiền-kiếp. Rồi Đức Phật mới kể lại chuyện xưa như sau:

Vào thời Đức Phật Ca-diếp, có một vị tỳ-kheo tên là Ca-bi-la rất thông-suốt Tam-tạng Kinh-điển. Ỷ mình có sức học cao, tỳ-kheo Ca-bi-la thường tỏ ra khinh-mạn các bạn đồng-tu. Mỗi khi có sự tranh-luận nào về giáo-lý, Ca-bi-la khinh-khỉnh nói với người đối-thoại: “Đạo-hữu đã hiểu-biết giáo-lý đến mức nào?”, ngầm khoe kiến-thức sâu-rộng của mình. Vào một dịp lễ Bố-tát tụng giới, trong khi các tỳ-kheo cùng đọc giới Ba-la-đề-mộc-xoa, Ca-bi-la chẳng tụng theo, lại bảo: “Ta còn lạ gì với Luật-tạng, Kinh-tạng và Luận-tạng; các ông chỉ biết đọc vanh-vách, có hiểu được như Ta không?” Nói xong, Ca-bi-la bỏ ra ngoài. Tuy có công chỉ-dạy giáo-lý cho các tỳ-kheo khác, nhưng thái-độ khinh-mạn của Ca-bi-la đã gây khó-khăn nhiều trong việc truyền-bá Chánh-pháp. Vì tội-ác nầy, Ca-bi-la phải sa vào địa-ngục, chịu hình-phạt trong suốt thời Đức Phật Ca-diếp. Nhưng nhờ có công giảng-dạy giáo-lý, nên khi mãn hạn ở địa-ngục, được tái-sanh vào hàng súc-sanh, thành con cá vàng, có thân-hình đẹp-đẽ, nhưng miệng lại thở ra mùi hôi-thối.

Kể đến đây, Đức Phật hướng về các tỳ-kheo, bảo: “Nầy chư Tăng, đối với Chánh-pháp, chẳng những phải thông-hiểu thấu-đáo, mà còn phải thực-hành cho tinh-chuyên nữa.”

Rồi Đức Phật mới nói lên bốn bài Kệ sau đây:

Nơi người sống cuộc đời phóng-dật,
Như dây leo, ái-dục tăng nhanh.
Nhảy từ đời nầy sang đến đời khác,
Như khỉ rừng ham trái cứ chuyền cành.
(Kệ số 334.)

Trên đời, người bị ngập tràn,
Lòng tham khát-ái buộc ràng khít-khao.
Ái-dục tăng mau như đám cỏ,
Gặp được mưa rào mọc tràn lan.
(Kệ số 335.)

Trên đời, người khắc-phục xong
Bụng tham khát-ái khó hòng diệt tiêu.
Ưu-sầu, phiền-muộn đều xa lánh
Như nước rơi trên cánh lá sen.
(Kệ số 336.)

Đây, điều lành Như-Lai chỉ-dạy
Cho mọi người họp tại nơi đây.
Hãy đào ái-dục ngay tận rễ
Như ngườì bứng xới rễ cỏ thơm.
Chớ để Ma-vương sớm hôm theo phá
Như giòng nước lũ ngập cả bụi lau.
(Kệ số 337.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Quả-báo: Quả = hậu-quả; Báo = báo ứng. Theo thuyết Nhơn-Quả của nhà Phật, một hành-động cố-ý làm, chẳng những mang kết-quả trong hiện-tại, mà còn gây hậu-quả về sau. Vì đã làm ác trong quá-khứ, nên nay phải chịu điều khổ-sở, đó gọi là quả-báo xấu.

– Tiền-kiếp: Tiền = trước; Kiếp = các đời sống; Tiền-kiếp là các đời sống đã qua trước, trước đời hiện-tại nầy.

– Đức Phật Ca-diếp: vị Phật hiện ra thế-gian trước Đức Phật Thích-ca; tên tiếng Pali là Kassapa Buddha.

– Ca-bi-la: tên vị tỳ-kheo nầy, tiếng Pali là Kapila.

– Tam-Tạng Kinh-điển: Tam = ba; Tạng = cái giỏ đựng kinh-sách; Tam-Tạng Kinh-điển là tất cả kinh-sách về giáo-lý, được Đức Phật giảng, ghi chép lại; gồm có (1) Luật-tạng: các giới-luật răn cấm trong Đạo (Vinaya); (2) Kinh-tạng: các bài kinh, kệ ghi lời Phật giảng-dạy (Suttanta); (3) Luận-tạng: các bài luận-giảng về Chánh-pháp (Abhidhamma). Tam-tạng, tiếng Pali là Tipitaka.

– Khinh-mạn = Khinh = chê, xem nhẹ; Mạn = tiếng Phạn là Mano, ngạo-mạn, kiêu-căng, quá tự-cao. Kẻ khinh-mạn xem thường người khác, quá tự-cao, sanh ra phách-lối trong lời nói và hành-động.

– Đối-thoại: Đối = đang ở trước mặt; Thoại = nói chuyện; Kẻ đối-thoại là người đang nói chuyện với mình.

– Kiến-thức; Kiến = thấy; Thức = biết; Kiến-thức là sự hiểu-biết.

– Lễ Bố-tát tụng giới: Lễ Bố-tát, tiếng Pali là Uposatha, cứ vào đầu tháng và giữa tháng các tỳ-kheo họp lại để đọc-tụng giới-luật, nhắc-nhở kỷ-luật tu-hành cho nhau, gọi là tụng giới.

– Giới Ba-la-đề-mộc-xoa: tiếng Pali là Pàtimokkha, dịch tiếng Hán-Việt là Biệt-giải-thoát, thường được gọi trong chùa là Giới-bổn, tức là căn-bản các giới-luật của tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni.

– Chánh-pháp: Chánh = chơn-chánh, đứng-đắn; Pháp = pháp-tu; Phật-học gọi Chánh-pháp là giáo-lý của chính Đức Phật giảng-dạy; tiếng Pali là Dhamma.

– Điạ-ngục: Điạ = đất; Ngục = nhà giam tù. Theo kinh-sách, người phạm tội nặng khi sống, đến chết sẽ chịu hình-phạt khổ-sở lâu dài nơi điạ-ngục u-tối ở cõi âm.

– Súc-sanh: thú-vật.

– Thực-hành cho tinh-chuyên = đem lời Phật dạy ra áp-dụng trong cuộc sống tu-hành hằng ngày, cho nhuần-nhã.

– Phóng-dật = buông-lung, chẳng biết tự kềm-chế; lười-biếng.

– Dây leo: đây là loại cây cỏ quấn leo quanh cây lớn mà sống.

– Ái-dục: Ái = thích; Dục = muốn; Ái-dục là tình cảm chẳng tốt, cứ ham muốn chạy theo các thú-vui vật-chất tạm-bợ và thấp-hèn.

– Khát-ái: Khát = khao-khát; Ái = mê-thích; đây dịch chữ Tanhà của tiếng Pali, còn được dịch là Tham-ái, tên Phẩm XXIV của Kinh nầy.

– Khắc-phục = thắng được.

– Ưu-sầu: Ưu = lo-lắng; Sầu = buồn-bã.

– Như-Lai: Như = như thế; Lai = đến. Đức Phật tự-xưng là Như-Lai khi nói với kẻ khác; có nghĩa là: người đã đến như thế đó) Theo Kinh Kim-cang, chữ Như-Lai được giải-nghĩa như vầy: “Chẳng từ đâu đến, cũng chẳng đi về đâu, đó là Như-Lai”. Ý-nghĩa:”Chẳng từ đâu đến” là chẳng biết nguồn-gốc, chẳng do sanh ra mới có;”Chẳng đi về đâu” là chẳng biết tương-lai sẽ như thế nào, chẳng biết khi mất sẽ về đâu. Ý-nghĩa sâu-xa: Người như thế (Như-Lai) tức là bực vô-sanh, chẳng bị tái-sanh, nên chẳng sanh ra mà cũng chẳng chết đi, cứ như thế mãi!

– Ma-vương: Vua Ma, sự cám-dỗ, xúi-dục làm điều quấy.

– Nước lũ = nước lụt, nước dâng tràn lên khắp nơi.

– Bụi lau = bụi cây lau, mọc ở ven sông như cây sậy.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại tiền-kiếp của con cá vàng, thân đẹp mà miệng thúi. Nguyên tỳ-kheo Ca-bi-la vào thời Đức Phật Ca-diếp, phách-lối vì thông-hiểu kinh-kệ, phạm lỗi ngã-mạn, khinh chê lễ Bố-tát, bị sa điạ-ngục, sau đó tái-sanh làm con cá vàng.

Khi kể lại tiền-kiếp của Ca-bi-la, Đức Phật dạy: Chánh-pháp chẳng những phải thông-suốt, mà còn phải đem áp-dụng tu-hành cho nhuần-nhã nữa: đó là ý-nghĩa của Tích chuyện, có phần nặng về luật Nhơn-Quả; hễ lấy việc tu-tập làm nhơn lành trong kiếp nầy, thì kiếp sau sẽ được hưởng quả tốt.

(2) Ý-nghĩa bốn bài Kệ số 334, 335, 336 và 337:

Ý-nghĩa chung của bốn bài Kệ nầy có liên-quan đến Luật Nhơn-Quả, do nguyên-nhơn nào mà ta phải bị tái-sanh chịu khổ trong cõi Luân-hồi: đó là do lòng Tham-ái cứ theo bám chặt, bấu-víu mãi vào các thú-vui tạm-bợ của cuộc sống.

Xin phân-tách ý-nghĩa riêng từng bài Kệ:

Bài Kệ số 334: sống phóng-dật sẽ khiến ta trôi lăn mãi

trong vòng Luân-hồi lận-đận.

1) Nơi người sống cuộc đời phóng-dật: sống buông-trôi, chẳng tu-hành, đó là nguyên-nhơn sẽ khiến ta mắc vòng Luân-hồi mãi.

2) Như dây leo, ái-dục tăng nhanh: lòng ham-muốn cứ tăng mãi tựa như ngọn cây dây leo quấn quanh thân cây to, càng ngày lá càng thêm rậm-rạp. Tại sao ái-dục tăng? Vì lười-biếng, sống buông-lung.

3) Nhảy từ đời nầy sang đến đời khác: đây là tả cảnh tái-sanh, cứ sanh sanh, tử tử mãi chẳng ngừng, trong nhiều đời kiếp: đó là quả tái-sanh của nhơn ái-dục và phóng-dật, nói ở hai câu trước.

4) Như khỉ rừng ham trái cứ chuyền cành: hình-ảnh sống-động so-sánh sự tái-sanh chẳng dứt như con khỉ rừng ham trái, cứ chuyền mãi từ cành nầy sang cành khác, chẳng thôi.

Bài Kệ số 335: Khát-ái ràng-buộc con người vào Luân-hồi.

1) Trên đời, người bị ngập tràn, Lòng tham khát-ái buộc ràng khít-khao: Ta cứ tưởng đời ta sống trong tự-do, chẳng ngờ bị ràng-buộc chặt-chẽ bởi lòng tham, bám vào các thú-vui vật-chất tạm-bợ.

2) Ái-dục tăng mau như đám cỏ, Gặp được mưa rào mọc tràn lan: hình-ảnh sống-động so-sánh sự ái-dục, ham theo dục-vọng, càng được càng muốn thêm, với đám cỏ non gặp mưa rào mọc tràn lan.

Bài Kệ số 336: dứt được Khát-ái là diệt tiêu hết phiền-não.

1) Trên đời, người khắc-phục xong, Bụng tham khát-ái khó hòng diệt tiêu: sự Khát-ái rất khó mà diệt cho tiêu, nhưng người nào khắc-phục được nó sẽ chấm-dứt được mọi phiền-não do nó gây cho mình.

2) Ưu-sầu, phiền-muộn đều xa-lánh, Như nước rơi trên cánh lá sen: hình-ảnh thơ-mộng so-sánh các ưu-phiền chẳng còn vướng bận tâm người đã khắc-phục được tham-ái, cũng như nước đổ lên lá sen!

Bài Kệ số 337: Đức Phật dạy, đào bỏ Ái-dục hết gốc rễ.

1) Đây, đìều lành Như-Lai chỉ-dạy, Cho mọi người họp tại nơi đây: đây là lời dạy quan-trọng bực nhứt của Phật, chớ xem thường.

2) Hãy đào ái-dục ngay tận rễ, Như người bứng-xới rễ cỏ thơm: phải đào-xới hết gốc rễ của Ái-dục cho tiệt hẳn, cũng như nhổ cỏ, phải nhổ sạch hết cả rễ cái, rễ con chằng-chịt.

3) Chớ để Ma-vương sớm hôm theo phá, Như giòng nước lũ ngập cả bụi lau: nhổ chưa hết gốc rễ Ái-dục, dễ bị sự cám-dỗ (của Ma-vương) lôi kéo, rồi cứ trôi lăn mãi trong vòng lẩn-quẩn khổ-đau của Luân-hồi, như nước lụt ngập tràn cả bụi lau.

(241).- Tích chuyện con heo nái.

Vào một thời kia, Đức Phật trú tại Tînh-xá Trúc-lâm, gần thành Vương-xá, trong một kỳ giảng-pháp có đề-cập đến một con heo nái.

Thuở ấy, Đức Phật cùng chư Tăng đi khất-thực trong thành Vương-xá, bỗng Ngài mỉm cười, khi nhìn thấy một con heo nái đang ủi đất bên gốc cây. Về đến tịnh-xá, Tôn-giả A-nan thưa hỏi lý-do. Đức Phật bảo: “Nầy A-nan, ông có thấy con heo đang ủi đất dưới gốc cây bên vệ đường, lúc nảy không? Vào thời Đức Phật Câu-lưu-tôn, nó là một con gà mái, thường đứng bên hông chùa, nghe giảng Kinh, nên được tái-sanh làm một nàng công-chúa. Một hôm công-chúa đi cầu, nhìn thấy các dòi bọ nhung-nhúc bên dưới, quán-tưởng đến tấm-thân vô-thường rồi cũng bị dòi, bọ đục-khoét, mới phát tâm tu-hành. Mãn đời đó, được sanh lên cõi Trời Phạm-thiên làm thiên-nữ. Hưởng hết phước, lại vì nghiệp-báo ở tiền-kiếp, phải tái-sanh dưới thân-hình con heo nái nầy. A-nan, ông có thấy chăng, nghiệp lành và nghiệp dữ đã lôi kéo ta phải trôi lăn, lên xuống, mãi trong cõi Luân-hồi lận-đận.”

Rồi Đức Phật mới nói lên sáu bài Kệ sau đây:

Như cây đốn còn gốc bền, rễ cứng
Sẽ đâm chồi mọc lại vững như xưa,
Gốc ái-dục tuỳ-miên chưa nhổ bứng,
Khổ “sanh-già-chết” cứ mãi dây-dưa.
(Kệ số 338.)

Băm-sáu dòng “ái-dục” cuồn-cuộn chảy,
Đẩy mạnh người mê vào lạc-thú.
Tư-tưởng ái-tham vùng nổi dậy,
Lôi cuốn người tà-kiến như cơn lũ.
(Kệ số 339.)

Dòng “ái-dục” chảy tràn khắp chốn
Khiến dây leo bám chặt, đâm chồi.
Thấy rõ dây leo bò lổn-ngổn,
Với “dao” trí, đoạn hết gốc ngọn.
(Kệ số 340.)

Trong chúng-sanh, niềm vui cuộn chảy
Từ lục-trần, bị ái-dục nhuốm dơ.
Cầu hạnh-phước, nhưng dục-lạc mê-mờ,
Cảnh sanh-già nên mới chịu lấy.
(Kệ số 341.)

Ái-dục bao-vây, người vùng-vẫy
Như thỏ mắc lưới nhảy loanh-quanh.
Hễ còn bị ái-dục hành,
Là còn đau-khổ tử-sanh lâu dài.
(Kệ số 342.)

Ái-dục bao vây, người vùng-vẫy
Như thỏ mắc lưới, nhảy loanh-quanh.
Ly-dục, tỳ-kheo muốn đạt thành
Ái-dục, phải mau nhiếp-phục vậy.
(Kệ số 343.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Tịnh-xá Trúc-lâm, thành Vương-xá: ngôi tu-viện nầy cất trong vuờn Trúc, gần thủ-đô nước Ma-kiệt-đà (Magadha) do vua Tần-bà-sa-la (Bimbisara) dâng-cúng lên Phật và Tăng-đoàn. Tên tiếng Pali là tu-viện Veluvana, ở thành Ràjagaha. (Tịnh = yên-vắng; xá = nhà)

– Khất-thực: Khất = đi xin; Thực = ăn. Theo giới-luật, tỳ-kheo (còn gọi là Khất-sĩ ), chẳng được phép có nghề riêng để sanh-sống, phải đi xin ăn, trước để dẹp lòng tự-ái, hạ mình xuống đi xin kẻ khác, sau là để có dịp gặp dân-chúng để chỉ-dạy cách tu-hành cho họ.

– Tôn-giả A-nan: tên người thị-giả( = hầu-cận) của Đức Phật Thích-ca, tiếng Pali là Ananda. Tôn-giả vốn là em chú-bác với Đức Phật.

– Phật Câu-lưu-tôn: vị Phật nầy là vị Phật thứ nhứt ở Hiền-kiếp; tên bằng tiếng Pali là Kakusandha Buddha.

– Tái-sanh: Tái = trở lại một lần nữa; Sanh = sanh ra. Theo thuyết Luân-hồi trong đạo Phật, chúng-sanh có nhiều đời sống, cứ sanh rồi chết đi, lại sanh nữa, mãi mãi chịu khổ-đau trong vòng Luân-hồi.

– Quán-tưởng: suy-nghĩ sâu-xa.

– Vô-thường: Vô = chẳng; Thường = hằng còn. Lẽ vô-thường là Chơn-lý, theo đó muôn vật có hình-tướng phải chịu sự biến-đổi mãi, để đi đến hoại-diệt, chẳng thường-còn luôn luôn được.

– Phát-tâm tu-hành: mới khởi lòng muốn tu gọi là phát-tâm.

– Trời Phạm-Thiên: cõi Trời thuộc cảnh Sơ-thiền, trong Sắc-giới.

– Thiên-nữ: Thiên = Trời; Nữ = cô gái.

– Nghiệp-báo: Nghiệp = những hành-động đã qua; Báo = báo-ứng. Theo thuyết nghiệp-báo của nhà Phật, chúng-sanh sẽ tuỳ theo hành-động đã qua và ngày nay mà chịu lấy vận-mạng mình, gọi là chịu nghiệp-báo. Hễ làm lành, được nghiệp lành, sanh vào nơi sung-sướng; còn làm ác, có nghiệp dữ, sẽ đầu-thai vào nơi khổ-sở.

– Luân-hồi: Luân = bánh xe; Hồi = trở lại. Theo thuyết nhà Phật, chúng-sanh cứ sanh ra, rối chết đi, rồi theo nghiệp-báo tái sanh lại, để rồi lại chết nữa, cứ như thế mãi, cũng như bánh xe cứ lăn tròn vòng.

– Kệ: bài thơ ngắn, tóm-tắt lời giảng của Đức Phật.

– Ái-dục: Ái = thích, thương; Dục = ham-muốn. Ái-dục là tình-cảm thèm-khát, ham muốn theo các thú-vui vật-chất tạm-bợ ở đời. Tiếng Pali là Tanhà, còn được dịch là Tham-ái.

– Tuỳ-miên: đang ngủ, nằm sẵn đấy chờ cơ-hội sẽ nổi lên.

– Băm sáu dòng ái-dục: ba mươi sáu dòng ái-dục, 36 thứ ham-muốn, bám-víu. Tại sao có đến 36 dòng ái-dục? Vì ái-dục:

– sanh ra từ sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý: … … 6 dòng

– bám-víu vào sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp: … 6 dòng

– khởi lên trong ba thời: quá-khứ, hiện-tại vị-lai: … … … x 3 thời

Tổng cộng lại: (6 + 6) x 3 = 36 dòng ái-dục.

– Lạc-thú: Lạc = vui. Lạc-thú là thú vui.

– Tà-kiến: Tà = xiêng-xéo, chẳng đúng; Kiến = ý-kiến. Có hai tà-kiến quan-trọng: (1) thường-kiến: cho rằng chúng-sanh có linh-hồn bất-biến, thường-còn, hễ đã sanh làm người rồi thì chẳng tái-sanh làm thú -vật đuợc; (2) đoạn-kiến: cho rằng chết là hết, chỉ có đời nầy thôi

– Cơn lũ = cơn lụt-lội, nước dâng cao ngập tràn khắp nơi.

– Dây leo: loài cây thân như dây leo quấn vào thân cây khác.

– Dao trí: ví Trí-huệ như con dao bén, cắt đứt được hết phiền-não

– Lục-trần: sáu trần, tức là sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp.

– Bị ái-dục hành: bị ái-dục hành-hạ, bị sự thèm-khát thúc-đẩy.

– Ly-dục: Ly = lià xa; Dục = ham muốn.

– Nhiếp-phục:: khuất-phục, kềm-chế, lấy lại quyền làm chủ.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện kể lại tiền-kiếp của một con heo nái, trôi lăn trong vòng lẩn-quẩn của Luân-hồi. Trong một kiếp trước, vốn là một con gà mái, biết nghe kinh; sau sanh làm công-chúa, phát-tâm tu-hành, nên được sanh lên cõi Trời; rồi vì hết phước và phải chịu nghiệp-báo mới tái-sanh vào hàng súc-sanh, mang thân heo. Khi kể lại tiền-kiếp đó, Đức Phật dạy, phải tu để dứt nghiệp mới thoát khỏi vòng Luân-hồi.

(2) Ý-nghĩa của sáu bài Kệ, từ số 338 đến số 343:

Cả sáu bài Kệ đều nói về nguyên-nhơn gây đau-khổ cho chúng-sanh trôi lăn trong Luân-hồi chính là ái-dục và khuyên ta nên đào-bứng hết gốc-rễ của lòng ham-muốn chạy theo thú-vui tạm-bợ ở đời.

Xin phân-tách để tìm ý-nghĩa riêng từng bài:

Kệ số 338: gốc ái-dục nhổ chưa hết rễ, còn chịu khổ dây-dưa.

1) “Như cây đốn còn gốc bền, rễ cứng, Sẽ đâm chồi mọc lại vững như xưa”: gốc còn rễ là còn mầm sống, đâm chồi trở lại, cũng như còn luyến-tiếc là chưa dứt bỏ được ái-dục (tham muốn);

2) “Gốc ái-dục tùy-miên chưa nhổ bứng, Khổ ‘sanh-già-chết’ cứ mãi dây-dưa”: ‘Tuỳ-miên’ là còn đang ngủ đó, chưa chết đâu; hễ còn ái-dục là còn phải tái-sanh, do đó còn phải chịu mãi cảnh khổ sanh, già, bịnh, chết trong cõi Luân-hồi.

Kệ số 339: sức lôi-cuốn của ái-dục mạnh-mẽ như cơn lũ-lụt.

1) “Băm-sáu dòng ái-dục cuồn-cuộn chảy, Đẩy mạnh người mê vào lạc thú”: sáu căn bấu-víu vào sáu trần qua ba thời quá-khứ, hiện-tại và vị-lai, tạo nên sức mạnh xô-đẩy người mê đi tìm thú-vui tạm-bợ

2) “Tư-tưởng ái-tham vùng nổi dậy, Lôi cuốn người tà-kiến như cơn lũ”: vì sáu căn kẹt vào sáu trần khiến tà-kiến bên trong tâm nổi dậy, lôi-cuốn người mê chẳng khác nào cơn lụt to tràn ngập khắp nơi.

Kệ số 340: dùng ‘dao’ Trí-huệ cắt đứt hết gốc ngọn của ái-dục

1) “Dòng ái-dục chảy tràn khắp chốn, Khiến dây leo bám chặt, đâm chồi.”: sức mạnh của ái-dục khiến cho sự bấu-víu của căn-trần càng chặt-chẽ, như dây leo đâm chồi, mọc lá, bám quanh thân cây;

2) “Thấy rõ dây leo bò lổn-ngổn, Với ‘dao’ Trí đoạn hết gốc ngọn”: NhờTrí-huệ soi sáng thấy ái-dục bám-víu như các dây leo bò lổn-ngổn, liền chặt đứt, liền đoạn hết cả gốc rễ của sự tham-luyến. Nói cách khác, nhờ tỉnh-giác, thắp sáng lên đuốc Tuệ, vung gươm Trí lên mà cắt đứt được ái-dục.

Kệ số 341: lạc-thú ở đời bị ái-dục nhuốm dơ, nên phải chịu khổ

1) “Trong chúng-sanh, niềm vui cuộn chảy, Từ lục-trần, bị ái-dục nhuốm dơ”: Cuộc sống trong Luân-hồi khổ nhiều sướng ít, nhưng vẫn có niềm vui; tiếc thay, nguồn vui sống đó vì các căn bám-víu vào các trần, nên bị ái-dục làm nhiễm dơ;

2) “Cầu hạnh-phước, nhưng dục-lạc mê-mờ”: việc tìm cầu hạnh-phước trong cuộc sống là đìều chánh-đáng, nhưng tiếc thay, con người lại bị mê-mờ vì quá tham muốn các dục-lạc, các thú-vui vật-chất thấp-hèn và tạm bợ, nên phải khổ;

3) “Cảnh sanh-già nên mới chịu lấy”: vì cố bám chặt vào các dục-lạc vật-chất còn chưa được thỏa-mãn hết, nên cứ mãi chịu cảnh khổ của sanh-già-bịnh-chết.

Kệ số 342: còn chưa thoát lưới ái-dục là còn chịu khổ tử-sanh.

1) “Ái-dục bao vây, người vùng-vẫy, Như thỏ mắc lưới, nhảy loanh-quanh”: con người bị ái-dục bao vây nào khác chi con thỏ bị mắc lưới, cố vùng-vẫy mà chẳng thoát ra được. Tại sao? Vì còn tiếc.

2) “Hễ còn bị ái-dục hành, là còn đau khổ tử-sanh lâu dài”: Ái-dục hành-hạ con người bằng cách thúc-đẩy chạy theo các thú-vui vật-chất quá tầm tay, chẳng được thoả-mãn nên chẳng những khổ trong hiện-đời, mà còn phải trôi-lăn mãi trong cảnh sống-chết của Luân-hồi.

Kệ số 343: muốn ly-dục hoàn-toàn, tỳ-kheo phải diệt ái-dục.

1) Hai câu đầu nhắc lại thí-dụ thỏ mắc lưới ở bài Kệ 342 trước.

2) “Ly-dục, tỳ-kheo muốn đạt thành, Ái-dục, phải mau nhiếp-phục vậy”: đạt thành bực ly-dục là chứng quả A-la-hán vô-sanh, căn bản tu-tập là phải mau diệt ái-dục, dẹp bỏ hẳn sự tríu-mến, luyến-tiếc.

(242).- Tích chuyện tên trộm bị xử tử.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại Tînh-xá Trúc-lâm, gần thành Vương-xá, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến một tên trộm bị xử tử-hình.

Thuở ấy, có một vị tỳ-kheo làm đệ-tử cho Tôn-giả Đại Ca-diếp, tu-tập đắc được bốn cảnh Thiền. Một hôm trong khi đi khất-thực tại nhà người chú, thấy một người đàn-bà, người ấy sanh lòng thương-yêu muốn cưới, mới xin hoàn-tục. Sau khi rời Tăng-đoàn, vị ấy trở về nếp sống của thường-nhơn, nhưng chẳng biết làm nghề chi để sanh-nhai. Bị đuổi ra khỏi nhà, người ấy đi lang-thang một dạo, rồi kết bè với bọn trộm. Chẳng may, cả bọn bị bắt và bị lên án tử-hình.

Trên đường bị dẫn ra nghĩa-điạ để chém đầu, vị cựu-tỳ-kheo gặp được Tôn-giả Đại Ca-diếp. Tôn-giả trông thấy người đệ-tử cũ sắp bị hành-hình, mới dạy rằng: “Nầy đệ-tử, con phải nên tập-trung tư-tưởng ngay để quán-chiếu về lẽ thân-tâm vô-thường.” Vị cựu-tỳ-kheo vâng lời, liền khẩn-thiết quán-tưởng. Trong khi các người đao-phủ lo dọn-dẹp pháp-trường để hành-quyết thì vị cựu-tỳ-kheo đã nhập định, gương mặt tươi-tỉnh, chẳng có chút gì lo-sợ như các tội-nhơn khác đang kêu khóc. Dân-chúng rất ngạc-nhiên và các đao-phủ dừng đao lại, chẳng dám chém vị cựu-tỳ-kheo. Họ trở về trình lại, đức Vua liền ra lịnh tha tội và sai dẫn vị ấy đến gặp Đức Phật. Đức Phật liền đọc bài Kệ sau đây:

Lià rừng ‘ái’, hướng đến rừng ‘tu’
Bỏ rừng ‘tu’, trở lại nhà nầy.
Xuất-gia hoàn-tục xem đây,
Như người cổi trói lấy dây buộc mình.
(Kệ số 344.)

Sau khi lắng nghe bài Kệ, tâm vị cựu-tỳ-kheo quán-chiếu tánh-cách vô-thường, bất-toại-nguyện và vô-ngã của thân-tâm năm uẩn nầy, nên chứng được quả-vị Tu-đà-huờn. Khi được tự-do khỏi tội, vị ấy liền xin phép thọ-giới tỳ-kheo trở lại, và tinh-tấn tu-tập, chẳng bao lâu chứng được quả-vị A-la-hán.

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Tịnh-xá Trúc-lâm, thành Vương-xá: ngôi chùa nầy cất trong vườn trúc, được vua Tần-bà-sa-la (Bimbisara) dâng cúng Đức Phật, gần thủ-đô Ràjagaha nước Ma-kiệt-đà (Magadha). Tiếng Pali: Veluvana.

– Tử-hình: Tử = chết, Hình = hình-phạt; Tử-hình là xử tội chết.

– Tôn-giả Đại Ca-diếp = vị đại-đệ-tử của Phật Thích-ca, giỏi bực nhứt về hạnh đầu-đà; tên tiếng Pali là Mahà Kassapa.

– Bốn cảnh Thiền: tu Thiền lần-lượt chứng được sơ-thiền, nhị-thiền, tam-thiền và tứ-thiền.

– Hoàn-tục: Hoàn = trở lại; Tục = thế-tục, đời sống thường; Hoàn-tục là nói đến các vị ty-kheo rời chùa trở lại đời sống cũ với gia-đình.

– Hành-hình = đem ra xử tội; ở đây là đem chém đầu.

-Tập-trung tư-tưởng: gom ý lại, chú tâm vào một điểm duy-nhứt.

– Thân-tâm vô-thường: thân-tâm nầy chẳng thường còn mãi, sẽ bị hư-hoại, chết đi. Ở đây, biết đệ-tử mình sắp bị xử chém, Tôn-giả dạy như thế là để cho đệ-tử khỏi lo-sợ trước khi chết.

– Khẩn-thiết: Khẩn = gấp;Thiết = tha-thiết. Ở đây là cố làm hết sức.

– Đao-phủ: người cầm đao chém đầu tội-nhơn.

– Nhập Định: Nhập = vào; Định = an-ổn, ở yên. Khi tu Thiền, tâm dừng lại, chú vào đề-tài quán-tưởng, chẳng lo ra, chẳng bị cảnh bên ngoài lôi-cuốn nữa, đó là đang nhập định.

– Xuất-gia: Xuất = ra khỏi; Gia = nhà; Xuất-gia là rời nhà đi tu.

– Vô-thường: chẳng thường-còn, bị biến-đổi để rồi hư-hoại mất.

– Bất-toại-nguyện: Bất = chẳng; Toại = vừa-ý; Nguyện = mong cầu. Tánh-cách bất-toại-nguyện là chẳng đem lại sự vừa-ý mong-muốn.

– Vô-ngã: Vô = chẳng; Ngã = Ta. Tánh-cách vô-ngã là chẳng có Ta, chẳng có chủ-thể, chẳng có linh-hồn bất-diệt ở nơi thân nầy cả.

– Thân-tâm năm uẩn = Năm uẩn là: (1)sắc-uẩn, thân thể-xác; (2)thọ-uẩn, các cảm-thọ; (3)tưởng-uẩn, các tư-tưởng; (4)hành-uẩn, các hành-động; (5) thức-uẩn, các hiểu-biết. Sắc-uẩn là thân; bốn uẩn còn lại là tâm.

– Tu-đà-huờn: quả-vị đầu-tiên, còn gọi là Nhập-lưu (gia nhập vào dòng Thánh), hay Thất-lai (chỉ còn tái-sanh bảy lần nữa thì nhập Niết-bàn). Tiếng Pali là Sotàpatti.

– Thọ-giới tỳ-kheo: làm lễ nhận tuân theo 250 giới của tỳ-kheo.

– A-la-hán: quả-vị thứ tư, cao nhứt, chẳng còn tái-sanh nữa, dứt được Luân-hồi, chứng-đắc Niết-bàn. Tiếng Pali là Arahant.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc một vị tỳ-kheo hoàn-tục, theo bọn bất-lương đi ăn trộm, bị bắt và kết tội tử-hình. Trên đường ra pháp-trường, người ấy gặp Tôn-giả Đại-Ca-diếp là thầy cũ dạy đạo. Tôn-giả khuyên người đệ-tử phải chí-tâm quán-tưởng thân-tâm vô-thường. Nhờ biết nghe lời thầy, khẩn-thiết hành Thiền ngay lúc ấy, nên vị cựu-tỳ-kheo trở nên bình-thản, gương mặt tươi-tỉnh, chẳng chút lo-sợ. Bọn đao-phủ ngạc-nhiên, chẳng dám chém, trình lại Vua. Vua ra lịnh dẫn đến gặp Phật. Nghe lời Phật dạy, vị ấy trở lại thọ-giới tỳ-kheo, chẳng bao lâu chứng được quả-vị A-la-hán.

Ý-nghĩa Tích chuyện là đã đi tu là chọn con đường giải-thoát, mà lại hoàn-tục, đó cũng như người được cổi trói rồi, nay lại lấy dây tự buộc mình lần nữa.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 344:

Ý-nghĩa của bài Kệ: đi tu là đang được giải-thoát; còn hoàn-tục là đang được cởi trói, mà lấy dây ra buộc mình lại.

Xin phân-tách từng câu của bài Kệ:

1) “Lià rừng ‘ái’, hướng đến rừng tu”: Lìa rừng tham-ái là lià đời sống thế-tục đầy tham-ái, dục-vọng và ràng-buộc, tức là xuất-gia; hướng đến rừng tu là bước vào con đường tu-tập, để được giác-ngộ và giải-thoát.

2) “Bỏ rừng tu, trở lại nhà nầy”: Rời bỏ nơi đang tu-hành yên-tịnh mà trở lại căn nhà phiền-não ồn-ào trước kia, tức là hoàn-tục.

3) “Xuất-gia, hoàn-tục, xem đây, Như người cổi trói lấy dây buộc mình”: Người xuất-gia là người được cổi trói. Ai đã trói? Vợ, con, gia-đình ràng-buộc. Cái gì đã trói? Các thú-vui vật-chất trong đời sống thế-tục, cảnh tranh-đấu vì tiền-tài, sự-nghiệp, danh-vọng đang trói. Đã được cổi các sợi dây ràng-buộc rồi, nay quay về chốn cũ để tự trói mình lần nữa, đó là hành-động thiếu suy-xét, rất đáng tiếc.

(243).- Tích chuyện các người tù bị xiềng-xích.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến các người tù bị xiềng-xích.

Thuở ấy, có ba mươi vị tỳ-kheo đi khất-thực trong thành Xá-vệ, trông thấy một đoàn người tù-tội tay bị còng, chơn bị xích được dẫn đi ngang qua hàng phố. Lúc về chùa, khi trình lên Đức Phật các điều đã trông thấy buổi sáng, có một vị tỳ-kheo thưa với Phật: “Bạch Thế-tôn, chẳng biết còn có vật nào trói buộc bền-chặt hơn còng, xiềng hay xích nữa chăng?” Đức Phật đáp: ‘Nầy chư tỳ-kheo, xiềng xích bằng sắt đó trói buộc còn chưa chặt chẽ bằng khát-vọng về thực-phẩm, về y-phục, về tài-sản, về gia-đình. Tham-ái kềm-kẹp con người nặng-nề gấp trăm, gấp ngàn lần xiềng, xích sắt. Cho nên, người hiền-trí mới cắt đứt tham-ái, rời xa căn nhà phiền-não mà gia-nhập Tăng-đoàn.

Rồi Đức Phật nói lên hai bài Kệ sau đây:

Xiềng bằng sắt, bằng gỗ, bằng gai,
Người trí bảo, chưa dai, chưa bền.
Luyến-lưu con thảo, vợ hiền,
Ngọc-ngà, trang-sức là xiềng chặt hơn.
(Kệ số 345.)

Ràng-buộc đó thật bền, người trí bảo,
Tuy mềm, nhưng trì nặng, thật khó tháo.
Bực hiền-trí dứt xong bao kiềm-toả,
Dục-lạc khước-từ, thoát khổ thế-gian.
(Kệ số 346.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Xiềng, xích: sợi dây, thường bằng sắt, để cột trói.

– Còng = cái khoá kẹp hai bàn tay chập lại nhau.

– Khát-vọng = ham-muốn nhiều; đòi cho được.

– Tham-ái = ham-muốn, thương-thích, tríu-mến đến quá mức.

– Tăng-đoàn: nhóm tu-sĩ Phật-giáo từ bốn người trở lên.

– Xiềng bằng gai = xiềng làm bằng dây gai (cây gai giống như cây bố, vỏ cây dùng dệt bao tải đựng lúa gạo.)

– Hiền-trí = người tánh hiền-lành và có trí-huệ thông-minh.

– Kiềm-tỏa: Kiềm = cây kềm;Toả = ống khoá. Nghĩa bóng: trói buộc.

– Dục-lạc: Dục = ham-muốn; Lạc = vui; Dục-lạc là ham sự vui-thú.

– Khước-từ = từ-chối, từ bỏ, lià xa.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất đơn-sơ, thấy các người tù bị còng tay, xích chơn đi ngang qua, vị tỳ-kheo hỏi Phật, có vật trói buộc nào còn chặt-chẽ hơn xiềng, xích chăng. Đức Phật đáp, sự tham-ái, mê-luyến tài-sản và gia-đình ràng-buộc con người còn nặng-nề hơn gấp trăm ngàn lần.

Ý-nghĩa của Tích chuyện khuyên ta nên sớm cắt đứt sự tham-ái, khước-từ mọi ham-muốn để chọn con đường tu-hành giác-ngộ và giải-thoát.

(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 345 và 346:

Hai bài Kệ nhập chung lại thành một bài dạy ta phải sớm cắt-đứt sự tham-ái, tríu-mến bên trong tâm ta, ràng-buộc chặt hơn xiềng-xích.

1) “Xiềng bằng sắt, bằng gỗ, bằng gai, Người trí bảo, chưa dai, chưa bền”: các loại xiềng-xích bằng sắt, bằng gỗ, hay bằng dây gai còn chưa bền, chưa dai, vì còn có thể tháo ra được.

2) “Luyến-lưu con thảo, vợ hiền, Ngọc-ngà, trang-sức là xiềng chặt hơn”: Thương con thảo, mến vợ hiền, quí tài-sản, đó là điều chánh-đáng; nhưng thương-mến đến mức quá tưng-tiu, chiều-chuộng, giữ bo-bo, đó là điều sai-lầm khiến ta trở thành nô-lệ mà chẳng hay biết; vì chẳng hay-biết mình đang bị ràng-buộc, nên sự ràng-buộc mới bền, mới dai, chẳng hề nghĩ đến lúc nào nên tháo-gỡ ra.

3)”Ràng-buộc đó thật bền, tuy mềm, nhưng trì nặng, khó tháo”: sự luyến-ái vì quá êm-dịu nên chính mình chẳng chịu tháo-gỡ ra, cho nên sức ràng-buộc của nó tuy mềm nhưng trì nặng, đeo-đẳng mãi.

4) “Bực hiền-trí dứt xong bao phiền-não, Dục-lạc khước-từ, thoát khổ thế-gian”: đây là bực chứng quả A-la-hán ly-dục (dứt mọi phiền-não, dục-vọng), thoát được khổ bị tái-sanh ở cõi Luân-hồi, hoàn-toàn giải-thoát, sống an-vui trong cảnh Niết-bàn vắng-lặng.

(244).- Tích chuyện Hoàng-hậu Khê-ma.

Tích chuyện nầy giống với Tích chuyện số (122) về công-chúa Gia-nhã-ba.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại Tịnh-xá Trúc-lâm, gần thành Vương-xá, trong kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến hoàng-hậu Khê-ma.

Bà Khê-ma là hoàng-hậu của vua Tần-bà-sa-la, nước Ma-kiệt-đà, rất hãnh-diện về nhan-sắc tuyệt đẹp của bà. Đức Vua muốn mời hoàng-hậu đến viếng Tịnh-xá Trúc-lâm và đảnh-lễ Đức Phật. Nhưng hoàng-hậu nghe nói Đức Phật thường chẳng khen-ngợi về sắc-đẹp, nên bà tránh né chẳng muốn gặp Phật. Vua sai các nhạc-sĩ tấu-nhạc lên ca-tụng cảnh-trí thanh-vắng và thơ-mộng của Tịnh-xá Trúc-lâm, khiến cho hoàng-hậu mê-thích, mới cùng đức Vua lên đường đến lễ Phật. Bấy giờ, Đức Phật đang giảng pháp. Ngài nhìn thấy bà Khê-ma, biết rõ tâm-trạng hãnh-dện sắc-đẹp của bà, nên mới dùng thần-thông biến ra một cô thiếu-nữ trẻ, xinh-tươi lộng-lẫy, ngồi quạt hầu sau lưng Đức Phật. Chỉ riêng có hoàng-hậu mới nom ra cô thiếu-nữ, hoàng-hậu càng ngắm, càng nhận ra nhan-sắc của mình thua xa cô ấy. Bỗng, cô gái biến thành một người thiếu-phụ trung-niên với mấy sợi tóc bạc phất-phơ trên trán. Chẳng mấy chốc, người thiếu-phụ lại khòm lưng, tay cầm quạt chẳng muốn nổi, nét nhăn trên da mặt trông như một cụ-già. Ô kià, cụ già đó lại ngã lăn ra chết, rồi thân-thể sình chướng lên, dòi bọ đục-khoét để lộ xương trắng-hếu. Vừa lúc đó, bài pháp của Đức Phật cũng chấm-dứt. Tâm-trạng của hoàng-hậu biến-đổi nhanh-chóng, từ sự mê-luyến tấm thân đẹp-đẽ, chuyển sang sự ngao-ngán thấy nhan-sắc tàn-phai quá mau lẹ, lẽ vô-thường sớm đưa đến sự hoại-diệt của thân-tâm. Đức Phật soi thấy rõ tâm-trạng đó của hoàng-hậu, mới nói tiếp: “Nầy Hoàng-hậu, Hoàng-hậu có nhìn thấy nhan-sắc lộng-lẫy kia chẳng mấy chốc đã biến thành một đống xương trắng, để nhận ra lẽ vô-thường của thân-tâm không? Mê-luyến nhan-sắc chẳng bền-vững kia chỉ khéo kéo ta vào khổ-đau của Luân-hồi.”

Rồi Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây, nhờ đó hoàng-hậu Khê-ma chứng được quả Tu-đà-huờn, về sau thọ-giới tỳ-kheo-ni và được Phật mời cầm đầu Ni-đoàn:

Người mê dục-lạc rơi trở vào dòng,
Như nhện chăng tơ lọt vào lưới nó.
Bực hiền-trí, ái-tham đều cắt bỏ,
Thoát mọi ưu-phiền, cất bước thong-dong.
(Kệ số 347,)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Khê-ma: tên tiếng Pali là Khemà; Tần-bà-sa-la = Bimbisara.

-Trúc-lâm = Veluvana; Vương-xá = Ràjagaha; Ma-kiệt-đà = Magadha.

– Tâm-trạng = những gì đang xảy ra bên trong tâm của một người

– Thần-thông = khả-năng mầu-nhiệm, do định-lực tu-hành cao.

– Trung-niên: tuổi trung-bình khoảng bốn, năm mươi; sồn-sồn.

– Vô-thường: chẳng bền, hay biến-đổi, để đi đến tiêu-diệt.

-Tu-đà-huờn: quả-vị thứ nhứt, còn gọi là Nhập-lưu hay Thất-lai, tiếng Pali là Sotàpatti

-Ni-đoàn: đoàn-thể nữ-tu-sĩ Phật-giáo. Ni = tỳ-kheo-ni = Bhikkhuni

– Dục-lạc: Dục = ham-muốn; Lạc = vui. Dục-lạc chỉ thú-vui thấp.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Nhờ trông thấy sắc đẹp một cô thiếu-nữ chóng tàn-phai, trở thành một cụ-già lụm-cụm rồi lăn ra chết, Hoàng-hậu Khê-ma sớm thức-tỉnh. Bà nghe lời khuyên của Đức Phật, lìa bỏ sự tham-luyến vào thân-tâm vô-thường, gia-nhập Ni-đoàn, thoát khỏi cảnh khổ Luân-hồi.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 347:

Bài Kệ khuyên ta sớm cắt bỏ sự ái-dục để chọn đường giải-thoát.

1) “Người mê dục-lạc rơi trở vào dòng”: Vì ham thú-vui vật-chất, tạm-bợ, ta lọt trở lại vào dòng khát-ái từ trong tâm ta chảy ra.

2) “Như nhện chăng tơ lọt vào lưới nó”: ta bị chính tham-ái của ta kéo vào cảnh khổ, nào khác chi nhện kia lọt vào lưới của nó.

3)”Bực hiền-trí, ái-tham đều cắt bỏ, Thoát mọi ưu-phiền, cất bước thong-dong”: đây là bực tu-hành đã chứng được quả-vị A-la-hán: mọi ái-tham cắt-đứt, mọi phiền-não dứt sạch, mọi chướng-ngại vượt qua, thoát khỏi cảnh tái-sanh trôi-lăn trong vòng Luân-hồi, nay được thong-dong, tự-tại trong cảnh-giới Niết-bàn an-vui, vắng-lặng.

(245).- Tích chuyện người diễn trò nhào-lộn.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến chàng Úc-ga diễn trò nhào-lộn.

Thuở ấy, có một đoàn hát xiệc đến trình-diễn ở thành Vương-xá trong bảy ngày. Đủ bảy ngày, chàng Úc-ga, con nhà giàu-có, đều theo coi, lòng mê-tít nhan-sắc của cô gái trẻ-đẹp có tài nhào-lộn trên đầu ngọn tre cao gần mười thước. Chàng xin cưới nàng, và bỏ nhà theo gánh xiệc. Vì chẳng có nghề gì để sanh-sống, Úc-gia xin làm phu khuân-vác đồ-đạc, đẩy xe cho đoàn hát. Năm sau, sanh được một đứa con trai, vợ chàng thường hát ru con ngủ:

Con ơi, con ngủ cho say,
Cha con ngu-dốt cả ngày đẩy xe.
Chẳng tài, chẳng học, chẳng nghề.
Lớn lên, con chớ theo bề cha con.

Mỗi khi nghe giọng ru con của vợ, Úc-gia rất hỗ-thẹn, mới xin người cha vợ dạy cho nghề nhào-lộn. Chẳng bao lâu, học-hành có tấn-bộ, Úc-gia trình-diễn cũng được nhiều người hoan-hô.

Một hôm, Úc-gia đang nhún-nhẩy trên ngọn sào tre, dân-chúng vỗ tay tán-thưởng, thì đoàn khất-sĩ của Đức Phật đi đến. Mọi người tranh nhau đảnh-lễ Phật, chẳng ai màng nhìn tiếp trò nhào-lộn. Đứng trên ngọn sào, lòng Úc-gia chán-nãn, nhưng tai lại nghe lời Đức Phật đang nói văng-vẳng bên dưới: “Nầy chư thiện-nam, tín-nữ, chớ tham-luyến vào thân-tâm năm uẩn, hãy mau mau tìm lối thoát khỏi vòng tử-sanh lận-đận của Luân-hồi.”

Rồi Đức Phật lại nói lên bài Kệ sau đây, khiến cho Úc-gia thức-tỉnh, sau đó rời đoàn hát, xin thọ-giới tỳ-kheo, chẳng bao lâu chứng được quả-vị A-la-hán:

Dĩ-vãng bỏ qua,
Tương-lai chẳng ngại,
Hiện-tại chẳng màng.
Bờ bên kia dòng sanh-tử, vượt sang,
Trí thanh-tịnh, cùng với tâm tự-tại,
Cảnh Luân-hồi sanh-lão, chẳng trở lại.
(Kệ số 348.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Úc-ga = tên chàng trai nầy, tiếng Pali là Uggasena.

– Xiệc = phiên-âm chữ Pháp là cirque, gánh hát diễn trò nhào-lộn

– Trình-diễn: diễn trò cho dân-chúng xem.

– Tán-thưởng = khen-ngợi.

– Thiện-nam, tín-nữ: Thiện = lành, Nam = đàn-ông; Tín = tin-tưởng; Nữ = đàn-bà. Thiện-nam, tín-nữ chỉ về dân-chúng tin nghe theo đạo.

– Khất-sĩ: Khất = đi ăn xin; sĩ = người; Khất-sĩ, Tỳ-kheo, Bhikkhu, là tu-sĩ Phật-giáo, đi xin để nuôi thân, chẳng được phép có nghề riêng.

– Thân-tâm năm uẩn: thân người gồm có năm uẩn: (1) sắc-uẩn, thân xác-thịt; (2) thọ-uẩn, các cảm-thọ; (3) tưởng-uẩn, các tư-tưởng; (4) hành-uẩn, các hành-động; (5) thức-uẩn, các sự hiểu-biết. Sắc-uẩn là thân, bốn uẩn còn lại là tâm. Thân-tâm nầy do năm uẩn do nhơn-duyên tạm-thời họp nhau mà thành, hết duyên sẽ tan-rả, chẳng bền-vững, vô-thường; do đó, ta chớ nên tham-luyến quá.

– Luân-hồi: Luân = bánh xe; Hồi = trở lại. Theo thuyết nhà Phật, chúng-sanh có nhiều đời sống, mãn kiếp nầy sẽ tuỳ nghiệp mà sanh lại, để rồi lại chết đi, rồi lại tái-sanh, cứ như thế mãi, cũng như bánh xe quay một vòng rồi lăn tiếp; đó là vòng sanh-tử lận-đận của Luân-hồi.

– Thức-tỉnh = tỉnh-ngộ, biết mình trước lầm, nay nghe nói mới hiểu ra được sự-thật.

– Thọ-giới tỳ-kheo = làm lễ nhận tuân theo giới-luật của tỳ-kheo mà tu-hành. Tỳ-kheo-giới còn gọi là cụ-túc-giới, gồm có 250 điều răn-cấm; trong khi đó người tu tại-gia chỉ có 5 điều cấm mà thôi.

– A-la-hán: quả-vị thứ tư, bực Thánh. Tu đã dứt được hết các phiền-não, vượt qua hết các chướng-ngại, lià bỏ mọi tham-muốn ( = ly-dục), chứng được vô-sanh ( = chẳng còn bị tái-sanh trong Luân-hồi) mới đắc quả A-la-hán. Theo nghĩa chuyên-môn, A-la-hán có ba nghĩa: (1) ứng-cúng, xứng-đáng cho Trời, người cúng-dường; (2) sát-tặc, giết hết giặc, giặc phiền-não (như tham, sân, si…); (3) vô-sanh ( = chẳng còn tái-sanh, vào Niết-bàn tịch-diệt), Tiếng Pali là Arahant.

– Tự-tại: tự-do, chẳng bị ràng-buộc. Ngoài đời nói tự-do, trong Đạo gọi tự-tại.

– Sanh-lão = sanh già. Nói đủ bốn điều Khổ là: sanh, lão, bịnh, tử.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc thanh-niên Úc-ga vì mê cô đào trong gánh xiệc, cưới cô và theo sống trong gánh hát, phụ-giúp việc khuân-vác. Sau chàng học được nghề nhào-lộn; một hôm đang trình-diễn, bỗng nghe Đức Phật nói pháp, liền tỉnh-ngộ, rời gánh hát đi tu, chứng được quả-vị A-la-hán.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là lời dạy của Đức Phật: chớ mê-luyến thân-tâm năm uẩn, phải chuyên-tu để thoát khỏi Luân-hồi.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 348:

Đây là một trong các bài Kệ quan-trọng nhứt của Kinh Pháp-Cú, tưởng nên học thuộc lòng để ghi nhớ lời Phật dạy mãi.

Xin phân-tách từng câu:

1. Ba câu đầu: “Dĩ-vảng bỏ qua, Tương-lai chẳng ngại, Hiện-tại chẳng màng”: Sao lại bỏ qua dĩ-vãng? Vì dĩ-vãng đã qua rồi, có nhớ lại cũng chẳng sửa đổi được. Sao lại chẳng ngại tương-lai? Vì tương-lai còn chưa đến, dầu có ngại cho lắm cũng chẳng ích-lợi chi, chỉ cần biết sẵn-sàng đối-phó là đủ. Còn hiện-tại mà chẳng màng nữa, thì màng cái chi? Trong hiện-tại biết mình đang tu-tập đúng đường-lối giải-thoát, đó là điều đáng màng. Đang tu-tập là đang gát qua bên cảnh-vật hiện-tại ở chung-quanh, chỉ biết ngay trong giờ phút nầy đây, tâm ta đang hướng về bên trong, gột bỏ mọi phiền-não, chận đứng mọi vọng-tưởng, đó là điều đáng màng. Nói cách khác, hiện-tại chỉ đáng màng, khi giữ được chánh-niệm trong tâm.

2) “Bờ bên kia dòng sanh-tử, vượt sang”: Bờ bên kia là bờ giác-ngộ. Vượt được dòng sanh-tử là thoát khỏi cảnh tái-sanh của Luân-hồi. Trọn câu nầy nói đến sự tu của bực thánh, chứng quả-vị A-la-hán.

3) “Trí thanh-tịnh, cùng với tâm tự-tại”: đây là Trí-huệ Bát-nhã Ba-la-mật, và chơn-tâm vừa thanh-tịnh, vừa chẳng bị ràng-buộc. Nói cách khác, tâm, trí ấy chính là tâm-trí của bực đắc quả Thánh.

4) “Cảnh Luân-hồi sanh-lão, chẳng trở lại”: đây là chứng-đắc Niết-Bàn, chẳng còn phải tái-sanh mãi trong vòng Luân-hồi để chịu khổ nữa.

(246).- Tích chuyện người thiện-xạ.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến một vị tỳ-kheo mà kiếp trước là một chàng thiện-xạ.

Thuở ấy, có một vị tỳ-kheo sau khi đi khất-thực, ngồi ăn trong một cái am vắng. Sau đó, khát nước, vị ấy mới lần vào một xóm nhà, xin nước uống. Một người đàn-bà đem nước ra dâng, trông thấy dáng-mạo đoan-trang của vị tỳ-kheo, bỗng nổi lên lòng thương-yêu, muốn dùng cách để mê-hoặc. Khi sắp ra đi, vị tỳ-kheo được người đàn-bà thỉnh ngày mai trở lại để nhận lễ cúng-dường. Sáng hôm sau, đợi khi vị tỳ-kheo thọ-thực xong, người đàn-bà lên tiếng than-thở: “Bạch đại-đức, nhà con vắng-vẻ quá, chẳng có người đàn-ông trông trước trông sau!” Vị tỳ-kheo nghe hiểu được ý-ngầm của người đàn-bà, tuy ra về chùa, mà lòng còn vấn-vương mơ-tưởng.

Ngày qua ngày, vị tỳ-kheo ấy lòng buồn-bã, biếng việc tu-hành, thân-hình càng ngày càng tiều-tụy. Các bạn đồng-tu mới thưa-trình sự-việc lên Đức Phật. Đức Phật bảo: ‘Nầy tỳ-kheo, người đàn-bà làm cho con tơ-tưởng mãi trong tâm, vốn là vợ con trong tiền-kiếp. Đời trước, con vốn là một nhà thiện-xạ, bắn cung thật giỏi. Một hôm, hai vợ chồng đang đi trong rừng vắng, bỗng bị bọn cướp chận đường. Trong khi con nỗ-lực chiến-đấu với tên đầu-đảng, thì vợ con nhìn thấy thân-hình vạm-vỡ của tướng cướp mà sanh lòng yêu. Con hô lên, bảo vợ đưa thanh gươm trong bịt để chém tên cướp; nhưng vợ con lại trao thanh kiếm cho kẻ thù. Kết-quả là con bị giết chết và vợ con đi theo sống với tên đầu-đảng. Người đàn-bà ấy đã hại một đời con như thế, nay lại tìm cách quyến-rũ con hoàn-tục, phá luôn thêm cuộc đời tu-hành giải-thoát của con.”

Rồi Đức Phật mới nói lên hai bài Kệ sau đây:

Người bị ý chẳng lành kích-thích,
Ái-tham nhiều, thấy sắc mê-tít;
Ái-dục nơi người càng gia-tăng,
Ma-vương trói buộc thêm chằng-chịt.
(Kệ số 349.)

Người dẹp ý chẳng lành an-định,
Tỉnh-giác, thường quán thân bất-tịnh,
Ái-dục nơi người bỏ dứt xong,
Ma-vương muốn trói, đừng có hòng.
(Kệ số 350.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Thiện-xạ: Thiện = giỏi; Xạ = bắn. Thiện-xạ là người bắn giỏi.

– Am = cốc, ngôi nhà nhỏ làm nơi thờ-phượng.

– Đoan-trang = đẹp và trang-nghiêm.

– Mê-hoặc = dụ-dỗ vào đường quấy.

– Thọ-thực: Thọ = nhận; Thực = ăn. Tiếng nhà chùa, nghĩa là ăn.

– Đại-đức = tiếng tôn-xưng gọi bực tu-hành.

– Ý-ngầm = ý dấu kín bên trong, chỉ nói mí, chẳng nói toạc ra.

– Tơ-tưởng = mơ-tưởng đến hoài và có ý-định về tình-ái.

– Tiền-kiếp = kiếp trước.

– Hoàn-tục = trở lại đời sống có gia-đình, bỏ việc tu ở chùa.

– Kích-thích = gây cảm-xúc mạnh khiến cho phải hành-động; xúi-dục, thúc-đẩy.

– Ái-tham: Ái = thương, thích; Tham = ham muốn quá chừng. Chữ ái-tham dùng dịch chữ Tanhà của tiếng Pali. Đây là nguyên-nhơn gây ra đau-khổ, tức là Tập-đế trong Tứ-diệu-đế. Hễ diệt được ái-dục, bứng hết gốc rễ của nó, thì thoát được khổ-đau trong cõi Luân-hồi, chẳng còn phải tái-sanh nữa.

– Ái-dục: Ái = thương, thích; Dục = ham-muốn. Chữ ái-dục được dùng để chỉ sự ham-muốn chạy theo các thú-vui vật-chất thấp và tạm-bợ.

– Gia-tăng = thêm lên.

– Tỉnh-giác = tâm chú-ý luôn giữ chánh-niệm, chẳng buông-lung

– Quán thân bất-tịnh: suy-nghĩ sâu xa về tấm thân vật-chất bên trong chứa nhiều chất dơ, như mủ, nước tiểu, để hết đắm-say sắc-đẹp

– Ma-vương = vua Ma; nghĩa rộng là sự cám-dỗ, xúi làm bậy.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc một vị tỳ-kheo bị một người đàn-bà quyến-rũ, lòng mơ tưởng đến sắc-đẹp, muốn hoàn-tục, nên tu-hành biếng-nhác, thân-thể tiều-tụy. Vị tỳ-kheo được dẫn đến gặp Đức Phật, nghe kể lại, trong tiền-kiếp, người đàn-bà ấy đã từng là vợ phản-bội mình, trao gươm cho tướng cướp để giết chồng. Nay trong kiếp nầy, người ấy lại muốn phá-hoại thêm cuộc đời tu-hành của mình nữa, vị tỳ-kheo tỉnh-ngộ, dẹp bỏ ý hoàn-tục, mà tinh-tấn tu-hành trở lại.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là khi ý bất-thiện nổi lên trong tâm, phải dùng chánh-niệm mà chận bỏ đi ngay.

(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 349 và 350:

Bài Kệ số 349 nêu lên sự nguy-hiểm của ý chẳng lành ( = ý bất-thiện), khiến ta bị Ma-vương ( = sự cám-dỗ) lôi kéo theo con đường dữ. Ái-tham, ái-dục là những ý bất-thiện đó.

1) “Người bị ý chẳng lành kích-thích, Ái-tham nhiều, thấy sắc mê-tít”: Vì chẳng biết điều-phục các căn, để mắt chạy theo sắc-đẹp bên ngoài, nên ái-tham bên trong tâm xúi-dục theo con đường quấy.

2) “Ái-dục nơi người càng gia-tăng, Ma-vương trói buộc thêm chằng-chịt”: Ái-dục, sự ham-muốn theo các thú-vui vật-chất càng ngày càng thêm chồng-chất, đó là đang bị Ma-vương ( =sự cám-dỗ) trói buộc chặt-chẽ, khó thoát được.

Bài Kệ số 350 dạy ta cách cổi trói của Ma-vương, tức là làm cách nào để khỏi bị cám-dỗ theo các thú-vui vật-chất thấp-hèn và tạm-bợ.

1) “Người dẹp ý chẳng lành an-định”: mỗi khi ý bất-thiện nổi lên trong tâm, chánh-niệm nhận ra được ngay, liền chận lại, đuổi đi, khiến cho tâm trở nên an-định.

2) “Tỉnh-giác, thường quán thân bất-tịnh”: đây là hai cách hữu-hiệu, giữ tâm an-định và chận ý bất-thiện: (1) Tỉnh-giác: tâm luôn luôn chú-ý vào mọi ý-nghĩ khởi lên trong tâm; (2) Quán thân bất-tịnh: thường suy-nghĩ sâu-xa về tấm thân bề ngoài xem đẹp mà bên trong chứa chất dơ, nên sanh ra nhàm-chán, chẳng mê sắc-dẹp nữa.

3)‘’Ái-dục nơi người bỏ dứt xong, Ma-vương muốn trói, đừng có hòng”: Vì lòng ham-muốn( = ái-dục) đã dứt, đâu còn bị cám-dỗ nữa.

(247).- Tích chuyện Tôn-giả La-hầu-la bị Ma khuấy.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp có đề-cập đến việc Ma-vương khuấy-phá Tôn-giả La-hầu-la.

Thuở ấy, có một nhóm đông-đảo các tỳ-kheo từ các phương xa, về chùa Kỳ-viên, đảnh-lễ Đức Phật. Để đủ chỗ an-nghỉ về đêm, Tôn-giả La-hầu-la, con trai của Thái-tử Tất-đạt-ta khi chưa đi tu, mới nhường chỗ của mình, ra ngủ ở ngoài cửa hương-phòng của Đức Phật. Đến khuya, Ma-vương hiện lên làm một con voi to lớn, lấy vòi quấn chặt đầu Tôn-giả rồi lại rống lên nhiều tiếng quái-dị, để doạ-nhát. Nhưng Tôn-giả vẫn dửng-dưng chẳng chút lo-sợ, nao-núng chi cả. Từ trong hương-phòng, Đức Phật biết được cảnh ấy, mới nói với Ma-vương: “Nầy Ma-vương hiểm-độc, dầu cả hàng ngàn Ma-vương như ngươi đến phá, có làm sợ-hãi được con ta đâu. La-hầu-la chẳng hề sợ-hãi, thoát khỏi tham-ái, luôn luôn tỉnh-giác và sáng-suốt.”

Rồi Đức Phật nói lên hai bài Kệ sau đây, khiến cho Ma-vương biết Đức Phật đã rõ được sự khuấy-rối của mình, nên biến đi mất:

Mục-tiêu cứu-cánh, người đã chiếm,
Hết sợ, ly-tham, chẳng ô-nhiễm,
Nhổ mũi tên sanh-tử độc-hiểm,
Thân nầy là thân chót Luân-hồi.
(Kệ số 351.)

Lià ái-dục, chẳng hề chấp-thủ,
Biện-tài vô-ngại đủ bốn thứ:
Nghĩa, pháp, từ, thuyết có thứ-tự;
Thân nầy là thân chót Luân-hồi,
Vị ấy là Đại-trí vĩ-nhơn.
(Kệ số 352.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– La-hầu-la: tên tiếng Pali là Ràhula, con của Thái-tử Tất-đạt-ta (Sidharta) khi Ngài chưa đi tu thành Phật.

– Đảnh-lễ: cúi đầu lạy, làm lễ ra mắt bực trưởng-thượng.

– Hương-phòng: căn phòng có hương thơm dành riêng cho Đức Phật; tiếng Pali là Gandhakuti.

– Ma-vương: Vua Ma, trên cõi Trời Tha-hoá tự-tại, hay đi cám-dỗ, xúi dục người làm việc quấy; nghĩa bóng là sự cám-dỗ. (Pali là Màra.)

– Hiểm-độc = nguy-hiểm và độc-ác; tánh ác ngầm.

– Tỉnh-giác = Tỉnh = hết mê; giác = biết. Người tỉnh-giác luôn luôn bình-tỉnh, chú-ý đến mọi hành-động, lời nói và ý-nghĩ của mình; tâm giữ chánh-niệm, chẳng hề buông-lơi.

– Mục-tiêu cứu-cánh: Mục = con mắt; Tiêu = cái mốc nhìn để bắn vào; Mục-tiêu là chỗ mình nhắm vào khi làm việc gì; gần nghĩa với chữ Mục-đích. Cứu-cánh: cứu = cánh = cuối cùng, kết-quả chót. Mục-tiêu cứu-cánh, ở đây, là chứng-đắc được quả-vị A-la-hán, bực Thánh.

– Nhổ mũi tên sanh-tử: thoát khỏi cảnh sanh-tử của Luân-hồi.

– Chấp-thủ: nắm chặt, ôm cứng, bấu-víu chẳng chịu buông-bỏ đi.

– Biện-tài vô-ngại: Biện = hùng-biện, tranh-luận; Tài = tài giỏi; Vô = chẳng; Ngại = ngại-ngùng, lo-sợ. Biện-tài vô-ngại là có tài tranh-luận với kẻ khác mà chẳng hề sợ-hãi; cũng như tài hùng-biện.

– Nghĩa = ý-nghĩa thâm-sâu; Pháp = pháp-tu; Từ = chữ, lời nói; Thuyết = nói. Bốn chữ Nghĩa, Pháp, Từ, Thuyết là bốn điều mà người nói pháp nắm vững, khi tranh-luận với kẻ khác chẳng lo-ngại bị thua.

– Thân chót Luân-hồi: đây là tấm thân cuối-cùng, chẳng còn phải tái-sanh để mang thêm thân nào khác nữa, vì chứng được pháp-thân, thân vô-hình, bất-hoại và tự-tại trong cảnh Niết-bàn.

– Vĩ-nhơn: Vĩ = to-lớn, cao-cả; Nhơn = người. Bực vĩ-nhơn có tài-năng lớn, có chí-khí cao. Gần nghĩa với chữ Anh-hùng.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của T1ch chuyện:

Tích chuyện rất giản-dị, Tôn-giả La-hầu-la bị ma nhát mà chẳng hề sợ-hãi. Ý-nghĩa của Tích chuyện dạy ta phải bình-tỉnh, tỉnh-giác mỗi khi bị cám-dỗ, để theo đúng con đường thiện-lành.

(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 351 và 352:

Hai bài Kệ cùng nói đến bực Thánh, đã đạt được mục-tiêu tu-tập là chứng được quả-vị A-la-hán, thoát khỏi vòng sanh-tử của Luân-hồi.

Xin lần-lượt kể ra những đức-tánh của bực đã chứng A-la-hán:

Kệ số 351:

1) “Mục-tiêu cứu-cánh, người đã chiếm”: mục-tiêu đó là chứng được quả-vị A-la-hán, bực Thánh.

2) “Hết sợ, ly-tham, chẳng ô-nhiễm”: ba đức-tánh (1) chẳng lo-ngại; (2) dứt tham-ái; (3) chẳng hề dính-nhiễm điều dữ-ác.

3) “Nhổ mũi tên sanh-tử độc-hiểm,Thân nầy là thân chót Luân-hồi”: chẳng còn bị tái-sanh nữa trong cõi Luân-hồi đau-khổ nầy.

Kệ số 352:

1) “Lià ái-dục, chẳng hề chấp-thủ”: hai đức-tánh: (1) bỏ hết mọi ham-muốn các thú-vui vật-chất thấp-hèn; (2) dẹp bỏ mọi thành-kiến, mọi tà-kiến, chẳng bấu-víu vào điều gì cả.

2) “Biện-tài vô-ngại đủ bốn thứ: Nghĩa, pháp, từ, thuyết có thứ-tự”: vì đã thấm-nhuần Chánh-pháp, lại được tài hùng-biện, nên khi tranh-luận, lúc giảng-pháp, đều thành công mỹ-mãn.

3) “Thân nầy là thân chót Luân-hồi, Vị ấy là Đại-trí vĩ-nhơn”: đó là vị Thánh dùng Trí-huệ lớn ( = Trí Bát-nhã Ba-la-mật) mà vượt qua được vòng sanh-tử của Luân, bỏ nhục-thân, chứng pháp-thân bất-hoại

(248).- Tích chuyện ẩn-sĩ Ưu-ba-ca.

Thuở ấy, khi Đức Phật vừa thành Đạo dưới cội cây Bồ-đề, Ngài nghĩ đến năm người bạn-đạo cũ, muốn chỉ-dạy cho họ đường-lối tu-hành mà Ngài đã thành-công, mới đi đến vuờn Lộc-uyển, gần thành Ba-la-nại để gặp họ.

Khi xưa, lúc còn theo lối khổ-hạnh mỗi ngày chỉ ăn một nắm mè để sống, tu-sĩ Cồ-đàm có năm người bạn, đứng đầu là ông Kiều-trần-như đi theo học đạo. Đến khi nhận thấy lối ép-xác chẳng đưa đến kết-quả mong-muốn, tu-sĩ Cồ-đàm trở lại ăn uống bình-thường, mỗi ngày một bữa, các người bạn-đạo tưởng Ngài đã thối-chí nên bỏ đi. Nay thành Đạo, Đức Phật muốn độ cho các bạn cũ thấy được con đường Trung-đạo. Trên đường tìm đến vườn Lộc-uyển, Đức Phật gặp một tu-sĩ khổ-hạnh tên là Ưu-ba-ca. Nhìn tướng-mạo trang-nghiêm, dáng đi thanh-thoát của Đức Phật, Ưu-ba-ca rất cảm-phục, mới cất tiếng hỏi: “Chẳng hay Ngài đã theo học vị thầy dạy đạo nào?” Đức Phật liền đáp, Ngài tự tìm lấy con đường giải-thoát, chẳng có thầy nào dạy cả.

Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:

Ta chinh-phục, làu-thông tất cả,
Dứt trói buộc, ta đã thoát-ly,
Lậu-hoặc, ái-dục, ta còn gì?
Tự ta, ta được thắng-trí cao,
Ta còn gọi ai là Thầy ta sao?
(Kệ số 353.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Ẩn-sĩ Ưu-ba-ca: tên vị tu-hành ở ẩn nầy, tiếng Pali là Upaka.

– Vườn Lộc-uyển, thành Ba-la-nại: vườn nai (Pali: Migaedàya), còn gọi là Vườn Tiên (Isipatana), gần thành Bénarès, nay là Vàranàsi.

– Khổ-hạnh: đường-lối tu-hành ép-xác, ăn-uống rất ít, thân gầy.

– Cồ-đàm: họ của Đức Phật Thích-ca, tiếng Pali là Gotama.

– Kiều-trần-như: đệ-tử đầu-tiên của Phật, tiếng Pali: Kondana.

– Trung-Đạo: con đường ở giữa, tránh xa hai cực-đoan; khổ-hạnh (ép-xác) và lợi-dưỡng (hưởng đủ mọi sung-sướng vật-chất).

– Lậu-hoặc: Lậu = rỉ chảy; Hoặc = điều sái-quấy. Lậu-hoặc là các phiền-não như tham, sân, si… từ trong tâm bộc lộ ra bằng việc quấy.

– Thắng-trí: trí vượt thắng tất cả; tức là Trí-huệ Bát-nhã Ba-la-mật

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất đơn-sơ, Đức Phật trả lời câu hỏi của ẩn-sĩ Ưu-ba-ca: Ngài tự tìm lấy con đường giác-ngộ và giải-thoát, chẳng có thầy.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 353:

Bài Kệ nầy, nếu thốt ra từ một người nào khác, sẽ mang ý-nghĩa rất kiêu-căng; nhưng đây là lời nói của Đức Phật, nói lên Sự-thật tự mình tìm ra con đường giải-thoát, lời nói chơn-thành của một bực Đại-giác, chứng được Nhứt-thiết chủng-trí, thấu-hiểu rõ tất cả mọi loài.

(249).- Tích chuyện Trời Đế-Thích thưa hỏi Phật.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến việc vua Trời Đế-Thích thưa hỏi Đức Phật bốn câu về Chánh-pháp.

Thuở ấy, trên cung Trời Đao-lợi, chư Thiên đang học-tập về Chánh-pháp, còn chưa tìm lời giải-đáp thoả đáng về bốn câu hỏi quan-trọng. Vua Trời Đế-Thích chẳng tìm ra giải-pháp, mới cùng với chư Thiên đến chùa Kỳ-viên, yết-kiến Đức Phật. Vua Trời trình Phật bốn câu hỏi như sau:

1) Trong các vật hiến-tặng, vật nào quí nhứt?

2) Trong các hương-vị, mùi-vị nào ngon nhứt?

3) Trong các sự vui-mừng, điều nào đáng hoan-hỉ nhứt?

4) Tại sao sự diệt-tận mọi tham-ái là công-đức tối-thượng?

Đức Phật đáp: “Nầy chư Thiên, Chánh-pháp là tặng-phẩm quí-báu nhứt, Pháp-vị là hương-vị đậm-đà nhứt, Pháp-hỉ là niềm hoan-hỉ cao-cả nhứt, Ái-tận là công-đức thù-thắng nhứt, vì đưa đến quả-vị Thánh A-la-hán.”

Rồi Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:

Pháp-thí quí hơn mọi bố-thí,
Pháp-vị thắng hơn mọi hương-vị,
Pháp-hỉ vui hơn mọi hoan-hỉ,
Ái-tận vượt khỏi mọi đau-khổ.
(Kệ số 354.)

Chư Thiên vui mừng, tán-thán. Vua Trời Đế-thích liền bạch Phật: “Bạch Thế-tôn, bố-thí Chánh-pháp là quí-báu nhứt, sao chúng-sanh còn chưa được thọ-hưởng hết? Con kính xin Thế-tôn hứa-khả cho mọi loài chúng-sanh đồng hưởng lợi-lạc cao-quí nầy.” Đức Phật liền cho tập-hợp tất cả tỳ-kheo lại, cùng hồi-hướng công-đức đến tất cả pháp-giới chúng-sanh.

Và kể từ đó, nghi-thức Hồi-hướng được thực-hành sau mỗi khoá lễ chánh-thức trong chùa.

TÌM HIỂU:

– A.- Nghĩa Chữ:

– Vua Trời Đế-thích: vị vua trên cõi Trời Đao-lợi, tiếng Pali: vua Sakka, ở cõi trời Tàvatimsa

– Chánh-pháp: Chánh = chơn-chánh, đứng-đắn; Pháp = pháp-tu. Chánh-pháp là lời dạy của Đức Phật, để tu-hành được giác-ngộ và giải-thoát. Tiếng Pali là Dhamma.

– Giải-đáp thoả-đáng: trả lời rõ-ràng cho vừa ý mọi người.

– Chư Thiên: Chư = số đông; Thiên = Trời; tiếng Pali là Deva.

– Hoan-hỉ = vui mừng.

– Diệt-tận tham-ái: Diệt = làm cho tiêu mất; Tận = tận cùng, mất hết cả;Tham = ham muốn quá chừng; ái = thương, thích. Lòng tham-ái quá ham muốn tìm các thú-vui nhưng chẳng thoả-mãn, khiến ta phải chịu khổ mãi trong cuộc sanh-tử lận-đận của Luân-hồi; muốn chấm dứt khổ-đau, cần phải diệt-tận tham-ái.

– Công-đức tối thượng: Công-đức = việc làm tốt giúp vào việc tu-hành đưa đến giác-ngộ và giải-thoát; Tối-thượng = rất cao-cả.

– Tặng-phẩm = phẩm-vật đem ra hiến-tặng.

– Pháp-vị: Pháp = Chánh-pháp; pháp-tu; Vị = hương-vị; nghĩa bóng là ý-nghĩa sâu-xa, thâm-trầm. Pháp-vị là ý-nghĩa sâu-xa của pháp-tu khiến ta biết con đường giải-thoát mà vui lòng tu theo.

– Pháp-hỉ: Pháp = Chánh-pháp; pháp-tu; Hỉ = vui mừng và sung-sướng. Pháp-hỉ là lòng vui nhẹ-nhàng, cảm thấy thật sung-sướng khi nghe và hiểu-biết được ý-nghĩa sâu-xa của lời dạy về pháp-tu.

– Ái-tận: Ái = tham-ái, sự ham-muốn quá mức về các thú-vui; dịch nghĩa chữ Tanhà trong tiếng Pali là khát-ái, ví sự ham-muốn, tham-ái, như sự khát-khao được uống nước của người đã uống phải nước mặn, cứ khát hoài. Tận = dứt tiệt. Lòng ái-tận là tâm-trạng của bực tu-hành đã diệt xong mọi sự ham-muốn, đạt đến sự ly-dục (ly = lià xa; dục = ham-muốn) của bực Thánh A-la-hán.

– Tán-thán = khen-ngợi.

– Hứa-khả = nhận cho, cho phép.

– Hồi-hướng: Hồi = trở về; Hướng = hướng về, nhắm vào. Hồi-hướng công-đức là nguyện đem công-đức nầy chia-xẻ với người mình đang hướng về.

– Thù-thắng = hơn tất cả, thắng được tất cả; tốt và mạnh nhứt.

– Nghi-thức: Nghi = lễ-nghi; Thức = cách-thức. Nghi-thức là những điều cần làm theo thứ-tự và trang-nghiêm trong các buổi lễ.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc vua Trời Đế-thích cùng chư Thiên đến thưa hỏi Phật về bốn câu có liên-quan đến Chánh-pháp. Đức Phật giải-đáp và đọc lên bài Kệ, chỉ rõ Chánh-pháp là điều quí-báu nhứt, vì nhờ đó mà ta biết đường-lối tu-hành để được giác-ngộ và giải-thoát.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là nghe Pháp, hiểu được ý-nghĩa thâm-sâu, sanh lòng vui-mừng, ráng tu-tập để diệt mọi tham-ái, dứt mọi khổ-đau. Đem chia-xẻ sự hiểu Pháp với mọi người là bố-thí Pháp, một công-đức thật là quí-báu.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 354:

1) “Pháp-thí quí hơn mọi bố-thí”: Pháp-thí là đem Chánh-pháp đến vớí mọi người: (1) giảng Kinh-kệ, (2) ấn-tống kinh-sách, (3) mời người cùng tu. Bố-thí có: (1) tài-thí (tặng tiền-của), (2) pháp-thí; (3) vô-uý-thí (an-ủi người cho bớt sợ-hãi, lo-lắng). Tại sao Pháp-thí lại quí nhứt? Vì nhờ biết Chánh-pháp tu-hành được giải-thoát vĩnh-viễn mọi khổ-đau, trong khi các bố-thí khác chỉ tạm thời xoa-dịu nổi khổ.

2) “Pháp-vị thắng hơn mọi hương-vị”: Pháp-vị là ý-vị, là ý-nghĩa sâu-xa của Chánh-pháp. Tại sao pháp-vị hơn mọi hương-vị? Vì hương-vị pháp-tu, giữ mãi được trong tâm, khiến ta nỗ-lực tu-hành để được giải-thoát, trong khi các hương-vị khác, qua khỏi cổ thì mất.

3) “Pháp-hỉ vui hơn mọi hoan-hỉ”: Pháp-hỉ là niềm vui nhẹ-nhàng trong tâm sau khi thấm-nhuần Chánh-pháp. Niềm vui nầy kéo dài cả cuộc sống, vì nhờ tu theo Chánh-pháp, được thoát khổ Luân-hồi, trong khi các sự vui khác hễ chấm-dứt thì lại sanh khổ-đau tiếp.

4) “Ái-tận vượt khỏi mọi khổ-đau”: Ái-tận là diệt cho sạch bụng ham-muốn. Tham-ái là nguồn-gốc sanh ra đau-khổ trong cảnh sanh-tử của Luân-hồi. Tận-diệt tham-ái là cốt-tuỷ của Chánh-pháp, là pháp-vị; đó là con đường tu-tâm, tự giải-thoát ngay trong đời nầy mọi khổ đau của cuộc sống, và chấm-dứt vĩnh-viễn được nguyên-nhơn đã gây ra sự tái-sanh, khỏi phải trôi lăn mãi trong các nẻo Luân-hồi lận-đận.

(250).- Tích chuyện một người tuyệt-tự.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến một người nhà giàu mà tuyệt-tự.

Thuở ấy, một hôm vua Ba-tư-nặc, xứ Câu-tát-la, đến đảnh-lễ Đức Phật và thưa: ” Bạch Thế-tôn, hôm nay con đến trễ để nghe pháp, vì bận phải đi trông coi việc tịch thu vào công-khố tài-sản của một người rất giàu-có, chết đi chẳng có con cháu, hay bà con để thừa hưởng gia-tài. Người ấy rất rít-róng, tuy giàu chẳng dám tiêu-pha, mặc áo quần lam-lũ, ăn-uống khắc-khổ lắm.” Đức Phật đáp: ‘Nầy Đại-vương, người tuyệt-tự đó, trong tiền-kiếp nhờ có làm một việc thiện nên đời nầy được giàu-có lớn, nhưng cũng vì hành-vi bất-thiện khác mà phải chịu cảnh tuyệt-tự.” Nhà Vua muốn nghe chuyện xưa, Đức Phật kể tiếp:

Vào một kiếp xa xưa, có một người nhà giàu, tánh rất bỏn-xẻn, chẳng hề bố-thí cho ai. Một hôm sắp đi ra phố, có một vị Bích-chi-Phật đến khất-thực tại nhà. Người ấy bảo vợ đem thực-phẩm ra dưng, rồi ra đi. Người vợ thấy chồng, ngày thường rất hà-tiện, nay lại phát-tâm cúng-dường như thế, mới đem các món ăn quí trong nhà ra dưng-cúng. Sau khi đi chợ về, người nhà giàu gặp lại vị Bích-chi-Phật, lén nhìn vào bình bát, thấy thực-phẩm quí-giá, mới tiếc-rẻ, trong bụng nghĩ, vợ mình dại quá, chẳng để món ấy cho bọn gia-nhơn ăn, chúng sẽ thích mà làm việc giỏi hơn cho mình, sao lại đem cho vị tỳ-kheo nầy, ông ấy ăn no sẽ buồn ngủ mất.” Vì bố-thí mà còn bỏn-xẻn tiếc của, cho nên đời nầy, người ấy có tiền mà chẳng dám ăn xài, cam chịu đói khát. Lại nữa, người ấy lén thuê du-côn giết chết con trai của em mình, để giành hưởng gia-tài của em để lại. Vì tội-ác nầy, nên đời nầy người ấy bị tuyệt-tự, gia-tài bị tịch thu vào công-khố theo luật.

Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:

Tiền-tài làm hỏng người ngu,
Hại chi được đến người tu Niết-bàn,
Kẻ cuồng-dại hám giàu-sang,
Hại mình mà cũng hại lan đến người.
(Kệ số 355.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Tuyệt-tự = chẳng có con-cái hay thân-nhơn để nối dòng.

– Vua Ba-tư-nặc, xứ Câu-tát-la: tiếng Pali: Pasenadi, Kosala.

– Tịch-thu vào công-khố = lấy hết bỏ vào kho nhà-nước.

– Bích-chi-Phật: bực tu-hành giác-ngộ và giải-thoát vào thời chẳng có Chánh-pháp của Đức Phật. Tiếng Pali Paccekabuddha.

– Bỏn-xẻn = rít-róng, keo-kiệt, kẹo, hà-tiện quá mức.

– Niết-bàn: tâm-trạng người đã dứt hết phiền-não, chứng được vô-sanh ( =hết bị tái-sanh), sống tự-tại. Phạn: Nirvana; Pali: Nibbàna.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc một người giàu-có mà tít-róng, chẳng dám ăn-mặc, chết đi chẳng có con cái, nên gia-tài bị tịch-thâu vào công-khố, theo luật đînh. Đức Phật kể thêm, tiền-kiếp của người ấy, làm được việc thiện là cúng-dường vị Bích-chi-Phật, nhưng lại tiếc của; và một tội-ác, giết cháu, để giành gia-tài của em.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là tiền-bạc chẳng đem lại hạnh-phước cho người ngu, và dạy ta phải bỏ bụng rít-róng mà bố-thí rộng-rãi.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 355:

Ý-nghĩa bài Kệ rất rõ-ràng, dạy ta phải biết làm chủ đồng tiền, chớtrở thành nô-lệ cho tiền-bạc.

1. Tiền-tài làm hỏng người ngu: Tại sao lại bảo là ngu? Vì kẻ có tiền đó bị làm nô-lệ cho đồng tiền. Làm hỏng bằng cách nào? Vì muốn có thêm nhiều tiền, nên chẳng dám tiêu-xài, quá rít-róng mà khổ thân. Lại nếu có nhiều tiền mà tiêu-xài phung-phí, chẳng mấy chốc sẽ trở lại nghèo túng.

2. Hại chi được đến người tu Niết-bàn: người tu Niết-bàn biết lìa xa mọi ham-muốn ( =ly-dục), chẳng còn ham làm giàu, nên chẳng quá trọng tiền-bạc nữa, biếy vừa đủ ( =tri túc).

3. Kẻ cuồng-dại ham hiàu-sanh, Hại mình mà cũng hại lan đến người: Hại mình phải chịu khổ-sở làm nô-lệ cho đồng tiền. Hại lan đến người, chẳng nói chi xa, ngay trong hàng con cái ở gần, ỷ tiền-của, ỷ quyền-thế, mà sanh ra nhiều tội-lỗi như hoang-phí, kiêu-cămg.

(251).- Tích chuyện vị Thiên-nam An-khư-ra.

Vào một thời kia, Đức Phật lên cung Trời Đao-lợi thuyết-pháp, có đề-cập đến vị Thiên-nam tên là An-khư-ra.

Thuở ấy, Đức Phật lên cung Trời Đao-lợi thuyết-giảng Vi-diệu-pháp (A-tỳ-đạt-ma) cho mẹ là Hoàng-hậu Ma-gia, nay là thiên-nữ San-tư-sĩ nghe. Chư Thiên đến tham-dự, nghe Phật giảng, trong số có vị Thiên-nam tên là Yên-đà-kha, người đã cúng-dường cho Trưởng-lão A-na-luật. Nhờ công-đức nầy được thực-hiện vào thời Chánh-pháp của Đức Phật, nên vị thiên-nam nầy được sanh lên cõi Trời Đao-lợi, hưởng được mọi sự sung-sướng quí-báu. Đồng thời, có vị Thiên-nam, tên An-khư-ra cũng giàu lòng bố-thí, được sanh lên cõi Trời, nhưng hưởng sự khoái-lạc chẳng sang-trọng bằng vị thiên-nam Yên-đà-kha. Thiên-nam An-khư-ra thắc-mắc chỗ khác-biệt đó, mới đến thưa cùng Đức Phật. Đức Phật bảo: “Nầy thiên-nam, khi bố-thí, ông phải nên chọn đúng người thọ-thí, vì tặng-vật cũng tựa như các hạt giống, hễ gieo vào đất tốt mầu-mỡ thì trỗ sanh hoa-quả tươi ngọt, còn nếu gieo vào nơi cằn-cỗi, sẽ thâu-hoạch được ít oi.”

Rồi Đức Phật mới nói lên bốn bài Kệ sau đây:

Cỏ hoang làm hại ruộng nương,
Tham-lam làm hại mọi đường chúng-sanh.
Người vô-tham, ta thành-tâm bố-thí,
Phước lành, do đó, quí-báu hơn.
(Kệ số 356.)

Cỏ hoang làm hại ruộng nương,
Hận sân làm hại mọi đường chúng-sanh.
Người vô-sân, ta thành-tâm bố-thí,
Phước lành, do đó, quí-báu hơn.
(Kệ số 357.)

Cỏ hoang làm hại ruộng nương,
Si-mê làm hại mọi đường chúng-sanh.
Người vô-si, ta thành-tâm bố-thí,
Phước lành, do đó, quí-báu hơn.
(Kệ số 358.)

Cỏ hoang làm hại ruộng nương,
Dục-tham làm hại mọi đường chúng-sanh.
Người ly-dục, ta thành-tâm bố-thí,
Phước lành, do đó, quí-báu hơn.
(Kệ số 359.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Thiên-nam, Thiên-nữ: Thiên = trời; Nam = đàn-ông; Nữ = đàn-bà.

– An-khư-ra: tên vị thiên-nam nầy tiếng Pali là Ankura.

– Yên-đà-kha: tên vị thiên-nam nầy, tiếng Pali là Indaka.

– Trời Đao-lợi = cõi Trời trong Dục-giới, tiếng Pali là Tàvatimsa.

– Hoàng-hậu Ma-gia, thiên-nữ San-tư-sĩ: Mẹ của thái-tử Tất-đạt-ta, sau khi sanh Thái-tử được bảy ngày thì mất, tái-sanh lên cõi Trời Đâu-suất (Tusita). Pali: Hoàng-hậu Mahà Màyà, thiên-nữ Santusita.

– A-na-luật = đại-đệ-tử của Phật, tên tiếng Pali là Anuruddha.

– Thọ-thí: còn gọi là thọ-giả, người nhận của bố-thí.

– Vô-tham: Vô = chẳng; Tham = ham-muốn quá. Người vô-tham đã diệt hẳn bụng tham. – Vô-sân: người vô-sân chẳng hề giận-hờn; còn người vô-si là bực có trí-huệ thông-minh, hết si-mê, ngu-tối.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại một vị thiên-nam cõi trời Đao-lợi hỏi Phật tại sao cùng có công-đức bố-thí mà nay người được hưởng phước-báu nhiều, người ít hơn. Đức Phật đáp, bố-thí cũng như gieo hạt giống, nếu gặp đất mầu-mỡ sẽ trỗ trái ngọt; nếu gặp người thọ-thí có đức-hạnh mà bố-thí, sẽ được phước-báu nhiều.

Tích chuyện tuy giản-dị nhưng ý-nghĩa lại tế-nhị: trong việc bố-thí, phải biết chọn người để trao-tặng hiến-vật, gặp được bực giới- đức vẹn-toàn, mà thành-tâm cúng-dường thì phước báu sẽ to lớn, còn nhẹ dạ nghe theo lời bọn buôn thần bán thánh mà đem tiền của ra để bố-thí cầu-danh thì chẳng những phước-báu sẽ ít-ỏi mà lại còn nuôi-dưỡng các tổ-chức mạo danh nghĩa cứu-trợ lén-lút làm ăn bất-chánh.

Ý-nghĩa sâu-xa của công-đức bố-thí là, về phiá người thí-giả, bỏ được bụng xẻn-tham của mình, chia-xẻ những gì mình có cùng với kẻ khác; về phía người thọ-giả, được cứu-giúp trong cơn thiếu-thốn mà khởi lên lòng tự-cứu lấy mình. Bố-thí chơn-thành đúng theo ý-nghĩa trên đây, chẳng mong-cầu báo-đáp, chẳng chút vướng-bận háo-danh.

Muốn đạt đến phước-báu to-lớn nhứt trong công-đức bố-thí, phải đạt đến mức Bố-thí Ba-la-mật, nghĩa là bố-thí cách nào mà thí–giả vượt đến bờ bên kia (Ba-la-mật, Parami, có nghĩa là xong-xuôi, hoàn-mãn rồi; tức là đến được bờ giác-ngộ và giải-thoát.) Giáo-lý Bắc-tông dạy rằng, người thi-hành bố-thí Ba-la-mật, trong tâm chẳng hề khởi lên ba việc, Tam-Không: (1) không thấy mình là người bố-thí, ban ơn cho kẻ khác; ( =Ngã-không); (2) không thấy người kia là kẻ chiụ ơn, phải lo báo-đáp lại, ( = Nhơn-không); (3) không thấy vật đem ra hiến-tặng, để tiếc-rẻ, không thấy việc làm của mình là việc thiện đáng khen-ngợi chi,( = Pháp-không). Tam-Không nầy là Tam giải-thoát-môn, ba cánh cửa mở rộng cho ta đến nơi giải-thoát.

(2) Ý-nghĩa của bốn bài Kệ 356, 357, 358, 359:

Bốn bài Kệ cùng một lối hành văn, giống nhau ở ý-nghĩa khen tặng sự bố-thí, mà chỉ khác nhau ở mỗi bài một đức-tánh quí, hễ tập được sẽ đưa ta đến bờ giác-ngộ và giải-thoát. Xin kể bốn đức-tánh quí

1) Vô-tham để đối-trị bụng Tham-lam: Tham đứng đầu trong tam độc, khiến ta trôi-lăn mãi trong cảnh sanh-tử khổ-đau của Luân-hồi. Bài Kệ ví tham như cỏ hoang làm hại ruộng nương, đây là làm hại đất tâm của người tu-hành. Trị tham chẳng gì hơn là việc bố-thí. Dứt được tham là được giải-thoát, đó là phước lành quí-báu nhứt.

2) Vô-sân để đối-trị lòng hờn-giận, oán-thù, gây oan-trái kéo dài nghiệp-báo phải chịu mãi cảnh Luân-hồi. Cũng như tham, sân-hận là cỏ hoang làm hại đất tâm của ta.

3) Vô-si để đối-trị sự si-mê, che-mờ tâm-trí ta, chẳng biết rõ đường tu-hành để giác-ngộ và giải-thoát. Si-mê cũng là cỏ hoang.

4) Ly-dục để đối-trị bụng ham-muốn, tức là tham-dục, chạy theo thú-vui vật-chất thấp-hèn và tạm-bợ. Ta hãy nhổ cỏ tham-dục đi.

Khi bố-thí, ta khó có dịp để lựa kẻ thọ-giả đủ các đức-tánh đó, nhưng bài Kệ cũng ngầm khuyên ta, hãy cố tập cho mình các tánh ấy.

-ooOoo-

XXV.- Phẩm TỲ-KHEO.

(252).- Tích chuyện năm vị tỳ-kheo cãi về năm căn.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến việc cãi nhau của năm vị tỳ-kheo về sự điều-phục năm căn.

Thuở ấy, có năm vị tỳ-kheo ở nước Xá-vệ, mỗi người tu-tập cách chế-phục một trong năm căn; người lo điều-phục mắt, người tiết-chế tai, kẻ tự-chế về mũi, kẻ lo kềm-giữ lưỡi, người khắc-phục thân. Người nào cũng nói việc chế-phục một giác-quan riêng-biệt của mình là khó nhứt, chẳng ai đồng-ý với ai. Họ liền đến thỉnh-ý của Đức Phật. Đức Phật bảo: “Nầy chư tỳ-kheo, điều-phục căn nào cũng khó như nhau; nhưng người tu-hành phải đồng thời kềm-giữ cả năm căn, có khắc-phục được cả năm thì mới thoát khỏi vòng tử-sanh Luân-hồi lận-đận.”

Rồi Đức Phật mới nói lên hai bài Kệ sau đây:

Mắt đây, chế-phục, lành thay!
Lành thay biết chế-ngự hai tai nầy!
Khéo điều-phục mũi, lành thay!
Lành thay, nhiếp-phục lưỡi nầy cho yên!
(Kệ số 360.)

Lành thay, chế-phục thân-hành!
Tiết-chế khẩu-nghiệp đã rành, lành thay!
Lành thay, ý-nghiệp tịnh ngay!
Chế-phục tất cả đủ-đầy, lành thay!
Mọi điều tự-chế khéo, hay,
Tỳ-kheo giải-thoát được ngay khổ-sầu.
(Kệ số 361.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Tỳ-kheo: tu-sĩ Phật-giáo; tiếng Pali là Bhikkhu, thường đọc là tỳ-khưu, hoặc bí-sô, dịch nghĩa là Khất-sĩ (Khất = đi ăn xin; sĩ = người). Theo giới-luật, Tỳ-kheo chẳng được có nghề riêng sanh-sống, phải đi xin ăn, để dẹp lòng tự-ái xuống, lại có dịp gần dân, dạy đạo cho họ.

– Năm căn = năm giác-quan: mắt, tai, mũi, lưỡi và da trên thân.

– Điều-phục, Khắc-phục, chế-phục, nhiếp-phục, tiết-chế, chế-ngự, tự-chế = những chữ nầy có nghĩa là kềm-giữ, giữ-gìn chẳng cho chạy buông-lung theo cảnh-vật bên ngoài, nhờ đó tâm bên trong mới an-định.

– Thỉnh-ý: Thỉnh = mời; Thỉnh-ý là nhờ người trên cho ý-kiến.

– Thân-hành: Thân = thân-thể; Hành = hành-động.

– Khẩu-nghiệp, Ý-nghiệp = Khẩu = miệng; Ý = ý-tưởng; Nghiệp = hành-động. Nghiệp có ba thứ: thân-nghiệp, khẩu-nghiệp và ý-nghiệp. Nghiệp là hành-động, lời nói, tư-tưởng hoặc đã qua, hoặc đang làm, gây ra hậu-quả khiến ta phải mang lấy vận-mạng tốt xấu ở cõi đời. Chính nghiệp dẫn-dắt ta phải tái-sanh và trôi lăn mãi trong Luân-hồi.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất đơn-sơ, năm vị tỳ-kheo cãi nhau về cách điều-phục các giác-quan. Đức Phật dạy, khi điều-phục các căn, căn nào cũng khó giữ, nhưng phải đồng thời điều-phục đủ cả năm mới thoát khỏi được khổ trong vòng sanh-tử lẩn-quẩn của cõi Luân-hồi lận-đận.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 360 và 361:

Nhờ các giác-quan mà ta giao-tiếp được với cảnh-vật bên ngoài. Nhưng nếu để cảnh-vật lôi-cuốn, tâm chẳng an-định; muốn định tâm, trước phải biết kềm-giữ các căn, cũng như nhà ( =thân-tâm) có sáu cửa, phải canh đủ sáu cửa, mới giữ được trộm giặc len vào. Đó là ý-nghĩa sâu-xa của bài Kệ số 360.

Bài Kệ số 361 có sáu câu, chia ra hai phần: ba câu đầu nói về ba nghiệp: thân, miệng, ý; ba câu sau khen vị tỳ-kheo đã khéo tự-chế đầy-đủ ba nghiệp, được giải-thoát cái khổ của Luân-hồi (hết tái-sanh).

HỌC TẬP:

1.- Chế-phục mắt: đừng tưởng lầm là phải nhắm mắt lại, trái lại phải biết chỉ nhìn vào chỗ đáng nhìn, và khi thấy vật, chỉ biết đang có vật mà chẳng sanh lòng quá thích đeo theo, hay quá ghét muốn bỏ.

2.- Điều-phục các căn là để giữ tâm an-định khi tiếp-xúc bên ngoài, khác hẳn với thái-độ tự-đóng-kín như kẻ vừa mù, câm và điếc.

(253).- Tích chuyện vị tỳ-kheo giết con thiên-nga.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến một vị tỳ-kheo khoe tài quăng đá, đã giết chết một con thiên-nga.

Thuở ấy, có một vị tỳ-kheo có tài ném đá, trăm phát trúng cả trăm. Một hôm, cùng với bạn đồng-tu đang tắm gội bên bờ sông A-xi-ra, bỗng trông thấy hai con ngỗng trời nhởn-nhơ bơi lội bên dòng nước. Vị tỳ-kheo ấy khoe tài với bạn, bảo có thể ném trúng một con. Hai con ngỗng nghe tiếng người nói, quay lại nhìn và cất cánh bay lên. Vị tỳ-kheo lấy hòn đá cuội, ném mạnh, trúng vào con mắt bên trái, viên đá xuyên qua đầu con ngỗng và lọt ra khỏi mắt bên mặt. Con vật kêu đau thương, rơi xuống chết.

Các vị tỳ-kheo khác về thưa trình cùng Đức Phật. Đức Phật cho gọi vị tỳ-kheo ném đá đến quở-trách và chỉ dạy rằng: “Nầy tỳ-kheo, tại sao lại giết chết con vật vô-tội? Một người đã gia-nhập Tăng-đoàn phải luôn luôn tỏ lòng Từ-bi đến muôn loài chúng-sanh, phải biết làm chủ chơn tay mình, và cả cái lưỡi hay khoe-khoang kia!”

Rồi Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:

Người chế-phục tay chơn, lời nói,
Tận đỉnh đầu trên cao vòi-vọi,
Lòng thoả-thích trong cơn thiền-định,
Biết đủ, sống độc-cư, trầm-tĩnh,
Người ấy xứng danh là tỳ-kheo.
(Kệ số 362.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Thiên-nga = ngỗng trời, lông trắng như tuyết.

– A-xi-ra: tên sông nầy, tiếng Pali là Aciravatì.

– Tăng-đoàn: Tăng = chữ Pali là Sangha; cứ bốn người trở lên tu chung với nhau thành một Tăng-đoàn.

– Từ-Bi: Từ = ban vui; Bi = cứu khổ. Lòng Từ-bi thương cả mọi loài.

– Chế-phục: kềm-giữ và làm chủ được.

– Thiền-định: tu thiền, giữ tâm an-tịnh, chẳng xao-lãng.

– Biết đủ: chữ Hán-Việt là tri-túc, biết vừa đủ, chẳng ham đòi quá

– Sống độc-cư: Độc = ở một mình; Cư = ở. Người sống độc-cư tránh nơi ồn-ào, biết sống một mình, tĩnh-tu nên tâm sớm an-định.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại một vị tỳ-kheo muốn khoe tài ném đá, trong khi đang tắm với bạn, thấy hai con ngỗng, ném chết một con. Đức Phật nghe được việc ấy, quở-trách và dạy, tỳ-kheo phải làm chủ chơn tay mình, chớ khoe-khoang.

Ý-nghĩa của Tích chuyện: vì khoe tài mà phạm tội sát-sanh, chẳng xứng-đáng là người tu-hành có lòng từ-bi.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 362:

Bài Kệ số 362 dạy người tu-hành phải luôn luôn giữ gìn thân-tâm cho đứng-đắn trong bốn tư-thế, gọi là tứ oai-nghi: nằm, ngồi, đi đứng. Nằm ngay-ngắn chẳng ưỡn-ẹo, ngồi thẳng-thớm chẳng kề dựa, đi chửng-chạc chẳng hấp-tấp, đứng nghiêm-chỉnh chẳng ngả-ngớn. Muốn xứng danh là một vị tỳ-kheo, còn cần phải có đủ các đức -tánh: biết vừa đủ, sống độc-cư và tâm trầm-tĩnh luôn tỉnh-giác.

Xin phân-tách từng câu bài Kệ:

1) “Người chế-phục tay chơn, lời nói, Tận đỉnh đầu trên cao vòi-vọi”: sự kềm-thúc ba nghiệp: thân, miệng, ý được thi-hành thật kỹ-lưỡng: tay chơn chẳng buông lung, lời nói phải hoà-nhã, ý-tưởng trong đầu phải thanh-tịnh, cao-cả.

2) “Lòng thoả-thích trong cơn thiền-định”: nơi mọi tư-thế của thân-thể, bên trong hằng tỉnh-giác, theo dõi mọi cử-động, mọi lời nói, mọi ý-nghĩ, nên tâm mới thoả-thích an-trú trong chánh-niệm.

3) “Biết đủ, sống độc-cư, trầm-tĩnh”: ba đức-tánh quan-trọng của người tu-hành: biết vừa đủ là dẹp được lòng ham muốn, sống độc-cư tránh chỗ ồn-ào, hằng “làm bạn” với tâm của mình, là giữ tâm thanh-tịnh; trầm-tĩnh, chẳng vọng-động, là luôn được an-nhiên, tự-tại. Ba đức-tánh đó đưa ta sớm đến ngưỡng cửa của Niết-Bàn, yên-vui và giải-thoát.

(254).- Tích chuyện tỳ-kheo Cơ-khả-ly.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến vị tỳ-kheo Cơ-khả-ly.

Thuở ấy, có vị tỳ-kheo tên Cơ-khả-ly, vì bất-mãn nói nhiều lời hỗn-láo với hai Tôn-giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên. Vì hành-vi bất-thiện nầy, tỳ-kheo Cơ-khả-ly bị đất nứt hút sa xuống điạ-ngục. Khi nghe kể lại thân-phận của Cơ-khả-ly, các vị tỳ-kheo nhận xét rằng, vì chẳng biết kềm-giữ lưỡi của mình mà Cơ-khả-ly phải sa điạ-ngục. Đức Phật dạy: “Nầy chư tỳ-kheo, tỳ-kheo phải kềm-chế cái lưỡi của mình, hạnh-kiểm phải đoan-nghiêm, tâm-tư phải bình-thản, an-định, chẳng để tâm buông-lung, chạy lang-thang đây đó.”

Rồi Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:

Tỳ-kheo đã chế-phục miệng lưỡi,
Khiêm-nhường, khéo nói, chẳng thừa lời,
Giải-thích rõ nghĩa Pháp sáng ngời,
Ngọt-ngào thay, lời nói Tỳ-kheo!
(Kệ số 363.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Cơ-khả-ly: tên vị tỳ-kheo nầy, tiếng Pali là Kolàlika.

– Bất-mãn: chẳng vừa lòng, tức-giận.

– Tôn-giả: Tôn = tôn-kính; Giả = người. Tôn-giả là bực đáng kính

– Xá-lợi-phất: tên của Tôn-giả, tiếng Pali là Sariputta.

– Mục-kiền-liên: tên của Tôn-giả, tiếng Pali là Moggallàna.

– Điạ-ngục: Điạ =đất, Ngục = nhà giam tù. Theo sự tin-tưởng trong Phật-học, kẻ làm ác khi sống, chết đi phải chịu hình-phạt khổ-sở và lâu-dài nơi cõi âm u-tối.

– Đoan-nghiêm = đoan-trang và nghiêm-nghị, đàng-hoàng.

– Chế-phục: kềm-giữ, lấy quyền làm chủ lại, sửa cho đúng.

– Khiêm-nhường: biết nhún-nhường, khiêm-tốn, chẳng phách-lối.

– Chẳng thừa lời: lời nói vừa đủ, chẳng dư thừa, chẳng dài-dòng.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất giản-dị, thuật lại việc vì bất-mãn, một vị tỳ-kheo có lời hỗn-láo với hai vị đại-đệ-tử của Đức Phật, mà bị sa điạ-ngục. Nhơn đó, Đức Phật dạy các tỳ-kheo phải giữ-gìn lời nói, tâm phải hằng tỉnh-giác.

Ý-nghĩa của Tích chuyện: nói lời thô-ác là vi-phạm vào giới-luật thứ tư của người tu tại-gia.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 363:

Bài Kệ dạy ta phải giữ-gìn miệng-lưỡi, chớ nói lời thô-ác. Muốn giữ gìn lời nói, trước phải giữ tâm cho thanh-tịnh, chẳng để tâm buông-lung, chạy đi lang-thang, thiếu kềm-chế mới lỡ lời nói quấy.

1) “Tỳ-kheo đã chế-phục miệng-lưỡi, Khiêm-nhường, khéo nói, chẳng thừa lời”: khi biết giữ gìn miệng-lưỡi, trước khi nói suy-nghĩ chín-chắn thì lời nói sẽ dịu-dàng, khéo-léo; chẳng nói dông-dài chán tai người nghe, lại biết nhún-nhường chẳng tự khoe mình.

2) “Giải-thích rõ nghĩa Pháp sáng ngời”: lời nói chín-chắn dùng giải nghĩa Chánh-pháp, sẽ rõ-ràng, thông-suốt, giúp cho người nghe dễ hiểu, dễ nhớ và dễ thì-hành theo.

3) “Ngọt-ngào thay, lời nói Tỳ-kheo!”: lời nói được ngọt-ngào nhờ đượm đầy pháp-vị ( = đầy ý-nghĩa tu-hành) nhẹ-nhàng chỉ dạy rõ-ràng đường-lối tu-hành giải-thoát cho người nghe.

HỌC TẬP:

1.- Trong Kinh Thập-Thiện, dạy mười điều lành, có bốn điều răn về lời nói: (1) chẳng nói dối, nói đúng theo Sự-thật, có sao nói vậy; (2) chẳng nói thêu-dệt, chẳng thêm-thắt, chẳng đặt điều “thêm mắm thêm muối”; (3) chẳng nói đâm-thọc, gặp người nầy nói vầy, gặp người kia nói khác, để gây bất-hoà; (4) chẳng nói lời thô-ác, lời vô-nghĩa: lời thô-ác khiến người tức-giận; nói lời vô-nghĩa là khi ngồi lê đôi mách, kháo nhau chuyện hàng xóm cho vui.

2.- “Nói là bạc, nín là vàng”: lời khuyên quí: biết kềm cái lưỡi lại, giữ im-lặng để lắng nghe.”Quay lưỡi bảy lần trước khi nói” vẫn còn thua “thủ khẩu như bình” ( = miệng giữ im như miệng … cái bình! )

(255).- Tích chuyện Trưởng lão Pháp-hỉ.

Tích chuyện nầy giống với các Tích chuyện trong Tập 3, số (136) trang 431,

về Trưởng-lão Ất-tha-đạt và số (163), trang 503, về Trưởng-lão Thi-sa.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến Trưởng-lão Pháp-Hỉ.

Thuở ấy, khi nghe Đức Phật Thích-ca tuyên-bố, bốn tháng nữa Ngài sẽ nhập Đại-Bát-Niết-Bàn, các vị tỳ-kheo còn chưa chứng-đắc được Đạo và Quả, rất lo-lắng, hằng ngày cứ quanh-quẩn gần bên Đức Phật. Riêng Trưởng-lão Pháp-Hỉ, lui về am vắng, nỗ-lực hành Thiền. Các vị tỳ-kheo khác cho rằng Trưởng-lão Pháp-Hỉ chẳng có lòng thương-mến Phật, mời trình lên Đức Phật. Khi nghe Trưởng-lão thưa-bày sự cố-gắng của mình để chứng được quả-vị A-la-hán, trước khi Đức Phật nhập-diệt, Đức Phật khen-ngợi thái-độ đó và khuyên các tỳ-kheo khác noi gương Trưởng-lão Pháp-Hỉ, hơn là lẩn-quẩn bên Phật.

Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây, nhờ đó Trưởng-lão chứng-đắc được ngay quả-vị A-la-hán:

Tỳ-kheo nào trú trong Chánh-pháp.
Thoả-thích suy-tư theo Chánh-pháp,
Tâm-niệm hằng tưởng nhớ Chánh-pháp,
Ắt chẳng sa-đọa lìa Chánh-pháp.
(Kệ số 364.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Trưởng-lão Pháp-Hỉ: tên vị Trưởng-lão, tiếng Pali là Dhammaràma.

– Nhập Đại-Bát-Niết-Bàn: vào cảnh-giới tịch-diệt. Đại-Bát-Niết-Bàn, tiếng Pali là Parinibbàna. Chữ Nhập-diệt có nghĩa là chết.

– Đạo, Quả: Đạo = đường-lối tu-hành, Pali là Magga; Quả = kết-quả việc tu-hành thành-công, Pali là Phala.

– Am = cốc, căn nhà nhỏ, vắng-vẻ, để tu-hành hay thờ-phượng.

– A-la-hán: quả-vị thứ tư, cao nhứt, tiếng Pali là Arahant. Bực A-la-hán diệt xong các phiền-não, chứng được vô-sanh ( =chẳng còn bị tái-sanh trong cõi Luân-hồi nữa), vào cảnh-giới Niết-bàn.

– Trú trong Chánh-pháp: tâm an-trú trong Chánh-pháp, chẳng lúc nào quên Chánh-pháp.

– Sa-đoạ: bị rớt xuống chỗ thấp-kém.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Ý-nghĩa Tích chuyện: cách tốt nhứt để tỏ lòng thương-mến người sắp mất là thực-hiện được lời người ấy dạy, trước khi người ấy lià đời.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 364:

Ý-nghĩa bài Kệ rất rõ-ràng: tỳ-kheo nào thoả-thích an-trú trong Chánh-pháp, chắc-chắn khỏi bị sa-đoạ.

(256).- Tích chuyện vị tỳ-kheo muốn ngả theo nhóm Đề-bà-đạt-đa.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến một vị tỳ-kheo muốn ngả theo nhóm Đề-bà-đạt-đa.

Thuở ấy, Đề-bà-đạt-đà vốn là em họ của Đức Phật, tu-hành đắc được thần-thông, lòng sanh kiêu-mạn, viện cớ Đức Phật đã già-cả, yêu-cầu Đức Phật nhường cho y cầm đầu Tăng-đoàn. Bị từ-chối, Đề-bà-đạt-đa thành-lập một Giáo-hội mới và cũng được một số tỳ-kheo theo y. Bấy giờ, có một vị tỳ-kheo tu-tập ở chùa Kỳ-viên, đi theo một người bạn đến chơi ở tu-viện của Đề-bà-đạt-đa và lưu lại đấy ba bốn ngày, lòng rất thích-thú vì được ăn ngon, ngủ kỹ, hưởng đầy-đủ mọi tiện-nghi vật-chất. Các bạn đồng-tu thưa trình sự-việc lên Đức Phật. Đức Phật cho gọi vị tỳ-kheo ấy đến, quở-trách và dạy: “Nầy tỳ-kheo, mặc dầu chưa theo hẳn với Đề-bà-đạt-đa, nhưng thái-độ của ông xem ra như là đồ-đệ của y. Một tỳ-kheo đứng-đắn chẳng hề ham lợi-dưỡng, phải biết đủ với những gì mình đi khất-thực được và chẳng hề ganh-tị với những người được cúng-dường nhiều. Tham-lam và ganh-tị trong lòng khiến ta chẳng đắc được định-tâm khi hành Thiền, thì biết đến bao giờ chứng được đạo-quả Niết-Bàn.”

Rồi Đức Phật mới nói lên hai bài Kệ sau đây:

Chẳng khinh-rẻ những gì mình lãnh-thọ,
Chẳng hờn-ganh kẻ khác được người cho.
Tỳ-kheo còn ganh hiền ghét ngỏ,
Hành thiền, chẳng đắc định bao giờ.
(Kệ số 365.)

Tuy nhận ít mà chẳng hề chê,
Sống thanh-tịnh đúng bề Chánh-mạng,
Chẳng lười-nhác nên được lời xưng-tán
Của Chư Thiên gởi đến vị Tỳ-kheo.
(Kệ số 366.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Đề-bà-đạt-đa: anh của Tôn-giả A-nan, em họ của Phật Thich-ca, tên tiếng Pali là Devadatta. Tánh hay kiêu-mạn, Đề-bà-đạt-đa chống-đối với Đức Phật Thích-ca, lập một Giáo-hội khác, phá sự hoà-hợp giữa chư Tăng.

– Thần-thông = khả-năng đặc-biệt có được nhờ tu định-lực cao, như bay bỗng trên không, đi được trên mặt nước, v.v.

– Kiêu-mạn = kiêu-căng, ngã-mạn, tự coi mình hơn mọi người.

– Lợi-dưỡng = các mối lợi để nuôi-dưỡng; ý nói các phẩm-vật được hiến-tặng để nuôi mạng sống.

– Đạo-quả Niết-Bàn = đường-lối tu-hành đưa đến cảnh-giới tịch-diệt hằng an-vui.

– Lãnh-thọ = nhận lãnh của hiến-tặng.

– Hờn-ganh = ganh-tị, cà-nanh, đòi bằng hay hơn kẻ khác.

– Ganh hiền ghét ngỏ = ganh-ghét những người hơn mình.

– Hành-thiền = tu Thiền.

– Đắc định = khi tu Thiền, tâm trở nên vắng-lặng, an-tịnh.

– Chánh-mạng: Chánh = chơn-chánh, đứng-đắn; Mạng = mạng sống. Chánh-mạng là lối mưu-sanh đứng-đắn bằng nghề-nghiệp chơn-chánh. Chánh-mạng là một ngành trong Bát-Chánh-đạo.

– Xưng-tán = khen ngợi.

– Chư Thiên = các bực trên cõi Trời.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc một tỳ-kheo ở chùa Kỳ-viên đến tu-viện riêng của Đề-bà-đạt-đa, thấy thoả-thích trong việc thọ-hưởng các tiện-nghi vật-chất và các phẩm-vật được cúng-dường ở đấy. Vì Đề-bà-đạt-đa chống-đối Đức Phật, gây chia-rẽ trong Tăng-đoàn, nên các vị đồng-tu mới trình sự-việc lên Đức Phật. Đức Phật quở trách vị tỳ-kheo kia và dạy, chẳng nên ganh- tị với người được cúng-dường, chớ tham lợi-dưỡng, thì hành Thiền mới đắc được định-tâm, mau chứng được đạo-quả Niết-Bàn.

Ý-nghĩa của Tích chuyện: đừng theo con đường ham-mê lợi-dưỡng mà sanh tâm ganh-tị với các bực được cúng-dường.

(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 365 và 366:

Cả hai bài Kệ nói về thái-độ của tỳ-kheo đối với vấn-đề lợi-dưỡng: chẳng khinh-chê những gì mình được hiến-tặng, chẳng ganh-tị với bạn đồng-tu được cúng-dường.

Phân-tách bài Kệ số 365:

1) “Chẳng khinh-rẻ những gì mình lãnh-thọ”: chẳng nên chê-bai các món đi khất-thực được, vì thức-ăn chỉ là một “món thuốc” để trị bịnh đói của mình, chớ chẳng phải để cho khoái-khẩu (ngon miệng)

2) “Chẳng hờn-ganh kẻ khác được người cho”: chẳng phân-bì, so-đo với người được tặng nhiều, còn mình thì được cho ít.

3) “Tỳ-kheo còn ganh hiền ghét ngỏ, Hành thiền, chẳng đắc định bao giờ”: Tạo sao chẳng đắc định được? Vì trong tâm còn vấn-vương sự so-đo, sự ganh-ghét, chẳng an-tịnh được mà đắc định.

Phân-tách bài Kệ số 366:

1) “Tuy nhận ít mà chẳng hề chê”: đây là vị tỳ-kheo tri-túc, biết vừa đủ, chẳng ham-muốn để đòi hỏi thêm.

2) “Sống thanh-tịnh đúng bề Chánh-mạng”: Chánh-mạng của tỳ-kheo là theo hạnh khất-sĩ, xin được bao nhiêu, sống với bấy nhiêu.

3) “Chẳng lười nhác nên được lời xưng-tán, Của chư Thiên gởi đến vị tỳ-kheo”: siêng-năng hành Thiền chẳng hề lười nhác, nên vị tỳ-kheo được chư Thiên khen ngợi.

(257).- Tích chuyện người bố-thí hoa-quả đầu mùa.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến người nông-phu Bà-la-môn thường đem ra bố-thí hết hoa-quả đầu mùa vừa gặt hái được.

Thuở ấy, có một người Bà-la-môn theo nghề làm ruộng, thường đem hết những gì gặt-hái được vào đầu mùa ra bố-thí. “Đầu muà” đối với ông ấy có bốn nghĩa, là: số lúa vừa gặt-hái được, số gạo vừa giã và sàng xong, số cơm vừa nấu chín, và phần ăn trên dĩa sắp đem ra dùng. Một hôm, vợ chồng ông đang ăn sáng, bỗng có Đức Phật và chư Tăng đến khất-thực. Chồng ngồi quay mặt vào trong, còn vợ ngồi ngó ra, trông thấy các tỳ-kheo, mới đứng án mặt chồng, che khuất Đức Phật. Bà ta nghĩ, nếu chồng mình trông thấy Đức Phật, sẽ bưng hết phần ăn ra dưng-cúng, bà ta lại phải vào bếp nấu-nướng nữa cho chồng ăn. Bà bước ra cửa, đến gần bên Đức Phật, nói nho-nhỏ: “Bạch Ngài, hôm nay con chẳng có chi để cúng-dường, xin Ngài đi đến nơi khác.” Đức Phật lẵng-lặng, chẳng nói gì, chỉ lắc đầu. Thấy cử-chỉ đó, người đàn-bà bỗng bật lên tiếng cười. Người chồng quay lại, nhìn thấy Đức Phật, vội chạy ra, tạ lỗi rối rít: “Bạch Thế-tôn, xin Thế-tôn tha lỗi cho vợ con và nhận dĩa thực-phẩm nầy, con vừa mới dùng có mấy muỗng.” Đức Phật ôn-tồn đáp: “Nầy Bà-la-môn, ta vui lòng nhận mọi thức ăn, dầu đã được ăn dở, hay đã ăn hết phân-nửa, hoặc cả khi chỉ còn lại một muỗng thôi.” Nghe Phật nói, người Bà-la-môn rất ngạc-nhiên mà cũng rất sung-sướng được cúng-dường Đức Phật. Ông mới thưa hỏi: “Bạch Thế-tôn, thế nào mới xứng-danh là một vị tỳ-kheo?” Đức Phật dạy: “Nầy Bà-la-môn, thân nầy gọi là sắc, tâm nầy gọi là danh; vị tỳ-kheo xứng-danh chẳng hề mê-luyến danh-sắc.”

Rồi Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây, nhờ đó mà vợ-chồng người nông-phu chứng được quả-vị thứ ba là A-na-hàm:

Đối với thân-tâm là danh-sắc,
‘Ta’ và ‘của Ta’ chẳng thắc-mắc,
Chẳng lo-âu những gì chưa đắc,
Đó mới xứng danh là Tỳ-kheo.
(Kệ số 367.)

TÌM HIỂU:

A.- Giải-nghĩa:

– Bà-la-môn: giai-cấp tu-sĩ trong xã-hội xưa ở Ấn; tiếng Pali là Brahmana. Có bốn giai-cấp xưa ở Ấn-độ: (1) Bà-la-môn; (2) Sát-đế-lợi (Khattiya), vua, quan; (3) Phệ-xá (Vessa), buôn-bán; 4) Thủ-đà-la (Sudda), nông-phu, công-nhơn.

– Khất-thực: Khất = đi xin; Thực = ăn. Khất-thực là giới-luật nhà Phật, buộc tỳ-kheo chẳng được có nghề riêng để sanh-sống, phải đi xin ăn để dẹp lòng tự-ái, và có dịp gặp dân-chúng để dạy giáo-lý .

– Thế-tôn: Thế = thế-gian; Tôn = tôn-kính. Thế-tôn chỉ Đức Phật là bực được cả thế-gian tôn-kính.

– Cúng-dường: đọc trại chữ cung-dưỡng, cung-cấp để nuôi-dưỡng.

– A-na-hàm: quả-vị thứ ba, tiếng Pali là Anàgàmi, dịch là Bất-Lai, chẳng còn phải sanh lại ở cõi người nữa.

– Danh-sắc = thân-tâm; danh là tên, tâm; sắc là vật-chất, thân-thể

– Tỳ-kheo: tiếng Pali là Bhikkhu, âm là bí-sô, dịch là khất-sĩ, tu-sĩ theo đạo Phật, phải tuân hành 250 điều giới-luật.

– Của Ta: chữ Hán-Việt là Ngã-sở (Ngã = ta; Sở = chỗ), tức là những gì thuộc về của Ta, như thân của ta, nhà của ta, con cái của ta.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại vợ-chồng người Bà-la-môn đang ăn sáng, Đức Phật đến khất-thực. Người vợ đứng án che chẳng cho chồng thấy Phật. Nhưng người chồng biết được, đem dưng cả diã thực-phẩm. Đức Phật nhơn đó dạy họ, chớ nên mê-luyến thân-tâm quá đáng, đừng bám-víu quá chặt vào “Ta” và “của Ta”.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 367:

Bài Kệ nầy định-nghĩa, thế nào mới xứng-đáng là một vị tỳ-kheo: chẳng mê-luyến danh-sắc ( = thân-tâm); chẳng bám-víu vào “Ta” và “của Ta”. Đây là nguyên-tắc Vô-ngã, cửa cuối-cùng trong ba cửa giải-thoát (tam giải-thoát-môn) là: vô-thường, khổ và Vô-ngã.

Sao gọi Thân-tâm là Danh- Sắc? Thân nầy tạm thời có hình-dạng là do các yếu-tố vật-chất (Sắc) hoà-hợp lại tạo nên, ngày kia sẽ tan rả. Tâm nầy biến chuyển luôn, chỉ có tên (Danh) mà chẳng có

(258).- Tích chuyện mẹ của Trưởng-lão Sơn-na.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến người mẹ của Trưởng-lão Sơn-na.

Thuở ấy, ở thành Cưu-ra-ga, có một vị phu-nhơn rất giàu-sang sanh được một người con trai, tên là Sơn-na, đi tu từ lúc còn nhỏ. Một hôm, tỳ-kheo Sơn-na đi ngang qua làng cũ. Bà mẹ hay tin, mướn người dựng một đài cao và rộng, tổ-chức một buổi lễ bố-thí thật lớn để mừng con và mời dân-chúng tối đến để nghe Trưởng-lão Sơn-na giảng pháp. Tối hôm ấy, vị phu-nhơn cùng với tất cả thân-nhơn trong nhà đến dự, chỉ lưu lại một đứa tớ gái nhỏ trông nom cửa nhà.

Bấy giờ, có một bọn cướp đông người gần trăm tên, thừa cơ nhà vắng, mới đến cướp-bóc. Tên đầu-đảng lại đến đài giảng-pháp, ngồi gần vị phu-nhơn để canh-chừng, với ý-định gây cản-trở, nếu phu-nhơn bất-thần trở về. Đến nửa đêm, đứa tớ gái chạy đến đài, thưa với phu-nhơn, rằng nhà bị trộm-cướp vào. Phu-nhơn đang chăm-chú nghe pháp, quay lại bảo nó: “Cứ mặc kệ chúng, con trở về đi, đừng làm rộn, để bà nghe pháp.” Con bé vâng lời ra về; lát sau, nó trở lại thưa: “Bà ơi, bọn trộm đang lấy hết các choé bạc ở nhà ngang rồi!” Vị phu-nhơn quở nó: “Sao con cứ làm rộn bà, ai muốn lấy gì cứ lấy, con để yên cho bà nghe pháp, về đi.” Đứa tớ chẳng dám cãi lời, bước đi; độ nửa giờ sau, nó hộc-tốc chạy trở lại: “Bà ơi, bọn cướp phá cửa phòng riêng của bà, khuân hết vòng vàng, ngọc-ngà, châu-báu rồi!” Vị phu-nhơn quắc mắt bảo nó: “Mầy thật chẳng biết nghe lời bà, cứ theo làm bà chẳng chú-ý đến hết bài pháp. Về ngay đi, còn mất gì bà cũng chẳng cần!” Tự đầu hôm, tên chúa đảng đã nghe rõ từng lời của vị phu-nhơn, anh ta rất ngạc-nhiên, bỗng tỉnh-ngộ, ta cướp giựt bất-lương như thế, rồi sẽ bị quả-báo không sai. Biết đâu lại bị sét đánh bể đầu, hay bị đất nứt sa vào địa-ngục. Anh ta liền chạy đi, hét đồng-bọn đem trả lại hết tài-vật, rồi cả lũ đến đài giảng-pháp, qùi xuống lạy xin lỗi vị phu-nhơn. Bài pháp vừa dứt, Trưởng-lão Sơn-na vừa bước xuống đài, cả bọn cướp đến xin cải tà qui chánh.

Hôm sau, Trưởng-lão dẫn cả trăm tên đầu trộm đuôi cướp đang ăn-năn bước theo sau, đến chùa Kỳ-viên, xin xuất-gia tu-hành. Đức Phật tuỳ căn-cơ mỗi người mà nói lên chín bài Kệ sau đây:

Tỳ-kheo, tâm từ-bi an trú,
Tín-thành hành giáo-pháp Phật-đà;
Cảnh tịch-tĩnh Niết-bàn thành-tựu,
Các hành hữu-lậu được an-hoà.
(Kệ số 368.)

Thuyền rỗng-không nầy ví tấm thân,
Tỳ-kheo mau tát cho khô nước,
Hãy dập tắt ngay lửa tham-sân,
Thuyền nhẹ đi nhanh đến Niết-bàn.
(Kệ số 369.)

Cắt đứt NĂM là ngũ độn-sử,
Dứt bỏ NĂM là ngũ lợi-sử,
Trau-dồi NĂM là ngũ-lực,
Vượt khỏi NĂM là ngũ phược,
Đó gọi là bực “Vượt Bộc-lưu” .
(Kệ số 370.)

Tỳ-kheo, hãy hành thiền tinh-tấn,
Chớ thả tâm quanh-quẩn thú vui.
Phóng-dật, nuốt hòn sắt nóng đỏ,
Lửa điạ-ngục thiêu, chớ than khổ!
(Kệ số 371.)

Chẳng có định-tâm nơi người thiếu trí,
Chẳng có trí nơi kẻ thiếu định-tâm.
Vị nào được cả hai: định, huệ,
Vị ấy kề bên bệ Niết-bàn.
(Kệ số 372.)

Tỳ-kheo đến ẩn nơi vắng-vẻ,
Tâm-tư thường lặng-lẽ an-nhiên.
Chứng thông Giáo-pháp hành thiền,
Hưởng nguồn phỉ-lạc siêu-nhiên thoát trần.
(Kệ số 373.)

Mỗi khi quán-tưởng và thấu rõ
Các uẩn khởi-sanh rồi hoại-diệt,
Phỉ và lạc, tỳ-kheo hưởng-thọ,
Chỉ bực Bất-tử mới được biết.
(Kệ số 374.)

Đây là chỗ bắt đầu nỗ-lực,
Tỳ-kheo có trí, biết tri-túc,
Các giác-quan đều được thu-thúc,
Giới-luật căn-bản luôn nghiêm-trì.
(Kệ số 375.)

Bạn hiền gần-gũi khéo kết thân,
Đúng chánh-mạng, cử chỉ đoan-trang,
Do đó, thấm-nhuần trong phỉ-lạc,
Phiền-não sớm dứt, hướng Niết-bàn.
(Kệ số 376.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Sơn-na: tên vị Trưởng-lão nầy, tiếng Pali là Sona.

– Cưu-ra-ga: tên thành nầy, tiếng Pali là Kuraraghara.

– Tỉnh-ngộ = nhờ suy-nghĩ biết trước mình đã lầm, nay sửa lại.

– Bất-lương: Bất = chẳng; Lương = tốt. Bất-lương là chẳng ngay.

– Quả-báo: Quả = kết-quả, hậu-quả; Báo = báo ứng. Hễ làm điều lành, hưởng được lành, gọi là được quả-báo tốt. Ác-báo thì ngược lại.

– Cải tà qui chánh: Cải = sửa lại; Tà = quấy; Qui = theo về; Chánh = đúng, phải. Cải tà qui chánh là bỏ điều quấy để theo điều lành.

– Xuất-gia: Xuất = ra khỏi; Gia = nhà. Xuất-gia là bỏ đời sống có gia-đình trong xã-hội, vào chùa đi tu.

– Căn-cơ: tâm-tánh hay trí-huệ riêng-biệt của mỗi người.

– Từ-bi: Từ = ban vui; Bi = cứu-khổ. Tâm từ-bi rộng thương mọi loài

– Tín-thành: Tín = tin-tưởng; Thành = thật-tình. Tín-thành là lòng tin

– Phật-đà: tiếng Pali là Buddha; Phật là giác, là hiểu biết rõ.

– Tịch-tĩnh: Tịch = vắng; Tĩnh = yên-lặng.

– Các hành hữu-lậu: chữ Hành dịch nghĩa chữ Pali sankhàra, nghĩa rất rộng, ở đây, chỉ xin lấy một nghĩa hẹp là các hiện-tượng tâm-linh bên trong tâm; chữ hữu-lậu, hữu là có; lậu là (chất dơ) rỉ chảy ra. Các hành hữu-lậu nếu được hiểu gọn là phần tâm-linh bên trong bị nhiễm-ô thành các phiền-não như tham-sân, si, v.v., bộc lộ ra bằng các hành-động, lời nói, hay ý-tưởng chẳng lành. “Các hành hữu-lậu được an-hoà”, là giữ cho thân-tâm được quân-bình, tỉnh-lặng.

– Ngũ độn-sử = năm món kết-sử thấp (kết =buộc; sử = sai khiến): (1) thân-kiến, chấp Thân làm Ta; (2) nghi, chẳng tin Chánh-pháp; (3) giới-cấm-thủ, tin theo các nghi-thức cúng-tế tà-đạo; (4) tham; (5)sân,

– Ngũ lợi-sử = năm món kết-sử cấp cao: (1) sắc-ái-kết, mê-luyến cảnh sắc-giới; (2) vô-sắc ái, mê-luyến cảnh vô-sắc-giới; (3) mạn, kiêu-căng; (4)trạo, giao-động, bối-rối; (5) vô-minh, si-mê, ngu-tối.

– Ngũ lực = năm sức mạnh tinh-thần: (1) tín-lực, niềm tin vững; (2) tinh-tấn-lực, nỗ-lực, cố-gắng; (3) niệm-lực, suy-nghĩ để phá các ác-kiến; (4) định-lực, tâm an-định phá các vọng-tưởng; (5) huệ-lực, trí sáng phá sự ngu-tối.

– Ngũ phược: (Phược = lấy dây mà trói buộc) = năm sự trói-buộc; đó là: tham, sân, si, mạn và tà-kiến.

– Vượt Bộc-lưu: Bộc-lưu là thác nước, từ trên cao cứ đổ xuống mãi. Bực Vượt Bộc-lưu là hàng Thánh đã phá mười kết-sử, dẹp năm sự trói-buộc, được năm sức-mạnh, tóm lại, đã giác-ngộ và giải-thoát.

– Phóng-dật = lười-biếng, buông-lung, chẳng cố-gắng.

– Kề bên bệ Niết-bàn: đến nơi ngưỡng cửa( = bệ) của Niết-bàn.

– Phỉ-Lạc: = niềm vui sướng. Phỉ, dịch chữ Pali Piti, niềm vui khi ngồi thiền đắc định. Lạc là các thú-vui, ở đây, chỉ thú vui tinh-thần.

– Siêu-nhiên: Siêu = vượt lên trên; Nhiên = tự-nhiên; Siêu-nhiên là khác với thế-tục, trần-thế; Thoát trần là vượt cảnh thường-tình.

– Quán-tưởng: khi ngồi định tâm, suy-nghĩ sâu-xa về một đề-tài.

– Uẩn: còn gọi là ấm, nghĩa là tập-hợp chung lại và che mờ. Thân-tâm con người có năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành và thức.

– Bất-tử: Bất = chẳng; Tử = chết. Bực Bất-tử là bực đã chứng được vô-sanh, chẳng còn sanh lại nữa nên chẳng hề chết đi.( Bực A-la-hán)

– Tri-túc: Tri = biết;Túc = đủ. Tri-túc là biết vừa đủ, chẳng đòi thêm

– Thu-thúc: kềm-giữ, nhiếp-phục, điều-phục.

– Nghiêm-trì: Trì = giữ-gìn; Nghiêm-trì là tuân theo cẩn-thận.

– Chánh-mạng: Chánh = chơn-chánh; đứng-đắn; Mạng = mạng sống.Chánh-mạng là cách mưu-sanh đứng-đắn bằng nghề chơn-chánh

– Đoan-trang = nghiêm-trang và đứng-đắn.

– Niết-Bàn: tiếng Phạn Nirvana; Pali Nibbàna, tâm-trạng người dứt phiền-não, lìa mọi ham-muốn, chứng được vô-sanh, sống tự-tại.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại một vị phu-nhơn chăm-chú nghe Pháp, chẳng thèm lưu-tâm đến việc nhà đang bị trộm-cướp. Ý-nghĩa rất hứng-thú của Tích chuyện là thái-độ của vị phu-nhơn chẳng màng việc mất cả tài-sản, chỉ lo theo dõi bài giảng-pháp, đã làm thức-tỉnh được tên chúa-đảng khiến y và đồng-bọn biết cải-tà qui-chánh.

(2) Ý-nghĩa các bài Kệ từ số 368 đến số 376:

Mặc dầu các bài Kệ được Đức Phật đọc để dạy các tỳ-kheo, nhưng người tu tại-gia cũng có thể học-tập theo. Để tiện phân-tách chín bài Kệ, xin sắp xếp lại thành ra ba nhóm:

– Nhóm 1)Bốn bài dành cho người mới bắt đầu tu: số 375, 376, 368 và 369;

– Nhóm 2) Bốn bài khuyên tu Thiền: số 371, 372, 373 và 374.

– Nhóm 3) Một bài dành cho bực thượng-căn: số 370.

Nhóm 1:

Bài Kệ số 375: đây là bài Kệ quan-trọng, chỉ rõ khi mới vào tu phải làm những gì trước:

(a) có trí, tức là phải siêng-năng học-hỏi giáo-lý;

(b) biết tri-túc, tức là dẹp bỏ mọi đòi hỏi, biết vừa đủ;

(c)các giác-quan đều được thu-thúc, tức là kềm-giữ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, chẳng đua đòi chạy theo cảnh-vật bên ngoài;

(d) giới-luật căn-bản luôn nghiêm-trì, tức là theo đúng thật kỹ-lưỡng mọi điều ngăn-cấm, tự đặt mình trong vòng kỷ-luật khắt-khe, để buộc thân-tâm vững tiến trên đường tu-tập.

Bài Kệ số 376: dạy phải noi gương theo những gì để tu-tập:

(a) gần-gũi, kết thân với bạn hiền: được khuyên-nhũ làm điều lành, được an-ủi khi lo-lắng, được vui khi cùng tu với nhau;

(b) đúng Chánh-mạng: nếu xuất-gia, theo đúng hạnh khất-sĩ, dẹp được lòng tự-ái, ngã-mạn khi đi xin; nếu tại-gia, làm tròn nhiệm-vụ trong khi hành-nghề chơn-chánh;

(c)cử-chỉ đoan-trang: trong các oai-nghi: đi, đứng, nằm, ngồi, nói và nín, đều nghiêm-trang, tập theo cách của người bạn hiền đi trước;

(d) phiền-não dứt, được phỉ-lạc, hướng đến Niết-bàn: nhờ có bạn hiền cùng tu, nên phiền-não sớm dứt, được niềm vui thanh-cao, hướng đ(c) sớm chứng được cảnh tịch-tĩnh Niết-bàn, nhờ các hành hữu-lậu ( = các phiền-não nơi thân-tâm) trở nên an-hoà: đây là kết-quả từ-từ trên bước đường tu-tập, vui mà nhận thấy mình có tiến-bộ.

Bài Kệ số 369: đây là bài Kệ nên học thuộc lòng, vì hình-ảnh “chiếc thuyền rỗng-không” đáng ghi-nhớ mãi trong tâm-khảm:

(a) Thuyền rỗng-không nầy ví tấm thân: thân-tâm nầy do năm uẩn tạm hợp, sẽ tan-rả, nên xét kỹ mà thấy nó thật là rỗng-không;

(b) Tát cho khô nước tức là dập tắt ngay lửa tham, sân: thuyền khô nước trở nên nhẹ-nhàng, thân-tâm dẹp sạch tham-sân trở nên thanh-tịnh, đó là điều-kiện tốt để sớm chứng được cảnh Niết-bàn;

(c) Thuyền nhẹ đi nhanh đến Niết-bàn: hình-ảnh ngồi thuyền đi nhanh đến Niết-bàn rất ư là … thơ-mộng.

Tóm lại, các bài Kệ thuộc nhóm 1 đặt căn-bản cho việc bắt đầu tu-tập: niềm tin vững-chắc, giới-luật nghiêm-trì, kết thân bạn hiền, phát tâm Từ-Bi, dẹp lòng tham-sân.

Nhóm 2: ghi rõ các bước để tu Thiền:

Bài Kệ số 371: bước đầu tu Thiền là tập gom Tâm lại, tức là hết sức ến sự giác-ngộ và giải-thoát của Niết-bàn.

Bài Kệ số 368: dạy hai đức-tánh căn-bản của người tu-hành: tâm Từ-Bi và niềm tin vững-chắc:

(a) Tâm an-trú trong Từ-Bi: luôn luôn đem nguồn vui đến cho mọi người, cứu khổ cho mọi loài;

(b) Tín-thành theo giáo-pháp Phật-đà: Tâm Bồ-đề thật kiên-cố, dẹp mọi nghi-ngờ, tránh được sự thối-chí;

chú-ý và tập-trung tư-tưởng.

(a) …hành Thiền tinh-tấn, chớ thả Tâm quanh-quẩn thú-vui: theo dõi hơi thở, giữ chánh-niệm và tỉnh-giác thì Tâm phải ngừng lại, chẳng thể nào chạy lang-thang theo thú-vui bên ngoài được;

(b) Phóng-dật, nuốt hòn sắt nóng đỏ, Lửa điạ-ngục thiêu, chớ than khổ!: Tỳ-kheo nhận của bố-thí mà chẳng lo tu-hành, phóng-dật, lười-biếng thì sẽ sa điạ-ngục, nuốt sắt nóng đỏ, uống nước đồng sôi. Người tại-gia tu thiền mà giãi-đãi, lúc tu lúc không, sẽ bị ngoại-cảnh lôi-cuốn theo các thú-vui vật-chất thấp-kém, khiến sa vào cõi ác khi tái-sanh. Đây là lời Phật cảnh-cáo cho cả xuất-gia và tại-gia.

Bài Kệ số 372: tu Thiền đắc được Định và Huệ, tiến đến cảnh giác-ngộ và giải-thoát của Niết-bàn.

(a) Chẳng có định-tâm nơi người thiếu trí: người thiếu trí khi tu Thiền chẳng biết cách gom tâm lại để kéo dài sự chú-ý, thì làm sao mà tâm an-định được;

(b) Chẳng có trí nơi người thiếu định-tâm: điều nầy dễ thấy, vì người để tâm chạy lang-thang, chẳng chú-ý, làm sao nhìn rõ, thấy rõ, biết rõ cho được, đó chẳng phải thiếu trí hay sao;

(c)… được cả hai Định, Huệ, … kề bên bệ Niết-bàn: Tâm an-định, Trí-huệ phát-sáng, thấy đúng đường-lối tu-hành, thì ngày chứng được Niết-bàn đã gần kề.

Bài Kệ số 373: phương-cách tập Thiền, chọn nơi vắng-vẻ.

(a) Tỳ-kheo đến ẩn nơi vắng-vẻ: Đức Phật thường khuyên tỳ-kheo nên vào rừng vắng để dễ tu Thiền; ngày nay ta có thể chọn căn phòng vắng, vào giờ thuận-tiện sáng sớm, hay khuya trước khi đi ngủ, tâm dễ lắng yên, chẳng bị ngoại-cảnh chi-phối;

(b) Tâm-tư thường lặng-lẽ an-nhiên: đến nơi vắng chưa đủ, tâm còn phải vắng nữa, phải lặng-lẽ nữa, mới đủ điều-kiện để tập Thiền. Tâm lặng-lẽ cách nào? Dẹp bỏ hết mọi ý-nghĩ vẩn-vơ, đuổi hết các ý-nghĩ giận người nầy, thương người kia, ganh-tị với bạn-bè, v.v.

(c) Chứng thông giáo-pháp hành-thiền: tu Thiền, nên có Thầy hướng-dẫn, chẳng những tránh được các đường tẻ, khỏi lọt vào tà-kiến, tà-định, mà còn biết những điểm còn thiếu-sót để sửa-chữa.

(d) Hưởng nguồn phỉ-lạc siêu-nhiên thoát trần: trong khi ngồi Thiền, quên được các mối lo-âu nơi cuộc sống thế-tục, chính giờ phút đó là đang hưởng nguồn phỉ-lạc, vui-sướng vì tâm-trí được nhẹ-nhàng.

Bài Kệ số 374: cách quán-tưởng khi ngồi Thiền.

(a) Mỗi khi quán-tưởng thấu rõ, Các uẩn khởi-sanh rồi hoại-diệt: đây là chọn đề-tài quán-tưởng về thân-tâm ngũ-uẩn. Ngồi Thiền, khi tâm bắt đầu an-định, nhờ sức quán-tưởng mạnh ( = chú-tâm), chiếu soi được các khía-cạnh của đề-tài, lần-lượt nhận ra được chơn-lý. Trong đề-tài quán thân-tâm ngũ uẩn, nhìn biết rõ sự khởi-sanh của các ý-tưởng bên trong, sự kéo dài trong khoảnh-khắc và sự biến mất của chúng, đó là theo dõi được sự khởi-sanh và hoại-diệt của một ý-tưởng trong tưởng-uẩn. Với kinh-nghiệm, sẽ chứng tánh-cách vô-thường, vô-ngã của mỗi uẩn, mà nhận ra thân-tâm năm uẩn vốn rỗng-không.

(b) Phỉ và lạc, tỳ-kheo hưởng-thọ, Chỉ bực Bất-tử mới được biết: Chứng được định-tâm, hành-giả cảm thấy thân-tâm nhẹ-nhàng, thấm nhuần một niềm vui thanh-khiết, đó là phỉ. Vì biết rõ trong thời gian tịnh-tu, tâm rỗng-rang, chẳng vướng-bận lo-lắng, ưu-phiền, đó là sự vắng-mặt của Khổ, tức là đang hưởng Lạc, vui vì hết khổ trong lúc ấy. Kéo dài được tâm-trạng thanh-thản, an-nhiên nầy, là các bực đã chứng được các quả vị Thánh, gọi là bực Bất-tử ( = hết bị tái-sanh.)

Tóm lại, đường lối tu Thiền: chọn nơi vắng-vẻ, dọn sạch Tâm, chú-ý mạnh, quán-tưởng sâu, đắc định, và huệ sẽ chói-sáng.

Nhóm 3:

Bài Kệ số 370: dành cho bực căn-cơ cao, dạy phải dẹp mười kết-sử, vượt qua năm dây ràng-buộc, trau-dồi năm sức mạnh tinh-thần

(a) Cắt đứt năm độn-sử: trong số nầy, có ba kết-sử chẳng quá khó vượt qua, để chứng được quả thứ nhứt là Tu-đà-huờn: đừng chấp chặt vào thân; dứt nghi về Chánh-pháp; bỏ mọi mê-tín tà-đạo.

(b) Dứt bỏ năm lợi-sử: năm lợi-sử khó dẹp là vì thiếu sự quân-bình giữa định và huệ; giữ định, huệ bằng nhau, nhờ giới phụ giúp vào, sẽ chiến-thắng nốt năm lợi-sử.

(c) Bực”Vượt Bộc-lưu” là bực Thánh đã vượt qua được thác gành, nhờ trau-dồi năm sức-mạnh, để dẹp năm dây trói-buộc. Kể ra thì nhiều, 5×4 món tất cả, người tu tại-gia chỉ cần nhớ ba món độc: tham, sân, si, dồn nỗ-lực để tiêu-diệt chúng là được kề bên Niết-bàn.

(259).- Tích chuyện các vị tỳ-kheo nhìn hoa lài rơi trong khi ngồi Thiền.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp có đề-cập đến các vị tỳ-kheo nhìn hoa lài rơi rụng trong giờ tập Thiền.

Thuở ấy có năm trăm vị tỳ-kheo được Đức Phật chỉ-dạy cho mỗi người một đề-tài thiền-quán, liền đi vào rừng vắng, nỗ-lực tu-tập Thiền-định. Nơi đây, họ nhìn thấy các bông hoa lài nở tươi-đẹp vào buổi sáng, rồi đến chiều thì tàn-tạ, lả-tả rơi khỏi cành. Trông thấy cảnh ấy, các vị tỳ-kheo mới cố-gắng dẹp bỏ mọi lậu-hoặc trong tâm, cũng như cành lài rủ bõ các bông-hoa tàn-héo. Bấy giờ, Đức Phật, từ nơi hương-phòng, quán thấy tâm-trạng của các vị tỳ-kheo, Ngài phóng đạo hào-quang đến khu rừng, khiến các vị tỳ-kheo nhìn thấy Đức Phật trong tâm họ, và nghe lời dạy rằng: “Nầy chư tỳ-kheo, cũng như cây lài giũ bỏ các cánh hoa tàn-héo, tỳ-kheo nỗ-lực dẹp bỏ mọi lậu-hoặc trong tâm, để sớm ra khỏi vòng tái-sanh lận-đận của Luân-hồi.”

Rồi Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây, nhờ đó nhiều vị tỳ-kheo đã chứng được quả-vị A-la-hán:

Như cây lài rủ bỏ hoa tàn-héo,
Tỳ-kheo, nên khéo trút sạch tham-sân.
(Kệ số 377.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Đề-tài thiền-quán: một đầu-đề để suy-nghĩ sâu-xa khi ngồi Thiền

– Lậu-hoặc: Lậu = rỉ chảy ra; Hoặc = điều sai-lầm. Lậu-hoặc là các phiền-não tham, sân, si,v.v. khởi nơi tâm, lộ ra bằng hành-động xấu.

– Hương-phòng: căn phòng có hương thơm, dành riêng cho Đức Phật, tiếng Pali là Gandhakuti.

– Hào-quang: ánh-sáng rực-rỡ toả chiếu từ vị tu-hành định-lực cao.

– Luân-Hồi: Luân = bánh xe; Hồi = trở lại. Theo giáo-lý nhà Phật, chúng-sanh khi chết đi phải tùy nghiệp mà tái-sanh trở lại, để rồi chết nữa, lẩn-quẩn mãi, tựa như bánh xe cứ lăn tròn vòng (Pali: Samsàra.)

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất đơn-sơ: các vị tỳ-kheo khi tập Thiền, nhơn nhìn thấy hoa lài rơi tàn-tạ khỏi cành cây, quyết nỗ-lực dẹp bỏ lậu-hoặc tham, sân, si… ra khỏi tâm, như cành cây giũ bỏ hoa héo.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 377:

Bài Kệ cũng rất rõ nghĩa: khi tu Thiền, phải dẹp ra khỏi tâm các lậu-hoặc tham, sân, mới mong sớm đắc dược định-tâm.

(260).- Tích chuyện Trưởng-lão San-ta-kha.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp có đề-cập đến Trưởng-lão San-ta-kha.

Thuở ấy, ở chùa Kỳ-viên, có một vị tỳ-kheo tên là San-ta-kha, tánh-tình rất trầm-tĩnh, đi đứng nghiêm-trang, thường ngồi, nằm nơi vắng-vẻ, ít nói, ít tiếp-chuyện với bạn đồng-tu. Các vị tỳ-kheo cho thái-độ lặng-lẽ đó có vẻ khác thường, mới đến thưa-trình cùng Đức Phật. Đức Phật bảo: “Nầy chư Tăng, tỳ-kheo San-ta-kha kiếp trước là một con sư-tử chúa, dáng-điệu rất oai-vệ, săn được mồi, ăn xong liền nằm im, lặng-lẽ. Thái-độ trầm-tĩnh ngày nay của tỳ-kheo San-ta-kha rất đáng khen ngợi, các tỳ-kheo nên noi theo gương đó.”

Rồi Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:

Thân an-tịnh, lời cùng an-tịnh,
Ý an-tịnh, tâm thường giác-tỉnh.
Mọi thế-sự, tỳ-kheo dẹp qua,
Mới xứng danh là “Bực tịch-tịnh”
(Kệ số 378.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– San-ta-kha: tên vị Trưởng-lão nầy, tiếng Pali là Santakàya, có nghĩa là thân an-tịnh.

– Trầm-tĩnh: Trầm = chìm; Tĩnh = yên-lặng; Trầm-tĩnh là an-tịnh.

– Giác-tỉnh: Tỉnh-giác: Tỉnh = thức-tỉnh, chẳng mê; Giác = biết rõ. Tâm giác-tỉnh là luôn luôn giữ chánh-niệm, làm gì, nói gì, nghĩ gì, tâm đều đang biết rõ điều ấy và chỉ điều ấy mà thôi, chẳng lo ra việc khác.

– Thế-sự: Thế = đời; Sự = việc. Thế-sự là việc đời, việc thiên-hạ.

– Bực tịch-tịnh: dịch chữ Pali Muni, chữ Hán-Việt là Mâu-ni, có nghĩa là trầm-tĩnh, an-nhiên. Mâu-ni là danh-hiệu PhậtThích-ca Mâu-ni

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc các tỳ-kheo hiểu lầm thái-độ trầm-tĩnh, ít nói của Trưởng-lão San-ta-kha, cho đó là khác thường. Nhưng Đức Phật nhắc đến tiền-kiếp làm sư-tử chúa của Trưởng-lão, đi đứng oai-vệ, nằm ngồi lặng-lẽ và khuyên các tỳ-kheo nên noi gương trầm-tĩnh đó của Trưởng-lão.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là: phải giữ thân-tâm an-tịnh, bằng cách giữ thân trầm-tĩnh, lời nói trầm-tĩnh và ý-nghĩ trầm-tĩnh, cả ba nghiệp đều thanh-tịnh.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 378:

Bài kệ dạy ta một điều rất quan-trọng trong việc tu-hành: giữ thân-tâm cho an-tịnh, đó là đường-lối tu tâm.

Xin phân-tách từng câu:

1) Thân an-tịnh, lời cùng an-tịnh: đây là nói về nghiệp thân và nghiệp khẩu ( = miệng). Thân an-tịnh có cử-chỉ từ-tốn, chẳng vụt-chạc, nghiêm-trang. Lời nói an-tịnh thì dễ nghe, dịu-dàng, ôn-tồn, khiến người nghe được vui lòng. Hai nghiệp nầy mà tịnh được thì tránh được biết bao tội-ác, gây thêm được biết bao căn lành.

2) Ý an-tịnh, tâm thường giác-tỉnh: đây là nói về ý-nghiệp, quan-trọng nhứt trong ba nghiệp, vì ý-nghiệp dẫn ta đi thác-sanh. Tâm tỉnh-giác được là nhờ luôn luôn giữ chánh-niệm, làm gì, nói gì, nghĩ gì, đều biết rõ cả, chẳng buông-lung chạy theo ngoại-cảnh.

3) Mọi thế-sự, tỳ-kheo dẹp qua, Mới xứng danh là “Bực tịch-tỉnh”: dẹp chuyện Đời qua một bên, để lo chuyện Đạo, tức là lo tu sửa tâm-tánh mình. Người biết sống một mình, hằng theo dõi mọi biến-chuyển trong tâm mình, mới xứng danh là người theo gót Đức Mâu-ni.

(261).- Tích chuyện Trưởng-lão Nan-ga-la.

Tích chuyện nầy hơi giống với Tích chuyện số (116), về Trưởng-lão Phí-lộ-thi.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến Trưởng-lão Nan-ga-la.

Thuở ấy, ở nước Xá-vệ, có một người nông-phu nghèo khó phải đi cày ruộng mướn cho chủ, rất cực-khổ. Một hôm, một vị tỳ-kheo đi ngang qua, thấy anh ngồi nghỉ bên bờ ruộng, mới hỏi thăm. Biết cảnh khó-nhọc của kẻ làm mướn chẳng đủ ăn, vị tỳ-kheo hỏi anh có muốn đi tu không. Anh đồng-ý, theo vào chùa, làm lễ xuất-gia. Theo lời thầy dạy, vị tỳ-kheo mới đem cái cày và quần-áo cũ rách-rưới của mình, ra bỏ nơi gốc cây gần chùa. Thời-gian sau, ăn uống no đủ, anh mập-mạp ra, nhưng trong lòng lại nhớ đến cảnh sống ngày xưa và bắt đầu chán-ngán cuộc đời tu-hành. Anh liền đi đến bên gốc cây, nhìn lại chiếc cày và đống quần-áo cũ, thầm trách mình: “Sao mình chẳng biết hổ-thẹn, đã đi tu để được giải-thoát, lại còn muốn quay về với cuộc đời bần-cùng với chiếc cày nặng, với đống giẻ rách nầy?” Tự-trách mình như thế, ý-tưởng quay về đời sống thế-tục liền tan biến, anh trở lại chùa. Rồi độ bốn năm ngày sau, ý ấy lại khởi lên trong tâm anh, anh cũng trở lại gốc cây, cũng tự-trách như trước nữa. Các vị tỳ-kheo khác thấy anh mỗi tuần hai lần đi thăm chiếc cày như thế, mới đặt tên anh là tỳ-kheo Nan-ga-la, có nghĩa là chiếc cày.

Bẵng đi một dạo, chẳng thấy Nan-ga-la đi thăm gốc cây nữa, các vị tỳ-kheo lấy làm lạ, mới hỏi lý-do. Nan-ga-la đáp: “Trước kia tôi thường đến đấy, để thăm “thầy tôi” và học-hỏi thêm, nay tôi thấy chẳng còn cần-thiết nữa, nên thôi.” Cho rằng Nan-ga-la có ý bảo ngầm rằng, mình nay đã thành bực vô-học, các vị tỳ-kheo ấy mới đến thưa cùng Đức Phật: “Bạch Thế-tôn, tỳ-kheo Nan-ga-la tự-phụ bảo mình là bực vô-học chứng quả A-la-hán.” Đức Phật bảo: ‘Nầy chư Tỳ-kheo, Nan-ga-la là người biết tự quán-sát mình, tự-trách mình và tự tu sửa mình, quả thật, đã chứng được quả-vị A-la-hán.”

Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:

Tỳ-kheo, hãy tự kiểm-thảo mình,
Tự mình phòng-hộ và dò soát.
Tâm-tư hằng tỉnh-giác,
Cuộc sống được an-lành.
(Kệ số 379.)

Mình là nơi mình đang nương-tựa,
Ta đi tìm ẩn-trú nơi ta.
Thế nên tự-chế, chớ lơ-là,
Như khách thương luyện thuần bầy ngựa.
(Kệ số 380.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Nan-ga-la: biệt-hiệu của vị Trưởng-lão nầy, Pali là: Nangalakula

– Xuất-gia: Xuất = ra khỏi; Gia = nhà; Xuất-gia là bỏ đời sống thế-tục, rời gia-đình, vào chùa tu.

– Thế-tục: Thế = đời; Tục = thường; Đời Thế-tục là đời sống của thường-nhơn có gia-đình trong xã-hội.

– Vô-học: dịch chữ Pali Asekha, bực đã học-hỏi xong cách diệt-trừ các phiền-não và tu-tập thành-công. Trái với bực vô-học, là bực hữu-học (Sekha), thấp hơn, còn phiền-não, cần học-tập cách tận-diệt các lậu-hoặc. Chứng được quả Thánh A-la-hán mới lên hàng Vô-học.

– Tự-phụ = khoe-khoang, tự-cao, xem mình là hơn.

– Tự-kiểm-thảo: tự mình xét lấy lỗi mình để tu sửa lại

– Phòng-hộ = bảo-vệ, giữ-gìn cẩn-thận.

– Tự-chế = tự mình kềm-chế lấy mình, chẳng buông lơ.

– Khách thương = người buôn-bán, làm nghề thương-mãi.

– Luyện thuần = huấn-luyện cho thuần-thục, nhuần-nhã, dễ khiến

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại một người nông-phu đi tu, mỗi khi trong tâm khởi lên ý-tưởng muốn quay về đời sống thế-tục, mới đến bên gốc cây, nhìn chiếc cày và đống quần-áo cũ, mà tự-trách mình sao chẳng chuyên-tu. Nhờ biết tự kiểm-thảo như thế, chẳng bao lâu người ấy trở thành bực vô-học, chứng quả Thánh.

(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 379 và 380:

Hai bài Kệ khuyên ta phải biết thường thưòng xét lỗi của chính mình, để tu sửa lại, chẳng nên lơ-là.

Bài Kệ số 379: khuyên hai điều: (1) tự kiểm-soát; (2) tỉnh-giác

1) Tỳ kheo, hãy tư kiểm-thảo mình, Tự mình phòng-hộ và dò-soát: Tự mình kiểm-thảo, phòng-hộ, dò-soát là biết nhìn vào trong tâm mình, xét thấy các lỗi-lầm của mình và tự mình sửa lại.

2) Tâm-tư hằng tỉnh-giác, Cuộc sống được an-lành: Muốn tự mình kiểm-thảo lấy mình cho đúng-đắn, tâm phải luôn luôn tỉnh-giác, nghĩa là mọi biến-chuyển trong lòng, đều được chánh-niệm theo dõi.

Chánh-niệm là gì? Chánh-niệm là niệm-giác, ý-nghĩ đứng-đắn khởi lên trong tâm để nhận-biết các ý-niệm khác vừa xảy ra trong tâm, ngay lúc chúng đang khởi lên, trong lúc chúng đang kéo dài, và lúc chúng đã tan biến đi. Niệm-giác chính là tâm đang nhìn chính tâm, biết rõ những gì đang diễn-biến nơi tâm. Đó cũng như vị cảnh-sát từ bên trong tâm, đang đứng ra canh-chừng tâm, tuy chẳng chuyên-chở thêm một ý-tưởng nào, một ý-niệm nào, nhưng lại biết rõ tất cả các niệm khác vừa hiện-diện nơi tâm.

Thông-thường, ta cứ để tâm muốn chạy đi đâu cũng chẳng để-ý, đó là cảnh thất-niệm tức là đang đánh mất chánh-niệm. Thắp sáng lên Chánh-niệm là ngay trong lúc lơ-là, liền bừng-tỉnh lại, chú-tâm nhìn vào tâm, ấy là gọi chánh-niệm chổi dậy nơi mình để theo dõi tâm.

Tu tâm là phải bắt đầu thắp sáng lên Chánh-niệm nơi tâm, giữ-gìn mãi chánh-niệm ấy, chẳng phút lơ-là, chẳng phút thất-niệm.

Bài Kệ số 380: khuyên ta phải biết tự-chế, chớ lơ-là, chớ buông-lung cho tâm chạy lang-thang.

1) Mình là nơi mình đang nương-tựa: chẳng có nơi nương-tựa nào an-toàn bằng chính tâm thanh-tịnh của mình. Muốn tâm mình an-tịnh, phải biết tự-chế, nghĩa là thắp sáng Chánh-niệm để luôn luôn tự kiểm-soát lấy mình, chận-đuổi mọi vọng-tưởng khởi lên trong tâm.

2)…Nên tự-chế,…như khách thương luyện thuần bầy ngựa: dùng Chánh-niệm dẹp yên “bầy ngựa ý” trong tâm, cũng giống như vị khách thương tập-luyện bầy ngựa, nghĩa là phải bền-chí, kiên-nhẫn.

(262).- Tích chuyện tỳ-kheo Hoa-kha-ly.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại Tịnh-xá Trúc-lâm, gần thành Vương-xá, trong kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến vị tỳ-kheo Hoa-kha-ly.

Thuở ấy ở nước Ma-kiệt-đà, có người tên là Hoa-kha-ly, một hôm trông thấy Đức Phật đi khất-thực, nhìn dáng-mạo trang-nghiêm của Ngài, nên sanh lòng ngưỡng-mộ, muốn đi tu. Từ khi được gia-nhập Tăng-đoàn, Hoa-kha-ly cứ lẩn-bẩn gần bên Đức Phật, mà xao-lãng các bổn-phận của một vị tỳ-kheo, lơ-là việc hành Thiền. Đức Phật thấy thế mới bảo: “Nầy Hoa-kha-ly, ông cứ đứng mãi bên ta, có được ích lợi gì? Gần Phật, thấy được Như-lai, là phải biết gần Chánh-pháp, học-tập Chánh-pháp kia. Thôi, ông hãy lui ra, đừng đến trước mặt ta nữa.”

Nghe Phật dạy thế, lòng Hoa-kha-ly buồn vô-cùng, chán-nản lui ra và nẩy ý-định leo lên núi Linh-thứu nhảy xuống tự-tử. Đoán biết tâm-trạng của Hoa-kha-ly, Đức Phật lên đỉnh Linh-sơn trước. Khi Hoa-kha-ly sắp thực-hiện ý-định đen tối, Ngài phóng hào-quang chiếu lên rực-rỡ. Hoa-kha-ly nhìn thấy, lòng hân-hoan dào-dạt, hết muốn tìm cái chết nữa, liền qùi xuống đảnh-lễ. Bấy giờ Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây, nhờ đó Hoa-kha-ly tỉnh-ngộ, nỗ-lực tu-tập, chẳng bao lâu chứng được quả-vị A-la-hán:

Tỳ-kheo thường hân-hoan dào-dạt,
Vững niềm tin giáo-pháp Phật-đà.
Cảnh-giới tịch-tịnh sớm chứng qua,
Các hành hữu-lậu được tịnh-lạc.
(Kệ số 381.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Hoa-kha-ly: tên vị tỳ-kheo nầy, tiếng Pali là Vakkali.

– Trúc-lâm, Vương-xá, Ma-kiệt-đà: Tịnh-xá Trúc-lâm (Veluvana), do vua Tần-bà-sa-la (Bimbisara) cất trong vườn trúc, gần thành Vương-xá (Ràjagaha), thủ-đô xứ Ma-kiệt-đà (Magadha), miền Bắc Ấn-độ xưa.

– Như-Lai: tiếng tự-xưng của Đức Phật, chỉ pháp-thân Phật; tiếng Pali là Tathàgata ( = bực đã đến đây như thế ) (Như = như thế; Lai =đến)

– Linh-thứu: tên đỉnh núi giống hình chim kên-kên (Gijjhakuta).

– Hân-hoan dào-dạt = vui mừng hết sức.

-Phật-đà: phiên âm chữ Buddha. Phật có nghĩa là giác, hiểu biết thấu-đáo về tất cả muôn loài. Đức Phật là bực đại-giác.

– Cảnh-giới tịch-tịnh: Cảnh-giới là cõi; Tịch-tịnh là vắng-vẻ và lặng-lẽ;Cảnh-giới tịch-tịnh, ở đây, là cảnh-giới Niết-bàn yên-vui, tự-tại

– Các hành hữu-lậu: Các hành chỉ thân-tâm; hữu-lậu là chứa các phiền-não, dơ-xấu, rỉ chảy ra., thành hành-động bất-thiện.

– Tịnh-lạc = Tịnh = thanh-tịnh, trong-sạch; Lạc = vui. Các hành hữu-lậu được tịnh-lạc = thân-tâm còn phiền-não nầy được thanh-tịnh-hoá.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại một vị tỳ-kheo chỉ vì quá ngưỡng-mộ thân-tướng trang nghiêm đẹp-đẽ của Đức Phật mà xin đi tu để được gần luôn bên Phật. Đức Phật bảo, thấy Như-Lai, gần Như-Lai, là biết đến Chánh-pháp, học-tập để thấy được pháp-thân của Phật, chớ lẩn-bẩn bên Phật mà chẳng lo tu-tập, thì chẳng được ích-lợi gì. Vị tỳ-kheo hiểu được lời Phật, nỗ-lực tu-tập, sớm chứng được quả-vị Thánh.

Ý-nghĩa của Tích chuyện: ngưỡng-mộ Phật là biết đem Chánh-pháp Phật dạy ra tu-tập để được giác-ngộ và giải-thoát.

Về một phương-diện khác, nghe nói Kinh nầy linh-thiêng lắm, thỉnh về, đóng bià da, mạ chữ vàng, kính-cẩn đặt trên bàn thờ Phật, mà chẳng hề mở ra đọc-tụng, thì sự linh-thiêng kia chẳng cảm-ứng được đạo-tâm của mình, làm sao mà hưởng được sự lợi-lạc!

(2) Ý-nghĩa cửa bài Kệ số 381:

Bài Kệ khuyên ta nên vững tin nơi Giáo-pháp, hân-hoan học-tập, để thanh-tịnh-hoá thân-tâm, sớm chứng được cảnh an-vui Niết-bàn.

1) Tỳ-kheo thường hân-hoan dào-dạt, Vững niềm tin giáo-pháp Phật-đà: đây là hai đức-tánh quan-trọng của một vị tỳ-kheo: (1) niềm tin ở Tam-Bảo thật vững chắc, (2) vui-thích trong nỗ-lực tu-hành.

2) Cảnh-giới tịch-tịnh sớm chứng qua: nhờ nỗ-lực tu-tập, mà sớm chứng được cảnh-giới tịch-tịnh, an-vui và vắng-vẻ của Niết-Bàn, tức là sớm có được tâm-trạng an-nhiên và tự-tại, trong đời sống tu-hành.

3) Các hành hữu-lậu được tịnh-lạc: thân-tâm năm uẩn đầy phiền-não nầy sẽ sớm được thanh-tịnh-hoá, mà dẹp sạch được các lậu-hoặc.

(263).- Tích chuyện Sa-di Sử-mã.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại tu-viện Đông-viên, nước Xá-vệ, trong kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến vị sa-di trẻ tuổi tên là Sử-mã.

Sa-di Sử-mã, đệ-tử của Trưởng-lão A-na-luật, tuy mới lên bảy tuổi mà tu-tập rất giỏi, chứng được quả Thánh A-la-hán, đắc được thần-thông. Khi Trưởng-lão A-na-luật trú gần dãy Hi-mã-lạp-sơn, một hôm bị bịnh, sa-di Sử-ma đã bay đến hồ An-nô-ta cách đó hơn trăm dặm, lấy nước về cho thầy dùng. Đến khi Trưởng-lão trở về Xá-vệ, tới đảnh-lễ Đức Phật, có dẫn sa-di Sử-mã đi theo.

Tại tu-viện Đông-viên, các chú tiểu thấy sa-di còn trẻ, cứ theo chọc-ghẹo, kẻ véo tai, người cú đầu, mà Sử-mã cũng chẳng chút nào hờn-giận. Bấy giờ, Đức Phật trông thấy, Ngài mới nghĩ cách khiến cho mọi người phải thán-phục sa-di Sử-mã, liền cho gọi Tôn-giả A-nan vào bảo, Ngài cần dùng một lu lớn chứa nước từ hồ An-nô-ta đem về. Chẳng vị tỳ-kheo, hay sa-di nào đi lấy nước được, vì hồ An-nô-ta cách đây hơn mấy trăm dặm, mà cái lu lại vừa to vừa nặng. Sau cùng, sa-di Sử-mã tình-nguyện đi lấy nước. Trong khoảnh-khắc, với sức thần-thông, sa-di Sử-mã vác lu bay đến hồ múc nước rồi trở về chờ lịnh. Mọi người tập-họp ở giảng-đường, hết lời khen-tặng kỳ-công của Sử-mã. Đức Phật nói: “Nầy chư Tăng, người tu-tập theo Chánh-pháp ngày đêm chuyên-cần, chứng được quả-vị quả-vị Thánh và đắc thần-thông, mặc dầu còn trẻ tuỗi, như sa-di Sử-mã đây.”

Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:

Tỳ-kheo dẫu tuổi đời còn trẻ,
Siêng tu theo pháp Phật hằng ngày,
Sáng soi rực-rỡ thế-gian nầy,
Như vầng trăng vừa thoát khỏi mây.
(Kệ số 382.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Sa-di: người mới vào chùa tập-sư tu-hành, chưa thọ-giới tỳ-kheo; trong chùa thường gọi là chú tiểu. Tiếng Pali là Sàmanera.

– Sử-mã: tên vị Sa-di nầy, tiếng Pali là Sumana.

– Tu-viện Đông-viên: do bà Vi-sa-kha cất, ở phiá Đông chùa Kỳ-viên; tên tiếng Pali là Pubbàràma.

– A-na-luật: còn gọi là A-nâu-lâu-đà, đại-đệ-tử của Đức Phật Thích-ca; tên tiếng Pali là Anuruddha.

– A-nan: tên vị thị-giả hầu bên Phật, tiếng Pali là Ànanda.

– Hi-mã-lạp-sơn: tên dãy núi cao nhứt thế-giới ở biên-giới Ấn-độ và Trung-hoa; tiếng Pali là Himalaya, có nghĩa: quanh-năm có tuyết.

– An-nô-ta: tên hồ nước nầy, tiếng Pali là Anotatta.

– Thần-thông: khả-năng đặc-biệt như bay bổng trên không, đi trên mặt nước v.v. nhờ định-lực tu-tập cao.

– A-la-hán: quả-vị thứ tư, cao nhứt; tiếng Pali là Arahant. Chữ A-la-hán có ba nghĩa: (1) ứng-cúng, xứng-đáng được Trời, Người cúng-dường; (2) sát-tặc, giết hết giặc, giặc phiền-não; (3)vô-sanh, chẳng còn bị tái-sanh ở cõi Luân-hồi nữa.

– Tuổi đời: tuổi đời khác với tuổi đạo; cứ tham-dự mỗi muà an-cư kiết-hạ là tăng thêm một tuổi đạo; tuổi đạo còn gọi là lạp-tuế.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc một vị sa-di bảy tuổi đời, học đạo rất giỏi đắc được thần-thông, chứng quả A-la-hán. Vị ấy mang lu nặng từ chùa Đông-viên bay đến hồ An-nô-ta lấy nước, cách đó hơn mấy trăm dặm, đem về cho Phật, được mọi người thán-phục.

Ý-nghĩa của Tích chuyện: mặc dầu nhỏ tuổi, nếu tu-tập chuyên-cần, cũng chứng được quả-vị cao.

(2) Ý-nghĩa bài Kệ số 382:

Bài Kệ ý-nghĩa rất rõ-ràng: tu-hành tinh-tấn, mặc dầu còn trẻ tuổi, cũng chứng được quả-vị cao, đức-hạnh sáng ngời như vừng trăng thoát khỏi mây mờ.

HỌC TẬP:

Chẳng phải vì mong đắc được thần-thông mà cố sức tu-tập đêm ngày; chính sự phá tan các phiền-não, giải-thoát được thân-tâm, khỏi cảnh khổ tái-sanh lận-đận, mới là mục-đích chơn-chánh.

-ooOoo-

XXVI.- Phẩm BÀ-LA-MÔN.

(264).- Tích chuyện vị Bà-la-môn tâng bốc các vị tỳ-kheo là A-la-hán.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến một vị Bà-la-môn vì quá trọng-vọng tỳ-kheo, nên gọi tâng họ là bực A-la-hán.

Thuở ấy, ở nước Xá-vệ, có một người Bà-la-môn, được nghe Đức Phật thuyết-pháp, rất ngưỡng-mộ giáo-lý của Đức Phật, nên thường thỉnh các vị tỳ-kheo đến nhà để cúng-dường. Khi các vị tỳ-kheo đến khất-thực, vị Bà-la-môn ấy cung-kính gọi họ là các bực A-la-hán. Vì chưa chứng-đắc được Thánh-quả, nên các vị tỳ-kheo cảm thấy bối-rối, và sau cùng quyết-định chẳng đến nhà vị Bà-la-môn ấy nữa. Vị Bà-la-môn rất thất-vọng, chẳng hiểu vì lẽ gì mà chư Tăng chẳng đến nhà mình nữa, mới đến thưa trình cùng Đức Phật.

Đức Phật cho gọi các vị tỳ-kheo đã đến nhà người Bà-la-môn ra hỏi. Nghe họ trình-bày sự thật, Đức Phật hỏi: “Nầy các vị Tỳ-kheo, trong số các vị có ai đã chứng được Thánh-quả?” Chẳng ai trả lời có, Đức Phật hỏi tiếp: “Khi nghe gọi mình là bực A-la-hán, trong tâm quí-vị có khởi lên sự tự-cao không?” Các vị tỳ-kheo thưa, chẳng có. Đức Phật liền dạy: “Chẳng sanh tự-cao khi được gọi tâng như thế là chẳng hề vi-phạm giới-luật. Sự-thật là vì quá trọng-vọng người tu-hành, nên vị Bà-la-môn nầy mới gọi quí-vị là bực A-la-hán. Các vị nên nỗ-lực dẹp bỏ cho sạch lòng ham-muốn được đề-cao đi, và cố-gắng tu-tập, rồi sẽ chứng được quả-vị A-la-hán.”

Rồi Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:

Nầy Bà-la-môn,
Hãy tinh-tấn đoạn dòng áí-dục,
Thú vui vật-chất nên lià bỏ,
Các hành hoại-diệt đà thấu rõ,
Hãy làm người chứng-đắc vô-vi.
(Kệ số 383.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Bà-la-môn: giai-cấp tu-sĩ ở Ấn-độ xưa. Xin lưu-ý, nơi Phẩm Bà-LA-MÔN nầy, chữ Bà-la-môn trong các bài Kệ lại có nghĩa là A-la-hán

– Tâng = nói nâng cao lên. Vị Bà-la-môn gọi các tỳ-kheo chưa chứng-đắc là các bực A-la-hán, gọi tâng họ lên hàng Thánh.

– Trọng-vọng = tỏ lòng quá kính-mến.

– A-la-hán: quả-vị thứ tư, cao nhứt, vào hàng Thánh. Bực A-la-hán (Arahant) dẹp xong phiền-não, lìa mọi tham-muốn, chứng được vô-sanh, nghĩa là chẳng còn bị tái-sanh trong vòng Luân-hồi nữa.

– Tự-cao: tự xem mình là hơn, còn gọi là ngã-mạn. Tỳ-kheo chưa chứng-đắc, tự nhận mình đã chứng-đắc, phạm tội tăng-thượng-mạn.

– Đoạn dòng ái-dục: Đoạn là cắt bỏ đi, cắt đứt đoạn; Dòng ái-dục là những sự say-đắm, mê-luyến, khởi từ các giác-quan, như mắt muốn nhìn sắc-đẹp, lưỡi muốn nếm vị ngon-ngọt, tay muốn sờ vật láng,v.v.

– Các hành: hiểu cho gọn, các hành ở đây trỏ thân-tâm năm uẩn.

– Vô-vi: Vô = chẳng; Vi = làm. Sự-vật ở thế-gian chia ra hai loại: (1) hữu-vi, do tạo-tác mà có, bị thay-đổi, rồi hoại-diệt, như thân-tâm, như ngôi nhà, tức là những gì bị điều-kiện-hoá; (2) vô-vi, chẳng do tạo nên mới có, chẳng biến-đổi, như hư-không, chơn-lý, tức là chẳng bị điều-kiện-hoá. Ở đây, chữ vô-vi trỏ vào cảnh Niết-Bàn vắng-lặng.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc các vị tỳ-kheo được tâng-bốc, tỏ ra bối-rối. Đức Phật dạy, khi được đề-cao mà chẳng sanh lòng ngã-mạn thì chẳng vi-phạm giới-luật.

Ý-nghĩa Tích chuyện khuyên ta chớ nên sanh kiêu-căng khi được ai nói … nịnh!

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 383:

1) Hai câu đầu: đoạn dòng ái-dục tức là lià bỏ mọi thú-vui vật-chất.

2) “Các hành hoại-diệt đà thấu rõ” = đã hiểu thấu thân-tâm năm uẩn nầy, hiện có đây, rồi sẽ bị tan-rả, đừng quá chấp chặt vào thân.

3) Câu chót: khuyên nên cố-gắng tu-hành để chứng được cảnh vô-vi, tức là chứng được cảnh an-vui, vắng-lặng của Niết-Bàn.

(265).- Tích chuyện về hai pháp: Chỉ và Quán.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến việc ba mươi tỳ-kheo nhờ nghe hai pháp mà chứng được quả Thánh.

Thuở ấy, có một nhóm ba mươi vị tỳ-kheo từ xa đến đảnh-lễ Đức Phật. Duyên may, Tôn-giả Xá-lợi-phất cũng có mặt tại đó, quán thấy đã đến lúc cho ba mươi vị tỳ-kheo chứng-đắc được quả-vị Thánh, A-la-hán. Tôn-giả liền bạch Phật: “Bạch Thế-tôn, thế nào là hai pháp?” Đức Phật đáp: ‘Nầy Xá-lợi-phất, hai pháp đó là Chỉ và Quán.”

Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây, nhờ đó mà các vị tỳ-kheo chứng được quả-vị A-la-hán:

Khi an-trú hai pháp: Chỉ, Quán,
Bà-la-môn đạt tới bỉ-ngạn.
Đối với “người thông-suốt” nầy,
Mọi kết-sử đều đoạn-tận.
(Kệ số 384.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Quả Thánh: Quả = kết-quả việc tu-tập thành-công; Thánh = bực đã dứt được sanh-tử trong Luân-hồi. Có bốn quả-vị: (1) Tu-đà-huờn, còn sanh lại bảy lần;(2)Tư-đà-hàm, còn sanh lại một lần; (3) A-na-hàm, chỉ sanh lên cõi Trời, chẳng trở lại cõi trần; ba quả-vị nầy thuộc bực Hiền, còn bị tái-sanh; (4) A-la-hán, chứng vô-sanh, dứt cảnh tái-sanh, được gọi là bực Thánh. Trái với Thánh-hiền là phàm-phu, chưa tu

– Tôn-giả Xá-lợi-phất: tên tiếng Pali là Sàriputta, vị đại-đệ-tử của Đức Phật Thích-ca, nổi tiếng là thông-minh đệ nhứt.

– Chỉ, Quán: Chỉ = ngưng lại; Quán = xem xét kỹ-lưỡng, suy-nghĩ sâu-xa. Đây là hai Pháp-tu về Thiền-định. Theo giáo-lý Bắc-tông, Thiền-quán phân ra làm sáu phép-tu, gọi là Lục diệu-pháp-môn: (1) Sổ-tức, đếm hơi thở, (2)Tùy-tức, theo dõi hơi thở; (3) Chỉ, ngưng tất cả ý-nghĩ, tư-tưởng lại; (4) Quán, dùng tâm quán-xét tâm, suy-nghĩ sâu-xa; (5) Hoàn, quay trở lại; (6) Tịnh, làm cho tâm trở nên trong-sạch và yên-tĩnh. Ngồi Thiền là lần-lượt thực-hành sáu phép-tu đó.

– Bỉ ngạn: Bỉ = kia;Ngạn = bờ. Bỉ-ngạn là bờ bên kia, tức là bờ giác-ngộ. Đáo bỉ ngạn là đến bờ giác-ngộ bên kia; bờ bên nầy là bờ mê-lầm.

– Người thông-suốt: người hiểu rõ mọi việc, tức là đã đạt được Trí-huệ Bát-nhã Ba-la-mật, cái Trí đưa ta đến bờ giác.

– Kết-sử: Kết = ràng-buộc; Sử = sai-khiến. Có mười Kết-sử ràng-buộc tâm-trí ta, xúi-dục làm quấy, xin kể mấy kết-sử chánh: tham, sân, si, mạn, nghi, khát-ái,v.v… Dẹp xong các kết-sử, chứng A-la-hán.

– Đoạn-tận: Đoạn = cắt đứt; Tận = dứt hết xong.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc ba mươi tỳ-kheo nghe được hai pháp Chỉ và Quán trong phép tu Thiền-định mà chứng được quả A-la-hán. Chẳng phải chỉ đến nghe mà đắc quả ngay, vì còn phải tu-tập nữa, tuy Tích chuyện chỉ kể ra vắn-tắt như thế.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là nêu lên hai điểm quan-trọng trong khi ngồi Thiền: (1) dừng lại tất cả ý-tưởng, (2) quán-sát thâm-sâu tâm mình, theo dõi mọi biến-chuyển bên trong, để chấm-dứt vọng-tưởng.

(2) Ý-nghĩa của Bài Kệ số 384:

Bài Kệ nêu rõ công-năng của hai pháp Chỉ và Quán, là dẹp tan mọi kết-sử, chứng đắc Trí-huệ Bát-nhã, và được giác-ngộ và giải-thoát

Xin phân-tách từng câu:

1) Khi an-trú (trong)hai pháp:Chỉ, Quán: khi đã tu-tập thật thuần-thục cả hai pháp Chỉ ( =ngưng được tất cả tư-tưởng) và Quán ( =theo dõi thật sát mọi biến-chuyển trong tâm, suy-nghĩ sâu-xa), thì…

2) Bà-la-môn đạt tới bỉ-ngạn: chữ Bà-la-môn, ở đây, có nghĩa là bực A-la-hán, bực ấy đã đến bờ giác bên kia, tức là đã hoàn-toàn giác-ngộ và giải-thoát (nhờ an-trú trong hai pháp Chỉ và Quán).

3) Đối với “người thông-suốt” nầy, Mọi kết-sử đều đoạn-tận: Người thông-suốt, ở đây, là người đã đạt được Trí-huệ Bát-nhã Ba-la-mật, cái trí đưa ta đến bờ giác-ngộ và giải-thoát, người ấy chẳng còn bị các kết-sử ràng-buộc được nữa. Đó là nhờ công-năng của hai pháp-tu Chỉ và Quán, khiến tâm trở nên hoàn-toàn thanh-tịnh.

(266).-Tích chuyện Ma-vương thưa hỏi Đức Phật.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến Ma-vương tới hỏi Phật.

Có một hôm, Ma-vương hoá hình thành một người thường, đến thưa hỏi Đức Phật: “Bạch Thế-tôn, Ngài thường nói đến bỉ-ngạn, chẳng hay nghĩa đó ra làm sao?” Đức Phật quán thấy Ma-vương giả-dạng, mới đáp: ‘Nầy Ma-vương, ông đừng hòng qua mặt được Như-Lai. Đối với ông, thử-ngạn hay bỉ-ngạn nào có quan-hệ chút gì đâu! Bỉ-ngạn là bờ bên kia, chỉ có bực A-la-hán đã tận-diệt mọi phiền-não, hoàn-toàn giải-thoát, mới đạt tới bờ giác-ngộ bên kia.”

Rồi Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:

Người chẳng chấp bờ nầy, bờ nọ,
Cả hai bờ chẳng chấp có, không.
Thoát-ly phiền-não, hết trói buộc,
Như-Lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 385.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Ma-vương = Vua Ma trên cõi Trời, thường đi cám-dỗ làm quấy.

– Như-Lai: Như = như thế; Lai = đến; Đức Phật tự-xưng là Như-Lai khi nói với kẻ khác. Pali là Tathàgata. Các đệ-tử gọi Phật là Thế-tôn.

– Chấp = ôm chặt trong ý-nghĩ, chẳng chịu buông-bỏ.

– Bà-la-môn = Brahmana, ở đây, nghĩa là bực chứng quả A-la-hán.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất giản-dị: Ma-vương giả dạng đến hỏi Đức Phật nghĩa chữ bỉ-ngạn. Đức Phật đáp, bực A-la-hán đã dứt hết phiền-não, mới đáo bỉ ngạn, tức là đến bờ giác-ngộ bên kia.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 385:

Bài Kệ cũng rất giản-dị, đặt nặng ở chữ chấp. Chấp là cứ ôm khư khư trong lòng, chẳng chịu buông-bỏ để khỏi bị ràng-buộc. Bực A-la-hán (bài Kệ gọi là Bà-la-môn) chẳng chấp bờ nầy, bờ nọ; …chẳng chấp có, không; …thoát-ly phiền-não, hết trói buộc, là bực đã đến bỉ-ngạn.

(267).- Tích chuyện một vị Bà-la-môn hỏi Phật.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến một vị Bà-la-môn đến thưa hỏi Đức Phật, thế nào là Bà-la-môn.

Thuở ấy có một người Bà-la-môn nghĩ rằng: “Phật Cồ-đàm gọi các đệ-tử là Bà-la-môn; ta đây thuộc giai-cấp Bà-la-môn, vậy ta phải được gọi là Bà-la-môn như họ.” Nghĩ xong, người ấy đến chùa, thưa hỏi Đức Phật về vấn-đề đó. Đức Phật đáp: “Ta chẳng gọi là Bà-la-môn những người sanh trong giai-cấp nầy. Ta chỉ gọi là Bà-la-môn những ai đã chứng được quả-vị A-la-hán.”

Rồi Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây, nhờ đó vị Bà-la-môn chứng được sơ-quả Tu-đà-huờn:

Người hành Thiền, ẩn-cư, vô-nhiễm,
Thoát-ly lậu-hoặc, nhiệm-vụ xong,
Thành-đạt được mục-đích tối-tôn,
Như -Lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 386.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Cồ-đàm: Gotama, họ của Đức Phật Thích-ca.

– Giai-cấp = tầng-lớp trong xã-hội. Ở Ấn-độ xưa, có bốn giai-cấp: (1) Bà-la-môn, Brahmana, tu-sĩ; (2)Sát-đế-lợi, Khattiya, vua quan; (3) Phệ-xá, Vessa, buôn-bán; (4)Thủ-đà-la, Sudda, thợ, làm ruộng.

– Sơ-quả = quả-vị đầu-tiên, tức là quả Tu-đà-huờn (Sotàpatti.). Còn gọi là Nhập-Lưu, được vào dòng nước Thánh; hay Thất-Lai, chỉ còn tái-sanh lại bảy lần nữa ở cõi người, rồi sẽ chứng quả Thánh.

– A-la-hán: Arahant, quả-vị thứ tư, cao nhứt, dứt sạch phiền-não, chứng-đắc Niết-Bàn (chẳng còn tái-sanh trong cõi Luân-hồi nữa.)

– Ẩn-cư = ở ẩn, dấu mình ở nơi vắng người.

– Vô-nhiễm = chẳng bị nhuốm dơ, tức dẹp phiền-não, trừ lậu-hoặc

– Lậu-hoặc: Lậu = rỉ chảy ra; Hoặc = chỗ dơ-xấu, các lỗi-lầm. Lậu-hoặc là những phiền-não như tham, sân, si khởi lên trong tâm, lộ ra bằng cử-chỉ hay lời nói chẳng lành, chẳng sạch.

– Tối-tôn: Tối = hết sức, Tôn = đáng kính. Mục-đích tối-tôn là mục-đích cao-cả nhứt, tức là chứng đắc Niết-bàn, hết bị tái-sanh nữa.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất đơn-sơ, một người sanh trong giai-cấp Bà-la-môn đến hỏi Đức Phật, có được gọi là Bà-la-môn như các đệ-tử Phật hay không? Đức Phật đáp, Bà-la-môn, ở đây, có nghĩa là bực A-la-hán.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 386:

Bài Kệ định-nghĩa thế nào là bực A-la-hán, được Phật gọi là Bà-la-môn: hành Thiền, ẩn-cư, vô-nhiễm, hết lậu-hoặc, xong nhiệm-vụ, chứng được Niết-bàn là mục-đích cao-thượng, đáng tôn-quí nhứt.

Xin phân-tách từng điểm:

1) Người hành Thiền: tu-tập Thiền tức là tu Tâm, làm sao cho tâm được hoàn-toàn thanh-tịnh, để trí-huệ phát sáng. Người hành Thiền quán-sát mọi biến-chuyển trong tâm, chận được các vọng-tưởng, khiến tâm trở nên vắng-lặng, an-nhiên, do đó vui trong tự-tại.

2) Ẩn-cư: biết sống một mình, nghĩa là vứt bỏ các thú-vui vật-chất thấp-hèn trong xã-hội, gạt bỏ các phiền-não để giữ tâm được vắng-vẻ; chớ chẳng phải chỉ tìm nơi rừng sâu, non cao mà ẩn thân.

3) Vô-nhiễm: chẳng bị nhuốm dơ, tức là thân-tâm thanh-tịnh, giới-đức vẹn-toàn, do đó, các sự cám-dỗ của các dục-lạc, các tội-lỗi chẳng thể nào làm lung-lay được ý-chí quyết theo con đường lành.

4) Thoát-ly lậu-hoặc: chẳng còn bị các lậu-hoặc, tức là các phiền-não như tham, sân, si, mạn, nghi, tà-kiến theo khuấy rối nữa. Nói cách khác, đã dẹp xong hết mười kết-sử, hết bị sai-khiến, được thoát-ly, nên hoàn-toàn tự-do, tự-tại.

5) Nhiệm-vu xong: Nhiệm-vụ nào? Làm xong nhiệm-vụ thanh-lọc thân-tâm, khiến việc tu-tâm cho thanh-tịnh đã hoàn-tất.

6) Đạt mục-đích tối-tôn: Thường, ta ăn chay, đi chùa, lạy Phật, tụng kinh là để cầu phước, được may-mắn, sung-sướng cả đời. Đó là mục-đích tốt, nhưng còn thấp, so với mục-đích tối-tôn, cao hơn, là thoát Khổ vĩnh-viễn, khi chứng được vô-sanh, (nghĩa là chẳng phải tái-sanh mãi trong cõi Luân-hồi lận-đận), được vào cảnh-giới an-vui, thường-hằng, tự-tại của Niết-bàn, đó mới là mục-đích cao-quí nhứt.

(268).- Tích chuyện Tôn-giả A-nan nhìn hào-quang Phật.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại tu-viện Đông-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến việc Tôn-giả A-nan khen ngợi hào-quang toả ra từ Đức Phật.

Hôm ấy vào ngày rằm tháng Bảy, bầu trời trong xanh chẳng gợn chút mây. Tôn-giả A-nan đứng nhìn mặt trời sắp lặn, tia nắng hồng chiếu cả phương Tây. Sau rặng cây, nơi phương Đông, trăng rằm rạng-rỡ đang toả ánh-sáng vàng dịu mát qua khe lá. Vừa lúc ấy, vua Ba-tư-nặc, xứ Câu-tát-la, trong y-phục lộng-lẫy nạm vàng và kim-cương chói lọi, bước vào. Đưa vua vào trong, Tôn-giả A-nan nhìn thấy Trưởng-lão Ca-lưu-đà-di đang ngồi thiền, trong cơn đại-định, gương mặt rạng-rỡ cả góc phòng. Bấy giờ Đức Phật đang ngồi trên bồ-đoàn, thân-tướng trang-nghiêm, ánh hào-quang toả ra vô cùng rực-rỡ. Tôn-giả A-nan buột miệng, thưa: “Bạch Thế-tôn, ánh tà-dương, vầng trăng rằm, trang-phục hoàng-gia lộng-lẫy, gương mặt rạng-rỡ trong thiền-định, chẳng rực-rỡ bằng ánh hào-quang toả ra từ thân-tướng của Thế-tôn.” Đức Phật đáp lời bằng bài Kệ sau đây:

Ban ngày mặt trời chiếu sáng,
Ban đêm ánh trăng tỏ rạng.
Khí-giới chói loà Sát-đế-lỵ,
Đắc thiền-định sáng nơi Phạm-chí.
Chỉ riêng đức Phật chiếu hào-quang
Rạng-rỡ đêm ngày khắp thế-gian.
(Kệ số 387.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– A-nan: tên vị thị-giả ( = hầu bên cạnh) của Đức Phật Thích-ca, tiếng Pali là Ànanda.

– Hào-quang: ánh-sáng toả ra từ bực tu-hành cao, nhờ định-lực.

– Ba-tư-nặc, Câu-tát-la: tên vua Pasenadi, xứ Kosala.

– Ca-lưu-đà-di: đại-đệ-tử của Phật Thích-ca, tên Pali: Kàludàyi.

– Đại-định: tâm trạng lắng-yên, thâm-sâu của thiền-giả.

– Bồ-đoàn = nệm lót bên dưới để ngồi Thiền.

– Thân-tướng: hình-dáng của thân-thể.

– Tà-dương: mặt trời xế chiều sắp lặn.

– Trang-phục hoàng-gia: y-phục của nhà vua.

– Sát-đế-lỵ = phiên-âm chữ Khattiya, giai-cấp vua chúa ở Ấn-độ.

– Phạm-chí: đồng một nghĩa với chữ Bà-la-môn, Brahmana.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất giản-dị: Tôn-giả A-nan khen ngợi hào-quang toả từ thân-tướng của Đức Phật. Hào-quang đó rực-rỡ hơn cả y-phục của vua, hơn cả gương mắt rạng-rỡ của người ngồi Thiền nhập-định, hơn cả ánh sáng mặt trời và mặt trăng.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là đức-hạnh từ-bi của Đức Phật chói sáng ngày đêm khắp cả thế-gian.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 387:

Bài Kệ cho rằng hào-quang của Đức Phật hơn cả mọi ánh-sáng, vì chiếu cả ngày đêm, khắp thế-gian. Hào-quang ấy tượng-trưng cho đức-hạnh cao-quí của Đức Phật, chẳng chi sánh bằng.

(269).- Tích chuyện một vị Bà-la-môn ẩn-sĩ.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến một vị Bà-la-môn ẩn-cư tu khổ-hạnh.

Thuở ấy, có một vị Bà-la-môn ở Xá-vệ, sống cuộc đời ẩn-dật, tu theo lối khổ-hạnh. Một hôm, ông ta nghĩ, Đức Phật gọi các đệ-tử của Ngài là bực xuất-gia; ta sống ẩn-cư, tu khổ-hạnh, thì cũng đáng gọi là người xuất-gia. Ông ta đến gặp Phật và nói lên ý-nghĩ ấy. Đức Phật đáp: “Nầy ẩn-sĩ, chẳng phải chỉ sống độc-cư mà đủ để được gọi là bực xuất-gia. Hãy nghe bài Kệ nầy kể rõ những đức-tánh của người xuất-gia.”

Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây, nhờ đó mà vị Bà-la-môn chứng được quả-vị thứ nhứt là Tu-đà-huờn:

Lià ác-nghiệp là Bà-la-môn.
Sống trong an-tịnh là Sa-môn.
Tự mình dứt bỏ mọi ô-nhiễm
Nên được gọi là bực xuất-gia.
(Kệ số 388.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Ẩn-sĩ: người sống nơi xa-vắng, ít tiếp-xúc với kẻ khác.

– Khổ-hạnh = lối tu ép-xác, sống quá kham-khổ.

– Xuất-gia: Xuất = ra khỏi; Gia = nhà. Người xuất-gia là kẻ bỏ đời sống thế-tục, rời gia-đình, đi tu. Ở đây, xuất-gia = ra khỏi nơi ô-uế.

– Tu-đà-huờn: quả-vị thứ nhứt, dịch là Nhập-Lưu, nghĩa là được gia-nhập vào dòng nước Thánh, còn được gọi là Thất-Lai, nghĩa là còn tái-sanh lại bảy lần nữa, sẽ chứng quả Thánh. Tiếng Pali: Sotàpatti. Chứng quả Tu-đà-huờn, khi: (1) bỏ được thân-kiến, tức là chẳng chấp thân-tâm nầy làm Ngã, Ta; (2) hết Nghi, tức là hết nghi-ngờ về Chánh-Pháp; (3) bỏ giới-cấm-thủ, tức là chẳng theo các lối cúng-tế tà-đạo.

– Ác-nghiệp: Nghiệp ác gồm có: (1)thân làm ác; (2) miệng nói ác; (3) ý nghĩ ác.

– Sa-môn: tu-sĩ Phật-giáo; tiếng Pali: Samanera, có ba nghĩa: (1) cần-giả, siêng làm điều thiện; (2) tức-giả, ngưng làm điều ác; (3) bần-giả, cam chịu nghèo khó để tu-hành.

– Ô-nhiễm = dính dơ; ở đây, bị các phiền-não, tội-lỗi nhuốm dơ.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất giản-dị: một vị Bà-la-môn ẩn-cư tu khổ-hạnh, tự cho mình là bực xuất-gia như các tỳ-kheo. Đức Phật đọc bài Kệ nói rõ thế nào mới xứng-danh là bực xuất-gia.

(2) Ý-nghĩa bài Kệ số 388:

Bài Kệ nêu ra: (1) bỏ ác-nghiệp, thân, miệng, ý đều lành; (2) sống an-tịnh, trong-sạch và vắng-vẻ; (3) lià xa các cấu-nhiễm ( = tội-lỗi, phiền-não nhuốm dơ tâm), là những đặc-tánh căn-bản của một bực xuất-gia.

Ý-nghĩa của bài Kệ: xuất-gia là ra khỏi nơi ô-uế, phiền-não.

(270).- Tích chuyện về đức nhẫn-nhục của Tôn-giả Xá-lợi-phất.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ-giảng-pháp, có đề-cập đến đức nhẫn-nhục của Tôn-giả Xá-lợi-phất.

Tôn-giả Xá-lợi-phất là vị đại-đệ-tử nổi tiếng thông-minh bực nhứt, đứng đầu Tăng-đoàn. Tôn-giả thường được khen-ngợi là người nhẫn-nhục, chẳng hề tức-giận khi bị ai nói hỗn-hào, hay hành-hung. Tiếng đồn vang xa, có một người Bà-la-môn ganh-tị, chẳng phục, muốn tìm cách khởi-hấn để xem Tôn-giả quả có nhịn-nhục được chăng. Một hôm, Tôn-giả Xá-lợi-phất đi khất-thực. Vị Bà-la-môn bước theo sau, thình-lình vung tay đập mạnh vào lưng Tôn-giả Xá-lợi-phất. Tôn-giả vẫn bình-thản, bước đi, chẳng hề quay lại xem ai đã đánh mình. Lại một cú đấm mạnh nữa, Tôn-giả vẫn điềm-nhiên đi tới. Vị Bà-la-môn ngạc-nhiên trước thái-độ trầm-tĩnh của Tôn-giả, mới sanh ra hối-hận, liền đến trước Tôn-giả, qùi xuống tạ lỗi. Tôn-giả ôn-tồn chấp-nhận lời hối-tiếc. Vị ấy bước theo thưa tiếp: “Bạch Tôn-giả, Ngài có tha tội cho thì mai nầy xin Ngài đến nhà con, để con cúng-dường.”

Hôm sau, Tôn-giả Xá-lợi-phất cầm bình bát đến nhà kẻ đã hành-hung mình để khất-thực. Các vị tỳ-kheo khác thấy thế mới nghĩ bụng, kẻ Bà-la-môn kia chẳng bị khiển-trách, lại được tha tội dễ-dàng như thế, biết đâu lại chẳng sanh tâm hiếp-đáp các vị Tăng khác. Họ liền thưa trình sự-việc lên Đức Phật. Đức Phật trả lời với hai bài Kệ sau đây:

Chớ nên đánh-đập vị Phạm-chí.
Bị đập, Phạm-chí chớ trả thù.
Xấu-hổ thay, ai đập Phạm-chí!
Xấu-hổ hơn, Phạm-chí trả thù!
(Kệ số 389.)

Đối với người được gọi là Phạm-chí,
Lợi chẳng nhỏ, nếu bỏ ý trả thù.
Đến mức nào, tâm tác-hại bị chận,
Đến chừng ấy, tiêu-trừ xong khổ-hận.
(Kệ số 390)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Xá-lợi-phất: còn được gọi là Xá-lợi-tử, tên tiếng Pali là Sàriputta là vị đại-đệ-tử đệ-nhứt trí-huệ của Phật Thích-ca.

– Nhẫn-nhục: nhịn-nhục, bền chí chịu đựng chẳng tức-giận.

-Hành-hung: Hành = làm;Hung = dữ.Hành-hung, làm dữ, đánh-đập

– Ganh-tị: cà-nanh, ghen-ghét, đòi bằng hay hơn kẻ khác.

– Khởi-hấn: gây chuyện để đánh nhau.

– Phạm-chí = đồng nghĩa với Bà-la-môn (Brahmana); ở trong Phẩm Bà-la-môn nầy, chữ Phạm-chí, Bà-la-môn lại có nghĩa là bực A-la-hán.

– Tâm tác-hại: Tác = làm; Hại = gây ra đau-khổ, hư-hại. Người có tâm tác-hại làm hại kẻ khác, gây ra đau-khổ cho họ. Trái ngược với tâm tác-hại là tâm từ-bi.

– Khổ-hận: đau-khổ và thù-oán.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại đức nhẫn-nhục và tánh trầm-tĩnh của Tôn-giả Xá-lợi-phất: đang đi bị đập sau lưng, chẳng quay lại xem ai đánh mình, cứ thản-nhiên đi tới. Ý-nghĩa Tích chuyện lại nằm trong bài Kệ.

(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 389 và 390:

Ý-nghĩa của hai bài Kệ là đức nhẫn-nhục. Xin phân-tách hai bài Kệ:

1) “Xấu-hổ thay, ai đập Phạm-chí!”: Tại sao xấu-hổ? Vì đã hành-hung một người tu-hành hiền-lành, chẳng hề làm hại gì đến ai.

2) “Xấu hổ hơn, Phạm-chí trả thù”: Tại sao lại xấu-hổ hơn? Thông-thường, bị đập, đập lại trả-thù, đâu có chi quá xấu-hổ. Nhưng đã là Phạm-chí, nguyện tu-hành, bỏ cả sân-si, nay vì tức-giận mà trả thù, do đó, chẳng xứng với danh-nghĩa tu-hành, nên mới xấu-hổ hơn.

3) “Đối với người được gọi là Phạm-chí, Lợi chẳng nhỏ, nếu bỏ ý trả thù”: Lợi chi mà chẳng nhỏ? Có ý trả thù là đang tạo ý-nghiệp ác, rồi sẽ bị tái-sanh vào cõi dữ. Đã là bực Phạm-chí, tu-tập để chứng được vô-sanh, thì lià hẳn được ác-ý trả-thù là lợi-lạc to-lớn khỏi còn bị ý-nghiệp dẫn đi tái-sanh trong các nẻo dữ của Luân-hồi.

4) Hai câu chót: tâm tác-hại được chận đứng chừng nào, thì sự khổ-hận được tiêu-trừ đến chứng ấy. Chận cách nào? Bằng tâm từ-bi.

(271).- Tích chuyện Ni-bà Ba-xà-ba-đề.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến Ni-bà Ba-xả-ba-đề, dì ruột của Đức Phật.

Khi Thái-tử Tất-đạt-ta sanh ra được bảy ngày, Hoàng-hậu Ma-gia từ-trần; dì của Thái-tử là bà Ba-xà-ba-đề lên làm Hoàng-hậu, nuôi-dưỡng Thái-tử như con đẻ. Bấy giờ, bà Ba-xà-ba-đề cũng vừa sanh hoàng-tử Nan-đà được năm ngày, giao cho người vú nuôi, còn bà thì cho Thái-tử bú. Đến khi Thái-tử xuất-gia đi tu, thành Đạo, trở về thành Ca-tỳ-la-vệ thuyết-pháp, bà Ba-xà-ba-đề thỉnh-cầu Đức Phật cho phụ-nữ được gia-nhập Giáo-hội với tư-cách tỳ-kheo-ni. Đức Phật chẳng hứa-khả, mà trở về rừng Đại-lâm ở Tỳ-da-ly. Khi đức Vua Tịnh-phạn đã qua đời, bà Ba-xà-ba-đề liền cùng với năm trăm cung-nữ, cạo đầu, mặc nâu-sồng, đi chơn không, đến gặp Phật và thỉnh-cầu lần nữa. Đức Phật vẫn chẳng khứng. Tôn-giả A-nan nhìn thấy cảnh-tượng thê-thảm các vị phu-nhơn, áo quần rách-rưới, chơn tay trầy-trụa, đứng khóc lóc ngoài sân, động lòng vào năn-nỉ Phật. Đức Phật bảo, nếu chịu tuân-theo tám điều giới-luật đặc-biệt, thì được chấp-nhận vào Giáo-hội. Bà Ba-xà-ba-đề ưng-thuận tuân theo, và sau đó bà lên cầm đầu Ni-đoàn.

Thời-gian sau, có một số tỳ-kheo-ni nghĩ lầm, cho rằng bà Ba-xà-ba-đề lúc trước chẳng có làm lễ chánh-thức xuất-gia, chẳng có vị giáo-thọ đỡ-đầu, nên họ chẳng chịu dự các lễ Bố-tát, lễ An-cư kiết-hạ, do bà Ba-xà-ba-đề tổ-chức. Họ đến trình lý-do lên Đức Phật. Đức Phật dạy: “Nầy chư tỳ-kheo-ni, sao lại nghĩ sai-lầm như thế. Chính ta đưa ra tám điều giới-luật đặc-biệt để thành-lập Ni-đoàn, lại chính Ta là giáo-thọ đỡ-đầu cho Ni-bà Ba-xà-ba-đề. Chư ni chẳng nên nghi-nan về một bực A-la-hán như thế.”

Rồi Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:

Với người, ác-nghiệp chẳng tạo nhơn,
Bằng thân, bằng miệng hay bằng ý,
Tự điều-phục trong ba đường ấy,
Như-lại gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 391.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Ni-bà: bên Tăng có Hoà-thượng, Thượng-toạ, Đại-đức thì bên Ni có các cấp tương-đương: Ni-bà, Ni-sư và Ni-cô.

– Ba-xà-ba-đề: tên người dì ruột của Đức Phật, Pali là Mahàpajàpati

– Tất-đạt-ta: tên của Đức Thích-ca, khi chưa đi tu, Pali: Siddhatta

– Ma-gia: tên Hoàng-hậu, mẹ của Đức Phật, Pali là Màyà.

– Ca-tỳ-la-vệ: thủ-đô nước Xá-vệ (Sàvatthi), Pali là Kapilavatthu.

– Tỳ-kheo-ni: nữ tu-sĩ Phật-giáo, tiếng Pali là Bhikkhuni.

– Hứa-khả = hứa cho, ưng-thuận.

– Tỳ-da-ly: tên xứ nầy, tiếng Pali là Vesàlì.

– Mặc nâu-sồng = mặc áo màu dà, như người tu-hành.

– Tám điều giới-luật đặc-biệt: gồm có các đìều bắt-buộc chư ni phải nhận sự ưu-tiên của chư tăng, như: một ni-cô dầu cao tuổi đạo cũng phải đứng sau một vị tỳ-kheo dầu chỉ mới thọ-giới có một ngày. Tám điều giới-luật đặc-biệt, tiếng Pali là Garudhamma.

– Ni-đoàn = đoàn-thể các nữ tu-sĩ Phật-giáo.

– Lễ Bố-tát = lễ tụng-đọc giới-luật vào đầu tháng và giữa tháng, tiếng Pali là Uposatha.

– Lễ an-cư kiết-hạ: vào ba tháng mùa mưa, tăng-ni chẳng đi ra ngoài khất-thực (sợ đạp côn-trùng), tu-tập nơi tịnh-xá (Pali: Pavàranà)

– Giáo-thọ: vị Tỳ-kheo dạy giáo-lý cho chư Tăng-ni.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại tiểu-sử của Ni-bà Ba-xa-ba-đề, dì ruột của Đức Phật. Bà đã đi bộ hơn trăm dặm đường để xin Phật chấp-nhận cho đi tu. Ý-nghĩa của Tích chuyện nêu lên quyết-tâm tu-hành của một vị Hoàng-hậu, để làm gương cho giới phụ-nữ.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ:

Bài Kệ ít liên-quan đến Tích chuyện, dạy giữ ba nghiệp: thân, miệng, ý cho thanh-tịnh, bằng cách tự mình kềm-chế lấy chính mình.

Hai câu đầu của bài Kệ được dịch ra hơi khúc mắc, xin viết lại cho xuôi câu, như thế nầy: Đối với người tu-hành, chẳng nên tạo nguyên-nhơn gây ra ác-nghiệp, bằng thân, bằng miệng hay bằng ý.

(272).- Tích chuyện Tôn-giả Xá-lợi-phất mỗi đêm hướng về thầy dạy đạo, lạy rồi mới đi ngủ.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến việc Tôn-giả Xá-lợi-phất, mỗi đêm hướng về Thầy dạy đạo của mình, lễ-lạy rồi mới đi nghỉ.

Thuở ấy, có một số tỳ-kheo thấy mỗi đêm, Tôn-giả Xá-lợi-phất thường hướng về một phương, thành-kính lễ-lạy, rồi mới đi ngủ. Họ cho rằng Tôn-giả còn chưa bỏ thói quen lễ-lạy sáu phương của các người Bà-la-môn ngoại-đạo, nên mới đến trình lên Đức Phật. Đức Phật cho gọi Tôn-giả Xá-lợi-phất đến hỏi. Tôn-giả thưa: “Bạch Thế-tôn, con nhớ đến công-ơn của Trưởng-lão Át-bệ chỉ dạy cho con bài Kệ về Lý Nhơn-duyên, nhờ đó mà con tìm đến quy-y Tam-bảo và tu-hành đến nay. Mỗi đêm, con hướng về Người để lễ-lạy, và nằm ngủ đầu con hướng về đấy.” Đức Phật rất bằng lòng và nói lên bài Kệ sau đây:

Trước nhờ ai chỉ ta vào cửa
Hiểu sâu Chánh-pháp Như-Lai dạy.
Hãy trang-trọng kính-lễ người ấy,
Như Bà-la-môn thờ thần lửa.
(Kệ số 392.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Lễ-lạy sáu phương: sáu phương là: Đông, Tây, Nam, Bắc, trên và dưới. Đây là tục-lệ Bà-la-môn ngoại-đạo, mỗi sáng lễ-lạy như thế. Trong Kinh Thiện-sanh (Singàla), thuộc Trường-Bộ-Kinh (Digha Nikàya) Đức Phật có dạy: phải hiểu sáu phương tượng-trưng cho: (1) cha-mẹ, (phương Đông); (2) thầy học,(phương Nam); (3) vợ-con,(phương Tây); (4) bạn-bè,(phương Bắc); (5) tôi-tớ (phương dưới); (6) các bực sa-môn (phương trên). Lạy sáu phương là giữ đúng bổn-phận mình đối với sáu hạng vừa kể, chớ chẳng phải để cầu phước theo ngoại-đạo mê-tín.

-Trưởng-lão Át-bệ (Assaji) = một trong năm vị tỳ-kheo nhóm Kiều-trần-như, trước đồng-tu khổ-hạnh với tu-sĩ Cồ-đàm, sau được Đức Phật giảng cho nghe Kinh Chuyển Pháp-Luân ở vườn Lộc-Uyển.

– Bài Kệ về Lý Nhơn-Duyên: xem lại trang 32, Tập 1, có cắt nghĩa

Muôn pháp do nhơn-duyên sanh
Cũng do nhơn-duyên mà diệt.
Thầy ta, Phật Đại Sa-môn
Thường nói rõ đúng như thế.

– Quy-y Tam-Bảo: tìm về nương-tựa ba ngôi báu: Phật, Pháp, Tăng

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại một số tỳ-kheo lầm tưởng Tôn-giả Xá-lợi-phất còn giữ thói quen lễ sáu phương của ngoại-đạo. Tôn-giả giải-thích, vì kính-trọng Trưởng-lão Át-bệ đã chỉ đường cho mình vào cửa Đạo, nên mới hướng về Ngài mà lạy mỗi đêm như thế.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 392:

Ý-nghĩa bài Kệ rất rõ-ràng, phải nhớ ơn và kính-lễ người đã đưa mình vào cửa Đạo.

Xin nói thêm: (1) “chỉ ta vào cửa” là chỉ cho ta vào cửa Đạo; (2)”Như Bà-la-môn thờ thần lửa”: thờ lửa là mê-tín ngoại-đạo, phải bỏ; ở đây, bài Kệ chỉ muốn so-sánh hai sự thành-kính mà thôi, chớ chẳng khuyên ta thờ lửa. Vả lại, ở câu Kệ nầy, chữ Ba-la-môn chẳng hề có nghĩa là A-la-hán, như ở các bài Kệ khác trong Phẩm Bà-la-môn.

(273).- Tích chuyện vị Bà-la-môn Gia-thi-la.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến vị Bà-la-môn tên Gia-thi-la.

Thuở ấy, có một người Bà-la-môn tu khổ-hạnh, nghĩ rằng, ta sanh ra thuộc dòng-dõi Bà-la-môn, vậy phải được gọi là Bà-la-môn đúng theo nghĩa các tỳ-kheo của đạo Phật. Anh ta đến nói lên ý-nghĩ với Đức Phật. Đức Phật đáp: “Nầy Phạm-chí, chẳng phải vì dòng-dõi, giai-cấp, hay vì tóc bện, mà ta gọi là Bà-la-môn. Người nào thông-hiểu thấu-đáo Bốn Chơn-lý Nhiệm-mầu mới thật là bực Bà-la-môn.”

Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:

Đâu vì giai-cấp, họ-hàng, tóc bện,
Mà được trở thành bực Bà-la-môn.
Chỉ ai CHÂN, CHÁNH, TINH đủ trọn-vẹn
Người ấy quả thật là Bà-la-môn.
(Kệ số 393.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Gia-thi-la: tên người Bà-la-môn nầy, tiếng Pali là Jatila.

– Tu khổ-hạnh = tu ép-xác, chịu kham-khổ quá mức.

– Bốn Chơn-Lý Nhiệm-Mầu: là Tứ Diệu-Đế, gồm có: (1) Khổ-đế, chơn-lý về đời là khổ; (2) Tập-đế, chơn-lý về nguồn-gốc gây ra sự Khổ; (3) Diệt-đế, chơn-lý về sự tận-diệt nổi Khổ; (4) Đạo-đế, chơn-lý về Bát-Chánh-Đạo, con đường thánh-lộ đưa đến sự chấm-dứt Khổ.

– Chân = chơn-lý, Sự-thật; Chánh = đúng-đắn, thẳng ngay; Tịnh = trong-sạch và vắng-lặng.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Ý-nghĩa của Tích chuyện là chẳng phải vì dòng-dõi, giai-cấp mà được gọi là Bà-la-môn, theo nghĩa A-la-hán; mà phải thông-hiểu, tu-tập viên-mãn Tứ-Diệu-Đế mới xứng danh là vị Bà-la-môn.

(2) Ý-nghĩa của Bài Kệ số 393:

Bài Kệ nêu lên ba đức-tánh cần tu-tập mới xứng-danh Bà-la-môn:

1) Chân: hiểu rõ chơn-lý của Tứ-Diệu-đế;

2) Chánh: theo đúng con đường Bát-Chánh-Đạo;

3) Tịnh: sống cuộc đời tu-hành thanh-tịnh.

(274).- Tích chuyện người Bà-la-môn lừa-gạt.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại tu-viện Cưu-ta-ga, xứ Tỳ-da-ly, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến một người Bà-la-môn lừa-gạt.

Thuở ấy, trong thành Tỳ-da-ly, có một người Bà-la-môn nghĩ ra một cách để lừa-gạt dân-chúng. Anh ta leo lên cửa thành, lộn đầu xuống treo tòn-ten như con dơi, và nói rằng: “Mau đem đến cho ta đủ một trăm con trừu, một trăm tiền vàng và một chục người nô-lệ, bằng không ta buông mình xuống thì cả thành Tỳ-da-ly nầy sẽ bị tiêu-diệt.” Dân-chúng nghe nói hoảng-sợ, xúm nhau đem đủ số tiền, thú và nô-lệ cho y và mời y trở xuống đất. Bấy giờ, các vị tỳ-kheo nghe được tin-tức đó mới thưa trình cùng Đức Phật. Đức Phật bảo, kẻ lừa-dối kia chỉ phỉnh-gạt được người ngu, còn bực có trí ai lại tin hắn.”

Rồi Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:

Ngu ơi! Bện tóc có ích gì?
Mặc áo da dê được lợi chi?
Nội-tâm phiền-não còn rối-rắm,
Sao cố điểm tô ở ngoại-vi?
(Kệ số 394.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Cưu-ta-ga: tên tu-viện nầy, tiếng Pali là Kùtàgàra.

– Tỳ-da-ly: tên xứ nầy, tiếng Pali là Vesàli.

– Phỉnh-gạt = lừa dối, gạt-gẫm.

– Nội-tâm: Nội = bên trong; Tâm = lòng. Nội-tâm là trong lòng.

– Điểm tô = trang-điểm, chưng-diện cho đẹp.

– Ngoại-vi: Ngoại = bên ngoài; Vi = chung-quanh. Ngoại-vi là bên ngoài; ở đây, muốn nói cứ lo chưng-diện bề ngoài, chẳng lo tu tâm bên trong để cho dứt được các phiền-não còn rối-rắm.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc buồn-cười của dân-chúng thành Tỳ-da-ly bị người Bà-la-môn lừa-gạt. Đức Phật bảo người ngu dễ bị gạt, còn người có trí thì không.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 394:

Nhơn vệc người Bà-la-môn lừa gạt dân ngu, Đức Phật dạy, mấy kẻ Bà-la-môn lo chưng-diện bên ngoài, bện tóc, mặc áo da dê nào có ích-lợi chi cho việc tu-tập, chẳng biết lo dứt trừ phiền-não rối-rắm ở bên trong tâm là những kẻ … ngu ơi là ngu!

(275).- Tích chuyện Ni-bà Kỷ-sa-cơ tu khổ-hạnh.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ trên đỉnh núi Linh-thứu, gần thành Vương-xá, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến Nữ trưởng-lão Kỷ-sa-cơ, vị Ni-bà tu khổ-hạnh vào bực nhứt.

Một hôm, vua Trời Đế-Thích cùng với chư Thiên đến đảnh-lễ Đức Phật tại núi Linh-sơn. Bấy giờ, Nữ Trưởng-lão đang thi-triển thần-thông, vừa bay đáp xuống, định vào lạy Đức Phật. Thấy chư Thiên đang đứng trước hương-phòng, Ni-bà bước lui ra. Vua Trời Đế-Thích trông thấy, mới thưa hỏi Phật đó là ai vậy. Đức Phật đáp: “Nầy Thiên-đế, đó là tỳ-kheo-ni Kỷ-sa-cơ. Trước đây, khi đứa con trai yêu-quí vừa mất, Kỷ-sa-cơ đau-buồn đến gặp Như-Lai. Sau khi nghe giảng về lý vô-thường, bất-toại-nguyện và vô-ngã của muôn pháp hữu-vi, Kỷ-sa-cơ chứng được sơ-quả, gia-nhập Ni-đoàn, tu khổ-hạnh, mặc áo phấn-tảo, sống cô-độc nơi rừng vắng, chẳng bao lâu đắc quả A-la-hán.”

Rồi Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:

Người mặc áo phấn-tảo,
Da lộ gân, thân gầy,
Cô-độc hành-thiền giữa rừng cây,
Như-Lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 395.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Ni-bà, Nữ Trưởng-lão: nữ tu-sĩ Phật-giáo có nhiều tuổi đạo, ngang hàng với Hoà-thượng bên nam-giới.

– Kỷ-sa-cơ = tên vị Ni-bà nầy, tiếng Pali là Kisàgotamì; tiểu-sử được kể lại nơi Tích chuyện số (93), trang 299, Tập 2, Kinh nầy.

– Tu khổ-hạnh = tu theo kỷ-luật khắt-khe, ăn-mặc rất kham-khổ.

– Vua Trời Đế-Thích: vua cõi trời Đao-lợi, tên tiếng Pali là Sakka.

– Linh-thứu, Linh-sơn = tên đỉnh núi Gijjhakùta giống hình chim thứu ( =kên-kên), xoè cánh ra; gần thành Vương-xá (Ràjagaha), xứ Ma-kiệt-đà (Magadha). Nơi đây, Đức Phật từng giảng Kinh Pháp-Hoa.

– Thi-triển thần-thông = dùng các sức đặc-biệt khác thường như bay bổng trên không, đi trên mặt nước, nhờ ở định-lực tu-hành cao.

– Hương-phòng = căn phòng có hương thơm, dành riêng cho Đức Phật, tiếng Pali là Gandhakutì.

– Vô-thường = chẳng thường còn, thay đổi luôn và sẽ bị hoại-diệt.

– Bất-toại-nguyện = chẳng làm vừa-ý, thường gây ra đau-khổ.

– Vô-ngã = chẳng có linh-hồn, chẳng có tự-ngã, bổn-thể rỗng.

– Muôn pháp hữu-vi: tất cả sự-vật có hình-tướng, bị thay đổi, sẽ tiêu-hoại; thường được dịch là sự-vật bị điều-kiện-hoá, nghĩa là tuỳ theo điều-kiện chung quanh mà biến-đổi để đi đến hoại-diệt.

– Sơ-quả: quả-vị đầu-tiên: Tu-đà-huờn, hay Nhập-Lưu, Thất-Lai.

– Áo phấn-tảo: còn gọi là nạp-y, lượm các giẻ rách bỏ nơi đống rác, đem về giặt, may làm áo.(Phấn = bụi dơ, phẩn; tảo = quét, rác.)

– A-la-hán: quả-vị thứ tư, cao nhứt. Bực A-la-hán diệt xong phiền-não, dứt mọi ham-muốn, chứng vô-sanh ( =chẳng còn bị tái-sanh trong cõi Luân-hồi), sống an-nhiên, tự-tại trong cảnh Niết-bàn.

– Hành-thiền: tu-tập Thiền-định, giữ thân-tâm an-tịnh.

– Bà-la-môn: nghĩa đặc-biệt ở đây là A-la-hán.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc Đức Phật giới-thiệu bà Kỷ-sa-cơ tu khổ-hạnh với vua Trời Đế-Thích.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là dẫn đến bài Kệ về lối tu khổ-hạnh, tự đặt mình trong kỷ-luật khắt-khe, chịu kham-khổ để sớm đạt được mục-tiêu chứng đắc vô-sanh, sống an-nhiên trong cảnh Niết-bàn.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 395:

Bài Kệ mô-tả người tu khổ-hạnh để sớm chứng-đắc được quả-vị A-la-hán. Xin phân-tách từng câu:

1) “Người mặc áo phấn-tảo”: Áo phấn-tảo bằng giẻ vụn, dơ, lượm ở đống rác, tượng-trưng cho sự từ-khước các tiện-nghi vật-chất, như ăn mặc đẹp.

2)”Da lộ gân, thân gầy”: vì ăn-uống kham-khổ, thân-thể gầy, lộ gân; mục-đích là kềm-chế thân để thanh-lọc tâm.

3)”Cô-độc hành-thiền giữa rừng cây”: biết “sống một mình” chuyên-tâm tu tập Thiền-định, dẹp mọi phiền-não, tham-muốn.

4) “Như-lai gọi là Bà-la-môn”: xứng-danh là bực A-la-hán.

(276).- Tích chuyện vị Bà-la-môn ở Xá-vệ đến hỏi Phật.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến một vị Bà-la-môn đến thưa hỏi Đức Phật.

Thuở ấy, ở nước Xá-vệ, có một người Bà-la-môn, cha-mẹ thuộc giai-cấp Bà-la-môn, đến hỏi Đức Phật, sanh ra từ bụng mẹ Bà-la-môn có đáng được gọi là Bà-la-môn như các vị tỳ-kheo chứng-quả A-la-hán chăng? Đức Phật đáp: “Nầy Phạm-chí, ta chẳng gọi là Bà-la-môn, kẻ nào chỉ vì sanh ra từ cha-mẹ thuộc dòng Bà-la-môn. Bực Bà-la-môn phải là người đã dẹp xong các lậu-hoặc, cắt đứt sự luyến-ái vào cuộc đời ở cõi Luân-hồi.”

Rồi Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:

Như-Lai chẳng gọi là Bà-la-môn
Kẻ từ bụng mẹ Phạm-chí sanh ra,
Nếu tâm còn phiền-não
Chỉ đáng gọi “mầy tao”.
Người thoát-ly luyến-ái và phiền-não,
Như-Lai mới bảo là Bà-la-môn.
(Kệ số 396.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Xá-vệ: tên nước nầy, nơi Đức Phật sanh ra, tiếng Pali: Sàvatthi.

– Bà-la-môn = Phạm-chí = giai-cấp tu-sĩ xưa ở Ấn-độ, tiếng Pali là Brahmana. Trong Phẩm Bà-la-môn của Kinh Pháp-Cú, chữ Bà-la-môn được Phật dùng để chỉ các bực tu-hành đã chứng quả A-la-hán.

– Lậu-hoặc = Lậu = rỉ chảy ra; Hoặc = chổ dơ-bẩn; điều sái-quấy. Chữ Lậu-hoặc, dịch chữ Àsava, nghĩa đen là mủ chảy ra từ mụt nhọt, nghĩa bóng chỉ các phiền-não (như tham, sân, si) khởi lên trong tâm, bộc lộ ra ngoài bằng cử-chỉ xấu, lời nói ác.

– Luyến-ái: Luyến = mê-luyến, tríu-mến; Át =thương, thích. Chữ Ái-luyến hay Khát-ái, hay Tham-ái, dùng để dịch chữ Tanhà, sự thèm-khát, cố đòi cho được, như kẻ uống nước mặn bị khát. Chính sự luyến-ái, bám vào đời sống vui ít khổ nhiều nầy là nguyên-nhơn tạo nên Khổ

– Luân-hồi: Luân = bánh xe; Hồi = trở lại; Luân-hồi, dịch chữ Pali Samsàra, chỉ vòng lẩn-quẩn sanh ra chết đi, sanh lại để chết nữa, cứ như bánh xe lăn tròn vòng quay mãi.

– A-la-hán: quả-vị thứ tư cao nhứt trong hàng Thanh-văn (Thanh-văn, Pali là Savaka, các đệ-tử sống gần bên Phật, nghe kinh mà tu-tập; Thanh = âm-thanh, Văn = nghe.) Bực A-la-hán (Arahant) đã dứt hết các phiền-não trong tâm (chẳng còn tham, sân, si, mạn, nghi, tà-kiến) bỏ hết mọi ham-muốn (tận-diệt tham-ái, Tanhà), chứng được vô-sanh (chẳng còn bị tái-sanh nữa, nên khỏi phải chịu Khổ trong Luân-hồi), sống tự-tại, an-nhiên trong cảnh Niết-Bàn( = tâm trạng người dứt mọi khổ-đau, sống trong cảnh hằng vắng-lặng, an-vui.)

– Như-Lai: Như = như thế; Lai = đến. Chữ Như-Lai dịch chữ Pali là Tathàgata, (Tathà = như thế; gata = đi qua); Đức Phật thường tự-xưng là Như-Lai khi nói chuyện với kẻ khác; các đệ-tử gọi Ngài là Thế-tôn. Tronh Kinh Kim-Cang, chữ Như-Lai được định-nghĩa: chẳng từ đâu tới, cũng chẳng đi về đâu, để chỉ đến pháp-thân của Phật.

– “Mầy-tao”: tạm dùng tiếng sỗ-sàng bình-dân mày, tao, mi, tớ của Việt-Nam để dịch chữ Bho trong nguyên-văn Pali: Bhoyadi. Chữ Bho dùng để nói, một cách thiếu lễ-độ, với kẻ dưới hay ngang hàng. Thiện-Nhựt xin chấp tay sám-hối sự vụng-về trong lời dịch nầy.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất đơn-sơ nhưng ý-nghĩa rất thâm-trầm: một người mà cha-mẹ là dòng Bà-la-môn đến hỏi Phật, anh ta có được gọi là Bà-la-môn chăng? Theo nghĩa thông-thường, hắn quả là người Bà-la-môn, nhưng hắn chẳng có được các đức-tánh của bực Bà-la-môn mà Đức Phật dành cho các bực đã chứng quả Thánh A-la-hán.

Nghĩa sâu của Tích chuyện là chớ quá tự-hào vì được sanh vào nơi dòng-họ sang.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 396:

Chỗ đáng ghi nhớ trong bài Kệ là: Người.. nếu tâm còn phiền-não, chỉ đáng gọi là “mầy tao”, chẳng cần phải tôn-trọng, vì người ấy còn kém đức-hạnh. Với người đã thoát-ly luyến-ái và phiền-não, ta mới tôn-kính mà gọi là bực Bà-la-môn.

(277).- Tích chuyện Tỳ-kheo Úc-ga.

Tích chuyện nầy tiếp theo Tích chuyện số (245) về người diễn trò nhào lộn.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến tài nhào-lộn của tỳ-kheo Úc-ga.

Thuở ấy, thanh-niên Úc-ga là con nhà giàu, vì mê nhan-sắc cô đào trong gánh xiệc, xin cưới cô, rồi bỏ nhà, theo gánh hát. Được cha vợ dạy cho nghề nhào-lộn, Úc-ga trình-diễn cũng được nhiều người hoan-nghinh. Một hôm, Úc-ga đang trỗ tài nhào lộn, thì đoàn khất-thực của Đức Phật đi đến. Dân-chúng quay lại nghe Đức Phật thuyết-pháp. Đứng trên cây sào cao hơn mười thước, Úc-ga lắng nghe lời Phật dạy, mới tỉnh-ngộ, xin xuất-gia. Từ đó, Úc-ga tinh-tấn tu-hành, chứng được quả-vị A-la-hán. Các vị đồng-tu thường hỏi Úc-ga, khi leo lên cây sào cao như thế, trong lòng có sợ-hãi không. Úc-ga trả lời, không. Các vị tỳ-kheo chẳng tin, mới bạch lại với Đức Phật. Đức Phật bảo: “Nầy chư Tăng, một vị A-la-hán đã tháo bỏ xong mọi xiềng-xích kết-sử, chẳng bao giờ sợ-hãi cả.”

Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:

Người đã cắt đứt mọi kết-sử,
Chẳng còn sợ-hãi, chẳng đắm-trước,
Thoát khỏi tất cả mọi ràng-buộc,
Như-Lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 397.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Úc-ga: tên vị tỳ-kheo nầy, tiếng Pali là Uggasena.

– Gánh xiệc: Xiệc, (chữ Pháp: cirque), gánh hát diễn trò nhào lộn.

– Tỉnh-ngộ: Tỉnh = thức-tỉnh, hết mê; Ngộ = hiểu rõ. Tỉnh-ngộ là nay hiểu rõ biết trước mình đã lầm.

– A-la-hán: quả-vị thứ tư, cao nhứt; tiếng Pali là Arahant. Theo giáo-lý Bắc-tông, chữ A-la-hán có ba nghĩa: (1) Ứng-cúng, xứng-đáng được Trời, Người cúng-dường; (2) Sát-tặc, giết hết giặc, giặc phiền-não; (3) Vô-sanh, chẳng còn bị tái-sanh trong Luân-hồi nữa.

– Xiềng-xích: dây sắt để trói tay, còng chơn.

– Kết-sử: Kết = buộc chặt; Sử = sai-khiến. Có mười kết-sử là những mối ràng-buộc, thúc-đẩy, sai-sử con người làm điều quấy. Tiếng Pali là Sanyojana, dịch là thúc-thằng (thúc = trói buộc; thằng = sợi dây). Các kết-sử quan-trọng là tham, sân, si, mạn, nghi, giới-cấm-thủ, thân-kiến.

– Đắm-trước: Đắm = say-đắm; Trước = dính vào, gắn vào. Đắm-trước là vì mê-say, ham-muốn quá nên mắc kẹt vào đó.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện nhắc lại cuộc đời phiêu-lưu của Úc-ga, có tài nhào-lộn, sau xin xuất-gia, tu-tập chuyên-cần, chứng được quả A-la-hán. Được hỏi khi leo cao trên cây sào, có sợ-hãi không, Úc-ga đáp là không. Ý-nghĩa của Tích chuyện là với người đã bỏ mọi ràng-buộc, hết tham-đắm nữa, thì chẳng còn sợ-hãi gì nữa.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 397:

Bài Kệ rất rõ nghĩa, cùng có một ý-nghĩa như Tích chuyện: đối với người đã lià khỏi mọi ràng-buộc, thì chẳng còn sợ-hãi chi nữa.

(278).- Tích chuyện đấu trâu.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến hai người Bà-la-môn đấu trâu.

Thuở ấy, ở thành Xá-vệ, có hai người Bà-la-môn, mỗi người có một con trâu cui; người nào cũng cho rằng trâu mình mạnh và giỏi nhứt, chẳng ai chịu thua ai. Sau cùng, họ đem trâu ra đấu với nhau. Họ dẫn trâu ra bờ sông, lấy dây buộc trâu vào một chiếc xe đổ đầy đất cát, rồi cho trâu kéo lên bờ, con nào lên được trước thì thắng. Đôi trâu hùng-hục kéo, chẳng xe nào chuyển bánh cả, lát sau, dây đứt hết. Có một nhóm tỳ-kheo đi tắm, trông thấy, mới về trình sự-việc lên Đức Phật. Đức Phật bảo: “Nầy chư tỳ-kheo, các sợi dây buộc trâu mà ta nhìn thấy đó, cũng dễ tháo gỡ, cũng dễ bứt đứt. Nhưng các sợi đai sân-hận, với dây cương tham-ái ở bên trong tâm, rất khó tháo, tỳ-kheo các ông phải nên sớm cắt bỏ đi.”

Rồi Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:

Bỏ đai da”sân”, cắt cương “ái-mộ”;
Chặt dây “tà-kiến”, phụ-tùng “tùy-miên”.
Phá chốt “vô-minh”, đã giác-ngộ,
Như-Lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 398.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Trâu cui = trâu đực, to-lớn, mạnh-mẽ và hơi … cứng đầu.

– Sợi đai = dây da buộc ở bụng ngựa.

– Dây cương = dây buộc vào mõm ngựa, để điều-khiển ngựa chạy theo ý mình.

– Sân-hận: Sân = giận; Hận = hờn, thù.

– Tham-ái: Tham = ham muốn quá; Ái = thương, thích.

– Ái-mộ: Ái = thương, thích; Mộ = mến, tríu-mến.

– Tà-kiến: Tà = xiêng-xéo, chẳng ngay thẳng; Kiến = ý-kiến. Trái với Tà-kiến là Chánh-kiến, ý-kiến ngay thẳng, đứng-đắn, chơn-chánh.

– Phụ-tùng: Phụ = phụ-thuộc; Tùng = theo. Đồ phụ-tùng là những vật phụ-giúp vào một vật khác, để cho tốt hơn.

– Tuỳ-miên: còn đang ngủ đó (miên = ngủ); ý nói chưa bị diệt hẳn, gốc còn đó, sẽ có hồi nổi trở dậy.

– Chốt = cái then để gài cửa; chặn, khóa, đóng lại.

– Vô-minh: Vô = chẳng; Minh = sáng. Vô-minh là si-mê, ngu-tối.

– Giác-ngộ: Giác = biết; Ngộ = hiểu rõ. Giác-ngộ là nay hoàn-toàn biết rõ, hiểu rõ, chẳng còn mê-tối như trước nữa.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Nhơn việc đấu trâu, dây buộc trâu bị đứt, Đức Phật dạy, còn có sự ràng-buộc quan-trọng hơn là các sợi dây trói thú-vật bên ngoài dễ thấy, dễ tháo đó: sự sân-hận, sự tham-ái bên trong tâm, cần phải mau mau cắt đứt để sớm được giác-ngộ và giải-thoát.

(2) Ý-nghĩa của Bài Kệ số 398:

Muốn hiểu bài Kệ số 398 cho dễ, cần phải tưởng-tượng một con ngựa, với tất cả những đồ bắt-kế ngựa, như dây đai, yên, cương v.v. để khớp ngựa lại.

Ý-nghĩa của bài Kệ: sự ràng-buộc của các phiền-não, kết-sử, còn chặt-chẽ, khó tháo-gỡ hơn các sợi dây trói buộc bên ngoài.

Xin phân-tách từng “món” ràng-buộc được kể trong bài Kệ:

1) Bỏ đai da “sân”: Giận là một tình-cảm mạnh và dai-dẳng, tựa như sự bền-chặt của sợi đai bằng da trâu đang trói-buộc. Người giận dai thường nói trong bụng: mối hận nầy sống để bụng, chết mang theo! Giận như thế, chỉ có hại cho mình, tâm chẳng yên. Để dẹp mối giận, dùng sự nhẫn-nhục mà đối-trị. Tha-thứ cho kẻ làm mình giận, đó là mình tha cho tâm mình khỏi mang nặng tình-cảm xấu.

2) Cắt cương ‘ái-mộ’: sự luyến-ái là một tình-cảm êm-dịu nhưng sức mạnh thúc-dục, sai-khiến mình lại lớn, khó mà tránh chẳng tuân theo được; cũng tựa như sợi dây cương buộc ở miệng ngựa, hễ giựt mạnh bên nào là ngựa phải quay đầu về bên ấy. Vì êm-dịu chẳng muốn cởi-bỏ đi, nên sự luyến-ái mới ràng-buộc lâu, đeo-đẳng mãi. Để dẹp sự luyến-ái, phải bỏ tánh so-đo, quá thương vật nầy, quá ghét vật kia, giữ tâm cho bình-thản, đừng tríu-mến mà cũng đừng ghét-bỏ.

3) Chặt dây ‘tà-kiến’: Tà-kiến là các ý-nghĩ sai-lầm, vì ngu-tối mà nuôi-dưỡng trong tâm. Dùng trí-huệ sáng-suốt mà chặt đứt tà-kiến

4) Phụ-tùng ‘tùy-miên’: nói cho dễ hiểu, đó là các tình-cảm chẳng tốt, còn đang nằm yên ngủ trong tâm, gặp cơ-hội sẽ nổi dậy. Thường có bảy món phụ-tùng ‘tùy-miên’: dục ( =ham-muốn), tham, sân, si, mạn, nghi và tà-kiến. Bỏ các phụ-tùng nầy cách nào? Phải tỉnh-giác, hễ chúng chổi dậy, là biết ngay để dẹp chúng xuống.

5) Phá chốt ‘vô-minh’: đây là hình-ảnh rất linh-động, ví sự vô-minh, ngu-tối như cái then cài kín, chẳng cho tâm-trí mở rộng ra để vươn lên Chơn-lý. Phá cái chốt vô-minh bằng cách nào? Phải chăm-chỉ và chuyên-cần học-tập Chánh-pháp.

6) Đã giác-ngộ: Giác-ngộ là hiểu-hiết rõ. Có giác-ngộ nhỏ, khi nhờ tỉnh-giác mà nhận thấy lỗi mình; có giác-ngộ lớn, khi chứng được đạo và quả. Trở thành bực Đại-giác thì còn lâu, còn dài và chẳng dễ, nhưng hãy tỉnh-giác, một niệm quấy khởi lên, chánh-niệm biết ngay, đó là con đường đi từ tiểu-ngộ đến đại-giác, tuy chậm mà chắc.

(279).- Tích chuyện bốn anh em lỗ-mãng.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại tịnh-xá Trúc-lâm, gần thành Vương-xá, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến bốn người anh em Bà-la-môn ăn nói lỗ-mãng.

Thuở ấy ở thành Vương-xá, có một người Bà-la-môn tên Bát-lạp-hoà, vợ lại tin theo đạo Phật, mỗi khi nhảy mũi hay giựt mình bị ai thình-lình đụng phải, thì miệng bà liền nói: “Nam-mô Phật!”. Hôm ấy, Bát-lạp-hoà mời bạn-hữu đến ăn tiệc. Trong khi bưng món ăn lên, người vợ bỗng nhảy mũi, và nói to: “Nam-mô Phật!” Người chồng chẳng ưa gì đạo Phật, tức mình lên, mới đến gặp Phật, định nói hỗn với Phật và đặt câu hỏi thật khó cho Phật trả lời. Anh ta hỏi hai câu. Câu thứ nhứt: “Phải giết chết những gì để có thể được sống an-vui và có hạnh-phước?” Đức Phật đáp: “Phải giết sân-hận mới sống được hạnh-phước.” Câu thứ hai: “Diệt pháp nào thì được chấp-nhận?” Đức Phật bảo: “Chư Phật trong ba đời đều khen ngợi sự tận-diệt sân-hận.” Nghe Phật giải-đáp rõ-ràng, vị Bà-la-môn lấy làm thoả-mãn, liền xin Đức Phật cho quy-y, và xuất-gia ngay hôm ấy.

Bát-lạp-hoà còn có ba người em tánh hay lỗ-mãng cũng như anh ngày trứớc. Người em thứ nhì, tên Ác-câu, khi hay tin anh mình đã gia-nhập Tăng-đoàn, liền nổi-giận, chạy đến chùa, nói nhiều lời hỗn-láo với Đức Phật. Đức Phật điềm nhiên hỏi: “Nầy ông Ác-câu, thí-dụ như nhà ông mở tiệc mời khách đến ăn. Nếu khách chẳng nhận dự tiệc, thì các thức ăn lại thuộc về ai?” Ác-câu đáp, thì tôi sẽ ăn hết. Đức Phật nói tiếp: “Ông đã dùng lời thô-ác nói với Ta mà Ta chẳng nhận, vậy các lời lỗ-mãng đó lại quay về với ông.” Ác-câu bừng tỉnh, hiểu được chỗ thâm-thúy trong lời Phật dạy, liền qùi xuống xin quy-y.

Hai người em của Ác-câu, hay tin hai anh mình nay đã làm tỳ-kheo, tức-giận lắm, đến nói lời thô-ác với Đức Phật và cũng được Đức Phật lấy sự nhẫn-nhục và trầm-tĩnh mà cải-hoá. Chư Tăng tán-thán công-đức Phật cải-hoá cả bốn anh em Bát-lạp-hoà. Đức Phật dạy: “Đừng bao giờ làm hại kẻ đã hại mình, hãy nhẫn-nhục chịu đựng mà làm nơi nương-tựa cho kẻ khác.”

Rồi Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:

Chẳng sân-hận, nhận lời trách-móc,
Cam chịu cực-hình và roi-vọt
Lấy nhẫn làm sức mạnh ba quân,
Như-Lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 399.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Lỗ-mãng: lời nói hung-dữ làm mất lòng người nghe.

– Bát-lạp-hoà: tên vị nầy, Pali là Bhàradvàja; Ác-câu = Akkosaka.

– Nam-mô Phật: Pali là Namo Buddha = Kính lạy Đức Phật.

– Sân-hận: Sân = giận; Hận = hờn, thù-oán.

– Quy-y: Quy = quay về; Y = nương-tựa. Quy-y = tìm về nương-tựa tinh-thần nơi Đức Phật, Chánh-Pháp và Tăng.

– Tăng-đoàn: đoàn thể các vị tu-sĩ Phật-giáo, từ bốn người trở lên

– Thâm-thúy = ý-nghĩa sâu-xa, đúng với Chơn-lý.

– Cực-hình: hình-phạt nặng-nề.

– Nhẫn-nhục = nhịn-nhục bền chí chịu đựng, chẳng oán hờn.

– Ba quân = quân-đội; lính bộ, lính thủy, lính cởi ngựa (ngày xưa.)

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc Đức Phật cảm-hoá cả bốn người anh em lỗ-mãng bằng đức nhẫn-nhục và sự trầm-tĩnh.

Ý-nghĩa của Tích chuyện: hoà-nhã trước lời hỗn-láo, sẽ khiến cho kẻ đối-thoại phải hổ-thẹn trong lòng.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 399:

Ý-nghĩa của bài Kệ nằm gọn trong câu: “Lấy nhẫn làm sức mạnh ba quân”, có nghĩa là dùng sự nhẫn-nhục để đối-phó với mọi sự khó-khăn, cũng như đó là sức mạnh của Quân-đội chống-đỡ kẻ thù.

Thông-thường, hễ nhịn ai thì người khác cho đó vì yếu-kém mà chịu thua, để bị hiếp-đáp. Nhưng biết nhịn khi mình yếu, chẳng gây thêm đổ-vỡ, đó là khôn-ngoan tránh trước cái hại to-lớn. Vả lại, biết mình đang nhịn, chẳng phải là mình đang thua đâu; trái lại, người biết nhịn là người đang thắng. Thắng ai đâu? Thắng chính mình, thắng được lòng oán-ghét đang nổi lên khỏi kéo dài để làm khổ lòng mình.

(280).- Tích chuyện Tôn-giả Xá-lợi-phất nhẫn-nhục nghe mẹ nhiếc-móc.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại tịnh-xá Trúc-lâm, gần thành Vương-xá, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến đức nhẫn-nhục của Tôn-giả Xá-lợi-phất khi bị mẹ nhiếc-móc.

Thuở ấy, Tôn-giả hướng-dẫn một số đông tỳ-kheo trở về quê cũ ở làng Na-la-ca, đến trước cửa nhà mình mà khất-thực. Mẹ của Tôn-giả, vốn là người ngoại-đạo, mời tất cả vào nhà, dọn thực-phẩm lên đãi. Khi sớt món ăn vào bát của Tôn-giả Xá-lợi-phất, bà mẹ nói: “Con lại đi ăn đồ thừa, bỏ cả gia-tài to-lớn để làm tỳ-kheo, hại cả nhà mẹ của con!” Tôn-giả lẵng-lặng ngồi nghe, mặt chẳng đổi sắc. Khi chia thức ăn cho các tỳ-kheo, bà mẹ lại nói: “Các ông bắt con tôi theo hầu-hạ, đây thức-ăn, dùng đi!” Tôn-giả im-lặng thọ-thực, rồi từ-tốn đứng dậy, ôm bình bát về chùa.

Các vị tỳ-kheo đi theo, khen ngợi đức nhẫn-nhục của Tôn-giả với Đức Phật. Đức Phật bảo: “Đối với bực A-la-hán, chẳng hề nổi nóng, chẳng hề để sân-hận khởi lên bao giờ.”

Rồi Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:

Chẳng sân-hận, làm tròn bổn-phận.
Giới-hạnh trang-nghiêm, tham-ái tận,
Căn nhiếp-phục, thân nầy là chót,
Như-Lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 400.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Xá-lợi-phất: tên Tôn-giả, tiếng Pali là Sàriputta, nghĩa là con của bà Sàri. Sàri là chim Thu, nên Tôn-giả còn được gọi là Xá-lợi-tử, hay là Thu-tử.

– Na-la-ca: tên làng nầy, tiếng Pali là Nàlaka.

– Trúc-lâm, Vương-xá: tịnh-xá cất trong vườn trúc của vua Tần-bà-sa-la (Bimbisara), gần thủ-đô Vương-xá (Ràjagaha) nước Ma-kiệt-đà (Magadha).

– Nhiếc-móc = mắng-mỏ.

– Thọ-thực: đang ăn các đồ-ăn nhận được.(Thọ = nhận; Thực = ăn)

– Giới-hạnh trang-nghiêm: giữ tròn các điều răn-cấm cẩn-thận

– Tham-ái tận: Tham = ham muốn quá; Ái- = thương, thích; Tận = dứt hết sạch. Tham-ái tận là dứt hết mọi ham-muốn.

– Căn nhiếp-phục: Căn là các giác-quan như mắt, tai, mũi, lưỡi,.. Nhiếp-phục = khéo kềm-giữ, chẳng cho chạy theo cảnh-sắc bên ngoài.

– Bà-la-môn: ở đây có nghĩa là bực A-la-hán.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại gương nhẫn-nhục của Tôn-giả Xá-lợi-phất. Sự nhẫn-nhục nầy rất khó thực-hiện, vì Tôn-giả bị mẹ mắng-mỏ ngay trước mặt các vị tỳ-kheo học-trò của mình.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 400:

Ý-nghĩa của bài Kệ đề-cao đức nhẫn-nhục, như nơi bài Kệ trước. Xin phân-tách từng câu, để ghi thêm vài điểm quan-trọng:

1) Chẳng sân-hận, làm tròn bổn-phận: Bổn-phận nào? Bổn-phận của tỳ-kheo: tu sao cho dứt phiền-não, để chứng quả-vị A-la-hán;

2) Giới-hạnh trang-nghiêm: Giới đứng đầu trong tam-học ( =giới, định, huệ), giữ giới hoàn-toàn mới có định-tâm, và trí-huệ phát-sáng.

3) Căn nhiếp-phục: làm chủ các giác-quan, chẳng cho dính-mắc theo cảnh-vật bên ngoài, để giữ tâm bên trong thanh-tịnh.

4) Thân nầy là chót: tức là chẳng còn bị tái-sanh để mang lại thân-tâm khác ở cõi Luân-hồi; nói cách khác, đã chứng được vô-sanh.

5) Như-Lai gọi là Bà-la-môn: đấy là bực A-la-hán (Arahant).

(281).- Tích chuyện Ni-bà Bích-Liên.

Tích chuyện nầy tiếp theo Tích chuyện số (54) về Nữ Trưởng-lão Bích-Liên.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp có đề-cập đến Ni-bà Bích-Liên.

Thuở ấy, tỳ-kheo-ni Bích-Liên sống một mình trong am vắng nơi rừng Hắc-lâm, bị kẻ bất-lương là Nan-đà hãm-hiếp.

Khi biết sự-việc đó, các tỳ-kheo mới hỏi Phật, chẳng biết bực A-la-hán có còn dục-tình, cảm thấy khoái-lạc về nhục-thể nữa không, vì dầu sao thân vật-chất của mọi người cũng giống nhau. Đức Phật bảo: “Nầy chư Tăng, bực A-la-hán chẳng đắm mình trong thú-vui thể-xác, chẳng vướng vào các trần, chẳng đeo theo sự thoả-mãn của các căn, khác nào như nước đổ trên lá sen, như hột cải để trên đầu mũi kim.”

Rồi Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:

Như nước đổ trên lá sen,
Như hột cải trên đầu kim,
Người dục-lạc chẳng ố-hoen,
Như-Lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 401.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Ni-bà: tỳ-kheo-ni ngang hàng với Hoà-thượng bên nam-giới.

– Bích-Liên: tên Ni-bà, tiếng Pali là Uppalavannà, bông sen xanh.

– Hắc-lâm = khu rừng u-tối, tiếng Pali là Andhavana. (Hắc = đen)

– Hãm-hiếp = cưỡng-bức ép việc gian-dâm.

– Dục-tình = sự ham-muốn giao-hợp giữa trai gái.

– Dục-lạc = Dục = muốn; Lạc = thú vui. Dục-lạc là thú vui vật-chất.

– Khoái-lạc = sự sung-sướng, nhứt là về thể-chất.

– Căn, trần: sáu căn là mắt, tai, mũi, lưỡi và da; các trần là sắc (hình-sắc), thanh (âm-thanh), hương, vị, xúc (cảm-xúc), pháp (sự-vật).

– ố-hoen: nhiễm dơ.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện nhắc lại câu hỏi của các vị tỳ-kheo, A-la-hán còn hưởng dục-lạc về thân-xác không? Đức Phật đáp, A-la-hán đã dẹp bỏ mọi dục-lạc; các thú-vui vật-chất chẳng cám-dỗ được, như nước đổ trên lá sen chẳng dính, như hột cải để trên mũi kim chẳng đứng vững.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 401:

Ý-nghĩa bài Kệ rất rõ-ràng: có dẹp bỏ mọi dục-lạc, lià xa mọi thú-vui vật-chất và thể-xác, thì mới chứng được quả-vị A-la-hán.

(282).- Tích chuyện người nô-lệ đắc quả A-la-hán.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến một vị A-la-hán, trước làm nô-lệ cho một người Bà-la-môn.

Thuở ấy, có một người nô-lệ trẻ tuổi, được chấp-nhận vào Tăng-đoàn, tu-hành thật tinh-tấn nên sớm chứng quả A-la-hán. Một hôm, vị ấy cùng với Đức Phật, đi khất-thực trong thành Xá-vệ. Bỗng người chủ cũ trông thấy, mới chạy lại nắm chặt lấy áo cà-sa. Đức Phật hỏi nguyên-do, người chủ bảo, đấy là kẻ nô-lệ của ông ta. Đức Phật bảo: “Vị tỳ-kheo nầy đã đặt gánh-nặng xuống đất rồi!” Người chủ chẳng hiểu, hỏi lại, Đức Phật mới cho biết vị tỳ-kheo nay được giải-thoát hoàn-toàn, vì đã chứng xong quả-vị A-la-hán.

Rồi Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây, nhờ đó người chủ chứng được quả-vị Tu-đà-huờn:

Ai ngay tại cõi đời nầy,
Chứng-tri đau-khổ mảy-may chẳng còn,
Siêu-thoát, bên đường buông gánh nặng,
Như-lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 402.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Nô-lệ: đầy-tớ ở suốt đời với chủ, chẳng có tự-do cá-nhơn.

– Cà-sa: tiếng Pali: kàsàya, áo màu vàng của tu-sĩ Phật-giáo.

– A-la-hán:Arahant, quả-vị thứ tư, diệt hết mọi ham-muốn, chứng được vô-sanh, hoàn-toàn giải-thoát khỏi mọi đau-khổ của Luân-hồi.

– Tu-đà-huờn: Sotàpatti, quả-vị thứ nhứt, còn gọi là Nhập-Lưu, được dự vào dòng Thánh, hay Thất-Lai, chỉ còn tái-sanh bảy lần nữa.

– Chứng-tri: chính mình biết rõ nơi mình (Tri = biết)

– Siêu-thoát: Siêu = vượt lên trên; Thoát = thoát khỏi.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Ý-nghĩa của Tích chuyện là mặc dầu là kẻ nô-lệ, nếu biết tu-hành tinh-tấn, sẽ chứng được quả-vị cao-quí là A-la-hán.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 402:

Ý-nghĩa bài Kệ nói về người đã giải-thoát hoàn-toàn ( = chứng quả A-la-hán). Khi nào được giải-thoát? Khi tự-mình chứng-tri ( = biết rõ) nơi mình chẳng còn mảy-may đau-khổ, buông bỏ gánh nặng của thân-tâm, sống an-nhiên, tự-tại. Thế nào là bỏ gánh nặng? Đó là xem thân-tâm năm uẩn nầy vô-thường, chẳng tríu-mến đến nó nữa.

(283).- Tích chuyện Ni-bà Khê-ma.

Tích chuyện nầy tiếp theo Tích chuyện số (244) về Hoàng-hậu Khê-ma.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ trên núi Linh-sơn, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến Ni-bà Khê-ma.

Một hôm, vào lúc sắp rạng đông, vua Trời Đế-Thích và chư Thiên đến núi Linh-sơn chiêm-bái Đức Phật. Bấy giờ, ni-bà Khê-ma thi-triển thần-thông cũng bay đến núi để đảnh-lễ Đức Phật. Thấy có chư Thiên đang quay-quần trước hương-phòng, ni-bà cúi xuống lễ Phật, rồi bước ra. Vua Trời Đế-Thích trông thấy mới thưa hỏi Đức Phật đó là ai vậy. Đức Phật đáp: “Nầy Thiên-đế, đó là tỳ-kheo-ni Khê-ma, người nữ đệ-tử có trí-huệ xuất-sắc nhứt trong Ni-đoàn, kiến-thức thật sâu-xa, biết phân-biệt rõ-ràng đường chánh với nẻo tà.”

Rồi Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:

Người có trí, kiến-thức sâu xa,
Phân-biệt rành đường chánh nẻo tà,
Thành-đạt được mục-tiêu tối-thượng,
Như-Lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 403.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Ni-bà: hay Nữ-Trưởng-lão, là bực cao-cấp trong hàng ni-chúng.

– Khê-ma: tên vị Ni-bà, tiếng Pali là Khemà.

– Núi Linh-sơn: tên núi nầy, tiếng Pali là Gijjhakuta, ngọn giống hình chim thứu( =kên-kên); Đức Phật nói Kinh Pháp-Hoa tại núi nầy.

– Trời Đế-Thích: Sakka, vua cõi Trời Đao-lợi.

– Chiêm-bái: Chiêm =nhìn; Bái = lạy. Chiêm-bái là kính nhìn và lạy

– Thi-triển thần-thông: xử-dụng các khả-năng khác thường như bay bổng trên không, đi trên mặt nước, nhờ định-lực tu-tập cao.

– Thiên-đế = vua Trời.

– Hương-phòng: căn phòng có hương thơm dành riêng cho Phật.

– Kiến-thức: Kiến = thấy; Thức = biết. Kiến-thức là sự hiểu-biết.

– Tối-thượng: Tối = hết-sức; Thượng = cao; Tối-thượng là cao nhứt.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện chẳng có ý-nghĩa chi đặc-biệt, ngoài việc dùng để giới-thiệu tài-đức của Ni-bà Khê-ma với vua Trời Đế-Thích, và dẫn đến bài Kệ.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 403:

Bài Kệ nêu lên Trí-huệ Bát-nhã Ba-la-mật của bực A-la-hán. Trí-huệ đó là gì? Bát-nhã (chữ Phạn: Prajna) là Trí-huệ; Ba-la-mật (Phạn: Paramitra) là đưa qua bờ bên kia, bờ giác-ngộ. Nhờ Trí-huệ nầy mà vị tu-hành được giác-ngộ và giải-thoát, chứng quả A-la-hán Bất-tử, đó là mục-tiêu tối-thượng được nói trong câu thứ ba của Bài Kệ.

(284).- Tích chuyện Trưởng-lão Thi-sa và vị thần-linh.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến Trưởng-lão Thi-sa và vị thần-linh trong động núi.

Thuở ấy, vào cuối mùa mưa, tỳ-kheo Thi-sa được Đức Phật chỉ-dạy một đề-tài thiền-quán, liền lên núi, tìm được một hang động vừa-ý, sống một mình ở đấy để tu-tập. Động ấy vốn là nơi nương-tựa một vị thần-linh. Khi Thi-sa đến ở, vị thần-linh phải lánh ra ngoài, vì chẳng dám cùng cư-trú với bực tu-hành giới-đức thật thanh-tịnh. Hằng ngày, Tỳ-kheo Thi-sa đi vào làng khất-thực tại nhà một nữ tín-chủ có một người con trai còn nhỏ tuổi. Vị thần-linh chẳng dám hiện lên để mời tỳ-kheo Thi-sa đi ở chỗ khác, mới nghĩ ra một kế giành lại động đá. Vị ấy liền nhập vào đứa bé, khiến nó trợn ngược mắt, ngoẹo đầu ra sau, trông rất dễ sợ. Bà mẹ hoảng-hốt, khóc lóc. Vị thần hiện lên mách kế, ngày mai có tỳ-kheo nào đến khất-thực, cứ năn-nỉ xin dội nước vào chơn đứa con, thì nó sẽ khỏi bịnh.

Sáng hôm sau, khi dưng thực-phẩm cúng-dường xong, người mẹ khóc, nhờ Tỳ-kheo Thi-sa dội nước rửa chơn cho con để cứu nó. Thi-sa vừa xối nước vào chơn đứa bé, thì nó trở lại bình-thường. Ông liền từ-giả, trở về động. Tới hang đá, vị thần-linh chận lại và bảo rằng: “Ông vừa phạm giới, sáng nay hành-nghề trị bịnh ở nhà thí-chủ, chẳng xứng-đáng làm tỳ-kheo.” Thi-sa nhớ lại mình chỉ dội nước vào chơn đứa bé, theo lời yêu-cầu của mẹ nó, chớ nào có vi-phạm giới-luật hành nghề trị bịnh đâu. Quán thấy giới-đức mình hoàn-toàn thanh-tịnh, tâm Thi-sa tràn ngập một niềm phỉ-lạc lâng-lâng, rồi đi sâu vào đại-định, chứng được quả A-la-hán, ngay tại cửa động. Sau khi xuất-định, trưởng-lão Thi-sa bảo vị thần-linh biết và khuyên nên đi tìm nơi ẩn-trú ở chỗ khác.

Khi trở lại chùa, Trưởng-lão thuật lại việc bị thần-linh ngăn-trở ở cửa động, các vị tỳ-kheo khác hỏi, lúc ấy Trưởng-lão có khởi tâm tức-giận không. Trưởng-lão lắc đầu. Các vị tỳ-kheo còn chưa tin, mới trình lại với Đức Phật. Đức Phật bảo: “Nầy chư Tăng, tỳ-kheo Thi-sa nay đắc quả A-la-hán, chẳng còn tức-giận nữa.” Nhơn sự-việc vừa qua của Trưởng-lão Thi-sa, Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây để nêu lên đức-độ của một bực A-la-hán:

Chẳng thân-thiết quá với cả hai:
Kẻ tại-gia, như hàng tăng-lữ;
Thiểu-dục, độc-thân, đi đó đây,
Như-Lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 404.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Thi-Sa: tên của Trưởng-lão, tiếng Pali là Tissa.

– Đề-tài thiền-quán: một đầu-đề để suy-nghĩ sâu-xa khi ngồi Thiền; ví-dụ như quán thân bất-tịnh, quán lý vô-thường, v.v.

– Nữ tín-chủ: người đàn-bà có lòng tin-tưởng nơi đạo Phật, thường hay cúng-dường các vị tu-hành.

– Hành nghề trị bịnh: Theo giới-luật Khất-sĩ, tỳ-kheo chẳng được có nghề riêng để sanh sống, mà phải đi khất-thực. Vì lẽ nầy mà cấm việc tỳ-kheo đi trị bịnh cho các tín-chủ, để được đền ơn.

– Phỉ-lạc: tiếng Pali là Piti, niềm vui nhẹ-nhàng trong lòng khi đắc được định-tâm.

– Đại-định: tâm an-định thâm-sâu, khi chứng cảnh thiền.

– Quá thân-thiết: quá thân-mật, đi xa quá sự xã-giao thường.

– Tại-gia = tu tại-gia, tu tại nhà, chẳng thọ giới tỳ-kheo ở chùa.

– Hàng Tăng-lữ = các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni nói chung.

– Thiểu-dục: Thiểu =ít; Dục = muốn; Thiểu-dục = bớt ham muốn

– Độc-thân: ở một mình.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc tranh-chấp động đá trên núi giữa vị tỳ-kheo và vị thần-linh. Vị thần-linh tìm kế vu-oan cho vị tỳ-kheo là phạm giới hành nghề trị bịnh, chận ngoài cửa hang chẳng cho vào. Tỳ-kheo Thi-sa chẳng hề tức-giận, quán thấy giới-đức mình thanh-tịnh, khởi tâm phỉ-lạc, nhập vào đại-định, chứng được quả-vị A-la-hán.

Nhơn việc nầy, Đức Phật dạy, bực A-la-hán chẳng quá thân-thiết với kẻ tăng người tục, sống một mình, ít ham-muốn, rày đây mai đó.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 404:

Bài Kệ nêu lên đức-độ của vị A-la-hán trong cuộc sống ẩn-dật. Xin phân-tách các điểm chánh:

1)”Chẳng quá thân-thiết với cả hai: Kẻ tại-gia, như hàng tăng-lữ”: Tại sao tỳ-kheo chẳng nên quá thân-thiết với kẻ tăng người tục? Vì quá thân-thiết sẽ sanh ra suồng-sã, rồi dễ đi đến tình-cảm lăng-nhăng, khiến giới-đức mất thanh-tịnh.

2)”Thiểu-dục”: ít ham-muốn, biết tự-chế, dễ khép mình vào kỷ-luật tu-hành.

3)”Độc-thân”: biết sống một mình chẳng cảm thấy cô-đơn, vui “làm bạn” với những tiến-bộ của mình trên đường tu-tập.

4)”Đi đó đây”: chẳng quyến-luyến ở mãi một nơi, để khỏi bị ràng-buộc; ngay cả ngồi nghỉ cũng chẳng chọn mãi một gốc cây, nay gốc cây nầy, mai gốc cây nọ, để cắt đứt sự trìu-mến.

(285).- Tích chuyện vị tỳ-kheo bị đánh đập.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến một vị tỳ-kheo bị đánh đập.

Thuở ấy, có một vị tỳ-kheo được Đức Phật chỉ-dạy một đề-tài thiền-quán, đi vào rừng sâu, nỗ-lực tu-tập ngày đêm, đắc được định-tâm, chứng được quả-vị A-la-hán. Vị ấy liền quay về chùa Kỳ-viên để tạ ơn Phật. Dọc đường, đi ngang qua một căn nhà, nghe tiếng cãi-vã dữ-dội của hai vợ chồng giận nhau. Bỗng người vợ bỏ nhà, ra đi, bước theo sau vị tỳ-kheo. Người chồng rượt theo, trông thấy, nổi cơn ghen, hăm-doạ, chửi mắng vị tỳ-kheo là quyến-rũ vợ mình. Anh ta chạy đến đánh đập vị tỳ-kheo rất tàn-nhẫn. Người vợ càng can, người chồng càng mạnh tay đánh. Vị tỳ-kheo vẫn im-lìm chịu đựng, chẳng chút giận-hờn.

Về đến chùa, các vị tỳ-kheo khác trông thấy các vết thương, vừa băng-bó, vừa hỏi chuyện. Nghe kể lại trận đòn ghen oan-ức, các vị tỳ-kheo hỏi, có tức-giận không. Thấy nạn-nhơn lắc đầu, các vị tỳ-kheo chẳng tin, trình cớ-sự lên Đức Phật. Đức Phật bảo: “Nầy chư Tăng, một vị A-la-hán đã buông bỏ gậy-gộc và gươm-đao từ lâu, nên chẳng hề tức-giận khi bị hành-hung.”

Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:

Kẻ nào đao trượng đã từ-khước,
Đối mọi chúng-sanh cường hay nhược,
Chẳng hề giết, chẳng hề bảo giết,
Như-Lai gọi là Bà-la-môn
(Kệ số 405.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Đề-tài thiền-quán: đầu-đề để chiêm-nghiệm khi ngồi Thiền.

– Định-tâm: tâm an-định, chẳng xao-động, trong khi ngồi Thiền.

– A-la-hán: quả-vị thứ tư, cao nhứt, tiếng Pali: Arahant. Có ba nghĩa: (1) ứng-cúng, xứng đáng được Trời, Người cúng-dường; (2)sát tặc, giết hết giặc, giặc phiền-não; (3) vô-sanh, chẳng còn bị tái-sanh trong cõi Luân-hồi nữa.

– Buông bỏ gậy-gộc và gươm-đao: ý nói đã từ-khước việc dùng võ-lực đánh đập lại kẻ khác.

– Hành-hung: Hành = làm; Hung = dữ. Hành hung là đánh đập dữ

– Đao trượng: Đao = gươm đao; Trượng = gậy gộc.

– Từ-khước: dứt bỏ, chẳng dùng, chẳng theo.

– Cường, nhược: Cường = mạnh-bạo; Nhược = yếu-ớt.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện kể lại vị tỳ-kheo bị trận đòn ghen oan-ức, thân-thể bị thương-tích, mà chẳng hề oán-giận, chẳng chống trả lại. Đức Phật, nhơn việc nầy, nêu lên đức-tánh quí của bực A-la-hán: tâm vô-tác-hại, chẳng hề muốn gây thương-tổn về vật-chất cũng như về tinh-thần, đối với mọi chúng-sanh.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 405:

Bài Kệ dạy ta về tâm vô-tác-hại của bực A-la-hán: từ bỏ hẳn việc dùng võ-lực gây đau-khổ cho mọi chúng-sanh. Chẳng những chẳng dùng sức mạnh để chống lại sức mạnh, mà cả việc chẳng sát-hại các sanh-vật nhỏ-nhít, yếu-ớt như côn-trùng. Chẳng những chẳng gây đau-khổ về vật-chất, mà còn tránh cả các hành-động, lời nói gây tổn-thương về tinh-thần. Chẳng những chính mình chẳng sát-hại, mà còn phải can-thiệp để ngăn kẻ khác sát-hại; tránh thái-độ dửng-dưng mà vô-tình làm đồng-loã với kẻ hung-bạo.

(286).- Tích chuyện bốn vị Sa-di.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến bốn vị Sa-di còn nhỏ tuổi mà đã chứng đắc quả A-la-hán.

Thuở ấy, có một người đàn-bà sửa-soạn thức ăn để cúng-dường. Bà nhờ chồng đến chùa Kỳ-viên thỉnh cho được bốn vị Trưởng-lão đã chứng-đắc quả-vị A-la-hán, đến để nhận lễ. Người chồng đến chùa thỉnh và có bốn vị sa-di tên là Sơn-khí-ca, Bàn-đi-ta, Sơ-phà-ca và Lê-va-ta, được chỉ-định đi đến nhà. Người đàn-bà thất-vọng, bảo chồng phải mời cho được bốn vị Trưởng-lão đến. Người chồng gặp được Tôn-giả Xá-lợi-phất, liền thỉnh đến nhà. Vào đến cửa, trông thấy bốn vị Sa-di đang ngồi chờ, Tôn-giả mới hỏi đã thọ-thực chưa, và thực-phẩm được chuẩn-bị cho mấy người. Khi được biết cả bốn vị Sa-di còn chưa thọ-thực, Tôn-giả liền bỏ ra về. Người đàn-bà lại giục chồng đi mời lần nữa. Chuyến nầy, Tôn-giả Mục-kiền-liên đến, khi biết thực-phẩm chỉ đủ cho bốn người, cũng lại ra về như Tôn-giả Xá-lợi-phất.

Trời đã trưa, các vị Sa-di đã bắt đầu cảm thấy đói. Vua Trời Đế-Thích nhìn thấy tình-cảnh của các vị Sa-di, liền hiện xuống làm một vị Bà-la-môn già-cả, đi vào nhà. Người đàn-bà mừng-rỡ lắm, mời lên ngồi trên. Nhưng vị ấy đến lạy chào bốn vị Sa-di, xong lại ngồi dưới đất, nói mình thật là Vua Trời Đế-Thích đang kính-lễ bốn vị A-la-hán. Vợ chồng người tín-chủ nghe nói, rất hân-hoan, mới dâng thực-phẩm lên. Sau khi thọ-thực, cả năm vị thi-triển thần-thông, bay bổng lên không-trung; vua Đế-Thích trở về cung Trời Đao-lợi, quí vị Sa-di quay lại chùa Kỳ-viên.

Chiều hôm ấy, các vị tỳ-kheo hỏi bốn vị sa-di trẻ tuổi, hồi trưa bị đói, vì gia-chủ chê họ còn nhỏ, chẳng chịu dưng thực-phẩm cho ăn, có tức-giận không. Các vị lắc đầu. Đức Phật bảo: ” Bực A-la-hán chẳng hề tức-giận, ngay cả với kẻ chống-đối, hay khinh-khi mình.”

Rồi Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:

Thân-thiện giữa những người thù-nghịch,
Ôn-hoà giữa bọn địch hung-hăng,
Vô-nhiễm giữa những ai hằng đắm-chấp,
Như-Lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 406.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Sa-di: người mới vào tập-sự tu ở chùa, chưa thọ-giới tỳ-kheo. Tiếng Pali là Sàmanera. Ở đây, bốn vị Sa-di vì còn nhỏ, chưa đủ hai mươi tuổi để thọ-giới tỳ-kheo, nhưng tu-tập giỏi nên chứng A-la-hán.

– A-la-hán: Arahant, quả-vị thứ tư, cao nhứt. Bực A-la-hán dẹp bỏ xong mọi phiền-não, lìa mọi ham-muốn, chứng được vô-sanh ( =chẳng còn bị tái-sanh ở cõi Luân-hồi), tự-tại trong cảnh Niết-bàn.

– Tên tiếng Pali của các vị Sa-di: Sơn-khí-ca (Samkicca); Bàn-đi-ta (Pandita); Sơ-phà-ca (Sopàka) và Lê-va-ta (Revata).

– Trưởng-lão: Thera, vị tu-sĩ đạo-đức cao trong hàng tỳ-kheo.

– Tôn-giả Xá-lợi-phất: tên tiếng Pali là Sàriputta.

– Tôn-giả Mục-kiền-liên: tên tiếng Pali là Moggallàna.

– Vua Trời Đế-Thích: vi vua trên cung trời Đao-lợi (Tàvatimsa), có tên là Sakka.

– Bà-la-môn: Brahmana, giai-cấp tu-sĩ ở xã-hội Ấn xưa. Trong bài Kệ, chữ Bà-la-môn lại có nghĩa là bực A-la-hán.

– Thi-triển thần-thông = xử-dụng các khả-năng khác thường, như bay bổng, đi vào lửa, v.v. nhờ định-lực tu-tập cao.

– Thân-thiện: có nhiều tình-cảm tốt đối với ai.

– Ôn-hoà: Ôn = ấm-áp; Hoà = hoà-thuận. Người ôn-hoà là người hiền-lành, chẳng gây-gổ, chẳng hiếp-đáp ai.

– Đắm-chấp: Đắm = mê-đắm; Chấp = cố-chấp.Người đắm-chấp là người say-mê, bám chặt vào một điều gì thì chẳng hề lơi ra.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại bốn vị Sa-di bị đói, vì bà chủ nhà chờ mời được bốn vị Trưởng-lão lớn tuổi mới chịu dâng-cúng thực-phẩm. Được hỏi bị đói, bị đối-xử như thế, có tức-giận không, cả bốn vị đều trả lời không, vì họ đã chứng được quả-vị A-la-hán, trong tâm đã dẹp sạch phiền-não tham, sân, si.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 406:

Bài Kệ nêu lên đức-tánh cao-quí của vị A-la-hán vì tâm thanh-tịnh và bình-thản, nên chẳng hề bị hoàn-cảnh sai-sử, lôi-cuốn, do đó mà biết thân-thiện giữa những người thù-nghịch, biết ôn-hoà giữa những người hung-hăng: chẳng ô-nhiễm giữa những người mê-đắm.

Giữ được tâm bình-thản trong mọi hoàn-cảnh là khó, vì:

1) thân-thiện với người thân thì dễ, mà rất khó khi gặp người thù-nghịch cứ chống-đối luôn;

2) ôn-hoà với người hiền thì dễ, mà rất khó khi gặp kẻ hung-hăng thường gây-hấn với mình;

3) vô-nhiễm giữa người mê-đắm rất khó, vì bị cám-dỗ luôn.

(287).- Tích chuyện Trưởng-lão Đại-Phan.

Tích chuyện nầy tiếp theo Tích chuyện số (17) về Tôn-giả Tiểu-Phan-tha-ca.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại tịnh-xá Trúc-lâm, gần thành Vương-xá, trong kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến Trưởng-lão Đại-Phan.

Trưởng-lão Đại-Phan đã chứng-đắc quả-vị A-la-hán, khi em Ngài là Tiểu-Phan mới thọ-giới tỳ-kheo. Trí thông-minh của Tiểu-Phan rất chậm-lụt, vì trong tiền-kiếp, Tiểu-Phan cứ theo chọc-ghẹo một vị Tăng ngu-tối. Tiểu-Phan học một bài Kệ bốn câu mà cả bốn tháng chưa thuộc. Trưởng-lão Đại-Phan thấy thế bảo em, thà hoàn-tục còn hơn.

Các vị tỳ-kheo khác nghe nói, mới đến bạch Phật: “Bạch Thế-tôn, một vị A-la-hán như Trưởng-lão Đại-Phan, có còn nóng-giận không? Sao lại bảo người em học chậm phải hoàn-tục?” Đức Phật đáp: “Nầy chư tỳ-kheo, một vị A-la-hán chẳng còn phiền-não, làm sao nổi nóng được? Tỳ-kheo Đại-Phan chỉ vì muốn xây-dựng cho em nên nói thế.”

Rồi Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:

Người chẳng còn chi bám dính nổi,
Tham, sân, kiêu-mạn, tị, hiềm,
Cũng như hột cải rơi khỏi đầu kim,
Như-Lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 407.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Đại-Phan: tên vị Trưởng-lão nầy, tiếng Pali là Mahàpanthika.

– Tiểu-Phan: tên vị tỳ-kheo nầy, tiếng Pali là Cùlapanthika, phiên-âm theo tiếng Hán-Việt là Châu-lợi-bàn-đà-già.

– Tiền-kiếp = kiếp trước, đời trước trước đời nầy.

– Hoàn-tục: Hoàn = trở về; Tục = đời sống thế-tục. Hoàn-tục là bỏ cuộc tu-hành trong chùa, trở lại đời sống có gia-đình ngoài xã-hội.

– Thế-tôn: Thế = đời, thế-gian; Tôn = tôn-trọng. Thế-tôn tức là Đức Phật, bực được cả thế-gian tôn-kính.

– Kiêu-mạn = phách-lối, quá tự-cao, xem mình là hơn tất cả.

– Tị, hiềm: Tị = ganh-tị, ghen-ghét; Hiềm = hiềm-nghi, nghi-ngờ.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất giản-dị: Trưởng-lão Đại-Phan thấy em mình kém thông-minh, học bài Kệ trong bốn tháng chẳng thuộc, bảo em nên hoàn-tục đi. Các vị tỳ-kheo khác cho là Trưởng lão nóng-giận em, mới đến thưa trình với Phật. Đức Phật bảo, đối với người đã chứng A-la-hán như Trưởng-lão Đại-Phan, chẳng hề nổi nóng, vì trong tâm đã dẹp xong mọi phiền-não rồi.

Ngoài ý-nghĩa chẳng nổi sân ra, còn một ý-nghĩa khác: Tiểu-Phan vì kiếp trước chọc ghẹo một vị tăng ngu-tối, nên kiếp nầy phải làm một tăng-nhơn bị kém trí thông-minh: đó là quả báo.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 407:

Cũng như các bài Kệ trước trong Phẩm Bà-la-môn, bài Kệ nầy nêu đức-tánh chẳng bị ô-nhiễm của một vị A-la-hán: Người, chẳng còn chi bám dính nổi, chẳng còn chi làm ô-uế được. Đức-tánh nầy được bài Kệ nêu lên với hình-ảnh hột cải nhỏ để trên đầu mũi kim, chẳng thể nào dính vào cây kim được.

Trong số các tâm-sở bất-thiện: tham, sân, kiêu-mạn, tị, hiềm, hai tâm-sở tham, sân và tâm-sở si là quan-trọng và khó đối-trị, thường được gọi là căn-bản phiền-não; còn các tâm-sở bất-thiện khác như kiêu-mạn, ganh-tị, hiềm-nghi, v.v. được gọi là tuỳ-phiền-não, hay là các phiền-não phụ-thuộc, vì chúng dựa theo các tâm-sở chánh tham, sân, si mà cùng phát-khởi lên trong tâm.

Muốn đối-trị các tâm-sở bất-thiện nói chung, cần phải tỉnh-giác luôn luôn, mỗi khi chúng khởi lên, ta liền biết mà chận chúng đi.

(288).- Tích chuyện Trưởng-lão Phí-linh-đa.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại tịnh-xá Trúc-lâm, gần thành Vương-xá, trong kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến Trưởng-lão Phí-linh-đa

Thuở ấy, tỳ-kheo Phí-linh-đa tánh hay trịch thượng, thường xưng-hô với kẻ khác như là nói với cấp dưới của mình. Nhiều vị tỳ-kheo khác bất-mãn, mới thưa trình cùng Đức Phật. Đức Phật quán thấy, trải qua nhiều đời kiếp, Phí-linh-đa sanh trong gia-tộc Bà-la-môn, nên thường tự xem mình là người cao-quí, còn những kẻ khác thấp kém hơn mình. Mặc-cảm tự-tôn đó cho đến đời nầy vẫn còn dấu-vết. Đức Phật mới bảo các tỳ-kheo: “Nầy chư Tăng, Phí-linh-đa tuy ăn nói thiếu nhã-nhặn, vì thói quen nhiều đời trước, chớ trong tâm chẳng có ác-ý muốn làm mất lòng người khác. Người chứng được quả A-la-hán chẳng hề làm hại ai.”

Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:

Người nói lời hoà-nhã, êm tai,
Lời xây-dựng, cùng lời chơn-thật,
Chẳng bao giờ nói mích lòng ai,
Như-Lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 408.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Phí-linh-đa: tên vị tỳ-kheo nầy, tiếng Pali là Pilindavaccha.

– Tịnh-xá Trúc-Lâm: Tịnh-xá = ngôi tu-viện yên-tịnh; Trúc-lâm = rừng trúc. Tịnh-xá Trúc-lâm được vua Tần-bà-sa-la (Bimbisara) xứ Ma-kiệt-đà (Magadha) xây trong vuờn trúc gần thành Vương-xá (Ràjagaha)

– Bất-mãn = chẳng vừa ý, hơi có ý giận.

– Quán thấy = dùng con mắt-tâm mà nhìn bên trong.

– Mặc-cảm tự-tôn = Mặc-cảm là tình-cảm chìm-lắng trong tiềm-thức lâu đời, thường khởi lên nơi tâm mà người chủ-động ít ngờ đến. Tự-tôn là xem mình cao hơn kẻ khác. Trái với mặc-cảm tự-tôn là mặc-cảm tự-ti.

– Nhã-nhặn, hoà-nhã = dịu-hiền, dễ nghe, dễ thương.

– Bà-la-môn: Brahmana, giai-cấp tu-sĩ ở xã-hội Ấn ngày xưa. Chữ Bà-la-môn trong bài Kệ lại được dùng với nghĩa là A-la-hán.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện chê kẻ ăn nói trịch-thượng.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 408:

Ý-nghĩa bài Kệ rất rõ ràng, khen ngợi người nói lời hoà-nhã.

(289).- Tích chuyện vị tỳ-kheo lượm vải.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp có đề-cập đến một vị tỳ-kheo lượm vải ngoài đường.

Một hôm, có vị tỳ-kheo trên đường đi khất-thực về, trông thấy một miếng vải bị gió bay dưới đất, mới cúi xuống lượm lên. Nào ngờ, đó là miếng vải của một người Bà-la-môn đem phơi. Người nầy thấy vị ty-kheo nhặt lấy, mới chạy theo đòi lại, miệng nói hỗn: “Ê! Tên trọc kia, sao lấy trộm vải của ta?” Vị tỳ-kheo ngỏ lời xin lỗi.

Về đến chùa, vị ấy thuật lại cho các bạn nghe. Các vị đồng-tu khác hỏi trêu-chọc, vải dài ngắn, ngang được mấy tấc, màu vàng hay màu trắng, v.v. Vị tỳ-kheo đáp: “Dài, ngắn, trắng, vàng chi cũng mặc-kệ, ta đâu còn chút ham-muốn bám-víu vào vật chi.” Các vị tỳ-kheo khác nghe nói, cho rằng vị ấy tự nhận mình đã chứng đạo-quả A-la-hán, mới trình cùng Đức Phật. Đức Phật bảo: “Nầy chư Tăng, một vật chẳng được cho, vị A-la-hán chẳng hề lấy.”

Rồi Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:

Người chẳng lấy của chửa được cho,
Dầu đó là vật nhỏ hay to,
Dài hay ngắn, hoặc thô, hoặc đẹp,
Như-Lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 409.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Như-Lai: tiếng Phật tự-xưng khi nói với ai. Như = như thế; Lai = đến. Ý muốn nói, ta là người đến đây như thế. Tiếng Pali là Tathàgata.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện nhắc lại giới thứ hai của người tu tại-gia: lấy vật chẳng được cho là phạm tội trộm cắp.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 409:

Bài Kệ rất rõ nghĩa, dạy ta tránh tội trộm-cắp.

(290).- Tích chuyện Tôn-giả Xá-lợi-phất và việc dâng y.

Vào một thời kia, Đức Phật ở tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến Tôn-giả Xá-lợi-phất và việc dâng y.

Vào mùa mưa năm ấy, Tôn-giả Xá-lợi-phất có hướng-dẫn một số đông tỳ-kheo đến trú tại một tu-viện trong ngôi làng nhỏ. Cuối mùa mưa, Tôn-giả dặn các tỳ-kheo, hễ có thiện-nam, tín-nữ nào làm lễ dâng-cúng y-phục cho chư Tăng, thì phải trình cho Tôn-giả biết trước. Sau đó, Tôn-giả trở về chùa Kỳ-viên để đảnh-lễ Đức Phật. Các vị tỳ-kheo nghe nói như thế, mới tưởng-lầm là Tôn-giả còn tham-luyến vào tứ sự cúng-dường, mới đến thưa trình cùng Đức Phật. Đức Phật bảo: “Nầy chư Tăng, Xá-lợi-phất chẳng hề còn chút tham-ái nào cả. Khi dặn bảo về việc dâng-y, Xá-lợi-phất muốn tạo cơ-hội cho các thiện-nam tín-nữ được thêm công-đức bố-thí, và các sa-di có đủ y-phục.”

Rồi Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:

Bất cứ điều gì, người chẳng tham-cầu,
Trong đời nầy hay vào các đời sau,
Dứt tham-ái, nên được giải-thoát,
Như-Lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 410.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Dâng-y: buổi lễ vào cuối mùa An-cư kiết-hạ, dưng-cúng áo cà-sa

– Tứ-sự cúng-dường: bốn thứ lễ-vật để dưng-cúng chư Tăng, ni: thực-phẩm, quần-áo, giường chiếu, và thuốc-men.

– Thiện-nam, tín-nữ: tiếng để chỉ chung những người tin-tưởng vào đạo Phật, thường đến giúp chư Tăng, ni ở chùa.

– Bố-thí: Bố = rộng khắp; Thí = hiến-tặng. Bố-thí là hiến-dâng của-cải, công-sức hay lời an-ủi đến người cần đến.

– Sa-di: người mới tập-sự tu ở chùa, chưa thọ giới tỳ-kheo. Phái nữ gọi là Sa-di-ni. Tiếng Pali Sa-di là Samanera.

– Tham-cầu: tham-lam và mong-cầu.

-Tham-ái: Tham = ham quá chừng; Ái = thương, thích. Tham-ái, tiếng Pali là Tanhà. Đây là nguyên-nhơn tạo ra Khổ ở đời.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc hiểu-lầm của các tỳ-kheo về ý-định của Tôn-giả Xá-lợi-phất trong việc tổ-chức lễ dâng-y cho chư Tăng, Ni. Lễ dâng-y có hai ý-nghĩa: tạo phước cho thiện-nam tín-nữ, giúp cho các sa-di có đủ y-phục.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 410:

Ý-nghĩa quan-trọng của bài Kệ là nói về sự tham-ái. Tham-ái là nguyên-nhơn tạo ra Khổ ở đời, đó là Chơn-lý thứ hai, Tập-đế, trong Tứ-Diệu-đế. Vì mình thích, mình ham, nên mình mới bị ràng-buộc lâu mà chẳng chịu cởi bỏ ra. Dẹp được tham-ái là được giải-thoát ngay.

(291).- Tích chuyện Tôn-giả Mục-kiền-liên bị hiểu lầm.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến việc Tôn-giả Mục-kiền-liên bị hiểu lầm.

Tích chuyện nầy cũng giống với Tích chuyện số (290) về Tôn-giả Xá-lợi-phất. Tôn-giả Mục-kiền-liên cũng bị nghi-ngờ là còn luyến-ái vào các sự-vật ở ngoài đời thế-tục, nhơn lễ dâng-y. Nhơn việc hiểu lầm nầy, Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:

Người lìa tham-ái, tri-kiến đủ,
Ngộ Chơn-lý, chẳng chút nghi-nan,
Chứng cảnh-giới Bất-tử Niết-Bàn,
Như-Lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 411.)

TÌM HIỂU:

Việc Tìm Hiểu ở đây, quan-trọng nơi bài Kệ số 411: bực A-la-hán đã lià tham-ái, đầy-đủ Trí-huệ để ngộ được Chơn-lý, dứt mọi sự nghi-ngờ, nên chứng được Niết-Bàn, là cảnh-giới Bất-tử, nghĩa là chẳng hề chết. Tại sao chẳng hề chết? Vì chẳng còn bị tái-sanh lại, thì làm sao có thêm một đời sống Khổ ở cõi Luân-hồi, mà phải bị chết nữa được. Bất-tử và Vô-sanh cả hai chữ đều đồng một nghĩa như nhau.

(292).- Tích chuyện Sa-di Lê-va-ta.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Đông-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến vị Sa-di Lê-va-ta còn trẻ mà đã đắc quả A-la-hán.

Một hôm, các vị tỳ-kheo khen-ngợi đức-hạnh của Tôn-giả Lê-va-ta, còn trẻ tuổi mà được danh-tiếng cao, dân-chúng cúng-dường rất hậu-hĩ. Mặc dầu sống ẩn-cư nơi rừng vắng, Tôn-giả Lê-va-ta đã thi-triển thần-thông, xây dựng nhiều chùa tháp cho chư Tăng trú-ngụ. Đức Phật nghe lời tán-thán đó, mới bảo rằng: “Nầy chư tỳ-kheo, người đã dứt bỏ được tham-ái như Lê-va-ta, các mối ràng-buộc về điều thiện, điều ác đều được vuợt lên trên hết.”

Rồi Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:
Đời nầy, kẻ vượt thoát ràng-buộc,
Của cả hai điều thiện và ác,
Chẳng sầu, thanh-tịnh và giải-thoát,
Như-Lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 412.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Sa-di Lê-va-ta: tiếng Pali là Samanera Revata. Vì còn nhỏ tuổi chưa thọ-giới tỳ-kheo, nên vẫn gọi là Sa-di, mặc dầu đã chứng quả A-la-hán. (Sa-di = người còn tập-sự tu, chưa chánh-thức là tỳ-kheo.)

– Chùa Đông-viên: do bà Vi-sa-kha xây cất ở phiá Đông chùa Kỳ-viên, tên tiếng Pali là Pubbàràma.

– Hậu-hĩ: rất nhiều và quí.

– Thi-triển thần-thông: xử-dụng các khả-năng khác thường như bay bổng trên không, biến-hoá, đi trên mặt nước, v.v.

– Tán-thán = khen ngợi và thán-phục.

– Tham-ái: Tham = ham quá; Ái =thương, thích. Tham-ái, dịch chữ Pali Tanhà, là nguồn-gốc gây ra Khổ, tức là Tập-Đế trong Tứ-Diệu-đế.

– Các mối ràng-buộc: ở đây trỏ vào các tâm-sở bất-thiện: tham, sân, si, mạn, nghi và tà-kiến.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Ý-nghĩa của Tích chuyện là: vượt khỏi mọi ràng-buộc của Thiện và Ác. Thế nghĩa là sao? Điều ác ràng-buộc đã đành, vì gây ra nghiệp dữ, lôi ta theo nẻo ác của Luân-hồi (điạ-ngục, ngạ-quỉ, súc-sanh). Còn điều lành lại cũng ràng-buộc hay sao? Cũng ràng-buộc như thường, vì tạo nên nghiệp lành, đưa ta đến các cõi lành của Luân-hồi (cõi Trời, thần và người).

Thế thì Tôn-giả Lê-va-ta đã thoát được cả hai mối ràng-buộc đó bằng cách nào? Tôn-giả làm lành, tránh được nghiệp dữ; Tôn-giả chẳng dừng lại đó như những người tu phước, mà Tôn-giả còn đi xa hơn, tu giới-định-huệ để chứng-đắc quả A-la-hán, thoát khỏi vòng sanh-tử của Luân-hồi, khiến cho cả hai nghiệp lành, nghiệp dữ đều chấm-dứt hết.

Đó là nghĩa sâu của Tích chuyện.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 412:

Ý-nghĩa của bài Kệ cũng giống với ý-nghĩa của Tích chuyện, nhưng được Phật nói rõ thêm. Xin phân-tách từng điểm:

1) “Đời nầy, kẻ vượt thoát ràng-buộc, Của cả hai điều: thiện và ác”: đây là nói đến ngay trong đời nầy, dứt được nghiêp lành và dữ, tức là đã chứng được vô-sanh, thoát vòng tái-sanh của Luân-hồi. Nói cách khác, đó là bực A-la-hán trong hiện đời.

2) “Chẳng sầu”: “Sầu” là vì Khổ; nay dứt khổ, tức là “chẳng sầu” và vì chẳng khổ-sầu, cho nên được an-vui, đó là tánh-cách an-lạc của cảnh-giới Niết-bàn.

3) “Thanh-tịnh”: trong-sạch và yên-tịnh, vắng-lặng; đó là tánh-cách tịch-diệt của cảnh-giới Niết-Bàn.

4) “Giải-thoát”: hết bị trói-buộc trong vòng lẩn-quẩn khổ-đau của cảnh sanh-tử nữa, mà hằng được tự-tại: đó là tánh-cách an-nhiên, tự-tại của cảnh-giới Niết-bàn.

Tóm lại, ý-nghĩa sâu của bài Kệ nói lên các tánh-cách an-lạc, tịch-diệt và giải-thoát của cảnh-giới Niết-bàn mà bực A-la-hán đang hưởng ngay trong hiện-đời.

(293).- Tích chuyện Trưởng-lão Can-đà.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến Trưởng-lão Can-đà.

Can-đà, tiếng Pali có nghĩa là mặt trăng, là biệt-hiệu mà người đương-thời gán cho một người, khi sanh ra có một vầng sáng chói ở rún. Nguyên người ấy, vào thời Đức Phật Ca-diếp có dưng-cúng một khúc gỗ chiên-đàn để tạc tượng thờ Phật trong ngôi tháp, nên khi tái-sanh, có điểm lạ nơi rún chói sáng lên. Bọn ngoại-đạo lợi-dụng lòng mê-tín của dân chúng, chở Can-đà lên xe đi rong, ai muốn rờ vào rún chói sáng đó thì phải trả một đồng tiền.

Khi đến gần chùa Kỳ-viên thấy các thiện-nam, tín-nữ vào nghe Đức Phật giảng-pháp, bọn ngoại-đạo bảo rằng, Can-đà có thần-thông còn hơn Đức Phật. Người ta chẳng tin, họ mới dẫn Can-đà vào chùa, để khoe … cái rún chói sáng. Nhưng vào đến bên trong chùa, rún Can-đà chẳng chiếu lên, đến khi trở ra mới chiếu trở lại. Chính Can-đà cũng lấy làm lạ, mới quay trở vào, hỏi Đức Phật đã dùng thần-chú nào mà làm tắt ngúm ánh-sáng nơi rún của anh ta, xin chỉ-dạy cho anh thần-chú đó. Đức Phật bảo, muốn học, phải thọ-giới tỳ-kheo trước đã. Can-đà liền bảo bọn ngoại-đạo ra ngoài chờ, bao giờ học xong thần-chú, sẽ gặp nhau lại.

Tỳ-kheo Can-đà được chỉ các phép quán thân bất-tịnh, tâm vô-thường, nỗ-lực tu-tập, chẳng bao lâu chứng được quả-vị A-la-hán. Đến khi các bọn ngoại-đạo đến thăm hỏi đã học xong thần-chú chưa, thì Trưởng-lão Can-đà bảo họ: “Các ông nên trở về đi, ta nay đã chứng-đắc được Đạo và Quả rồi, chẳng theo các ông nữa đâu.” Các vị tỳ-kheo khác nghe vậy, mới đến thưa trình với Đức Phật, có phải Can-đà nay đã chứng được quả-vị A-la-hán rồi chăng? Đức Phật đáp: “Nầy chư Tăng, Can-đà dẹp xong mọi lậu-hoặc, chứng quả A-la-hán.”

Rồi Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:

Người nào như vầng trăng thanh-tịnh,
Rạng-rỡ, trắng trong và trầm-tĩnh,
Luyến-ái vào hiện-hữu dứt xong,
Như-Lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 413.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Can-đà: biệt-hiệu nầy tiếng Pali là Candàbha. (Candà =mặt trăng).

– Đức Phật Ca-diếp: Kassapa, đản-sanh trước Đức Phật Thích-ca.

– Gỗ chiên-đàn: một loại gỗ màu sậm, có mùi thơm như trầm.

– Thần-chú: chơn-ngôn, lời nói bí-mật có hiệu-lực lạ thường.

-Quán thân bất-tịnh: quán-sát tấm thân bên trong chứa 32 chỗ dơ-dáy như mủ, nước tiểu, v.v. sanh ra nhàm chán thú-vui nhục-dục.

– Quán Tâm vô-thường: quán-sát tâm bên trong cứ thay-đổi luôn, để kềm-giữ lại mà được định-tâm khi tu Thiền.

– Đạo và Quả: Đạo = đường-lối tu-tập (Magga); Quả = quả-vị chứng được (Phala) khi tu-tập thành-công.

– Lậu-hoặc: Lậu: rỉ chảy ra; Hoặc = chỗ dơ. Lậu-hoặc là phiền-não như tham, sân, khởi lên trong tâm, lộ ra bằng cử-chỉ và lời nói xấu-ác.

– Luyến-ái vào hiện-hữu: mê-đắm vào hiện-hữu ( = đời sống hiện nay). Có ba thứ luyến-ái vào ba cõi ở thế-gian: (1)dục-ái, mê cõi dục (đang sống đây); (2) sắc-ái, mê cõi sắc; (3) vô-sắc-ái, mê cõi vô-sắc.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại một người có điểm lạ trên thân-thể, rún chói sáng, theo bọn ngoại-đạo làm tiền những kẻ mê-tín dị-đoan. Đến khi vào gặp Phật, rún chẳng chói nữa, tưởng Phật có thần-chú chi bí-hiểm mới xin theo học. Nhưng được Phật chỉ dạy phép quán Tứ-niệm xứ, người ấy theo tu-tập tinh-tấn mà chứng được quả-vị A-la-hán.

Tích chuyện chẳng kể thêm, nhưng nếu ta chiêm-nghiệm kỹ, thì thấy; ngay khi được Phật chỉ dạy phép quán thân bất-tịnh, tâm vô-thường, người ấy đã chứng được quả-vị thứ nhứt là Tu-đà-huờn, vì: (1) dẹp bỏ thân-kiến, chẳng xem thân nầy là Ta nữa (nói chi là cái rún chói sáng!); (2) dứt được nghi-ngờ nơi Chánh-pháp mà nỗ lực tu; (3) bỏ luôn bọn ngoại-đạo tà-kiến, dứt được giới cấm-thủ ngay. Sau đó, lần-lượt chứng các quả-vị kế-tiếp, cho đến cõi vô-sanh của Niết-bàn.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 413:

Ý-nghĩa Tích chuyện nêu trên, đã được Đức Phật diễn rõ bằng thơ, trong bài Kệ đầy ý-nhị nầy.

(294).- Tích chuyện Trưởng-lão Sĩ-hoa-ly.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ trong rừng Cung-đà-na, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến việc Trưởng-lão Sĩ-hoa-ly.

Thuở ấy, ở thành Cung-đà-cô-ly-gia, gần bộ-tộc Thích-ca, có nàng công-chúa mang thai đến bảy năm mà chưa sanh-nở. Công-chúa rất tin-tưởng nơi ngôi Tam-Bảo, nên nhờ chồng đến đảnh-lễ Đức Phật và trình-bày về hoàn-cảnh của mình. Khi nghe hoàng-tử thuật lại việc vợ mang thai nặng-nề quá lâu như thế, Đức Phật bảo: “Nầy vương-tử, nguyện-cầu cho công-chúa sớm sanh được con trai kháu-khỉnh!”Hôm ấy, công-chúa sanh được hoàng-nam. Cả triều vui mừng, nhà vua mới thiết lễ trai-tăng, thỉnh Đức Phật và chư Tăng đến dự. Đức Phật và chúng tăng lưu lại thành Cung-đà trong bảy ngày, để thuyết-pháp.

Về sau, hoàng-nam lớn lên đi tu, gia-nhập Tăng-đoàn mang tên là Tỳ-kheo Sĩ-hoa-ly. Tu-hành rất tinh-tấn, Sĩ-hoa-ly sớm chứng được đạo-quả A-la-hán. Dân chúng rất ngưỡng-mộ và lễ-vật dâng-cúng cho Trưởng-lão Sĩ-hoa-ly nhiều hơn tất cả mọi người.

Vào một buổi chiều, có vị tỳ-kheo muốn biết vì sao Trưởng-lão Sĩ-hoa-ly tài-đức như thế mà lại phải nằm lâu trong bụng mẹ đến bảy năm. Đức Phật đáp: “Nầy chư Tăng, trong một tiền-kiếp, Sĩ-hoa-ly là vị hoàng-tử tài-giỏi, nhưng chẳng may, nước bị giặc xâm-lăng. Để giải-phóng nước nhà, hoàng-tử đã bao-vây một kinh thành chặt-chẽ. Trong bảy năm trời, dân-chúng trong thành đói khát, nhiều kẻ bị chết. Vì hành-động độc-ác đó, nên kiếp nầy, Sĩ-hoa-ly phải chịu bảy năm ở cảnh u-tối trong bụng mẹ. Nhưng ngày nay, Sĩ-hoa-ly đã chứng quả A-la-hán, đang cất bước thênh-thang trong cảnh-giới Niết-Bàn.”

Rồi Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:

Người thoát khỏi vũng lầy ‘tham-ái’,
Trải qua đường ‘phiền-não’ hiểm-nguy,
Vượt trùng-dương ‘Luân-hồi’ mê tối,
Sang đến bờ ‘thiền-định’, dứt nghi,
Tịch-tĩnh, chẳng bấu-víu điều chi,
Như-Lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 414.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Sĩ-hoa-ly: tên vị Trưởng-lão, tiếng Pali là Sìvali.

– Rừng Cung-đà-na: tên khu rừng nầy tiếng Pali là Kundadhàna.

– Thành Cung-đà-cô-ly-gia: tên thành nầy, Pali là Kundakoliya.

– Tam-Bảo: ba ngôi báu: Phật, Pháp và Tăng.

– Lễ trai-tăng: lễ dưng-cúng thực-phẩm lên các vị tỳ-kheo.

– A-la-hán: Arahant, quả-vị thứ tư, cao nhứt. Bực A-la-hán dứt hết phiền-não, lìa mọi ham-muốn, chứng vô-sanh (hết bị tái-sanh)

– Xâm-lăng: đánh chiếm đất nước.

– Giải-phóng: đuổi giặc ra khỏi nước, giành lại nền độc-lập, tự-chủ.

– Vũng lầy: vũng bùn-lầy. Tham-ái = quá ham sống theo thú-vui

– Trùng-dương: biển cả sóng to. Luân-hồi: tái-sanh trở lại.

– Tịch-tĩnh: Tịch = vắng-vẻ; Tĩnh = yên-lặng.

– Bà-la-môn: Brahmana, giai-cấp tu-sĩ xưa ở Ấn-độ. Ở trong bài Kệ, chữ Bà-la-môn lại có nghĩa là bực A-la-hán.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại vì sao Sĩ-hoa-ly phải nằm trong bụng mẹ bảy năm mới được sanh ra: đó là quả-báo của việc vây thành trong bảy năm, ở kiếp trước.

Ý-nghĩa của Tích chuyện ngoài việc quả-báo ra, còn nói đến con đường tu-tập để chứng đắc quả-vị A-la-hán. Vượt qua con đường đó như thế nào, bài Kệ sẽ nói rõ.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 414:

Bài Kệ số 414 ghi lại các đoạn đường tu-tập để chứng quả A-la-hán, bằng các danh-từ cụ-thể, tượng-trưng. Xin phân-tách các điểm quan-trọng trên đoạn đường đó:

1. Vũng lầy ‘Tham-ái’: Tham-ái, bám vào đời sống, là vũng sình níu chặt con người vào cõi tử-sanh của Luân-hồi. Bắt đầu tu là bỏ ngay sự tham-ái, để rút chơn ra khỏi vũng lầy, mà cất bước lên đường.

2) Đường hiểm-nguy ‘Phiền-não’: đường hiểm-nguy là đoạn đường chông-gai, gây trở-ngại khiến ta bỏ dở nửa chừng. Hiểm-nguy do đâu gây ra? Ba mối độc chánh: tham, sân, si, có nghi đi kèm.

3) Trùng-dương ‘Luân-hồi’: sự sống đi chết lại triền-miên ví như các ngọn sóng lặn hụp nơi biển cả, biển Luân-hồi. Vượt được trùng-dương Luân-hồi là chứng được vô-sanh, chẳng bị tái-sanh nữa, chẳng bị sóng dập gió dồn nữa giữa biển cả minh-mông.

4) Sang bờ ‘thiền-định’ dứt nghi: lên đến được bờ giác-ngộ, chẳng còn nghi-ngờ gì, bằng phương-cách tu Thiền-định.

5) Tịch-tĩnh, chẳng bấu-viú điều chi: từ nay sống trong sự vắng-lặng an-nhiên của cảnh Niết-bàn tịch-tĩnh, hoàn-toàn giải-thoát, vì buông-bỏ tất cả, chẳng còn bấu-víu vào bất-cứ điều chi nữa.

(295).- Tích chuyện Trưởng-lão Sơn-đà.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến Trưởng-lão Sơn-đà.

Tỳ-kheo Sơn-đà vốn con nhà giàu-có ở Xá-vệ, sau khi gia-nhập Tăng-đoàn, liền rời chuà Kỳ-viên đi đến thành Vương-xá, vào khu rừng vắng để tu-tập thiền-định. Bấy giờ ở thành Xá-vệ có hội hoa-đăng, đèn đuốc rực-rỡ, thiên-hạ vui-vầy. Cha mẹ của Sơn-đà, nhớ đến con nay chịu cực-khổ, chẳng được hưởng các thú-vui tưng-bừng đang diễn ra tại đây. Ông bà ngồi khóc. Có một nàng dâm-nữ đi ngang, nghe thấy, mới hỏi duyên-cớ. Nghe xong nổi-niềm thương nhớ con, nàng ấy liền đề-nghị: “Con có cách làm cho chàng Sơn-đà hoàn-tục, trở lại xum-họp với gia-đình, nhưng chẳng biết ông bà thưởng cho con bao nhiêu tiền?”Hai ông bà hứa cho nhiều tiền-bạc. Cô dâm-nữ mượn trước một số tiền to, rồi đi đến thành Vương-xá.

Cô mướn một ngôi nhà lầu xinh-đẹp, nằm trên đường đi khất-thực hằng ngày của tỳ-kheo Sơn-đà. Cô chuẩn-bị thức-ăn thật ngon, để cúng-dường ngoài cổng. Tuần sau, cô mời vị tỳ-kheo vào sân. Rồi cô mua kẹo cho trẻ nhỏ, bảo chúng chạy giỡn ở sân; khi tỳ-kheo Sơn-đà đến khất-thực, cô viện cớ trẻ ồn-ào, mời vị tu-hành vào nhà, để thọ-thực. Hôm sau nữa, cô cũng mời vào, lấy cớ từng dưới nhà chưa kịp dọn-dẹp sạch-sẽ, mời tỳ-kheo Sơn-đà lên lầu. Cả hai vừa bước vào phòng, cô khoá chặt cửa lại, rồi giở giọng quyến-rũ. Lời cô dịu-dàng, thân cô ưỡn-ẹo. Tỳ-kheo Sơn-đà giựt mình, biết mình đang sa vào cạm-bẫy. Tự-trách mình chẳng tỉnh-giác, lơ-là để mắc phải tội-lỗi, vị tỳ-kheo liền chấp tay, khẩn-thiết hướng về chùa Kỳ-viên, cầu Đức Phật cứu-giúp. Bấy giờ, Đức Phật quán thấy cảnh lâm-nguy của tỳ-kheo Sơn-đà, Ngài phóng đạo hào-quang đến căn lầu, hiện thân lên nói: “Nầy tỳ-kheo, hãy quyết-tâm dẹp bỏ mọi dục-vọng, mọi tham-ái, chớ chạy theo các thú-vui nhục-dục thấp-hèn và tạm-bợ.” Tâm Sơn-đà phấn-khởi lên, liền nhập-định. Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây, nhờ đó tỳ-kheo Sơn-đà chứng ngay được quả-vị A-la-hán, thi-triển thần-thông, bay theo sau Phật về chùa Kỳ-viên:

Ai đời nầy dục-lạc lià bỏ,
Rời gia-đình theo ngõ xuất-gia,
Dục-ái, hữu-ái đà đoạn-tận,
Như-Lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 415.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Sơn-đà: tên vị Trưởng-lão nầy, tiếng Pali là Sundarasamudda.

– Hoa-đăng: Hoa = bông hoa; Đăng = đèn. Hội hoa-đăng là buổi lễ về đêm, có đèn hoa rực-rỡ.

– Dâm-nữ: cô gái bán dâm, mua vui cho đàn-ông.

– Hoàn-tục: Hoàn = trở về; Tục = đời sống thế-tục. Hoàn-tục là bỏ cuộc đời tu-hành, trở về sống lại với gia-đình trong xã-hôi.

– Vương-xá: Ràjagaha, thủ-đô nước Ma-kiệt-đà (Magadha).

– Tho-thực: Thọ = nhận; Thực = ăn. Thọ-thực là ăn, tiếng nhà chùa.

– Uỡn-ẹo = uốn-éo để khêu gợi.

– Tỉnh-giác: Tỉnh = chẳng mê; Giác = biết. Người tỉnh-giác luôn luôn chú-ý, đang làm, nói, nghĩ điều gì thì tâm bên trong biết mình đang làm, nói, nghĩ về điều đó, và chỉ điều đó mà thôi, chẳng lo ra.

– Khẩn-thiết: Khẩn = gấp, mau; Thiết = thành-tâm, tha-thiết.

– Quán thấy = trong cơn thiền-định, nhìn thấy rõ bằng mắt-tâm

– Hào-quang = ánh-sáng rực-rỡ toả ra từ bực tu-hành định-lưc cao

– Nhục-dục: Nhục = thịt; Dục = ham-muốn. Nhục-dục là ham muốn thú-vui về thể-xác, giữa dàn-ông, đàn-bà.

– Thi-triển thần-thông: xử-dụng các khả-năng khác thường như bay bổng trên không, đi vào lửa đỏ, v.v. nhờ ở định-lực tu-hành cao.

– Dục-lạc: Dục = ham muốn; Lạc = thú-vui. Chữ dục-lạc ở đây, chỉ các thú-vui vật-chất thấp và tạm.

– Dục-ái: Dục = cõi dục-giới, nơi con người đang sanh-sống; Ái = thương; Dục-ái ở đây là quá mến-thích cảnh sống ở cõi dục-giới. (Có ba cõi trong thế-gian: (1) cõi dục-giới; (2) cõi sắc-giới; và (3) cõi vô-sắc-giới.)

– Hữu-ái: Hữu = hiện-hữu, đời sống hiện-tại; Ái = thương. Hữu-ái ở đây có nghĩa là tham sống hoài, muốn được tái-sanh lại mãi trong cõi Luân-hồi.

– Đoạn-tận: Đoạn = cắt đứt đoạn; Tận = dứt hết cả. Đoạn-tận là tiêu-diệt hết tận, chẳng còn gì.

– Bà-la-môn: giai-cấp tu-sĩ xưa ở Ấn-độ. Trong bài Kệ, chữ Bà-la-môn lại có nghĩa là bực A-la-hán.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc cám-dỗ của một dâm-nữ, nhưng chẳng thành-công để quyến-rũ tỳ-kheo Sơn-đà vào tội-dâm, để hoàn-tục. Nhờ trong phút lâm-nguy, khẩn-thiết tưởng-niệm đến Phật, Sơn-đà thoát nguy.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là lời tự-trách mình thiếu tỉnh-giác của tỳ-kheo Sơn-đà. Nếu tâm luôn luôn tỉnh-giác, chắc-chắn sẽ đoán ngay được sự nguy-hiểm khi bước chơn vào nhà người dâm-nữ.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 415:

Bài Kệ nêu ra ba điểm: (1) lià bỏ dục-lạc; (2) rời gia-đình để xuất-gia; (3) đoạn-tận dục-ái và hữu-ái. Xin lần-lượt xét qua các đìểm

1)Ai đời nầy dục-lạc lià-bỏ: bỏ các thú-vui vật-chất, để tìm thú-vui tinh-thần, tu-hành chứng quả để thoát Khổ vĩnh-viễn.

2)Rời gia-đình theo ngõ xuất-gia: đó là con đường giải-thoát, nhưng người thường lại cho là cực-khổ.

3) Dục-ái, hữu-ái đà đoạn-tận: cắt đứt hẳn sự tríu-mến vào đời sống Luân-hồi, tức là dục-ái, hữu-ái, để tìm về cuộc sống giải-thoát, an-nhiên, tự-tại trong cảnh Niết-bàn, bằng cách chứng quả A-la-hán.

(296).- Tích chuyện Trưởng-lão Gia-tị-la.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại tịnh-xá Trúc-lâm, gần thành Vương-xá, trong kỳ giảng-pháp có đề-cập đến Trưởng-lão Gia-tị-la.

Sau khi Đức Phật Ca-diếp nhập Niết-Bàn, có một vị Trưởng-lão đi quyên tiền xây tháp để thờ xá-lợi Phật. Đến nhà người thợ-bạc, hai vợ chồng đang cãi-vã, vị Trưởng-lão bị xô-đuổi. Người chồng quát với vị tu-hành: “Đem tượng Phật quăng xuống sông cho rảnh, quyên với góp gì, mau đi ra!” Người vợ nói: “Sao lại hỗn-láo với bực tu-hành? Giận em, cứ mắng em, đánh em cũng được, cớ sao lại mạ-lỵ Đức Phật và vị Trưởng-lão. Tội nầy to lắm!” Người chồng sực-tỉnh, vội tạ lỗi và dâng ba bình hoa bằng vàng để thờ trong tháp của Đức Phật Ca-diếp.

Đến kiếp nầy, người thợ bạc sanh ra làm con ngoại-hôn của một thiếu-nữ nhà giàu. Khi sanh con, sợ mang tiếng, người mẹ để con vào một cái nồi, thả trôi sông. Bấy giờ, có người đàn-bà đi tắm, vớt nồi lên, nuôi đứa bé, đặt tên là Gia-tị-la. Lớn lên được mẹ nuôi gởi đến ở trọ nhà người phú-thương trong thành Ta-xi-la để ăn học, Gia-tị-la được chủ nhà mến, mới gả con gái cho. Hai vợ chồng trẻ được cha tặng một ngôi nhà đẹp-đẽ trong thành. Lại may mắn đào được trong vườn một hủ vàng to. Sau sanh được ba người con trai, thì Gia-tị-la xuất-gia, tu-hành rất tinh-tấn, chứng được quả-vị A-la-hán.

Một hôm, Gia-tị-la và các tỳ-kheo khác cùng theo chơn Đức Phật đến nhận lễ cúng-dường tại nhà cũ của mình. Các người con trai của Gia-tị-la dâng-cúng thực-phẩm trong mười lăm ngày liên-tiếp. Trở về tịnh-xá, các tỳ-kheo hỏi Gia-tị-la, về nhà thấy vợ con và tiền-bạc, có nhớ tiếc chăng. Gia-tị-la bảo, chẳng còn quyến-luyến vào điều chi cả. Các tỳ-kheo chẳng tin, trình với Đức Phật. Đức Phật bảo: “Gia-tị-la đã chứng-đắc quả A-la-hán, đâu còn khát-ái và kiêu-mạn nữa.”

Rồi Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:

Ai đời nầy, khát-ái lià bỏ
Rời gia-đình, theo ngõ xuất-gia,
Dục-ái, hữu-ái đà đoạn-tận
Như-Lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 416.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Gia-tị-la: tên vị tỳ-kheo nầy, tiếng Pali là Jatila.

– Phật Ca-diếp: Đức Phật giáng-sanh trước Đức Phật Thích-ca; tiếng Pali là Kassapa Buddha.

– Nhập Niết-bàn = lià bỏ xác thân, vào cõi Niết-Bàn yên-vắng.

– Quyên = đi xin tiền, góp lại để làm việc ích-lợi chung.

– Xá-lợi =Sarìra, ngọc xá-lợi, tro cốt bực Thánh sau khi hoả-táng.

– Mạ-lỵ = nói lời thô-cộc, hỗn-láo với ai.

– Tháp = ngôi nhà mồ xây nóc nhọn nhô cao lên, để thờ-phượng.

– Con ngoại-hôn = Ngoại = ở ngoài; Hôn = đám cưới. Con ngoại-hôn sanh ra do vợ-chồng chẳng chánh-thức cưới nhau.

– Phú-thương: Phú = giàu; Thương = buôn-bán.

– Ta-xi-la: thành nầy tên tiếng Pali là Taxila.

– Xuất-gia: Xuất = ra khỏi; Gia = nhà; Xuất-gia là lìa bỏ nhà đi tu.

– A-la-hán: quả-vị thứ tư, cao nhứt, chẳng còn bị tái-sanh nữa.

– Cúng-dường: đọc trại chữ Hán-Việt cung-dưỡng = cung-cấp để nuôi-dưỡng.Tứ sự cúng-dường: thức-ăn, quần-áo, giường, thuốc-men.

– Khát-ái = tham-ái = dục-ái = hữu-ái, đồng một nghĩa.

– Kiêu-mạn: Kiêu = kiêu-căng, phách-lối; Mạn = chữ Phạn là mano, tự-cao, coi mình là hơn kẻ khác.

– Đoạn-tận = Đoạn = cắt; Tận = hết; Đoạn-tận là cắt đứt hết tiệt.

– Bà-la-môn: Brahmana, giai-cấp tu-sĩ; ở đây có nghĩa là A-la-hán.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện kể lại tiểu-sử của Tỳ-kheo Gia-tị-la: vì kiếp trước có lời hỗn-láo với một vị Trưởng-lão, nhưng biết hối lỗi và dưng-cúng bình vàng để thờ Phật, nên kiếp nầy Gia-tị-la sanh ra bị thả trôi sông, nhưng về sau lại được giàu-có. Nhưng ý-nghĩa của Tích chuyện, ngoài vấn-đề quả-báo ra, còn là lời dạy của Đức Phật: tu đến bực A-la-hán thì dẹp xong khát-ái, kiêu-mạn, lìa bỏ hết ham-muốn, sống an-nhiên.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 416:

Hai bài Kệ số 415 và 416 giống nhau in hệt (có hai chữ tuy khác: dục-lạc và khát-ái, nhưng nghĩa rất gần nhau), xin xem lại ở bài trước.

(297).- Tích chuyện Trưởng-lão Giô-thi-ca.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại tịnh-xá Trúc-lâm, gần thành Vương-xá, trong kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến Trưởng-lão Giô-thi-ca.

Thuở ấy, ở thành Vương-xá có chàng thanh-niên tên Giô-thi-ca, nhà cửa thật sang-trọng, lộng-lẫy, lại được thần-linh giữ cửa. Vua Tần-bà-sa-la dẫn Thái-tử A-xà-thế đến viếng nhà, hết lời khen-ngợi. Giô-thi-ca đem viên hồng-ngọc ra tặng Vua. Thái-tử trông-thấy cảnh huy-hoàng đó, nguyện rằng khi lên làm vua, sẽ xung-công cơ-nghiệp đó.

Về sau, Thái-tử A-xà-thế, nghe lời xúi-dục của tỳ-kheo Đề-bà-đạt-đa, nổi lên cướp ngôi vua, giam cha trong ngục, bỏ đói cho chết. Vua A-xà-thế dẫn quân đến chiếm nhà của Giô-thi-ca, nhưng bị thần giữ cửa ngăn-cản. Bấy giờ, vua A-xà-thế mới dẫn quân đến tịnh-xá Trúc-lâm, thấy Giô-thi-ca đang ngồi nghe Phật giảng-pháp. Vua A-xà-thế nổi giận, sai quân lính bắt. Giô-thi-ca biết vua chiếm nhà mình chẳng được, mới đến đây tìm. Ông liền xoè bàn tay ra, có mấy chiếc nhẫn, bảo vua cứ cổi ra mà lấy. Vua cổi mãi chẳng được. Giô-thi-ca nói: “Tôi có lời nguyện, vật của tôi chẳng ai dành lấy được, trái với ý muốn của tôi.” Nói xong, Giô-thi-ca lấy chiếc khăn tay trải ra, chống các ngón tay xuống khăn, các chiếc nhẫn tuột ra, lấy đem dưng cho vua A-xà-thế. Sau đó, Giô-thi-ca xin Đức Phật cho xuất-gia. Nhờ tinh-tấn tu-hành, chẳng bao lâu, Giô-thi-ca chứng được quả-vị A-la-hán.

Một hôm, các vị tỳ-kheo hỏi Giô-trhi-ca có còn nhớ tiếc ngôi nhà đẹp-đẽ nữa không, Giô-thi-ca đáp, bây giờ chẳng còn tham-luyến gì nữa cả. Các tỳ-kheo chẳng tin, mới trình Phật. Đức Phật liền bảo: “Giô-thi-ca đã chứng quả A-la-hán rồi, mọi tham-dục đều dứt hẳn.”

Rồi Đức Phật nói lên bài Kệ số 416 (đã được ghi ở bài trước.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Giô-thi-ca: tên vị Trưởng-lão nầy, tiếng Pali là Jotika.

– Trúc-lâm, Vương-xá: tịnh-xá Veluvana nầy cất trong vườn trúc, do vua Tần-bà-sa-la dưng cúng Phật, gần thành Vương-xá (Ràjagaha.)

– Tần-bà-sa-la: Bimbisara, vua nước Ma-kiệt-đà (Magadha), bị con mình là Thái-tử A-xà-thế (Ajàtasattu) cướp ngôi.

– Xung-công = lấy bỏ vào kho nhà-nước.

– Cơ-nghiệp = tài-sản, sự-nghiệp.

– Đề-bà-đạt-đa: tên vị tỳ-kheo, anh của Tôn-giả A-nan, tánh kiêu-mạn, đòi thay-thế Đức Phật cầm đầu Tăng-đoàn. Tên Pali: Devadatta.

– Chiếc nhẫn = chiếc cà-rá đeo ở ngón tay.

– A-la-hán: Arahant, quả-vị thứ tư, cao nhứt. Chữ A-la-hán có ba nghĩa: (1) ứng-cúng, xứng-đáng được Trời, Người cúng-dường; (2) sát-tặc, giết hết giặc, giặc phiền-não; (3) vô-sanh, chẳng còn bị tái-sanh trong cõi Luân-hồi, sống tự-tại, giải-thoát trong cảnh Niết-bàn.

– Tham-dục: Tham = ham quá chừng; Dục = muốn.

B.- Nghĩa Ý:

Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc Trưởng-lão Giô-thi-ca từ bỏ cả nhà cửa, của-cải để đi tu, chứng được quả-vị A-la-hán.

Ý-nghĩa của Tích chuyện, cũng như ý-nghĩa của bài Kệ số 416 nơi Tích chuyện nầy, đều nói lên đức-tánh xả-bỏ của bực A-la-hán. Xả-bỏ là chẳng luyến-tiếc điều chi cả; nhờ chẳng luyến-tiếc, nên chẳng bị ràng-buộc, do đó mà được giải-thoát.

(298).- Tích chuyện Trưởng-lão Na-ta-bút (1).

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến Trưởng-lão Na-ta-bút.

Na-ta-bút là con một người vũ-nữ, thường đi ra đường ca hát, nhảy múa. Một hôm, Na-ta-bút theo chơn các vị tỳ-kheo đến chùa, nghe Phật giảng pháp. Na-ta-bút hiểu được mới xin xuất-gia, thọ-giới tỳ-kheo. Kể từ đó, Na tinh-tấn tu-hành, chẳng bao lâu chứng được quả-vị A-la-hán. Một hôm, đang đi khất-thực, thấy có đứa bé múa hát bên lề đường, các vị tỳ-kheo hỏi Na-ta-bút, có còn mê-thích ca múa nữa không. Na-ta-bút đáp, đã từ lâu, dứt bỏ mọi mê-luyến rồi. Các vị tỳ-kheo chưa tin, về tịnh-xá, thưa hỏi Đức Phật. Đức Phật bảo: “Nầy chư Tăng, Na-ta-bút đã vượt qua mọi ràng-buộc, chứng A-la-hán rồi.”

Rồi Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:

Người tách khỏi ràng-buộc cõi người,
Vượt lên trên câu-thúc cõi Trời,
Thoát-ly mọi hệ-lụy
Như-Lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 417.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Na-ta-bút: tên vị Trưởng-lão, tiếng Pali là Nataputtaka.

– Vũ-nữ: phụ-nữ có tài nhảy múa.

– Thọ-giới tỳ-kheo = làm lễ nhận tuân 250 giới-cấm của tỳ-kheo.

– A-la-hán: quả-vị thứ tư, cao nhứt, chứng được vô-sanh, nghĩa là thóat khỏi sự tái-sanh trong vòng Luân-hồi.

– Câu-thúc: Câu = bắt giữ; Thúc = bó-buộc. Câu-thúc là trói buộc.

– Hệ-lụy: Hệ = sợi dây tơ; Lụy = buộc lại. Hệ-lụy là ràng buộc.

– Bà-la-môn: Brahmana, nghĩa gốc là giai-cấp tu-sĩ xưa ở Ấn-độ. Trong các bài Kệ thuộc phẩm Bà-la-môn, chữ Bà-la-môn lại được Đức Phật dùng theo nghĩa chữ A-la-hán.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc Na-ta-bút, trước ham nhảy múa, ca hát, sau đi tu chứng được quả-vị A-la-hán. Khi gặp một đứa trẻ ca múa, các tỳ-kheo hỏi Trưởng-lão Na-ta-bút còn mê vũ nữa không, Trưởng-lão bảo, không. Đức Phật nói, đã chứng A-la-hán rồi thì mọi mê-luyến ràng-buộc đều dẹp tan.

Cũng như Tích chuyện trước, ý-nghĩa giải-thoát mọi ràng-buộc được nêu trong Tích chuyện nầy.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 417:

Bài Kệ nói lên sự hoàn-toàn giải-thoát mọi ràng-buộc của bực A-la-hán. Ràng-buộc ở cõi người, thì khi xuất-gia, ta đang cởi bớt đi, để qua một bên các lo-lắng về gia-đình. Còn ràng-buộc ở cõi Trời là gì? Đó là phải tái-sanh lại ở các cõi khác, khi đã hưởng hết phước nơi cõi Trời. Bực La-hán chẳng còn tái-sanh nữa, nên thoát được mọi hệ-lụy.

(299).- Tích chuyện trưởng-lão Na-ta-bút (2)

Tích chuyện nầy trùng với Tích chuyện số (298), tên và sự-việc giống nhau, nhưng lại xảy ra ở hai nơi khác.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại tịnh-xá Trúc-lâm, gần thành Vương-xá, trong kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến Trưởng-lão Na-ta-bút.

Thuở ấy, ở thành Vương-xá có người tên Na-ta-bút rất ham múa hát. Một hôm, được nghe Đức Phật giảng-pháp, Na-ta-bút liền xin quy-y và thọ-giới tỳ-kheo. Do tu-tập tinh-tấn, chẳng bao lâu Na-ta-bút chứng được quả-vị A-la-hán. Các bạn đồng-tu hỏi, bây giờ còn ham-mê ca múa nữa không, Na-ta-bút lắc đầu. Đức Phật bảo: “Na-ta-bút chứng quả A-la-hán, đã buông-bỏ mọi ham-thích về muôn sự-vật.”

Rồi Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:

Người đã bỏ điều thích, điều phiền,
Kiên-trì, chẳng ô-nhiễm, thản-nhiên,
Khắc-phục xong thế-giới ‘năm uẩn’,
Như-Lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 418.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Na-ta-bút: tên vị Trưởng-lão, tiếng Pali là: Nataputtaka.

– Trúc-lâm: tịnh-xá Veluvana ở gần thủ-đô Vương-xá (Ràjagaha) thuộc nước Ma-kiệt-đà (Magadha).

– Kiên-trì: Kiên =kiên-nhẫn, bền chí; Trì = giữ. Kiên-trì = rất bền chí

– Khắc-phục: thắng được, bắt phải theo lịnh mình.

– Thế-giới ‘năm uẩn’ = là thân-tâm con người gồm có năm uẩn: (1)sắc-uẩn, thân vật-chất; (2) thọ-uẩn, các cảm-thọ; (3) tưởng-uẩn, các tư-tưởng; hành-uẩn, các hành-động; (5) thức-uẩn, các hiểu-biết. Sắc-uẩn thuộc về thân; và tâm thì gồm bốn uẩn còn lại.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện: giống Tích chuyện trước.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 418:

Bài Kệ nêu nhiều đức-tánh của bực A-la-hán, xin lần-lượt phân-tách:

1) ‘Người đã bỏ điều thích, điều phiền’: Thông thường, hễ gặp việc vừa ý, mình thích, muốn có hoài; gặp việc trái ý, mình ghét, muốn bỏ mau đi. Tánh phân-biệt so-đo đó gây thêm đau-khổ. Người thản-nhiên, điềm-tĩnh, chẳng quá vui, cũng chẳng quá buồn, tâm quân-bình, thanh-thản, là đang sống trong sự an-lạc; vui vì nhờ chẳng cảm thấy phiền, an-lạc vì vắng bóng phiền-não ở nơi tâm.

2) ‘Kiên-trì, chẳng ô-nhiễm, thản-nhiên’: Ba đức-tánh nầy giúp cho tâm an-tịnh. Kiên-trì là bền-chí, nhẫn-nại trước sự trái-ý. Chấp-nhận sự-việc trái-ý là tránh cho sự buồn-phiền nổi lên trong tâm: đang gặp chuyện khó, đó là một mối khổ, rồi lại nổi lên sự giận-ghét việc khó đó, là đang chồng thêm một nổi khổ nữa cho tâm. Vậy, sự kiên-trì tránh cho ta mối khổ thứ hai đó, do chính ta tạo nên.

Chẳng ô-nhiễm là chẳng để hoàn-cảnh lôi-cuốn tâm; đây là mình làm chủ tâm mình, mà đồng-thời cũng làm chủ luôn cả hoàn-cảnh. Muốn chẳng bị ô-nhiễm, phải tỉnh-giác đề-phòng, giữ tâm lắng-yên, mặc cho cảnh bên ngoài có cám-dỗ, có thúc-dục, mình cứ giữ vững.

Thản-nhiên là “như-như chẳng động”, việc đâu còn có đó, vội gì mà phải sợ cuống lên. Nếu biết kiên-trì, nếu biết giữ chẳng ô-nhiễm, thì thái-độ thản-nhiên sẽ tự đến cho mình.

3) ‘Khắc-phục xong thế-giới năm uẩn’: Câu nầy có nghĩa là mình làm chủ cả thân-tâm của mình. Làm chủ bằng cách nào? Làm chủ thân-tâm bằng sự tỉnh-giác, làm gì, nói gì, nghĩ gì, cũng biết chính mình đang làm, đang nói, đang nghĩ; chớ chẳng phải cái máy đang làm, cái loa đang nói, hay con vẹt lia-lia cái mỏ mà chẳng hiểu nó đang nóí gì.

Tóm lại, bực A-la-hán chính là người tỉnh-giác, làm chủ được thân-tâm, nên lúc nào cũng thản-nhiên, chẳng mảy may xao-động trước hoàn-cảnh xung quanh. Tập đến được mức đó, cần phải kiên-trì.

Trên đây là ý-nghĩa của bài Kệ số 418, mà cũng là đường-lối tu-tập chung cho cả hai: xuất-gia và tại-gia. Bực xuất-gia sẽ chứng được A-la-hán, sống tự-tại trong cảnh-giới Niết-Bàn. Còn người tại-gia, tuy chưa chứng A-la-hán, nhưng tu-tập được tánh thản-nhiên, tâm thanh-tịnh, thì ngưỡng cửa an-lạc của Niết-Bàn tại thế-gian nầy cũng gần kề.

(300).- Tích chuyện Trưởng-lão Văn-di-sa.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến Trưởng-lão Văn-di-sa.

Thuở ấy, ở thành Vươbg-xá có một người Bà-la-môn tên Văn-di-sa có được biệt-tài mỗi khi gõ vào đầu-lâu người chết thì biết kẻ ấy tái-sanh về đâu. Văn-di-sa cùng một nhóm Bà-la-môn, đi khắp xóm làng, rao lên ai chịu trả hai mươi đồng, thì nói cho biết thân-nhơn đã mất, nay sanh về đâu.

Họ đi dạo như thế, cho đến một hôm tới gần chùa Kỳ-viên, nơi đông-đảo dân chúng đang tu-tập nghe Đức Phật giảng-pháp. Họ bảo, ở đây, có Bà-la-môn Văn-di-sa tài-giỏi lắm, biết cả nơi thác-sanh của người chết. Dân-chúng chẳng tin, thách họ vào gặp Đức Phật. Bấy giờ Đức Phật mới sai các tỳ-kheo đem lại năm cái đầu-lâu của năm người, sắp thành một hàng: kẻ bị sa điạ-ngục, kẻ bị đoạ vào loài súc-sanh, kẻ được tái-sanh làm người, kẻ được sanh lên Trời và một chiếc của vị chứng A-la-hán. Văn-di-sa nói đúng bốn cái trước, còn đầu-lâu thứ năm hắn chẳng biết thác-sanh về đâu. Đức Phật bảo: “Nầy Văn-di-sa, ông chẳng biết được nơi thác-sanh của người chủ đầu-lâu chót nầy; nhưng ta biết được.” Văn-di-sa mới hỏi Phật nhờ thần-chú nào mà biết được, hắn muốn học thần-chú đó được không. Đức Phật đáp, muốn học thì trước phải làm lễ thọ-giới tỳ-kheo. Văn-di-sa bảo mấy người Bà-la-môn ra về đi, còn mình ở lại chùa tu-tập. Được Đức Phật chỉ-dạy phép quán thân bất-tịnh với ba mươi hai chỗ ô-uế bên trong thân, Văn-di-sa nỗ-lực tu-tập quán-chiếu, chẳng bao lâu chứng-đắc được quả-vị A-la-hán.

Hai bài Kệ sau đây được Đức Phật nói lên khi nhắc đến việc Trưởng-lão Văn-di-sa đắc quả A-la-hán:

Người khéo vượt qua, hiểu triệt-để
Lẽ sống chết của mọi chúng-sanh,
Vô-nhiễm, giác-ngộ Tứ-diệu-đế,
Như-lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 419.)

Bực mà người, Trời, Càn-thát-bà,
Chỗ thọ-sanh, chẳng tìm ra được,
Lậu-hoặc-tận, chứng A-la-hán,
Như-Lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 420.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Văn-di-sa: tên vị Trưởng-lão, tiếng Pali là: Vangisa.

– Vương-xá: tên thủ-đô Ràjagaha của nước Ma-kiệt-đà (Magadha)

– Đầu-lâu: xương sọ người chết.

– Tái-sanh: Tái = một lần nữa; sanh = sanh ra. Theo thuyết Luân-hồi của nhà Phật, chúng-sanh khi chết đi, tùy theo nghiệp mà sanh trở lại.

– Thác-sanh, Thọ-sanh = đồng-nghĩa với tái-sanh.

– Súc-sanh = thú-vật.

– Thần-chú: còn gọi là chơn-ngôn, các lời nói bí-mật, tin rằng có hiệu-lực phi-thường.

– Lễ thọ-giới tỳ-kheo: lễ nhận tuân theo 250 giới-cấm của tỳ-kheo.

– Quán thân bất-tịnh = suy-xét sâu-xa về lẽ trong thân-thể con người có nhiều chỗ dơ-dáy, như mủ, đờm, nước tiểu, ghèn, v.v. Phép quán thân bất-tịnh nằm trong Pháp Tứ-niệm-Xứ ( = bốn đề-tài quán-chiếu: (1) thân bất-tịnh, (2) thọ là khổ; (3) tâm vô-thường; (5) pháp vô-ngã.

– Triệt-để: Triệt = thấu tận; Để = đáy. Hiểu triệt-để là hiểu cặn-kẽ.

– Vô-nhiễm = chẳng dính dơ, chẳng lây chỗ xấu.

– Giác-ngộ: Giác = biết; Ngộ = hiểu. Giác-ngộ là hiểu-biết suốt cả.

– Tứ-diệu-đế = bốn Chơn-lý nhiệm-mầu: (1) Khổ-đế, đời là khổ; (2) Tập-đế, nguyên-nhơn gây ra Khổ là tham-ái; (3) Diệt-đế, cảnh-giới đã diệt hết Khổ, tức là Niết-Bàn; (4) Đạo-đế, con đường Thánh-đạo đưa đến sự diệt Khổ vĩnh-viễn, tức là Bát-Chánh-đạo.

– Càn-thát-bà: Gandhabba, Hương-thần hay Nhạc-thần, một hạng chúng-sanh trên cõi Trời.

– Lậu-hoặc-tận = diệt hết các lậu-hoặc, tức là các phiền-não, như tham, sân, si, mạn, nghi, ác-kiến, v.v.(Lậu-hoặc = phiền-não; tận = dứt)

– A-la-hán: Arahant, quả-vị thứ tư cao nhứt, chứng được vô-sanh.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc Văn-di-sa có tài đặc-biệt biết được nơi thác-sanh của ngưòi chết, bằng cách gõ vào đầu-lâu. Đến khi gặp Phật, Văn chẳng biết nơi thác-sanh của vị A-la-hán, mới xin quy-y, rồi nỗ-lực tu-tập, sau chứng được quả A-la-hán.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là: biết được nơi thác-sanh của kẻ khác chưa đủ, phải tu-tập thêm để chứng được vô-sanh (chứng quả A-la-hán) mới hết bị vướng vào vòng lẩn-quẩn khổ-đau của Luân-hồi.

(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 418 và 419:

Bài Kệ trước nói về sự giác-ngộ của bực A-la-hán; bài Kệ sau nói về sự vô-sanh của bực A-la-hán. Xin phân-tách từng câu cả hai bài:

Bài Kệ số 418:

1) ‘Người khéo vượt qua, hiểu triệt-để, Lẽ sống chết của mọi chúng-sanh’: (a) “Khéo vượt qua” là được giải-thoát, dứt mọi ràng-buộc. (b)”Hiểu triệt-để lẽ sống-chết của mọi chúng-sanh” là giác-ngộ được lẽ sanh-tử, biết thấu-suốt chúng-sanh từ đâu tới, sống đau-khổ như thế nào, rồi sẽ đi về đâu, và làm sao thoát được khổ vĩnh-viễn.

2) ‘Vô-nhiễm, giác-ngộ Tứ-diệu-đế’: (a)Vô-nhiễm là bực Thánh chẳng bị nhuốm dơ, làm chủ được tâm bên trong và hoàn-cảnh bên ngoài. (b)”Giác-ngộ Tứ-diệu-đế” là thông-suốt Chánh-pháp, hiểu rõ bốn Chơn-lý Nhiệm-mầu, biết Khổ do đâu sanh, biết cách diệt-trừ Khổ

Bài Kệ số 419:

3) ‘Bực mà người, Trời, Càn-thát-bà, Chỗ thọ-sanh, chẳng tìm ra được’: xin viết lại cho xuôi câu: “Bực mà Trời, Người còn chẳng biết được nơi thọ-sanh”. Tại sao chẳng biết được nơi thọ-sanh của bực ấy? Vì bực ấy đã chứng vô-sanh, đâu còn tái-sanh lại nữa mà có chỗ thọ-sanh để biết được. Đó là bực hoàn-toàn giải-thoát khỏi cảnh Luân-hồi.

4) ‘Lậu-hoặc-tận, chứng A-la-hán’: (a) Dứt được mọi lậu-hoặc là dẹp xong mọi phiền-não, thân-tâm hoàn-toàn thanh-tịnh. (b) Chứng A-la-hán là đắc được vô-sanh, chẳng còn sanh-tử, tử-sanh, trôi lăn trong cảnh Khổ của Luân-hồi. Chớ lầm Vô-sanh là diệt mất hết; phải hiểu: Vô-sanh = Vô tái-sanh, chẳng còn bị nghiệp lôi-kéo trôi lăn trong sáu nẻo của Luân-hồi, nay được tự-tại, an-nhiên mãi nơi cảnh Niết-Bàn

(301).- Tích chuyện Ni-bà Đàm-ma.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại tịnh-xá Trúc-lâm, gần thành Vương-xá, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến Ni-bà Đàm-ma.

Thuở ấy, ở thành Vương-xá, có một vị ưu-bà-tắc tên là Vi-sa-kha, nhà giàu, nhờ nghe được Đức Phật giảng-pháp mà chứng được quả-vị A-na-hàm. Một hôm, vị ấy nói vợ rằng: “Kể từ nay, xin bà nhận lấy hết tài-sản sự-nghiệp nầy, tôi chẳng còn muốn dự vào việc nhà nữa.” Người vợ là bà Đàm-ma liền đáp: “Ai lại dại gì nuốt vào đờm-dãi của kẻ khác đã phun nhổ ra? Tôi xin phép ông, kể từ nay, được xuất-gia làm tỳ-kheo-ni.” Sau khi được chồng đồng-ý, bà xin thọ-giới tỳ-kheo-ni, rồi theo các vị ni-cô khác đến một tu-viện nhỏ trong làng vắng, nỗ-lực tu-tập, chẳng bao lâu, chứng được quả-vị A-la-hán và trở lại thành Vương-xá. Người chồng đến thăm, muốn thử xem sức học Đạo của bà Đàm-ma đến mức nào, mới hỏi thế nào là bốn Đạo, bốn Quả. Bà Đàm-ma trả lời rất rõ ràng thấu-đáo về ba Đạo-Quả đầu, đến Đạo-Quả thứ tư, ông Vi-sa-kha chẳng hiểu nổi, mới hỏi thêm. Bà Đàm-ma nói: “Ông còn chưa đủ sức để hiểu rõ Đạo và Quả của bực A-la-hán; nếu ông muốn biết, thì tới thưa với Đức Phật.” Ông Vi-sa-kha mới đến trình Phật. Đức Phật nói: “Nầy Vi-sa-kha, tỳ-kheo-ni Đàm-ma đã trả lời câu hỏi của ông rồi; ông có hỏi thêm, ta cũng chỉ đáp như thế.” Đức Phật nói như thế là có ý bảo Bà Đàm-ma nay đã chứng quả-vị A-la-hán, nhìn thấy rõ trình-độ tu-tập của chồng.

Rồi Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:

Người chẳng hề bám-víu vào chi
Trong quá-khứ, vị-lai, hiện-tại,
Chẳng nắm giữ, vì chẳng có gì,
Như-Lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 421.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Ni-bà: hay Sư-bà, vị tỳ-kheo-ni cao-cấp, ngang hàng với bực Hoà-thượng bên Nam-giới.

– Đàm-ma: tên vị Ni-bà, tiếng Pali là Dhammadinnà.

– Ưu-bà-tắc: còn gọi là cận-sự-nam, tiếng Pali là Upàsaka, người thiện-nam tu tại-gia, đến chùa làm công-quả. Nữ-giới là Ưu-bà-di, hay cận-sự-nữ, tiếng Pali là Upàsika.

– Vi-sa-kha: tên vị Ưu-bà-tắc nầy, tiếng Pali là Visàkha.

– A-na-hàm: Anàgàmi, quả-vị thứ ba, còn gọi là Bất-Lai, nghĩa là chẳng sanh lại cõi Người nữa, sanh lên Trời, tu tiếp chứng A-la-hán.

– A-la-hán: Arahant, quả-vị cao nhứt, chứng được vô-sanh. Chữ A-la-hán có ba nghĩa: (1) ứng-cúng, xứng-đáng được sự cúng-dường của Trời, Người; (2) sát-tặc, giết hết giặc, giặc phiền-não như tham, sân, si; (3) vô-sanh, tức là vô-tái-sanh, chẳng còn sanh lại trong cõi Luân-hồi nữa, mà tự-tại trong cảnh-giới Niết-bàn an-lạc.

– Đờm-dãi = chất nhờn dơ trong miệng khạc phun ra.

– Xuất-gia: Xuất = ra khỏi; Gia = nhà; Xuất-gia là lìa nhà đi tu ở chùa

– Tỳ-kheo-ni: Bhikkhuni, nữ tu-sĩ Phật-giáo, tuân theo 350 giới-cấm

– Đạo, Quả: Đạo = con đường, đường-lối tu-tập, Pali là Magga; Quả = kết-quả của việc tu-tập thành-công, Pali là Phala. Trong hàng Thanh-văn (Savaka), các đệ-tử sống gần bên Phật, nghe kinh mà tu-tập, có bốn Đạo và bốn Quả: (1) Tu-đà-hườn-hướng và Tu-đà-huờn-quả; (2) Tư-đà-hàm-hướng và Tư-dà-hàm-quả; (3) A-na-hàm-hướng và A-na-hàm-quả; (4) A-la-hán-hướng và A-la-hán-quả.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất ý-nhị: chồng muốn giao sản-nghiệp cho vợ để lo đường tu-hành; vợ bảo, ai thèm nhận gánh-nặng đó và xin xuất-gia. Vợ tu ở chùa, mau chứng quả A-la-hán. Chồng tu tại-gia chỉ chứng quả thứ ba là A-na-hàm, muốn thử xem vợ tu đến bực nào. Đến chừng vợ nói đến đạo-quả A-la-hán, chồng chẳng hiểu nổi, đi hỏi Phật, mới vở lẽ vợ mình đã đắc quả Thánh, mình còn thua một bực.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 421:

Bài Kệ rất rõ nghĩa: bực A-la-hán xả-ly tất cả, nên được hoàn-toàn giải-thoát. Xả-ly ( =bỏ) những gì? Tất cả, từ quá-khứ, hiện-tại đến tương-lai. Ý-nghĩa thâm-trầm nhứt là ở câu thứ ba: “Chẳng nắm-giữ, vì chẳng có gì”, còn gì đâu nữa mà nắm giữ, thân-tâm có cũng như không, sống chết xem ngang nhau, an-nhàn, tự-tại nơi cảnh Niêt-bàn.

(302).- Tích chuyện Trưởng-lão Chỉ-man.

Tích chuyện nầy tiếp theo Tích chuyện về Trưởng-lão Vô-não, số 142.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến Trưởng-lão Chỉ-man.

Thuở ấy, vua Ba-tư-nặc và Hoàng-hậu Mạt-lợi, xứ Câu-tát-la, thiết-lập một trai-đàn Đại-bố-thí để dưng-cúng lễ-vật và thực-phẩm lên Đức Phật và năm trăm vị tỳ-kheo. Buổi lễ được tổ-chức vô cùng trọng-thể: mỗi vị tỳ-kheo được che mát trên đầu, bằng một chiếc lọng gấm trắng, do một con voi được luyện tập thuần-thục cầm giữ. Tuy nhiên, số voi được huấn-luyện còn thiếu một, phải đem một con đại-tượng chưa được tập-luyện cầm lọng che cho Trưởng-lão Chỉ-man. Con đại-tượng ngày thường rất hung-hăng, nhưng khi Trưởng-lão đến gần nó, nó lại tỏ ra ngoan-ngoãn, đứng yên chẳng gây chút trở-ngại.

Sau buổi lễ, các vị tỳ-kheo hỏi Trưởng-lão Chỉ-man có sợ-hãi chăng, khi đứng gần con đại-tượng hung-hăng. Trưởng-lão đáp, không. Đức Phật bảo: “Nầy chư Tăng, người đã chứng được quả-vị A-la-hán như tỳ-kheo Vô-não đâu còn sợ-hãi điều gì nữa, nói chi là con đại-tượng.”

Rồi Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:

Bực ngưu-vương chẳng hề úy-kỵ,
Bực đại-sĩ anh-hùng cao-quí,
Bực chiến-thắng, chẳng hề nhiễm-ô,
Bực tẩy-tịnh, bực đại-giác-ngộ,
Như-lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 422.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Chỉ-man: Chỉ = ngón tay; Man = chùm. Tên thật của Trưởng-lão là Ahimsaka, dịch là Vô-não ( = chẳng gây phiền-não cho ai), nhưng vì theo ngoại-đạo, giết người lấy ngón tay kết thành chùm, đeo ở ngực, nên người đời gán cho tên là Angulimàla, phiên-âm là Ương-quật ma-la, dịch là Chỉ-man. Xem tiểu-sử ở Tích chuyện số 142.

– Ba-tư-nặc, Mạt-lợi: tên tiếng Pali là Pasenadi và Mallikà.

– Câu-tát-la: tên xứ nầy tiếng Pali là Kosala.

– Trai-đàn: thiết-lập một đài cao để cúng-dường và nghe pháp

– Chiếc lọng = một cây dù lớn, đẹp, mặt trên tròn, bằng-phẳng.

– Đại-tượng = con voi lớn.

– Ngưu-vương: Ngưu = trâu; vương = vua. Ngưu-vương là trâu chúa

– Úy-kỵ = Úy =sợ; Kỵ = chống-đối. Úy-kỵ = sợ-hãi và lo ngại.

– Đại-sĩ: Đại = lớn; Sĩ = bực tôn-quí. Kinh sách Bắc-tông gọi cấp Bồ-tát là Đại-sĩ, như Bồ-tát Quán-âm gọi là Quán-âm đại-sĩ .

– Tẩy-tịnh: Tẩy = rửa;Tịnh = sạch. Bực tẩy-tịnh là bực rất trong-sạch

– Đại-giác-ngộ: Đại = lớn; Giác = biết; Ngộ = hiểu. Bực đại-giác-ngộ là bực đã thông hiểu hoàn-toàn về lẽ sống-chết của chúng-sanh.

– Bà-la-môn: Brahmana, giai-cấp tu-sĩ xưa ở Ấn-độ. Trong các bài Kệ của Phẩm Bà-la-môn nầy, chữ Bà-la-môn lại có nghĩa là A-la-hán.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất giản-dị: Trưởng-lão Chỉ-man chẳng hề sợ-hãi khi đứng gần bên một con đại-tượng hung-hăng.

Ý-nghĩa của Tích chuyện dẫn đến bài Kệ, nói lên đức vô-úy của bực A-la-hán.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 422:

Bài Kệ nêu lên các đức-tánh quí-báu của bực A-la-hán, trong đó sự vô-úy được đề-cao. Có nhiều danh-từ được dùng theo nghĩa tượng-trưng, xin phân-tách ra như sau:

1) Bực ngưu-vương, chẳng hề úy-kỵ: Tánh chẳng hề úy-kỵ, chẳng sợ-hãi gì cả, được ví với con trâu chúa có sức mạnh hung-hăng.

2) Bực đại-sĩ: bực Bồ-tát (Bodhisatta), bực đã tự-giác, quên nình đi lo chia-xẻ sự giác-ngộ với kẻ khác (gọi là giác-tha)

3) Anh-hùng cao-quí, bực chiến-thắng, chẳng hề nhiễm-ô:: Chiến-thắng ai? Chiến-thắng được sự cám-dỗ ( = Ma-vương), tội-lỗi.

4) Bực tẩy-tịnh: Tẩy-tịnh là rửa sạch. Rửa cái chi? Rửa sạch cõi lòng, cho tâm được thanh-tịnh, khiến cho tội-lỗi chẳng nhiễm được.

5) Bực Đại-giác-ngộ: Sao gọi là đại-giác? Vì đã tự-giác, đi giác-tha, và đã giác-hành viên-mãn (công-cuộc giáo-hoá chúng-sanh đã hoàn-tất). Bực Đại-giác chính là Đức Phật. Ngài đã tự-mình giác-ngộ lấy, đó là tự-giác. Đi giáo-hoá chúng-sanh trong bốn mươi năm cho họ được giác-ngộ theo, đó là giác-tha. Công-cuộc giáo-hoá của Ngài kéo dài đến phút chót của cuộc đời, để lại Chánh-pháp cho đời sau, đó là giác-hành viên-mãn.

(303).- Tích chuyện ông Đề-va-hy.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề cập đến vị Bà-la-môn tên là Đề-va-hy

Thuở ấy, một hôm Đức Phật bị đau bụng. Ngài sai Trưởng-lão Ưu-bà-hoà đến nhà vị Bà-la-môn Đề-va-hy xin nước nóng. Ông Đề-va-hy rất hoan-hỉ được dịp dâng-hiến chút gì lên Đức Phật. Ngoài bình nước nóng, ông còn trao cho Trưởng-lão một chén mật-mía nữa, rồi theo chơn Trưởng-lão vào thăm-viếng Đức Phật. Trưởng-lão pha nước cho Đức Phật tắm-rửa, xong lấy mật-miá hoà với nước nóng đem dâng. Đức Phật uống xong, hết đau bụng. Bấy giờ, vị Bà-la-môn mới thưa: “Bạch Thế-tôn, hiến-tặng cho ai thì được phước lớn?” Đức Phật đáp: “Nầy Đề-va-hy, cúng-dường cho bực đã dẹp xong mọi tội-ác sẽ được lợi-lạc to lớn nhứt.”

Rồi Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:

Bực Thánh biết cả quá-khứ mình,
Thấy cảnh Trời, cùng các đoạ-xứ,
Ngay đời nầy, chấm dứt sanh-tử,
Với thắng-trí tự mình cải-tiến,
Hoàn-tất đạo-quả được viên-thành,
Như-Lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 423.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

– Đề-va-hy: tên vị Bà-la-môn nầy, tiếng Pali là Devahita.

– Ưu-bà-hoà: tên vị Trưởng-lão, tiếng Pali là Upavàna.

– Mật mía = ép mía nấu kẹo lại nước lỏng sền-sệt.

– Cúng-dường: đọc trại chữ Hán-Việt cung-dưỡng, cung-cấp và nuôi dưỡng. Tiếng nhà chùa, chỉ sự dâng-hiến phẩm-vật cho các tu-sĩ.

– Bực Thánh = bực đã dứt được nghiệp, chẳng còn bị tái-sanh trong vòng Luân-hồi (Samsàra) nữa. Trong bốn quả-vị, ba quả Tu-đà-huờn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, vì còn tái-sanh, nên gọi là bực Hiền; đến quả A-la-hán, chứng được vô-sanh, nên gọi là bực Thánh.

– Các đoạ-xứ = ba nẻo dữ (Apàya)trong cõi Luân-hồi: (1) điạ-ngục; (2) ngạ-quỉ ( = quỉ đói), (3)súc-sanh ( = thú-vật).

-Thắng-trí: Thắng = hơn tất cả; Trí- = trí-huệ; Thắng-trí,ở đây, là Trí-huệ Bát-nhã ba-la-mật, trí-huệ đưa ta đến bờ bên kia, bờ giác-ngộ.

– Cải-tiến: Cải = sửa-đổi; Tiến = tiến-bộ. Cải-tiến là sửa đổi tốt hơn.

– Hoàn-tất: Hoàn = tròn; Tất = xong; Hoàn-tất là xong-xuôi hết cả, ở đây, là chứng được quả-vị A-la-hán, giải-thoát khỏi Luân-hồi.

– Viên-thành: Viên = tròn, trọn; Viên-thành là xong trọn-vẹn.

– Bà-la-môn: giai-cấp tu-sĩ xưa ở Ấn-độ. Chữ Bà-la-môn trong Tích chuyện có nghĩa là giai-cấp. Nhưng trong bài Kệ, chữ Bà-la-môn lại có nghĩa là bực A-la-hán.

B.- Nghĩa Ý;

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại vị Bà-la-môn Đề-va-hy dâng nước nóng và mật mía lên Đức Phật, rồi hỏi Phật, hiến-tặng cho ai thì được phước lớn. Đức Phật đáp, cúng-dường cho bực Thánh, đã diệt hết tội-ác thì hưởng được lợi-lạc to-lớn nhứt.

Ý-nghĩa của Tích chuyện: công-đức bố-thí đem lại phước lành to.

(2) Ý-nghĩa bài Kệ số 423:

Bài Kệ nói về bực Thánh: (1)biết đời quá-khứ, (2) thấy được sáu cõi trong Luân-hồi, (3)chấm-dứt sự sanh-tử lẩn-quẩn theo nghiệp-báo, (4)dùng thắng-trí tự cải-tiến và (5) hoàn-tất được các đạo-quả.

Xin lần-lượt phân-tách năm đìểm vừa nêu:

(1) ‘Biết cả quá-khứ mình’: đó là túc-mạng minh, nhớ lại được hết các kiếp trước của mình;

(2) ‘Thấy cảnh Trời và các đoạ-xứ’: đây là thấy rõ cả sáu cõi trong Luân-hồi, gọi là Thiên-nhãn-minh, thấy biết chúng-sanh luân-chuyển theo nghiệp-báo, trong vòng Luân-hồi. Sáu cõi gồm có: ba đường lành: cõi người, cõi thần và cõi Trời; ba đường dữ: cõi điạ-ngục, cõi ngạ-quỉ và cõi súc-sanh.

(3) ‘Ngay đời nầy, chấm-dứt tử-sanh’: ngay hiện-đời, chứng được vô-sanh, nghĩa là chẳng còn bị tái-sanh lại, để rồi chết nữa, hết quanh đi quẩn lại trong vòng đau-khổ của Luân-hồi, mà được tự-tại, an-vui trong cảnh vắng-lặng của Niết-bàn.

(4) ‘Với thắng-trí, tự mình cải-tiến’: nhờ tu-luyện theo giới, định, huệ, giữ giới cho ba nghiệp thân, miệng, ý được thanh-tịnh, tập định cho tâm được thanh-tịnh, mở-mang được trí-huệ chói-sáng, đó là tự mình cải-tiến lấy mình, từ phàm-phu trở nên bực hiền-thánh. Nói cách khác, sự tự-cải-tiến đưa đến sự chấm-dứt tất cả các phiền-não, các lậu-hoặc, khiến thân-tâm hoàn-toàn được giải-thoát. Đây là chứng được Lậu-tận-minh.

(5)’Hoàn-tất đạo-quả được viên-thành’: tu-tập tinh-tấn nên lần-lượt chứng được bốn đạo và bốn quả, từ cấp Tu-đà-hườn, qua Tư-đà-hàm, A-na-hàm, để rồi chứng nốt quả-vị vô-sanh của A-la-hán.

Nói tóm lại, bài Kệ nêu lên sự chứng-đắc Tam-minh của bực Thánh: (1) túc-mạng-minh, (2) thiên-nhãn-minh và (3) lậu-tận-minh.

-ooOoo-

Xin thưa nốt vài điều.

Trước khi chấm dứt việc lược-dịch và tìm hiểu về KINH PHÁP CÚ, Thiện-Nhựt xin được phép thưa thêm vài điều, liên-quan đến bản Kinh và cách xử-dụng Kinh nầy trong việc tu-tập.

1) Kinh PHÁP-CÚ, DHAMMAPADA, là quyển thứ hai trong Tiểu-Bộ-Kinh (Khuddhaka Nikàya) thuộc Tạng Kinh (Suttanta Pitaka), trong hệ Pali. Kinh ghi lại 423 bài Kệ ngắn, được chính Đức Phật Thích-Ca nói lên suốt trong thời-gian bốn mươi năm truyền-giảng Chánh-Pháp của Ngài, để dạy cho các đệ-tử xuất-gia cũng như tại-gia. Sau khi Đức Phật nhập Niết-Bàn, các vị Trưởng-lão sợ lời vàng-ngọc của bực Đạo-sư bị quên-lãng, mới họp nhau lại, đọc-tụng để ghi nhớ. Mãi đến gần ba trăm năm sau, vào thời-đại vua A-dục (Asoka), Kinh mới được ghi bằng chữ viết, trong kỳ Kết-tập Kinh-Tạng lần thứ ba.

Các Tích chuyện, gồm có 303 bài, (trong bản Pali ghi là 305 bài, vì Tích-chuyện số (205) được phân ra làm ba bài: Vô-thường, Khổ và Vô-ngã) được tin rằng do Ngài Phật-Âm (Buddhaghosa) chép lại vào khoảng thế-kỷ thứ 5 sau Tây-lịch. Các Tích chuyện dẫn đến các bài Kệ đã giúp cho việc tìm hiểu Kinh Pháp-cú được dễ-dàng hơn.

Kinh Dhammapada được dịch ra rất nhiều thứ tiếng, xem như một kho-tàng Chơn-lý rất quí-báu trong văn-chương của nhơn-loại. Bản dịch Anh-văn của Max Muller được xuất-bản năm 1870.

Kinh Pháp-Cú lại được xem như quyển sách gối đầu giường; các tu-sĩ Nam-tông ngay khi bước vào cửa Đạo, phải học thuộc lòng các bài Kệ trong Kinh Pháp-Cú, trước khi học các bản Kinh khác.

2) Giữa rừng giáo-lý cao-siêu của Đức Phật, Kinh Pháp-Cú nổi bật lên với những thí-dụ giản-dị, thông-thường, xảy ra hằng ngày, lời chỉ-dạy thật rõ-ràng và thiết-thực: đó là điễm cao-quí nhứt của Kinh Pháp-Cú, chẳng những thích-hợp cho các tu-sĩ xuất-gia theo con đường giác-ngộ và giải-thoát, mà còn có ích-lợi to-lớn trong cuộc sống ở xã-hội cho hàng tại-gia, dầu đó là người kiến-thức rộng-rãi, hay người bình-dân ít học.

3) Thiện-Nhựt xin chấp tay sám-hối, trong khi lược-dịch, đã bỏ bớt nhiều chi-tiết nhiệm-mầu trong các Tích chuyện, đã viết lại một cách vụng-về bằng văn-vần các bài Kệ thâm-trầm đầy ý-vị trong bản nguyên-tác bằng chữ Pali. Mục-đích là khiến cho phần dịch-thuật và tìm-hiểu được gọn-gàng và dễ hiểu mà chẳng đi xa quá với lời giảng-dạy cao-quí của Đức Từ-phụ.

Trong phần Tìm Hiểu, vì muốn tránh cho người đọc phải giở lại các trang phía trước xem lại các danh-từ chuyên-môn về Phật-học, nên Thiện-Nhựt đã giải-nghĩa một danh-từ rất nhiều lần. Tuy nhiên, Thiện-Nhựt nghĩ sự lập-lại đó cũng có một công-dụng là vừa nhắc-nhở người đọc nghĩa đã được học qua, vừa nhẹ-nhàng và từ-từ đưa cất vào tiềm-thức mà chẳng cần phải khổ-công ghi nhớ.

Ước mong to-lớn của Thiện-Nhựt là, khi các Tập sách tìm hiểu về Kinh Pháp-Cú nầy vào tay người đọc, thì chúng sẽ được xem qua, hơn thế nữa, được đọc lên cho con cháu nghe, và quí hơn nữa là đem các bài Kệ ra ngâm-nga cho chính mình nghe, và dùng để ru cho con cháu ngủ. Nếu một Tích chuyện, một bài Kệ, ngay cả một câu Kệ, mà được người chưa biết chữ Việt chỉ nghe thuật lại mà đọc lên được trôi chảy, đem kể lại cho người khác nghe thêm, chắc-chắn là giáo-lý của Đức Phật còn sống mãi và truyền-tụng mãi trong dân-gian.

Đọc Tích chuyện hiểu được ý-nghĩa thú-vị, tụng bài Kệ thưởng-thức lời dạy quí-báu của Đức Phật, đó là đang thấy được hương-vị của bài pháp, gọi là pháp-vị. Nhưng còn phải biết nếm pháp-vị nữa, bằng cách theo đó mà tu-tập, tự cải-tiến lấy mình. Đấy mới là cách xử-dụng đúng-đắn Kinh Pháp-Cú nầy đó.

Thành-tâm sám-hối về các lỗi-lầm trong khi lược-dịch và tìm hiểu, Thiện Nhựt cầu mong trên được các bực cao-minh chỉ dạy thêm, và chung quanh được các bạn đạo vui lòng khuyến-khích.

Montreal, 09 Tháng 04, 2001,
Thiện Nhựt kính thưa.

Sách Tham-khảo:

1. The Dhammaoada, Verses & Stories, Myanmar Pitaka Association, Yangon, 1990.

2. Dhammapada, A Practical Guide To Right Living, Venerable Buddharakkhita, Sukhi Hoti Dhamma Publications.

3. Kinh Pháp Cú, H.T. Minh-Châu, Phật-Học-Viện Vạn Hạnh, Saigon, 1977.

4. Kinh Pháp-Cú, Dhammapada, Venerable Narada, Phạm-Kinh-Khánh dịch, Paris 1981

5. Kinh Pháp-Cú, T.T. Trí-Đức, Phật-Học-Viện Quốc-Tế, 1985.