Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật

Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật

Trương Văn Chiến 35

QUYỂN THỨ HAI MƯƠI CHÍN
PHẨM THẤT DỤ
THỨ TÁM MƯƠI LĂM
Ngài Tu Bồ Ðề bạch Đức Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu các pháp tánh vô sở hữu, chẳng phải Phật làm ra nhẫn đến chẳng phải Bồ Tát làm ra, thì sao lại phân biệt có các pháp dị biệt, những là Ðịa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh, Người, Trời, những là do nơi nghiệp nhơn duyên mà biết có kẻ sanh Ðịa Ngục, có kẻ sanh Ngạ quỷ, có kẻ sanh Súc sanh, do nơi nghiệp nhơn duyên như vậy mà biết có kẻ sanh trong loài Người, sanh các cõi Trời, nhẫn đến Trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng, do nơi nghiệp nhơn duyên ấy mà biết có người được Tu Ðà Hoàn, Tư Ðà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, Bích Chi Phật, do nghiệp nhơn duyên ấy mà biết là Như Lai, Ứng Cúng Chánh Ðẳng Chánh Giác.

Bạch đức Thế Tôn! Trong pháp vô tánh không có nghiệp dụng, sao lại có vì tác nghiệp nhơn duyên, hoặc đọa Ðịa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh, hoặc sanh trong Người trên Trời, hoặc được Tu Ðà Hoàn nhẫn đến Bích Chi Phật, Ðại Bồ Tát hành Bồ Tát đạo sẽ được nhứt thiết chủng trí, vì được nhứt thiết chủng trí nên có thể cứu chúng sanh ra khỏi sanh tử?”.

Ðức Phật dạy: “Này Tu Bồ Ðề! Ðúng như vậy. Trong pháp vô tánh không có nghiệp, không có quả báo.

Này Tu Bồ Ðề! Hàng phàm phu chẳng nhập thánh pháp, chẳng biết các pháp không có tánh tướng. Vì điên đảo ngu si nên họ khởi các nghiệp nhơn duyên.

Các chúng sanh ấy, theo nghiệp mà có thân, hoặc thân Ðịa ngục, thân Ngã quỷ, thân Súc sanh, thân Người, thân Trời.

Pháp vô tánh ấy không có nghiệp, không có quả báo. Vô tánh thường là vô tánh.

Như Tu Bồ Ðề nói, nếu tất cả pháp vô tánh, sao lại có Tu Ðà Hoàn nhẫn đến chư Phật được nhứt thiết chủng trí.

Này Tu Bồ Ðề! Ý ông nghĩ sao? Ðạo có phải là vô tánh chăng? Quả Tu Ðà Hoàn nhẫn đến chư Phật, nhứt thiết chủng trí có phải là vô tánh chăng?”

– Bạch đức Thế Tôn! Ðạo vô tánh, quả Tu Ðà Hoàn cũng vô tánh, nhẫn đến chư Phật, nhứt thiết chủng trí cũng vô tánh.

– Này Tu Bồ Ðề! Pháp vô tánh có thể được pháp vô tánh chăng?

– Bạch đức Thế Tôn! Pháp vô tánh không thể được pháp vô tánh.

– Này Tu Bồ Ðề! Pháp hữu tánh có thể được pháp hữu tánh chăng?

– Bạch đức Thế Tôn! Pháp hữu tánh không thể được pháp hữu tánh.

– Này Tu Bồ Ðề! Pháp vô tánh và đạo, tất cả pháp ấy đều chẳng hiệp, chẳng tan, không sắc, không hình, không đối, là nhứt tướng, đó là vô tướng.

– Này Tu Bồ Ðề! Lúc hành Bát nhã ba la mật, Ðại Bồ Tát dùng sức phương tiện thấy chúng sanh do vì điên đảo chấp trước năm ấm, trong vô thường thấy là thường, trong khổ thấy là lạc, trong bất tịnh thấy là tịnh, trong vô ngã thấy là ngã. Chấp trước chỗ vô sở hữu.

Bồ Tát ấy vì sức phương tiện, ở trong vô sở hữu cứu thoát chúng sanh.

– Bạch đức Thế Tôn! Chỗ chấp trước của phàm phu có thiệt chăng? Có khác biệt chăng? Có khác biệt chăng? Vì chấp trước nên khởi nghiệp, vì nghiệp nhơn duyên nên ở trong năm đường sanh tử chẳng ra khỏi được.

– Này Tu Bồ Ðề! Chỗ chấp trước khởi nghiệp của phàm phu không có một chút sự thiệt như lông tóc. Chỉ vì điên đảo thôi.

Này Tu Bồ Ðề! Nay sẽ vì ông mà nói ví dụ. Người trí do ví dụ mà được hiểu.

Này Tu Bồ Ðề! Như chỗ thấy trong chiêm bao, người hưởng thọ ngũ dục có chỗ nơi thiệt chăng?

– Bạch đức Thế Tôn! Chiêm bao còn là hư vọng bất khả đắc, huống là người ở trong chiêm bao hưởng thọ ngũ dục có chỗ nơi thiệt!

– Này Tu Bồ Ðề! Các pháp, hoặc hữu lậu vô lậu, hoặc hữu vi vô vi, và có pháp gì chẳng như chiêm bao chăng?

– Bạch đức Thế Tôn! Các pháp hoặc hữu lậu, vô lậu, hoặc hữu vi vô vi, không có pháp gì chẳng như chiêm bao.

– Này Tu Bồ Ðề! Trong chiêm bao có năm đường sanh tử qua lại chăng?

– Bạch đức Thế Tôn! Không.

– Này Tu Bồ Ðề! Trong chiêm bao có tu đạo, do sự tu đạo này hoặc cấu nhiễm, hoặc thanh tịnh chăng?

– Bạch đức Thế Tôn! Không. Tại sao? Vì chiêm bao không có sự thiệt, chẳng thể nói là cấu, là tịnh được.

– Này Tu Bồ Ðề! Tượng trong gương có sự thiệt chăng? Có hay khởi nghiệp, do nghiệp nhơn duyên ấy mà đọa Ðịa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh, hoặc sanh trong Người, trên Trời chăng?

– Bạch đức Thế Tôn! Không. Tượng ấy không có sự thiệt, chỉ có gạt được trẻ nít thôi. Tượng ấy làm sao có được nghiệp nhơn duyên, rồi do nghiệp nhơn duyên sẽ đọa Ðịa ngục nhẫn đến sanh trong Người, trên Trời!

– Này Tu Bồ Ðề! Tượng trong gương ấy có tu đạo, do sự tu đạo ấy mà bị cấu hay tịnh chăng?

– Bạch đức Thế Tôn! Không. Tại sao? Vì tượng ấy rỗng không chẳng có sự thiệt nên không thể nói là cấu, là tịnh.

– Này Tu Bồ Ðề! Như trong khe sâu có vang. Vang ấy có nghiệp, rồi do nghiệp nhơn duyên ấy hoặc đọa Ðịa ngục nhẫn đến sanh trong Người, trên Trời chăng?

– Bạch đức Thế Tôn! Không. Vang ấy rỗng không, chẳng có âm thanh thiệt gì làm sao có nghiệp rồi do nghiệp nhơn duyên mà đọa Ðịa ngục nhẫn đến sanh trong Người, trên Trời.

– Này Tu Bồ Ðề! Vang ấy vả có tu đạo, do tu đạo ấy mà có nhiễm, có tịnh chăng?

– Bạch đức Thế Tôn! Không. Tại sao? Vì vang ấy không có sự thiệt nên chẳng thể nói là cấu, là tịnh.

– Này Tu Bồ Ðề! Như nắng dợn chẳng phải nước như tướng nước, chẳng phải sông như tướng sông. Nắng dợn ấy vả có nghiệp, do nghiệp nhơn duyên mà đọa Ðịa ngục, nhẫn đến do tu đạo mà có cấu, có tịnh chăng?
– Bạch đức Thế Tôn! Không. Thành Càn Thát Bà ấy rốt ráo không có, chỉ gạt được mắt kẻ vô trí thôi, thì làm sao có nghiệp nhẫn đến có thể nói được là cấu, là tịnh.

– Này Tu Bồ Ðề! Nhà ảo thuật, thuật ra các thứ vật, những là voi, ngựa, bò, dê, nam, nữ. Huyễn ảo ấy vả có nghiệp, do nhơn duyên ấy hoặc đọa Ðịa ngục, nhẫn đến do sự tu đạo mà có cấu, có tịnh chăng?

– Bạch đức Thế Tôn! Vật huyễn ảo ấy rỗng không, chẳng có sự thiệt thì làm sao có được nghiệp, nhẫn đến có thể nói là cấu, là tịnh.

– Này Tu Bồ Ðề! Như hóa nhơn do Đức Phật biến hóa ra. Hóa nhơn ấy vả có nghiệp, do nghiệp nhơn duyên ấy hoặc đọa Ðịa ngục, nhẫn đến có cấu, có tịnh chăng?

– Bạch đức Thế Tôn! Không. Hóa nhơn ấy không có sự thiệt, thì làm sao có được nghiệp, rồi do nghiệp nhơn duyên ấy hoặc đọa Ðịa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh, hoặc sanh trong Người, trên Trời, làm sao có được sự tu đạo, rồi do sự tu đạo ấy mà có cấu, có tịnh.

– Này Tu Bồ Ðề! Ý ông nghĩ sao? Ở trong tướng rỗng không ấy có kẻ cấu, có kẻ tịnh chăng?

– Bạch đức Thế Tôn! Không. Trong ấy vô sở hữu, không có kẻ bị cấu, không có kẻ được tịnh.

– Này Tu Bồ Ðề! Như không có kẻ bị cấu, không có kẻ được tịnh thì cũng không có cấu, tịnh.

Tại sao? Vì chúng sanh ở trong ngã và ngã sở có cấu, có tịnh.

Người thấy thiệt thì chẳng cấu, chẳng tịnh. Như người thấy thiệt chẳng cấu, chẳng tịnh nên cũng không có cấu, tịnh”.