QUYỂN THỨ HAI MƯƠI CHÍN
PHẨM TỊNH PHẬT QUỐC
THỨ TÁM MƯƠI HAI
Bấy giờ Ngài Tu Bồ Ðề suy nghĩ: Những gì là Ðại Bồ Tát đạo?
Bồ Tát an trụ đạo ấy có thể làm được đại trang nghiêm như vậy.
Ðức Phật biết tâm niệm của Ngài Tu Bồ Ðề liền dạy rằng: “Này Tu Bồ Ðề! Sáu ba la mật là Ðại Bồ Tát đạo, ba mươi bảy pháp trợ đạo là Ðại Bồ Tát đạo, tám mươi bội xả, chín định thứ đệ là Ðại Bồ Tát đạo, mười trí lực nhẫn đến mười tám pháp bất cộng là Ðại Bồ Tát đạo, tất cả pháp cũng là Ðại Bồ Tát đạo.
Này Tu Bồ Ðề! Vả có pháp nào Bồ Tát chẳng học mà có thể được Vô Thượng Bồ Ðề chăng?
Này Tu Bồ Ðề! Không có pháp nào mà Bồ Tát chẳng học. Tại sao? Vì nếu Bồ Tát chẳng học tất cả pháp thì chẳng thể được nhứt thiết chủng trí”.
– Bạch đức Thế Tôn! Nếu tất cả pháp không sao lại nói Bồ Tát học tất cả pháp. Phải chăng đức Thế Tôn ở trong không hí luận mà làm hí luận ư! Những là cái này, cái kia, là pháp thế gian, là pháp xuất thế, là hữu lậu, là vô lậu, là hữu vi, là vô vi, là pháp phàm phu, là pháp A La Hán, là pháp Bích Chi Phật, là pháp Phật.
– Ðúng như vậy. Này Tu Bồ Ðề! Tất cả pháp thiệt rỗng không.
Này Tu Bồ Ðề! Nếu tất cả pháp chẳng rỗng không thì Ðại Bồ Tát chẳng thể được Vô Thượng Bồ Ðề.
Này Tu Bồ Ðề! Nay vì tất cả pháp thiệt rỗng không nên Ðại Bồ Tát có thể được Vô Thượng Bồ Ðề.
Này Tu Bồ Ðề! Như lời ông nói, nếu tất cả pháp rỗng không, phải chăng Đức Phật ở trong không hí luận mà làm hí luận, những là phân biệt đây kia, là pháp thế gian, là pháp xuất thế gian nhẫn đến là Phật pháp.
Này Tu Bồ Ðề! nếu chúng sanh thế gian biết tất cả pháp không thì Ðại Bồ Tát chẳng học tất cả pháp, được nhứt thiết chủng trí.
Nay vì chúng sanh chẳng biết tất cả pháp không nên Ðại Bồ Tát được Vô Thượng Bồ Ðề rồi phân biệt các pháp, giảng nói cho chúng sanh.
Này Tu Bồ Ðề! Nơi đạo Bồ Tát này, từ ban sơ đến nay phải tư duy như vầy: Trong tất cả pháp không có được tánh nhứt định, chỉ từ nơi hòa hiệp nhơn duyên mà sanh khởi, nên có danh tự là các pháp, tôi phải tư duy các pháp không có tánh thiệt có thể nắm lấy được, hoặc là sáu ba la mật, ba mươi bảy pháp trợ đạo, hoặc là quả Tu Ðà Hoàn nhẫn đến quả A La Hán, đạo Bích Chi Phật, Vô Thượng Bồ Ðề.
Tại sao? Vì tất cả pháp, tất cả pháp tánh rỗng không, không chẳng nắm lấy không. Không còn là chẳng có được, huống là trong không mà có nắm lấy.
Này Tu Bồ Ðề! Tư duy như vậy, Bồ Tát chẳng nắm lấy tất cả pháp mà học tất cả pháp.
Bồ Tát an trụ trong sự học ấy quan sát tâm hành của chúng sanh: tâm chúng sanh này hành tại chỗ nào?
Bồ Tát biết tâm chúng sanh hành trong hư vọng chẳng thiệt, bèn nghĩ rằng chúng sanh ấy nắm lấy pháp hư vọng chẳng thiệt, rất dễ độ.
Bấy giờ Ðại Bồ Tát an trụ trong Bát nhã ba la mật, vì dùng sức phương tiện nên giáo hóa chúng sanh rằng: Này các người, nên hành bố thí sẽ được nhiều của cải, cũng chẳng nên cậy quả báo bố thí mà tự cống cao. Tại sao? Vì trong ấy không có pháp chắc thiệt.
Giáo hóa họ trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định, trí huệ cũng như vậy.
Chúng sanh hành pháp ấy có thể được quả Tu Ðà Hoàn nhẫn đến Vô Thượng Bồ Ðề. Nhưng chớ nghĩ rằng có pháp ấy.
Giáo hóa như vậy thì gọi là hành Bồ Tát đạo, vì ở nơi các pháp không chỗ nắm lấy, vì trong các pháp ấy không có chắc thiệt.
Tại sao? Vì tất cả pháp không có tướng nắm lấy, bởi là tánh không có, là tánh rỗng không.
Này Tu Bồ Ðề! Lúc hành Bồ Tát đạo như vậy, Ðại Bồ Tát không chỗ an trụ.
Bồ Tát ấy vì dùng pháp chẳng an trụ, nên hành Bố thí ba la mật cũng chẳng an trụ trong ấy, hành Trì giới ba la mật cũng chẳng an trụ trong ấy, hành Nhẫn nhục ba la mật cũng chẳng an trụ trong ấy, hành Tinh tiến ba la mật cũng chẳng an trụ trong ấy, hành Thiền na ba la mật cũng chẳng an trụ trong ấy, hành Bát nhã ba la mật cũng chẳng an trụ trong ấy, hành bốn thiền, bốn tâm, bốn định, tám bội xả, chín định thứ đệ cũng chẳng an trụ trong ấy. Tại sao? Vì sơ thiền v.v…, sơ thiền v.v.. tánh rỗng không, người hành thiền v.v… cũng rỗng không, pháp được dùng cũng rỗng không.
Ðược quả Tu Ðà Hoàn nhẫn đến được đạo Bích Chi Phật cũng chẳng an trụ trong ấy.
– Bạch đức Thế Tôn! Duyên cớ gì mà chẳng an trụ trong ấy?
– Này Tu Bồ Ðề! Do hai nhơn duyên mà chẳng an trụ trong ấy:
Một là các đạo quả tánh rỗng không, không có chỗ an trụ, cũng không có pháp được dùng, cũng không có người an trụ.
Hai là chẳng lấy chút ít làm đủ. Bồ Tát nghĩ rằng tôi chẳng nên chẳng được quả Tu Ðà Hoàn, tôi chắc chắn sẽ được quả Tu Ðà Hoàn. Chỉ chẳng nên an trụ trong quả ấy. Tại sao? Vì từ lúc ban sơ phát tâm trở lại, tôi không còn có tâm nào khác, chỉ nhứt tâm hướng về Vô Thượng Bồ Ðề.
Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ Tát ấy an trụ nhứt tâm như vậy có thể sanh Bồ Ðề đạo.
– Bạch đức Thế Tôn! nếu tất cả pháp bất sanh thì thế nào Ðại Bồ Tát hay sanh Bồ Ðề đạo?
– Ðúng như vậy. Này Tu Bồ Ðề! Tất cả pháp vô sanh. Vì sao vô sanh? Vì không chỗ làm, không chỗ khởi nên tất cả pháp bất sanh.
– Bạch đức Thế Tôn! Có Phật hay không có Phật, các pháp pháp tướng thường trụ ư?
– Ðúng như vậy. Này Tu Bồ Ðề! Có Phật hay không có Phật, các pháp pháp tướng thường trụ.
Bởi chúng sanh chẳng biết pháp ấy an trụ pháp tướng, nên Ðại Bồ Tát vì chúng sanh mà Bồ Ðề đạo. Bồ Tát dùng đạo ấy cứu chúng sanh ra khỏi sanh tử.
– Bạch đức Thế Tôn! Dùng đạo sanh được Bồ Ðề chăng?
– Không.
– Bạch đức Thế Tôn! Dùng đạo bất sanh, chẳng phải bất sanh được Bồ Ðề chăng?
– Không.
– Bạch đức Thế Tôn! Thế nào sẽ được Bồ Ðề?
– Này Tu Bồ Ðề! Chẳng phải dùng đạo được Bồ Ðề, cũng chẳng dùng phi đạo được Bồ Ðề.
Này Tu Bồ Ðề! Bồ Ðề tức là đạo, đạo tức là Bồ Ðề.
– Bạch đức Thế Tôn! Nếu Bồ Ðề tức là đạo và đạo tức là Bồ Ðề, nay lúc Bồ Tát chưa thành Phật lẽ ra phải được Vô Thượng Bồ Ðề. Sao lại nói chư Phật, Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Ðẳng Chánh Giác có ba mươi hai tướng, tám mươi tùy hình hảo, mười trí lực, bốn vô úy, bốn trí vô ngại, mười tám pháp bất cộng, đại từ đại bi?
– Này Tu Bồ Ðề! Ý ông nghĩ sao? Ðức Phật có được Bồ Ðề chăng?
– Bạch đức Thế Tôn! Ðức Phật không có được Bồ Ðề. Tại sao? Vì Phật tức là Bồ Ðề, Bồ Ðề tức là Phật.
– Này Tu Bồ Ðề! Như lời hỏi của Tu Bồ Ðề, lúc làm Bồ Tát cũng lẽ ra được Bồ Ðề.
Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ Tát ấy đầy đủ sáu ba la mật, ba mươi bảy pháp trợ đạo, đầy đủ mười trí lực, bốn vô úy, bốn trí vô ngại, mười tám pháp bất cộng, đầy đủ an trụ như kim cang tam muội, dùng một niệm tương ứng huệ được Vô Thượng Bồ Ðề, bấy giờ gọi là Phật, ở trong tất cả pháp được tự tại.
– Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là Ðại Bồ Tát tịnh Phật quốc độ?
– Này Tu Bồ Ðề! Có Bồ Tát từ ban sơ phát tâm trở lại tự trừ nghiệp thô nơi thân, trừ nghiệp thô nơi khẩu, trừ nghiệp thô nơi ý, cũng làm sạch ba nghiệp thô của người khác.
– Bạch đức Thế Tôn! Những gì là nghiệp thô nơi thân, nghiệp thô nơi khẩu, nghiệp thô nơi ý?
– Này Tu Bồ Ðề! Những nghiệp bất thiện như sát sanh nhẫn đến tà kiến gọi là ba nghiệp thô của Bồ Tát.
Lại này Tu Bồ Ðề! Lòng xan tham, lòng phá giới, lòng giận hờn, lòng giải đãi, lòng tán loạn, lòng ngu si gọi là ý nghiệp thô của Bồ Tát.
Giới chẳng thanh tịnh gọi là thân, khẩu nghiệp thô.
Lại này Tu Bồ Ðế! Nếu Bồ Tát xa rời hạnh tứ niệm xứ thì gọi là Bồ Tát nghiệp thô, xa rời tứ chánh cần nhẫn đến bát thánh đạo phần, tám giải thoát môn cũng gọi là Bồ Tát nghiệp thô.
Lại này Tu Bồ Ðề! Nếu Ðại Bồ Tát tham quả Tu Ðà Hoàn nhẫn đến tham quả A La Hán, đạo Bích Chi Phật thì gọi là Bồ Tát nghiệp thô.
Lại này Tu Bồ Ðề! nếu Bồ Tát có tướng sắc, thọ, tưởng, hành, thức, có tướng Nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý, có tướng sắc, thanh, hương, vi, xúc, pháp, tướng nam, tướng nữ, tướng cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, có tướng pháp thiện, pháp bất thiện, hữu vi, vô vi thì gọi là Bồ Tát nghiệp thô.
Ðại Bồ Tát đều xa rời những tướng nghiệp thô như vậy, tự mình bố thí, cũng dạy người khác bố thí: cần thức ăn cho thức ăn, cần Nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý phục, cho Nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý phục, nhẫn đến cần các thứ vật dùng để sống đều cấp cho tất cả. Cũng dạy người khác hành bố thí như vậy. Ðem phước đức ấy cùng chung với tất cả chúng sanh hồi hướng tịnh Phật quốc độ.
Trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định, trí huệ cũng như vậy.
Ðại Bồ Tát ấy hoặc đem trân bảo đầy cả cõi Ðại Thiên cúng dường Tam Bảo, phát nguyện rằng do nhơn duyên căn lành này làm cho quốc độ tôi đều bảy báu làm thành.
Lại nữa, Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ Tát đem kỹ nhạc trời trỗi trước Phật và tháp Phật, phát nguyện rằng do nhơn duyên căn lành này làm cho trong cõi nước tôi thường nghe nhạc trời.
Lại nữa, Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ Tát đem hương trời đầy cả cõi Ðại Thiên cúng dường chư Phật và tháp Phật, phát nguyện rằng do nhơn duyên căn lành này làm cho cõi nước tôi thường có hương trời.
Lại nữa, Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ Tát dùng trăm thức uống ăn cúng dường Phật và Tăng, phát nguyện rằng do nhơn duyên căn lành này làm cho chúng sanh trong cõi nước tôi đều được trăm thức uống ăn.
Lại nữa, Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ Tát dùng hương trời mịn trơn cúng dường Phật và Tăng, phát nguyện rằng do nhơn duyên căn lành này làm cho chúng sanh trong cõi nước tôi, tất cả đều thọ hương trời mịn trơn.
Lại nữa, Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ Tát dùng tùy ý ngũ dục cúng dường Phật và Tăng cùng tất cả chúng sanh, phát nguyện rằng do nhơn duyên căn lành này làm cho trong cõi nước tôi, hàng đệ tử và tất cả chúng sanh đều được tùy ý ngũ dục, cùng tất cả chúng sanh đồng hồi hướng tịnh Phật quốc độ. nguyện rằng chúng tôi thành Phật, trong cõi nước tôi như ngũ dục cõi Trời ứng theo tâm hiện đến.
Lại nữa, Này Tu Bồ Ðề! Lúc hành Bát nhã ba la mật, Ðại Bồ Tát nguyện rằng tôi sẽ tự mình nhập sơ thiền, cũng dạy tất cả chúng sanh nhập sơ thiền, với nhị thiền nhẫn đến ba mươi bảy phẩm trợ đạo cũng như vậy.
Ðại Bồ Tát ấy cũng nguyện: Lúc tôi được Vô Thượng Bồ Ðề, tôi sẽ làm cho chúng sanh chẳng xa rời tứ thiền nhẫn đến ba mươi bảy phẩm trợ đạo.
Như vậy, Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ Tát có thể tịnh Phật quốc độ.
Bồ Tát ấy ngần ấy thời gian hành Bồ Tát đạo, đầy đủ các nguyện.
Bồ Tát ấy tự thành tựu tất cả pháp lành, cũng cho tất cả chúng sanh thành tựu pháp lành.
Bồ Tát ấy tự thọ thân hình đoan chánh, những chúng sanh được hóa độ cũng đoan chánh. Tại sao? Vì nhơn duyên phước đức sâu dày vậy.
Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ Tát nên tịnh Phật quốc độ như vậy.
Trong quốc độ ấy nhẫn đến không có danh từ ba ác đạo, cũng không có danh từ tà kiến, ba độc, hai thừa Thanh Văn và Bích Chi Phật. Tai chẳng nghe tiếng vô thường khổ không, cũng chẳng có ngã và ngã sở hữu, nhẫn đến không tên các kiết sử phiền não, cũng không những tên phân biệt các quả.
Trong quốc độ ấy, gió thổi cây bảy báu, tùy theo chỗ đáng được độ mà vang ra âm thanh, như là âm thanh không vô tướng, vô tác, chư pháp thiệt tướng, có Phật hay không có Phật, tất cả pháp, tất cả pháp tướng đều không, trong rỗng không ấy không có tướng, trong không có tướng thì không có tác, phát ra pháp âm như vậy. Hoặc ngày, hoặc đêm, hoặc nằm, hoặc ngồi, hoặc đứng, hoặc đi thường nghe pháp âm ấy.
Lúc Bồ Tát ấy được Vô Thượng Bồ Ðề, chư Phật trong mười phương quốc độ đều khen ngợi. Chúng sanh nghe danh hiệu chư Phật ấy chắc chắn sẽ đến Vô Thượng Bồ Ðề.
Lúc Bồ Tát được Vô Thượng Bồ Ðề rồi thuyết pháp. Chúng sanh nghe pháp, không có ai chẳng tin mà sanh nghi nói rằng: đúng pháp, chẳng đúng pháp. Tại sao? Vì trong các pháp thiệt tướng đều đúng pháp, không có chẳng đúng pháp.
Có những kẻ phước mỏng, ở nơi chư Phật và chư đệ tử Phật chẳng gieo căn lành, chẳng theo thiện tri thức, chìm trong ngã kiến, nhẫn đến chìm trong tất cả thứ kiến chấp, rơi vào biên kiến hoặc đoạn hoặc thường. Kẻ ấy vì tà kiến nên chẳng phải Phật nói là Phật, là Phật lại nói là chẳng phải Phật. Kẻ ấy với phi pháp nói là pháp, pháp lại nói là phi pháp. Vì phá pháp nên kẻ ấy khi thân hoại mạng chết phải đọa vào ác đạo, Ðịa ngục …
Lúc chư Phật được Vô Thượng Bồ Ðề thấy những chúng sanh ấy qua lại năm loài, bèn làm cho họ rời lìa tà tụ, an lập họ trong chánh định tụ. Chúng sanh không còn tâm tạp uế, hoặc là pháp thế gian, hoặc là pháp xuất thế, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu, hoặc hữu vi, hoặc vô vi. Nhẫn đến làm cho chúng sanh trong cõi nước ấy, chắc chắn đến Vô Thượng Bồ Ðề.
Này Tu Bồ Ðề! Ðây là Ðại Bồ Tát tịnh Phật quốc độ vậy”.