Kinh Đại Bảo Tích

Kinh Đại Bảo Tích

Trương Văn Chiến 33

VII. PHÁP HỘI MẶC GIÁP TRANG NGHIÊM THỨ BẢY
(Hán Bộ Từ Quyển 21 Ðến Quyển 25)
Hán Dịch: Nhà Đường, Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi
Việt Dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

Như vậy tôi nghe một lúc Ðức Phật ở thành Vương Xá tại Trúc Lâm Ca Lan Ðà cùng chúng đại Tỳ Kheo và chư Ðại Bồ Tát câu hội. Chư Bồ Tát nầy đều từ các Phật đến họp.

Lúc bấy giở Ðức Thế Tôn được vô lượng trăm ngàn đại chúng vây quanh cung kính cúng dường.

Trong chúng hội có vị Ðại Bồ Tát tên là Vô Biên Huệ, từ chỗ ngồi đứng dậy trịch y vai hữu, gối hữu chấm đất cúi đầu kính lạy, rồi chắp tay hướng lên Ðức Phật mà bạch rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Tôi có chút nghi ngờ xin hỏi Ðức Như Lai, mong Ðức Như Lai chuẩn cho”.

Ngài Vô Biên Huệ Bồ Tát nói kệ rằng:

“Ðấng Ðại Hùng trượng Phu
Thế gian chẳng ai bằng
Có chút nghi xin hỏi
Chẳng rời tòa sư tử
Hiện thân khắp mười phương
Trong tất cả dị luận
Không ai khuynh động được
Tạng trí không ngằn mé
Trí lực cũng vô lượng
Mỗi lực của Thế Tôn
Ðộ khắp được thế gian
An trụ nhứt thiết trí
Khéo trụ ở thập lực
Ðại sư tử vô úy
Ðấng tối thắng vô thượng
Ðức Như Lai có đủ
Mười tám pháp bất cộng
Chiếu sáng khắp thế gian
Xô dẹp các ngoại đạo
Biết rõ tất cả pháp
Vì thế không ai trên
Ðại Ðạo Sư trọn lành
Tôi có nghi xin hỏi
Trí ly cấu vô biên
Trí đại hải bất động
Trí cảnh giới vô ngại
Tôi có nghi xin hỏi
Thế Tôn khéo tu tập
Nơi đạo không còn lầm
Ðại đạo sư an ổn
Tôi có nghi xin hỏi
Ðã qua khỏi dòng dữ
Dã dứt hết trói buộc
Nhỗ được các tên độc
Tôi có nghi xin hỏi
Ðã phá vỏ vô minh
Ðã hết nóng phiền não
Hay ở an mát mẻ
Tôi có nghi xin hỏi
Trí vô úy vô thượng
Trí vô ngại vô trước
Pháp hải nhứt thiết trí
Như Lai đã chứng được
Phật vô lượng công đức
Chứng trí đều viên mãn
Hết tất cả phiền não
Phá tất cả kiến chấp
Thế Tôn chứa nhóm nhiều
Vô lượng công đức lớn
Pháp Vvương bất tư nghì
Tôi có nghi xin hỏi
Phật trí huệ thù thắng
Chiếu khắp các thế gian
Diễn rộng ánh sáng pháp
Biển công đức vô biên
Pháp quang của Ðạo Sư
Chiếu khắp các thế gian
Vì thế trong thế gian
Ánh sáng Phật pháp hiện
Biển pháp nhứt thiết trí
Biện tài không gì trên
Tinh tiến chẳng nghĩ bàn
Thanh tịnh rời kiến chấp
Vì Phật nhãn vô biên
Trí cảnh cũng vô biên
Ðấng thế gian vô đẳng
Tôi có nghi xin hỏi
Ðại Mưu Ni Pháp Vương
Dứt được chúng sanh nghi
Bạch Phật tôi sẽ hỏi
Trông mong được hứa cho
Tôi xem tất cả chỗ
Trên trời và nhơn gian
Không ai bằng Như Lai
Ðấng soi sáng cùng khắp
Ðầy đủ các công đức
Ðại trượng phu trang nghiêm
Pháp Vương chẳng nghĩ bàn
Sáng rực trong các thánh
Vi như núi Tuyết lớn
Chỗ các báu đoan nghiêm
Thế Tôn ngồi pháp tọa
Ðoan nghiêm cũng như vậy
Diệu âm đại tinh tấn
Hay tuyên lời đẹp dạ
Nếu chúng sanh được nghe
Căn lành đều thanh tịnh
Phật thù thắng trong người
Thường diễn ánh sáng pháp
Nhờ vậy mà chúng sanh
Tùy ý liền khai ngộ
Biết thời biết chúng hội
Ðấng Ðạo Sư biết người
Diễn bày ánh sáng pháp
Dùng trì huệ đúng thời
Ðấng phạm âm tinh tiến
Xin ban lời thanh tịnh
Như trời mưa ướt đất
Chánh pháp khắp nhuần mát
Thế Tôn ở trong chúng
Khắp tuyên pháp vũ rồi
Hy vọng ở pháp nầy
Chúng sanh đều đầy đủ
An trụ trên tất cả
Như Vương ở Diệu Cao
Ban pháp cho chúng sanh
Khiến đại chúng hoan hỉ
Ðại Hùng Lưỡng Túc Tôn
Cảnh giời bất tư nghì
Tất cả các chúng sanh
Không ai có thể biết
Vô lượng đại trượng phu
Chúng hội đã hòa hiệp
Nương nhờ đại Mâu Ni
Chí cầu cảnh giới Phật
Tôi xu hướng cảnh Phật
Nên đến họp tại đây
Ðạo Sư trí vô ngại
Thế nào sớm khai ngộ
Tôi theo ý mình thích
Chiêm ngưỡng muốn thỉnh hỏi
Xin Thế Tôn khai thị
Ðể dứt hết nghi hoặc
Nếu nghe pháp vô thượng
Thì được lòng hoan hỉ
Hớn hở khắp cả thân
Dứt được các lưới nghi
Pháp Vương Vô Thượng Tôn
Nhứt thiết trí vô úy
Bực thấy biết tất cả
Tôi nghi xin được hỏi
Ðối với tất cả pháp
Phật không chút nghi hoặc
Ðại Ðạo Sư tinh thuần
Tôi nghi xin được hỏi
Ðấng dứt nghi vô thượng
Với pháp chẳng nghi hoặc
Biển công đức vô biên
Tôi nghi xin được hỏi
Ánh sáng lớn vô biên
Công đức lớn vô biên
Trí thanh tịnh vô biên
Tôi nghi xin được hỏi
Trí tinh tiến vô biên
Trí cảnh giới vô biên
Trí lợi ích vô biên
Tôi nghi xin được hỏi
Thế Tôn trí vô biên
Rời biên và vô biên
Dứt được tất cả nghi
Tôi nghi xin được hỏi
Pháp Vương bất tư nghị
Thương xót nghe tôi hỏi
Cho phép tôi sẽ hỏi
Ðức Phật tuyên dạy cho
Xin hỏi nhứt thiết trí
Ðức Thích Ca Mâu Ni
Nếu thương cho phép tôi
Xin giải những điều nghi”.
Ðức Thế Tôn bảo Vô Biên Huệ Ðại Bồ Tát rằng: “Nầy Vô Biên Huệ! Nay đối với ta, ông khát ngưỡng khẩn cầu muốn hỏi Như Lai bao nhiêu điều. Nếu ông có điều gì muốn hỏi, ta sẽ giải đáp cho”.

Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:

“Nầy ông Vô Biên Huệ
Muốn hỏi những điều gì
Ông đều nên hỏi đi
Như Lai sẽ giải đáp
Như mừng điều được hỏi
Mỗi mỗi việc nên hỏi
Tùy ý thích muốn hỏi
Phật sẽ mau khai ngộ
Ta vì ông diễn nói
Tất cả không còn nghi
Như ông chí nguyện cầu
Xứng theo chỗ ông hỏi
Nay ông bạch hỏi Phật
Ðúng lúc và đúng nghĩa
Vì phải thời bạch hỏi
Nên ta quyết định nói
Cứ như ý ông thích
Bạch hỏi điều nên hỏi
Như Lai đều tùy thuận
Ví ông mà diễn nói
Nay ông hỏi đúng lúc
Ta cũng nói đúng lúc
Dứt lời nghi cho ông
Sẽ được không còn nghi
Như Lai là Pháp Vương
Thấu tỏ nghĩa rốt ráo
Ðối với tất cả pháp
Ðược không còn nghi hoặc
Ta ở nơi các pháp
Chánh giác ngộ khó suy
Theo như ý chúng sanh
Ðem hỏi sẽ giải đáp
Phật ở nơi các pháp
Ðều không còn nghi hoặc
Ðúng lúc mà bạch hỏi
Phật sẽ mau diễn nói
Không còn có nghi hoặc
Ta thường vì người nói
Theo như ý kia thích
Giải thích điều họ nghi
Như Lai thường biết rõ
Thời gian và chúng hội
Các loài chúng sanh thảy
Ý hướng họ chẳng đồng
Phật cũng thường quán sát
Tất cả tâm chúng sanh
Có dục hay không dục
Ðều thấy rõ tất cả
Nếu có hàng trí giả
Có thể khéo tu hành
Ta đều lấy đúng lúc
Ðem chánh pháp khai ngộ
Nếu là người vô trí
Ngu si và mê loạn
Họ không trí huệ sáng
Chẳng tôn trọng chánh pháp
Nếu không tôn trọng pháp
Chẳng mong cầu chánh pháp
Dầu có nghe pháp nầy
Không có trí sáng lớn
Người khéo giỏi nơi pháp
Nơi pháp hy vọng cầu
Nếu được nghe pháp nầy
Sẽ được trí sáng lớn
Người thích pháp Ðại thừa
Cầu thỉnh đấng Thế Tôn
Ðược nghe pháp nầy rồi
Sẽ được trí sáng lớn
Phật đấng trí vô thượng
Phật trì bất tư nghì
Nên những người nguyện cầu
Ðược nghe đều thỏa mãn
Người thích trí vô ngại
Cầu đấng Tối Thượng Tôn
Họ được nghe pháp nầy
Sẽ được lợi ích lớn
Nếu người có trí tánh
Cầu đấng bất tư nghì
Họ được nghe pháp nầy
Sẽ được trí vô thượng
Nếu có những chúng sanh
Cầu được thành Phật đạo
Chuyển pháp luân vô thượng
Nghe pháp đều hoan hỷ
Người ưa thích tinh tiến
Tôn sùng nơi chánh pháp
Ðược nghe pháp ly cấu
Mừng rỡ càng hớn hở
Nếu có các chúng sanh
Thích tu tập pháp lành
Ta dùng ánh sáng pháp
Dạy họ pháp vô thượng
Gánh vác những gánh nặng
Sách tiến tu vô biên
Họ nghe pháp nầy rồi
Vui mừng được đầy đủ
Nếu có người mong cầu
Pháp lành để tư duy
Ta vì thương mến họ
Khai thị pháp vô thượng
Ta thường mến các ông
Tùy các ông bạch hỏi
Ta có thể giải quyết
Dứt nghi cho các ông
Từ nhiều ngàn ức năm
Ta đã khéo tu hành
Ðã trừ hẳn nghi lầm
Biết rõ ý ông thích
Nếu có điều gì nghi
Cho phép ông bạch hỏi
Sẽ giải đáp cho ông
Dứt hết các nghi hoặc
Nếu có điều gì nghi
Cho phép ông bạch hỏi
Như ý ông thích muốn
Ta sẽ diễn nói cho
Nếu có điều gì nghi
Cho phép ông bạch hỏi
Phật an trụ chánh pháp
Không bao giờ động lay”.
Lúc ấy Ngài Vô Biên Huệ Ðại Bồ Tát bạch rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Tôi đối Bồ Tát thừa có chút nghi, nay sẽ xin hỏi.

Bạch Ðức Thế Tôn! Thế nào là bực trượng phu xa rời sự bố úy, nhứt tâm chánh niệm vì chúng sanh mà mặc giáp trụ lớn. Nơi giáp trụ lớn mà trang nghiêm đó. Phát lòng rất mến thích mà tôn trọng đó. Dùng chẳng phóng dật mà ngồi Ðại thừa ấy. Dùng con đường sạch sẽ bằng phẳng lớn, không có những gò nổng ngói đá gai góc dơ dáy lùm cây kiến chấp. Cũng không có gai độc hầm hố khổ não. Cũng không có sự trói buộc sợ sệt gian nan. Con đường bằng phằng đúng lý ngay ngắn không cong queo. Con đường không chướng ngại Ðốn sạch lùm rừng. Xé nát tất cả lưới. Rời xa tối tăm. Trừ bỏ ái trước, vì xả bỏ hòa hiệp để hướng đến Vô Thượng Bồ Ðề.

Bạch Ðức Thế Tôn! Tôi đối với nghĩa nầy mà bạch hỏi. Thế nào thiện trượng phu. Thế nào giáp trụ lớn. Mâc giáp trụ ấy ngồi nơi Ðại thừa, do con đường lớn ấy mà sẽ hướng đến Vô Thượng Bồ Ðề.

Ðức Thế Tôn nên diễn nói chư Ðại Bồ Tát giáp trụ trang nghiêm, an trụ nơi đạo, an trụ nơi các pháp lý thú thiện xảo. Vì ở nơi pháp lý thú an trụ thiện xảo nên có thể phát khởi ánh sáng thiện xảo của các pháp lý thú. Vì có ánh sáng pháp nên chẳng bỏ giáp trụ ngồi nơi Ðại thừa, dùng sức tinh tiến bất thối chuyển, gốc không vọng niệm và sức trí huệ tương tục có thể mau thành tựu pháp giới lý thú rành rẽ khéo giỏi, qua ngồi đạo tràng chuyển chánh pháp luân để vì chúng sanh mà diễn thuyết chánh pháp. Tất cả chúng sanh đúng như sở nguyện của họ, đúng như chỗ hướng đến của họ mà giải thoát sanh tử.

Bạch đức Thề Tôn! Tôi muốn làm lợi ích an vui chúng sanh nên hỏi nghĩa Ðại thừa ấy.

Ðức Thế Tôn Như Lai là bực biết tất cả, thấy tất cả, xin chỉ dạy dùng những pháp gì để thành tựu nhứt thiết chư pháp hải ấn tam muội của chư đại Bồ Tát, do tam muội nầy khiến chư đại Bồ Tát được chẳng thối chuyển Vô Thượng Bồ Ðề.

Ðức Thế Tôn Như Lai biết thấy trọn vẹn các pháp chưa từng có, giỏi về phương thuốc làm nên trí huệ cho chúng sanh. Vì thế nên tôi bạch hỏi”.

Ngài Vô Biên Huệ Ðại Bồ Tát lại nói kệ rằng:

“Vì chư Ðại Bồ Tát
Tôi hỏi Ðức Thế Tôn
Ðấng nhứt thiết tri kiến
Nghĩa Phật pháp thậm thâm
Chỗ tu hành Ðại thừa
Ðịnh nào hướng đến được
Nay tôi đều thỉnh hỏi
Lợi ích các chúng sanh
Thế nào thiện trượng phu
Mặc được pháp vô biên
Mặc giáp như vậy rồi
Sẽ hướng đến thế nào
Khởi thích muốn thế nào
Thế nào mến pháp ấy
Thế nào đại tinh tiến
Thế nào chẳng phóng dật
Thế nào chư Bồ Tát
Ngồi nơi Ðại thừa nầy
Ngồi rồi lại thế nào
Việc ấy xin được nói
Thế nào ngồi Ðại thừa
Hướng đến đạo Bồ Tát
Cúi xin đấng Ðạo Sư
Mau tuyên nói cho tôi
Thế nào là đường bằng
Bình đẳng để hướng đến
Với rừng bụi kiến chấp
Luôn chặt đốn chẳng mệt
Ở trong các cảnh giới
Thế nào được siêu việt
Thế nào dùng bình đẳng
Phá rách lưới tham ái
Thế nào trừ hắc ám
Ðược ánh sáng đại trí
Chư đại Bồ Tát ấy
Sẽ hướng đến thế nào
Hay quan sát thế nào
Rời xa những trói buộc
Thế nào chư Bồ Tát
Rời trói khéo ở an
Thế nào chư Bồ Tát
Vượt qua bố úy lớn
Giỏi khéo các pháp nghĩa
Hướng đến nơi vô thượng
Bồ Tát mặc những gì
Vô biên giáp trụ lớn
Mặc giáp trụ ấy rồi
Ngồi nơi Ðại thừa nầy
Thế nào chư Bồ Tát
Hướng đến đường bằng phằng
Nay tôi kính bạch hỏi
Thế Tôn nên giải đáp
Bồ Tát làm sao được
Trang nghiêm giáp trụ lớn
Thế Tôn nên diễn nói
An trụ nơi đạo nầy
Và trang nghiêm đạo ấy
Nghĩa thiện xảo các pháp
Thế Tôn nên diễn nói
Thế nào biết rõ được
Lý thú của pháp giới
Ánh sáng pháp thiện xảo
Thế Tôn nên diễn nói
Thế nào chư Bồ Tát
Ðược ánh sáng pháp ấy
Rốt ráo tất cả pháp
Thế Tôn nên diễn nói
Thế nào chư Bồ Tát
Ðược ánh sáng pháp rồi
Chẳng bỏ giáp trụ lớn
Do đây mà hướng đến
Thế nào chư Bồ Tát
Ngồi nơi Ðại thừa nầy
Tinh tiến chẳng thối chuyển
Do đây mà hướng đến
Thế nào chư Bồ Tát
Chí niệm thường kiên cố
Hay dùng sức trí lớn
Mà khéo điều phục được
Thế nào được pháp giới
Nghĩa lý thú thiện xảo
Pháp Vương bất tư nghì
Xin Thế Tôn tuyên nói
Thế nào được mau chóng
Ðến đạo tràng Bồ Ðề
Chuyển pháp luân thanh tịnh
Thế gian chẵng chuyển được
Thế nào chẳng động tay
Ðể diễn nói các pháp
Vì tất cả chúng sanh
Như ngày xưa đã nguyện
Do diễn nói các pháp
Giải thoát hẳn sanh tử
Làm sao cho chúng sanh
Rốt ráo được an lạc
Vì lợi ích chúng sanh
Tôi hỏi Ðức Thế Tôn
Bực thấy biết tất cả
Xin vì tôi diễn nói
Nên dùng những pháp gì
Làm cho chư Bồ Tát
Thành tựu tất cả pháp
Hải ấn đại tam muội
Người ham cầu Phật pháp
Khát ngưỡng đại Bồ Ðề
Nếu nghe được pháp này
Toàn thân đều hớn hở”
Ðức Phật phán dậy: “Lành thay, lành thay! Nầy Vô Biên Huệ Ðại Bồ Tát! Thuở quá khứ ông đã cúng dường vô lượng chư Phật, trồng những cội lành, họp các công đức chẳng thể tính lường được. Ở nơi pháp thậm thâm nầy ông ham cầu khát ngưỡng. Dùng đại nguyện để thành tựu chúng sanh mà ông phát khởi đại bi bạch hỏi nơi Ðức Phật.

Ông nên lắng nghe khéo suy gẫm, nay ta sẽ vì ông diễn nói chư Ðại Bồ Tát do thành tựu công đức mà hướng đến Vô Thượng Bồ Ðề”.

Ngài Vô Biên Huệ Ðại Bồ Tát bạch:”Bạch Ðức Thế Tôn! Tôi xinđược nghe”.

Ðức Phật phán:” Nầy Vô Biên Huệ! Ðại Bồ Tát vì Vô Thượng Bồ Ðề mà mặc giáp trụ, vì muốn nhiếp lấy chúng sanh mà mặc đại giáp trụ, vì thanh tịnh bố thí cho chúng sanh mà mặc đại giáp trụ, vì các chúng sanh nên trì giới thanh tịnh ma mặc đại giáp trụ, vì các chúng sanh nên nhẫn nhục thanh tịnh mà mặc giáp trụ, vì các chúng sanh nên tinh tiến thanh tịnh mà mặc đại giáp trụ, vì các chúng sanh nên thiền định thanh tịnh mà mặc đại giáp trụ, vi các chúng sanh nên trí huệ thanh tịnh mà mặc đại giáp trụ, vì làm cho các chúng sanh được an lạc mà mặc đại giáp trụ, vì phát khởi tâm làm lợi ích cho các chúng sanh mà mặc đại giáp trụ, vì làm đối trị tham sân si cho các chúng sanh mà mặc đại giáp trụ, vì làm phương tiện cho đại công đức mà mặc đại giáp trụ, vì khéo viên mãn trí vô thượng mà mặc đại giáp trụ, vì cứu hộ sanh tử bố uý cho các chúng sanh mà mặc đại giáp trụ, vì muốn hiển hiện viên mãn trí vô đẳng đẳng mà mặc đại giáp trụ, vì giao chiến với các ma, quyến thuộc ma và ma nghiệp, cũng vì giao chiến với tất cả ngoại đạo, những hạng người đi trong đường hiểm rừng rậm kiến chấp trong cõi Ðại Thiên naỳ mà mặc đại giáp trụ.

– Nầy Vô Biên Huệ! Chư Ðại Bồ Tát mặc đại giáp trụ như vậy rồi chẳng rời bỏ giáp trụ mà phát khởi đại tinh tiến, có thể vào được trong tất cả loài chúng sanh lấy hạnh nhẫn nhục để an trụ, xa rời bố uý chẳng kinh chẳng sợ chẳng động chẳng loạn mà còn mặc vô biên giáp trụ. Những là giáp trụ cứu hộ tất cả chúng sanh, giáp trụ cắt đứt tất cả lùm rừng kiến chấp, giáp trụ phá các quân ma, giáp trụ có thể tuyên trao trí huệ, giáp trụ làm vô biên cầu đò, giáp trụ thoát khỏi các gánh nặng, giáp trụ tăng trưởng tín tâm thanh tịnh, giáp trụ ở vững nơi giới luật, giáp trụ trừ sạch nghiệp chướng, giáp trụ tất cả trí lực thanh tịnh, giáp trụ sức phương tiện thiện xảo, giáp trụ có thể dứt tất cả chấp trước, giáp trụ trí huệ chẳng thối chuyển chẳng hối hận.

– Nầy Vô Biên Huệ! Chư Ðại Bồ Tát mặc đại giáp trụ như vậy rồi cũng chẳ bỏ rời nhẫ đến sức tinh tiến kiên cố vô biên chẳng bao giờ động lay mà hướng đến Vô Thượng Bồ Ðề”.

Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:

“Bồ Tát mặc giáp trụ
Ðể nhiếp^các chúng sanh
Vì chúng sanh vô biên
Mặc giáp cũng vô biên
Vì bố thí thanh tịnh
Khiến tất cả đầy vui
Vì lợi ích chúng sanh
Mà mặc giáp trụ nầy
Vì trì giới thanh tịnh
Lợi ích cho thế gian
Vì lợi ích chúng sanh
Mà mặc giáp trụ nầy
Vì nhẫn nhục thanh tịnh
Dũng mãnh khéo an trụ
Vì làm lợi chúng sanh
Mà mặc giáp trụ nầy
Vì tinh tiến thanh tịnh
Thành tựu bất thối chuyển
VÌ làm lợi chúng sanh
Mà mặc giáp trụ nầy
Vì thiền định thanh tịnh
Cảnh sở hành cũng vậy
Vì làm lợi chúng sanh
Mà mặc giáp trụ nầy
Vì trí huệ thanh tịnh
Vô lậu và vô thượng
Vì làm lợi chúng sanh
Mà mặc giáp trụ nầy
Tất cả các chúng sanh
Thích gì sẽ cho đủ
Khèo biết ý nghĩa ấy
Mà mặc giáp trụ nầy
Bồ Tát nơi chúng sanh
Hay làm sự lợi ích
Dùng tứ nhiếp thanh tịnh
Ban khắp trong các cõi
Nếu làm người đối trí
Trừ bịnh tham sân si
Trao thuốc cho chúng sanh
Tật bịnh đều tiêu trừ
Do đây các Bồ Tát
Hay khéo mặc giáp trụ
Nơi công đức tư lương
Ðược vô biên phương tiện
Chúng sanh khổ sanh tử
Bức ngặt chẳng an ổn
Tôi thường làm cứu hộ
Mặc giáp trụ vô biên
Vô biên khổ sanh tử
Tôi làm giải thoát được
lưới ái kiến trói buộc
Tất cả đều sẽ đứt
Với lưới phiền não nầy
Làm đứt được tất cả
Sức tinh tiến kiên cố
Dũng mãnh mà mặc giáp
Tất cả các chúng sanh
Cho ở đường an lạc
Do đây đến Niết Bàn
An ổn mà vô thượng
Do sức đại tinh tiến
Mà mặc giáp trụ nầy
Sẽ cùng tất cả ma
Chiến đấu thường chẳng mệt
Với những nhà ngoại đạo
Nắm chặt các kiến chấp
Ði trong rừng rậm hiểm
Mặc giáp làm lợi họ
Và vô lượng chúng khác
Ði ở trong phi đạo
Với họ đều lợi ích
Nên mặc giáp vô biên
Mặc giáp trụ ấy rồi
Chẳng rời bỏ giáp trụ
Khởi sức đại tinh tiến
Mặc giáp trụ kiên cố
Vào trong cõi chúng sanh
Do nhẫn nhục được an
Thành tựu kiên cố nhẫn
Mặc giáp trụ vô thượng
Rời xa các bố uý
Cũng không có kinh sợ
Mặc vô biên giáp trụ
Tất cả siêng tu tập
Khéo mặc đại giáp trụ
Thường hay chánh giác ngộ
Tịch diệt chẳng động lay
Chẳng loạn chẳng thối chuyển
Mặc giáp như vậy rồi
Trí giả lại nên mặc
Giáp cứu hộ chúng sanh
Giáp phá hoại quân ma
Giáp cầu đò vô biên
Tất cả giáp đều mặc
Người trí huệ dũng mãnh
Mặc giáp được ở an
Vì bỏ gánh rất nặng
Mà mặc giáp vô thượng
Ðộ tất cả chúng sanh
Ðều khiến thoát gánh khổ
Thêm lớn tin thanh tịnh
Khéo đều nhiếp sáu căn
Tương ưng với tịnh giới
Mặc giáp trụ vô thượng
Thành tựu trí dũng mãnh
Bồ Tát hay an trụ
Oai nghi đúng giới luật
Mặc giáp không bị động
Xưa ở trong chúng thánh
Tu các hạnh thanh tịnh
Thế nên mặc giáp trụ
Mà thường chẳng khiếp nhược
Dùng trí yêu chúng sanh
Lợi ích các thế gian
Thông đạt các phương tiện
Mặc giáp khéo an trụ
Với trí phương tiện khéo
Bồ Tát thông đạt được
Mặc giáp như vậy rồi
Dứt trừ các khiếp phược
Rời xa tất cả chấp
Chánh tín chẳng sai trái
Người trí mặc giáp trụ
Hướng đến đạo vô thượng
Bồ Tát hay quyết định
Tư lợi và lợi tha
Do sức đại tinh tiến
Kiên cố chẳng thối chuyển”.
Ðức Pật phán tiếp:” Lại nầy Vô Biên Huệ! Trong vô lượng kiếp, Ðại Bồ Tát mang những gánh nặng, mặc giáp trụ lớn. Giáp trụ như vậy, hoặc là ma hoặc là quyến thuộc ma hoặc là sứ giả của ma, và những chúng sanh đi nơi

Lùm rừng rậm rợp xấu hiểm tà kiến đều chẳng thấy được. Tại sao vậy?Vì giáp trụ ấy không có hình sắc hiển bày, không tướng không đối, bỏ tướng rời tướng, không có danh tự vậy.

– Nầy Vô Biên Huệ! Giả sử có cây phi tiễn lượng như núi Tu Di, bén nhọn bắn đến không thể trúng được. Giả sử tất cả chúng sanh trong cõi Ðại Thiên đều làm ma, mỗi chúng sanh ma đều riêng có ngần ấy quyến thuộc quân ma, tất cả đồng thời buông tên lượng như núi Tu Di, họ cũng chẳng thể làm hư hoại giáp trụ của chư đại Bồ Tát, dầu là làm hư chừng bằng sợi lông.

Ðối với chư Ðại Bồ Tát, còn chẳng thể làm cho các Ngài có ý niệm khác huống là làm động tới thân.

Chư đại Bồ Tát nầy nếu có một tâm niệm dẹp trừ họ, thì có thể làm cho quân ma ấy tan nát tiêu diệt.

Khéo an trụ giáp trụ như vậy mà chẳng động lay thì tất cả chúng sanh không có ai phá hoại được. Tại sao vậy? Vì là vô tướng, vì là chẳng phải chỗ đi chỗ thấy của chúng sanh. Tất cả chúng sanh chẳng thấy biết được chư Ðại Bồ Tát, mà Bồ Tát có thể biết rõ tất cả pháp vậy. Vì thấy biết đúng thiệt mặc giáp trụ lớn để cứu hộ tất cả chúng sanh vậy. Với tất cả pháp không có chấp trước, vì muốn lợi ích tất cả chúng sanh vậy. Với tất cả pháp cũng vô sở đắc thế nên chúng sanh chẳng thấy biết được giáp trụ như vậy, vì giáp trụ ấy không có hình tướng, không có lộ bày, không có ngôn thuyết vậy. Giáp trụ ấy chẳng tương ưng với sắc, với thọ, tưởng, hành thức, chẳng tương ưng với nội, ngoại và trung gian, cũng chẳng tương ưng với chẳng phải nội ngoại trung gian, chẳng tương ưng với thập nhị xứ, thập bát giới, chẳng tương ưng với địa thủy hỏa phong và không đại chủng, chẳng tương ưng với cõi Dụcncõi ắc và cõi Vô Sắc, chẳng tương ưng với hữu tác, vô tác, diệc hữu tác vô tác và phi hữu tác vô tác, chẳng tương ưng với Thanh Văn địa, Bích Chi Phật địa và Phật địa, chẳng tương ưng với đường ngữ ngôn, chẳng tương ưng với sắc nhơ và sắc tướng, chẳng tương ưng với thọ, tưởng, hành, thức, nhơn và thọ, tưởng, hành, thức tướng, chẳng tương ưng với tướng và phi tướng, với tất cả pháp chẳng tương ưng cũng chẳng phải chẳng tương ưng, không có trói buộc, không có giải thoát, cũng chẳng phải toán số hay thí dụ mà biết được, vì tất cả pháp quá các số vậy.

Giáp trụ như vậy, tất cả pháp kiến đếu bất khả đắc cả. Những là sắc kiến bất khả đắc, thọ kiến bất khả đắc nhẫn đến thức kiến bất khả đắc, cho đến không có chút pháp kiến nào khả đắc cả.

Giáp trụ như vậy, chẳng cùng tất cả pháp tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng cùng sắc, thọ, tưởng hành, thức tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Với tất cả pháp hoặc tương ưng hoặc chẳng tương ưng kia đều rời xa.

Giáp trụ như vậy không có tạo tác vì không có tác giả vậy, không có tướng vì chẳng ohải tướng vậy, không có tướng xứ sở, không có tướng hòa hiệp, không có phân biệt, không có động lay, không có phan duyên, không có tánh để thấy được.

Người mặc giáp trụ cũng bất khả đắc.

Mặc giáp như vậy cũng chẳng thể thấy được. Tại sao vậy? Vì lúc chư Ðại Bồ Tát mặc giáp trụ mà chẳng thấy có ai là người mặc giáp, mặc giáp chỗ nào, tù đâu mặc giáp, cũng chẳng thấy tôi có thể mặc giáp, chẳng thấy áo giáp được tôi mặc, cũng chẳng thấy có chỗ nầy mặc giáp, chỗ kia mặc giáp, cũng chẳng thấy có mặc giáp vậy.

Vì các chúng sanh nơi tất cả pháp không chỗ hành, không chỗ kiến nên chư đải Bồ Tát mặc giáp trụ như vậy, cũng là mặc giáp trụ của Ðức Như Lai mặc, thân bất khả đắc, tâm bất khả đắc, ý bất khả đắc, vì bất khả đắc nên xa rời phân biệt.

Nếu chư Bồ Tát còn chút pháp, hay là được chút pháp mà hiện tại mặc giáp trụ hay là sẽ mặc giáp trụ, thì chẳng nên gọi rằng mặc đại giáp trụ. Nếu tâm Bồ Tát vượt quá các pháp mới gọi là mặc đại giáp trụ tư nghị.

Chư đại Bồ Tát chẳng vì thiểu số chúng sanh mà mặc đại giáp trụ, cũng chẳng vì một kiếp chúng sanh mà mặc đại giáp trụ, cũng chẳng vì trăm kiép, ngàn kiếp cho đến trăm ngàn na do tha câu chi kiếp chúng sanh mà mặc đại giáp trụ, chánh là vì vô lượng vô số kiếp chúng sanh mà Ðại Bồ Tát mặc đại giáp trụ, vì thế nên gọi rằng vô lượng đại giáp trụ vậy.

Lúc mặc đại giáp trụ, Ðại Bồ Tát mặc giáp trụ chẳng sanh tưởng là chúng sanh, mặc giáp trụ chẳng khởi tưởng là ngã, mặc giáp trụ rời lìa tưởng có chúng sanh, mặc giáp trụ diệt trừ tưởng có ngã, mặc giáp trụ biết rõ tánh chúng sanh, mặc giáp trụ biết rõ tánh ngã, mặc giáp trụ vượt quá thọ và tưởng, mặc giáp trụ biết rõ tất cả pháp không có tướng tạo tác, là tướng rỗng không, là tướng vô tướng, là tướng vô nguyện, là tướng vô sanh, là tướng vô diệt, mặc giáp trụ biết rõ tánh tướng sai biệt của tất cả pháp và tánh tướng vô sai biệt của tất cả pháp, mặc giáp trụ biết rõ sự tướng của tất cả pháp và vô sự tướng của tất cả pháp.

– Nầy Vô Biên Huệ! Nếu còn ở nơi sự tướng mà mặc giáp trụ, thì trọn chẳng gọi rằng mặc đại giáp trụ, vì chư đại Bồ Tát chẳng ở nơi sự tướng mà cầu đại trí tuệ nên gọi là mặc đại giáp trụ”.

Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:

“Trong vô lượng kiếp
Mặc giáp lớn vô biên
Vì muốn cho chúng sanh
Giải thoát các khổ não
Giáp trụ lớn như vậy
Hoặc ma hay ma sứ
Và kẻ tạo ngiệp ma
Mắt họ chẳng thấy được
Cùng với những chúng sanh
Ði nơi rừng chấp kiến
Họ cũng chẳng thấy được
Giáp trụ bất tư nghị
Giáp trụ nầy không sắc
Không hình không đối đãi
Giáp trụ chẳng nghĩ bàn
mắt thường chẳng thấy được
Không danh cũng không tướng
Rời xa tất cả tướng
Giáp trụ nầy vô biên
Nên không tướng thấy được
Giả sử tên như núi
Ðồng loạt nhắm bắn vào
Giáp trụ bất tư nghị
Khiến tên tự gãy nát
Tất cả ma trong đời
Cũng mang tên như núi
Nhắm ngay đại giáp trụ
Ðồng loạt bắn thẳng vào
Nhưng đại giáp trụ nầy
Chẳng tổn chừng đầu lông
Giáp trụ bất tư nghị
Chẳng gì phá hư được
Vì thế nên Bồ Tát
Thân Tân chẳng biến đổi
Giáp trụ bất tư nghị
Ai làm khuynh đọng được
Bồ Tát bất tư nghị
Nếu dùng một tâm niệm
Muốn dẹp trừ chúng ma
Quân ma liền lui tan
Ðại giáp trụ như vậy
Chưa từng có động lay
Tất cả các chúng sanh
Không ai có thể thấy
Tất cả các chúng sanh
Chẳng biết tướng giáp trụ
Vì thế các chúng sanh
Mắt họ chẳng thấy được
Bồ Tát làm chỗ dựa
Biết được tất cả pháp
Dường như thắng kim cương
Ðây là người khéo mặc
Chẳng thọ tất cả pháp
Cứu hộ các chúng sanh
Thuận theo pháp của Phật
Ðây là người khéo mặc
Giáp trụ không chổ lấyTuỳ thuận tất cả pháp
Giáp trụ chẳng nghĩ bàn
Ðây là người khéo mặc
Giáp trụ không thị hiện
Trị sạch tất cả pháp
Các pháp rời ngôn thuyết
Không ai Thị hiện được
Chẳng tương ưng với sắc
Thọ, tưởng, hành và thức
Cũng đều chẳng tương ưng
Cũng đều chẳng hòa hiệp
Chẳng tương ưng với nội
Chẳng tương ưng với ngoại
Chẳng tương ưng nội ngoại
Cũng đều chẳng hòa hiệp
Chẳng tương ưng với xứ
Chẳng tương ưng với giới
Hoặc trong xứ, trong giới
Cũng đều chẳng hòa hiệp
Chẳng tương ưng với địa
Chẳng tương ưng thủy, hỏa
Phong và không cũng vậy
CHẳng tương ưng chẳnh hiệp
Chẳng tương ưng Dục giới
Sắc giới, Vô Sắc giới
Cũng đều chẳng tương ưng
Cũng đều chẳng hòa hiệp
Tất cả vô sở đắc
Chẳng cùng các hữu tác
Chẳng cùng các vô tác
Tương ưng và hòa hiẽp
Giáp trụ bất tư nghị
Không ở không hòa hiệp
Không buộc không giải thóat
Cũng không chẳng tương ưng
Giáp trụ không biên tế
Chẳng cùng Thanh Văn địa
Chẳng cùng Ðộc Giác địa
Tương ưng và hòa hiệp
Nhẫn đến chư Phật địa
Và cùng tất cả pháp
Tất cả chẳng tương ưng
Tất cả chẳng hòa hiệp
Tất cả đường ngôn ngữ
Không có thể đến được
Vì giáp trụ vô biên
Không thể, khó nghĩ bàn
Nên chẳng cùng tất cả
Tương ưng chẳng tương ưng
Giáp trụ bất tư nghị
Vượt quá tất cả số
Giáp trụ nầy vô thượng
Không buộc không chẳng buộc
Cũng không có tướng sắc
Tướng thọ, tưởng, hành, thức
Chẳng cùng các tướng ấy
Tương ưng và hòa hiệp
Chẳng cùng các pháp tướng
Tương ưng chẳng tương ưng
Cũng chẳng cùng vô tướng
Tương ưng và hòa hiệp
Giáp trụ nầy vô thượng
Không buộc không giải thoát
Trong tất cả các pháp
Chẳng vào một pháp nào
Trong tất cả các pháp
Giáp trụ bất khả đắc
Vì thế nên vô thượng
Gọi là bất tư nghị
Giáp trụ không có sắc
Không thọ cũng không tưởng
Không hành cũng không thức
Chẳng nhiếp trong các uẩn
Bực dũng mãnh như vậy
Mặc đại giáp trụ nầy
Thân tâm vô sở đắc
Chẳng thấy chút pháp nhỏ
Vì vượt quá nghĩ suy
Tâm thanh tịnh an trụ
Mà thường không khiếp nhược
Gọi là bất tư nghị
Mặc giáp trụ kiên cố
Tâm mình không lay động
Chẳng kể số lương kiếp
Gọi là bất tư nghị
Giáp trụ không số luợng
Chẳng lấy pháp phi pháp
Vì không có thời lượng
Nên gọi bất khả lượng
Chẳng khởi chúng sanh tưởng
Cũng không có ngã tưởng
Vì biết được tưởng nầy
Tất cả tưởng chăng sanh
Cũng biết tất cả pháp
Pháp ấy đều vô tướng
Mặc giáp trụ như vậy
Gọi là bất tư nghị”.
Ðức Phật phán tiếp: Lại nầy Vô biên Huệ! Ðại giáp trụ ấy có tên là diệu pháp nghiêm cụ trang nghiêm, cũng tên là tối thượng bất khả hoại, cũng tên là nhứt thiết pháp vô sai biệt, vì chẳng làm sai biệt chút pháp nào.

Chư đại Bồ Tát mặc giáp trụ ấy, giữ sức đại trí huệ ngồi nơi Ðại thừa, tối thượng thừa, vô đẳng đẳng thừa, đại nhiếp thọ thừa, vô biên nhiếp thọ thừa.

Tất cả chúng sanh ngồi nơi thừa nầy, thì trong thừa nầy đều dung thọ tất cả, mà thừa nầy chẳng hề tăng giảm, có thể làm cho chúng sanh đều an vui mà ở, cũng làm cho chúng sanh an vui mà ra.

Nếu có chúng sanh nào ngồi nơi thừa quyết định an vui nầy thì thân tâm họ không có nhọc mệt lao khổ.

– Nầy Vô Biên Huệ! Ðại thừa nầy chói che tất cả thế gian Thiên, Nhơn, A Tu La, Thanh Văn, Duyên Giác và các thừa khác mà sẽ xuất ly.

Ðại thừa nầy không đến, không đi, không ở, không thấy, không biết, lúc trước bất khả đắc, lúc sau bất khả đắc, lúc giữa bất khả đắc, ba đời bình đẳng, dường như hư không chẳng nhiễm tạp bụi trần, không có chối đãi, không có chướng ngại, cũng không chấp trước. Vì do thừa nầy mà sẽ xuất ly.

Ðại thừa nầy vô lượng vì chẳng lường được.

Ðại thừa nầy vốn không tướng chướng ngại vì chẳng ở nơi tướng.

Ðại thừa nầy tối thượng đệ nhứt. Người ngồi thừa nầy không có tâm khiếp nhược mà hướng đến Vô thượng Chánh giác.

– Nầy Vô Biên Huệ! Thừa nầy như ngọn đèn, như mặt nhựt mặt nguyệt làm ánh sáng lớn cho các chúng sanh

Ðại thừa nầy cũng vậy, ánh sáng của nó chiếu khắp cõi Ðại Thiên không gì che không gì chướng ngại được, có thể dùng biển lớn công đức vô biên mà hướng đến Vô thượng Bồ Ðề.

– Nầy Vô Biên Huệ! Ðại thừa nầy không tối trừ được bịnh của tất cả thế gian, vượt quá tất cả pháp thế gian nhiếp lấy chúng sanh lớn, chẳng phải các chúng sanh hạ liệt mà có thể ngồi được, chỉ trừ người có thể mặc đại giáp trụ, như ta đã nói người ở trong vô lượng kiếp cứu hộ chúng sanh cúng dường chư Phật trồng các cội lành tư lương thanh tịnh thì có thể ngồi được. Những hàng Tanh Văn, Duyên Giác và các hạng hạ liệt bị ràng buộc ở thế gian tương ưng với thế gian, hoặc hạng tăng thượng mạn, những ngoại đạo bất tín, họ còn chẳng muốn nghe tên của Ðại thừa nầy huống là có thể ngồi nơi Ðại thừa nầy.

Nếu có chúng sanh nào dạo đi trong cảnh giới bất tư nghị, ngồi ở Ðại thừa nầy rồi như nguyện thù thắng của mình mà hướng đến Vô Thượng Bồ Ðề.

– Nầy Vô Biên Huệ! Ðại thừa nầy không thời gian biên tế, sơ tế, trung tế và hậu tế chẳng thể biết rõ được. Ðại thừa nầy tế đoạn bất khả đắc. Vô biên tế là thừa tế nầy, vô lượng tế là thừa tế nầy.

– Nầy Vô Biên Huệ! Thừa nầy vô biên tế, cũng không có trung tế, không có chút ít tế mà có thể đoạn dứt được.

Nói là tế đoạn dứt, bởi vì không có chút ít tế nên nói là tế đoạn, vì chẳng phân biệt tế nên nói là tế đoạn, như thế gọi là tế đoạn của Ðại thừa nầy.

Tế vô số hữu mà nói là trung tế, tế vô sở hữu mà nói là biên tế, tế vô sở hữu mà dùng tế để nói. Ở trong tế ấy, tế bất khả đắc. Vì là bất khả đắc nên biên tế, trung tế không có tế không có đoạn mà nhập vào tế môn. Vì nhập vào tế môn nên thừa nầy vượt quá nơi đó. Vượt quá nầy cũng vô sở đắc.

– Nầy vô biên Huệ! Những gì là tế? Ðó là đoạn thường tế, vì vào trong ngôn ngữ vậy, nên tế là chẳng phải tế. Ðoạn thường tế ấy chẳng có biên tế, bởi tướng của tế ấy là tướng vô biên vậy.

Nói là tế không có phân biệt, vì dứt phân biệt, nên vượt quá nơi tế rời xa đoạn thường.

– Nầy Vô Biên Huệ! Người có thân kiến thì ở nơi tế môn có chỗ y chỉ. Nếu là người không có thân kiến thì ở nơi tế môn không có cha trước. Vì không có chấp trước nên có thể vượt quá đoạn thường tế.

– Nầy Vô Biên Huệ! Ðoạn thường tế ấy không có thiệt, chỉ là lời nói phỉnh phờ ở trong ba cõi phân biệt có hai tế đoạn và thường. Ðối với hai tế ấy, nếu chẳng nắm lấy, nếu chẳng tương ưng mới có thể vượt quá chấp kiến đoạn thường ở nơi hai tế môn mà không chỗ chấp trước.

– Nầy Vô Biên Huệ! Nếu Ðại Bồ Tát chưa rời thân kiến thì chẳng gọi là mặc giáp trụ ngoi nơi Ðại thừa, với tế môn kia là có chấp trước. Dầu có muốn dứt tế lại khởi tưởng niệm dứt tế, lại là có phân biệt tiền tế hậu tế.

Nếu đại Bồ Tát đã rời thân kiến thì gọi là mặc đại giáp trụ ngồi nơi Ðại thừa, với tế môn ấy chẳng có chỗ chấp đã vượt quá hai tế dùng thừa an lạc mà hướng đến Vô Thượng Bồ Ðề.

– Nầy Vô Biên Huệ! Chư Ðại Bồ Tát dùng sức đại trí huệ, ở nơi tất cả pháp trụ tế, có thể chẳng đoạn chẳng phá mà phương tiện khôn khéo nhiếp lấy chỉ quán tu tập vô tướng, được chứng vô tướng thì được chư Phật trao cho ánh sáng pháp. Do ánh sáng pháp mà tất cả tế đoạn dứt. Ðối với tế đoạn ấy cũng không nắm lấy, không có chút ít tế nào ở môn kia hoặc là tương ưng hay chẳng tương ưng, hoặc ghi nhớ hay chẳng ghi nhớ. Với tất cả pháp, phương tiện khôn khéo an trụ ở chỉ quán bèn được vô biên ánh sáng đại pháp. Vì ánh sáng đại pháp nên rời xa tói tăm bố úy mà dụng đại pháp tràng, phát đại phạm âm, rống đại sư tử mà bảo chúng sanh rằng: Mọi người mau đến nơi Ðại thừa nầy, đại an lạc thừa nầy, đại điều ngự thừa nầy, đại phát thu thừa nầy để hướng đến Vô Thượng Bồ Ðề. Ðại Bồ Tát vì chúng sanh mà diễn ánh sáng pháp. Vì ánh sáng pháp có thể làm cho chúng sanh mặc đại giáp trụ ngồi Ðại thừa nầy.

– Nầy Vô Biên Huệ! Ðại Bồ Tát ở nơi Ðại thừa nầy, ở nơi đại giáp trụ nầy chớ có lòng lẫn tiếc, nên nguyện cầu cho chúng sanh phát tâm Bồ Ðề mặc giáp trụ nầy và ngồi Ðại thừa nầy.

Các chúng sanh ấy ở nơi Ðại thừa và đại giáp trụ nầy cũng chớ lẫn tiếc mà phải luân chuyển khuyến cáo chúng sanh khác, lại cũng nguyện cầu các chúng sanh mặc giáp trụ và ngồi Ðại thừa nầy để được xuất ly.

Lúc chư đại Bồ Tát an trụ trong hạnh nguyện ấy, các Ngài nhiếp thủ Phật quốc, thanh tịnh Phật quốc, nhiếp thủ Thanh Văn và chư Bồ Tát để được viên mãn công đức. Do biển đại công đức vô biên nầy mà hướng đến Vô Thượng Bồ Ðề.

– Nầy Vô Biên Huệ! Ðại thừa nầy đồng với pháp giới, bờ nầy hay bờ kia đều không có gì để được, nhưng có thể vận tải tất cả chúng sanh từ đây đến ở trong pháp giới, tương ưng với pháp giới, tương ưng với giáp trụ không có chỗ tương ưng.

Nếu ở nơi Ðại thừa đồng pháp giới nầy mà chuyên cần tu tập thi hướng đến Vô Thượng Bồ Ðề.

– Nầy Vô Biên Huệ! Như Pháp giới không có nhiễm bụi trần, không ai phá hoại được, không gì nhiễm được.

Cũng vậy, Ðại thừa nầy không bị hoại, không bị nhiễm. Vì không hoại không nhiễm nên sẽ đến nhứt thiết chủng trí. Vì thế nên thừa nầy tên là Ðại thừa. Thừa nầy vô ngại, tất cả Thiên, Nhơn, A Tu La ở thế gian chẳng làm thối chuyển được.

Do vì thừa nầy không chấp trước nên sẽ đến nhứt thiết chủng trí, vì thế nên thừa nầy tên là Ðại thừa.

Gọi là Ðại thừa có nghĩa là đại trang nghiêm. Tất cả trang nghiêm đều vào trong Ðại thừa nầy”.

Vô Biên Huệ Bồ Tát bạch rằng:” Bạch Ðức Thế Tôn! Trong Ðại thừa nầy há lại có những trang nghiêm hữu vi ư?”.

Ðức Phật phán:” Nầy Vô Biên Huệ! Ðúng như vậy. Ta tùy thuận thế tục nên ở trong Ðại thừa nầy cũng nói tất cả trang nghiêm hửu vi.

– Nầy Vô Biên Huệ! Như Chuyển Luân Vương, Ðế Thích và Phạm Vương đều từ Ðại thừa nầy xuất sanh, hoặc đã xuất sanh, hoặc sẽ xuất sanh, dầu ở ngôi tôn quý mà chẳng bị lỗi lầm sanh tử phiền não làm nhiễm trước, có thể ở nơi ngũ dục mỗi mỗi đều vừa chừng.

Ðã vừa chừng rồi thì nhàm bỏ mà có thể biết rõ được đạo xuất ly.

Nếu chư Ðại Bồ Tát ngồi Ðại thừa nầy dầu thọ lãnh sanh tử nhưng ở đâu cũng chẳng bị ô nhiễm mà thấy được sự lỗi lầm có thể biết xuất ly. Nếu ở nơi đây ta chưa nói các pháp và các trang nghiêm, do tướng của thừa nầy, chư Ðại Bồ Tát ấy cũng có thể biết được các pháp và các trang nghiêm kia mà hướng đến Vô Thượng Bồ Ðề”.

Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:

“Ðại thừ vô thượng thừa
Thừa nầy bất tư nghị
Nếu ai ngồi thừa nầy
Ðều sẽ được xuất ly
Thừa nầy bất tư nghị
Vô lượng vô biên tế
Là chỗ y chỉ lớn
Nên gọi là Ðại thừa
Tất cả các chúng sanh
Ngồi nơi Ðại thừa nầy
Thừa nầy vẫn không giảm
Cũng lại không có tăng
Tất cả các chúng sanh
Ngồi nơi Ðại thừa nầy
An lạc mà hướng đến
Trong ấy không khổ não
Nếu chư đại Bồ Tát
Từ thừa nầy hướng đến
Thẳng tiến không làm khác
Thân tâm chẳng mỏi nhọc
Soi sáng khắp thế gian
Trời, Người, A Tu La
Sẽ ở Ðại thừa nầy
Mà hướng đến vô thượng
Chói che các Duyên Giác
Và các Thanh Văn thừa
Ở nơi Ðại thừa nầy
Mà hướng đến vô thượng
Không lai cũng không khứ
Không trụ không tiền tế
Không hậu tế trung tế
Không được không chỗ thấy
Ba đời đều bình đẳng
Dường như trong hư không
Thừa nầy cũng như vậy
Rời xa các phiền não
Thừa nầy không đối đãi
Không chướng cũng không ngại
Hay cứu tất cả loài
Chỗ hướng không chấp trước
Thừa nầy không có lượng
Cũng không tất cả tướng
Tự tánh bất khả đắc
Vô úy chẳng nghĩ bàn
Có ai ngồi thừa nầy
Thì được vô sở úy
Ở trong chư Phật pháp
Không chướng cũng không ngại.
Dùng thừa nầy hướng đến
Chiếu sáng khắp thế gian
Như mặt nhựt sáng lớn
Không lúc nào chẳng chiếu
Thừa nầy chẳng hoại được
Không gì che chói được
Vô lượng đức tư lương
Mà hướng đến vô thượng
Thừa nấy siêu thế gian
Ra khỏi hẳn ba cõi
Rời xa các tối tăm
Thẳng đến quả vô lậu
Thừa nầy chỉ nhiếp lấy
Tất cả chư Bồ Tát
Còn các chúng sanh khác
Trong ấy chẳng dung thọ
Nếu có người trí huệ
Trong vô lượng ngàn kiếp
Siêng to tân phương tiện
Mới ngồi được thừa nầy
Thanh Văn và Duyên Giác
Tất cả hàng ngoại đạo
Tiểu trí và tà kiến
Chẳng ngòi được thừa nầy
Nếu có các chúng sanh
Hướng đến nơi phi đạo
Hạng nầy kém phước đức
Chẳng kham nghe thừa nầy
Nếu có các chúng sanh
Với pháp bất tư nghị
Khôn khéo mà do hí
Ngồi được Ðại thừa nầy
Tùy theo họ kiến lập
Những thệ nguyện thù thắng
Ở trong chánh đạo nầy
Mà hướng đến vô thượng
Thừa nầy không biên tế
Cũng không có trung tế
Biên tế và trung tế
Thảy đều bất khả đắc
Bởi tế bất khả đắc
Nên thừa nầy không tế
Vì tất cả tế đoạn
Nên an lạc hướng đến
Thừa nầy vô biên tế
Vô biên là thừa tế
Thừa nầy vô lượng tế
Vô lượng là thừa nầy
Thừa nầy vô tế đoạn
Vô tế là tế đoạn
Chẳng phân biệt nơi tế
Ðoạn cũng chẳng thể được
Thừa tế không biên tế
Cũng không có trung tế
Cũng không tế không tế
Tế tánh vô sở hữu
Nơi tế không tế tướng
Chẳng phải tế làm tướng
Ở trong các tế ấy
Tế tướng vô sở hữu
Chẳng phải tế nói môn
Thừa nầy đã vượt quá
Ở chỗ quá lượng kia
Tương ưng bất khả đắc
Ta nói đoạn thường tế
Hữu biên vô biên tế
Tất cả tế như vậy
Tế kia chẳng phải tế
Tất cả tế vô biên
Tế tướng vô sở hữu
Tự tánh tất cả tế
Trong ấy chẳng phân biệt
Trong các tế như vậy
Vì dứt nơi phân biệt
Nên biên cùng vô biên
Tất cả đều được dứt
Nếu còn có thân kiến
Thì nói các tế môn
Chấp trước các tế ấy
Là người không chỗ dựa
Nếu không có thân kiến
Chẳng chấp các tế môn
Là bực đại trí huệ
Có thể nơi các tế
Ðều vượt quá tất cả
Do đây trong Phật pháp
An lạc mà hướng đến
Bồ Tát khéo quán sát
Hay dùng sức trí tuệ
Chẳng có được chút pháp
Dứt được trừ diệt được
Thường dùng phương tiện khéo
Khéo nhiếp lấy chỉ quán
Vì biết rõ một tướng
Các tướng đều biết rõ
An trụ ở chánh pháp
Ðược ánh sáng đại pháp
Do pháp quang minh nầy
Quyết xong các tế kia
Chẳng thấy có chút tế
Là tế hay phi tế
Chỗ tương ưng được kia
Không chấp trước tất cả
Nếu thấy chúng sanh khổ
Khuyến dụ mà bảo rằng
Ngươi đến nơi thừa nầy
An vui mà xuất ly
Thọ sanh ở chốn nào
Hay làm ánh sáng pháp
Mặc giáp ngồi Ðại thừa
Cũng đem đây khai thị
Thừa nầy giáp trụ nầy
Chớ có lòng lẫ tiếc
Cũng khiến các chúng sanh
Mặc giáp ngồi Ðại thừa
Ngồi thừa an lạc nầy
Mà hướng đến vô thượng
Chư Bồ Tát như vậy
An trụ đây tu hành
Hay ở trong Phật pháp
Mau hướng đến vô thượng
Thanh tịnh chư Phật quốc
Nhiếp thọ chư Thanh Văn
Và các chúng Bồ Tát
Sự công đức trang nghiêm”.
Ðức Phật phán tiếp:” Nầy Vô Biên Huệ! Ta nhớ thuở xưa lúc ta tu Bồ Tát hạnh, ta mặc giáp trụ như vậy và ngồi Ðại thừa như vậy, vượt quá các tế, diệt được tối tăm, trừ được bố úy, ở nơi chỗ vô lượng trăm ngàn câu chi na do tha chư Phật, dùng sức đại tinh tiến nghe giáp trụ trang nghiêm và Ðại thừa trang nghiêm nầy của Ðại Bồ Tát, ta vui mừng hớn hở. Lúc ta quan sát pháp ấy, đối với Ðức Phật Thế Tôn ta cung kính tôn trọng, chẳng nghĩ tưởng rằng ta mặc giáp trụ như vậy, ta có giáp trụ như vậy, ta được pháp như vậy, ta có pháp như vậy, ta có các loại pháp như vậy. Lúc ấy ta không có quan niệm có ngã, ta rời xa thân kiến, rời xa ngã mạn, lòng không có cao hạ, không có phân biệt. Vì muốn nhiếp thọ tất cả chúng sanh, hộ trì pháp tạng của chư Phật Như Lai, thành thực vô lượng trăm ngàn câu chi na do tha chúng sanh, ta không hề có một tâm niệm mỏi nhọc. Lúc ấy ta chẳng bỏ giáp trụ, ngồi vô biên thừa. Trong nhiều đời ta có thể phá quân ma. Các quyến thuộc ma đều thối bại tiêu diệt. Các sứ giả ma kinh sợ bỏ chạy. Tất cả hàng ngoại đạo và những phái tương ưng với dị đạo đều bị ta hàng phục, đặt họ vào chỗ an ổ. Tất cả dị luận ta đều dẹp trừ. Tất cả ngoại đạo đều hàng phục ta. Những chúng sanh xu hướng đường tà, ta làm cho họ ở nơi thừa nầy trồng các cội lành. Ta vì các chúng sanh mà khai thị giáp trụ và giáp trụ trang nghiêm. Ta cũng vì các chúng sanh mà diễn thuyết các loại pháp Ðại thừa an lạc như vậy. An trụ trong thừa nầy thì được tất cả đồ dùng an vui, đó là đồ dùng an vui hữu vi: Chuyển Luân Vương, Ðế Thích và Phạm Vương. Cũng được đồ dùng an vui vô vi.

Lúc ta vì các chúng sanh nói pháp nầy, ta làm cho các chúng sanh vào trong pháp ấy phát sanh chủng tánh chư thánh, dựng tràng đại pháp, rống tiếng sư tử mà hướng đến Vô Thượng Bồ Ðề.

– Nầy vô Biên Huệ! Chư Ðại Bồ Tát phải mặc đại giáp trụ như vậy rồi đúng như lý mà quan sát tuyển trạch.

Ðại Bồ Tát phải ở nơi pháp nào để hướng đến? Ðối với tất cả pháp, Ðại Bồ Tát có thể thấy biết rõ hết không có phân biệt. Tại sao vậy?Chư Ðại Bồ Tát an trụ chánh đạo vì biết đúng lý vậy. Chư Ðại Bồ Tát hướng đến chánh đạo, vì thấy đúng lý vậy. Thanh tịnh đúng lý thì chẳng phân biệt chẳng phải chẳng phân biệt, mà ở trong phân biệt và chẳng phân biệt thấy biết bình đẳng. Nếu còn thấy có pháp cầu được tìm được thì chẳng bình đẳng, thì chẳng an trụ trong sự thấy biết thanh tịnh đúng lý. Do vì không phân biệt không chẳng phân biệt nên ở trong phân biệt chẳng phân biệt kia được chẳng chấp thủ. Do vì chẳng chấp thủ nên rời xa phân biệt và chẳng phân biệt.

Ở trong đạo nầy không có thương xót, không có thi vi, không có tăng ích, cũng không thủ xả, đứng nơi đạo bình chánh, cũng chẳng phân biệt quá khứ hiện tại vị lai, có thể biết rõ khắp tập chủng của tất cả phân biệt, đối với tất cả pháp được an trụ bình đẳng, không có nghĩa điên đảo mới được gọi là an trụ ở đạo nầy vậy.

– Nầy Vô Biên Huệ! Những gì là đạo và đạo thanh tịnh?

Ðó là tám chi thánh đạo: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tiến, chánh niệm và chánh định.

Chánh kiến dứt trừ được thân kiến, vượt quá cảnh sở hành của tất cả kiến chấp và tất cả các kiến chấp, đối với tất cả chỗ đều được thanh tịnh, mà biết rõ được tất cả phân biệt, hoặc là thắng phân biệt hoặc là khắp phân biệt thì là không phân biệt không thắng phân biệt không khắp phân biệt, chẳng an trụ tà tư, dứt tà tư duy. Thấy được chánh mạng, thấy được tưởng chánh mạng, thấy được mạng thanh tịnh, an trụ mạng thanh tịnh, đúng như lý thấy đơực thân nghiệp thanh tịnh, ngữ nghiệp thanh tịnh và ý nghiệp thanh tịnh an trụ nơi chánh nghiê(p.

Chánh kiến ngữ nghiệp, đối với ngữ nghiệp đều có thể thấy biết, an trụ nơi chánh ngữ có thể đối trị thanh tịnh.

Chánh kiến tinh tiến, khéo nhiếp tinh kiến, an trụ chánh tinh tiến.

Chánh kiến ức niệm mà không có niệm cũng không có tác ý không chỗ chấp thủ, dùng niệm thanh tịnh an trụ nơi chánh niệm.

Chánh kiến tam muội, ở trong tam muội không chỗ y chỉ mà có thể thanh tịnh tri kiến tam muội an trụ ở chánh định.

– Nầy Vô Biên Huệ! Lúc thấy như vậy, chư đại Bồ Tát được chánh kiến thanh tịnh đối với tất cả chỗ và an trụ nơi đạo thanh tịnh.

Ðạo thanh tịnh ấy là chỗ tu hành của thiện trượng phu, là chỗ mà trí giả tôn trọng, chúng Thánh hài lòng, chư Phật khen ngợi. Chẳng phải là chỗ đi của tất cả ma, ma dân, ma sứ, ma thiên. Cũng chẳng phải là chỗ đi cuả những hàng ngoại đạo, những người y chỉ tranh luận đang đi trong rừng rậm kiến chấp hướng đến phi đạo. Cũng chẳng phải chỗ đi của tất cả hàng ái trước Niết Bàn. Tại sao vậy?Vì người an trụ vô vi thì đối với Niết Bàn có chỗ phân biệt. Nếu phân biệt Niết Bàn thì phân biệt các hành pháp. Tại sao vậy? Vì ở trong Niết Bàn giới vượt quá tất cả động niệm phân biệt, còn không có vô vi huống là có hữu vi.

Ðạo nầy có thể sạch hết tất cả phân biệt, còn không có chút vô vi phân biệt há lại có tất cả hữu vi phân biệt. Nếu ở nơi Thánh đạo mà có phân biệt thì chẳng gọi là an trụ nơi Thánh đạo. Nếu dứt tất cả động niệm phân biệt thì gọi là an trụ Thánh đạo, là an trụ đạo vô úy, là an trụ đạo an ổn, là an trụ đạo an lạc.

Ðạo nầy có thể đến chỗ không gìa bịnh chết lo khổ. Ðạo nầy có thể đến chỗ không có tự tánh vượt quá các tánh. Ðạo nầy có thể đến chỗ rời xa tất cả tánh và phi tánh. Ðạo nầy có thể đến chỗ không hiện bày tướng sắc và tướng phi sắc. Ðạo nầy như hư không khắp tất cả chỗ có thể đến trong đại cung điện vô thượng. Ði như thế không còn lui trở lại thì được bao nhiêu là an ổn khoái lạc.

Ðại cung điện ấy chẵng hiện bày được, không có các sự tướng, không có chút hữuvi, không có chút vô vi, đã diệt hữu vi, đã bỏ vô vi, chẳng cho chúng sanh sự an trụ sự an lạc hữu vi, an lạc vô vi

– Nầy Vô Biên Huệ! Những người ưa thích hữu vi Niết Bàn, họ còn chẳng cầu sự an lạc hữu vi huống là có thể cầu đại cung điện ấy.

Trong đại cung điện ấy không có thi thiết, mát mẻ tịch tịnh nên gọi là Niết Bàn. Vì diệt tham, sân, si, dứt các tập chủng, phá lưới ái kiến, cạn dòng vô minh, nhổ những tên độc, hết pháp bất thiện nên gọi là Niết Bàn. Vì rời xa tất cả kiêu mạn tật bịnh khổ sở bức não nên gọi là Niết Bàn. Vì chẳng phải chỗ sở hành của tâm ý thức và tâm sở nên gọi là Niết Bàn. Vì dứt hết các tranh luận, các kiết sử nhẫn đến pháp tưởng nên gọi là Niết Bàn. Vì tuyệt các ý ưa thích, và chỗ sở cầu của ý ưa thích cũng không có phân biệt và tường bị phân biệt nên cũng gọi là Niết Bàn.

– Nầy Vô Biên Huệ! Ðó là thể tánh của Ðại Bát Niết Bàn.

Niết Bàn vô biên chẳng thể tuyên nói được. Nếu có chỗ hướng đến thì chẳng phải đạo nầy. Ðạo cũng là không có ngôn thuyết, chẳng thể tuyên nói được.

Nếu lúc dùng đạo nầy hướng đến đại Niết Bàn đại cung điện, chư đại Bồ Tát cũng làm cho vô lượng bá thiên chúng sanh an trụ nơi đạo nầy.

Nầ Vô Biên Huệ! Lúc ở trong đạo nầy mà hướng đến, chư Ðại Bồ Tát không có mệt mỏi, cũng không có lo buồn, tùy nguyện mà cầu, tùy nguyện mà trang nghiêm, tùy chỗ trang nghiêm đều trang nghiêm cả, tùy chúng sanh được nhiếp độ mà thuyết pháp cho họ, khiến các chúng sanh đều được hoan hỉ.

Tại sao vậy? Vì đạo nầy không gì bằng, hay đói trị sạch, chỗ là đã rốt ráo. Chư Phật Thế Tôn cùng hàng Thanh Văn và Duyên Giác đều ở nơi đạo nầy mà hướng đến, chẳng hề trái với đạo nầy. Chưa đến địa kia, chưa đúng như sở nguyện thì trọn chẳng rời lìa đạo nầy.

Ðịa kia là gì?Là đại Niết Bàn địa, là đại cung điện địa.

Ví như hư không chẳng có gì để ví dụ ngoại trừ đem hư không để ví dụ hư không. Rộng lớn trống rỗng vắng lặng gọi là hư không.

Niết Bàn cung điện cũng như vậy, là rộng lớn rỗng không vắng lặng không có chủ tể cũng không có ngã sở. Tất cả chúng sanh dầu vào trong ấy không ai có thể nhiếp lấy chừng bằng đầu lông. Là rộng lớn không tịch, là rộng lớn vô lượng gọi là đại Niết Bàn, gọi là đại cung điê(n.

– Nầy Vô Biên Huệ! Ða§y là đạo thù thắng của chư Ðại Bồ Tát, chẳng phải hàng Thanh Văn, Duyên Giác có đưọc.

Lúc an trụ nơi đạo nầy, chư Ðại Bồ Tát hoặc làm Luân Vương không chút đoái tiếc, có oai đức lớn và thần thông biến hiện, biết rõ được thế gian và xuất thế gian.

Các Ngài hoặc làm Ðế Thích hay Ðại Phạm Thiên Vương không hề tham luyến, xa rời kiêu mạn, thìch thấy chư Phật, thích nghe chánh pháp, thành thục vô lượng trăm ngàn chư Thiên hướng đến Vô thượng Bồ Ðề”.

Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:

“Ðạo Bồ Tát thù thắng
Trong đời không có trên
Chư Thánh và Nhị thừa
Ðều hướng đến đạo nầy
Tất cả chư Bồ Tát
Hướng đến đại Bồ Ðề
Vì được đạo trang nghiêm
Ðem đạo nầy khai thị
Nếu ở trong đạo nầy
Ðã đến hay đang đến
Họ đều dùng chánh kiến
An trụ ở đạo nầy
Tất cả chư Bồ Tát
Nếu dùng bình đẳng kiến
Ma đi trong đạo nầy
Thì an lạc hướng đến
Ðạo nầy rất thù thắng
Ðạo nầy là vô thường
Hay dạy bảo như thiệt
Trong ấy không chấp trước
Nếu trụ ở đạo nầy
Ði ở trong đạo nầy
Tất cả người có trí
Ý họ chẳng khuynh động
Chẳng nói nơi đạo nầy
Có chút ít khuynh động
Thường rời xa lay động
Ta nói nơi đạo nầy
Không động không thi vi
Cũng không có tăng ích
Nên đạo nầy vô thượng
Tất cả chư Bồ Tát
Khéo ở nơi đạo nầy
Ðạo nầy không có yêu
Lại cũng không có ghét
Ðạo chẳng phải quá khứ
Chẳng hiện tại vị lai
Chẳng phân biệt thời gian
Nên tu tập như vậy
Ðạo nầy không phiền não
Ðạo nầy không phân biệt
Chẳng trái với thiệt nghĩa
Nên an trụ như vậy
Trụ nơi đạo tối thắng
Không trụ là an trụ
Người an trụ đạo nầy
Hay được tánh thanh tịnh
Ta nói bát chi đạo
Chỗ đi của chư Thánh
Người an trụ đạo nầy
Bồ Ðề chẳng khó được
Chỗ Bồ Tát dựa nhờ
An trụ đạo như vậy
Hay được đạo thanh tịnh
Mỗi mỗi mà hướng đến
Ðạo nầy là tối thượng
Của thiện sĩ tu hành
Chỗ Như Lai khen ngợi
Trí nầy là vô thượng
Ma và chúng quân ma
Cùng quyến thuộc của ma
Ngoại đạo chúng sanh khác
Chẳng phải chỗ họ đi
Người phân biệt Niết Bàn
Chẳng ở thắng đạo nầy
Ngu bị phân biệt hại
Chẳng biết được Niết Bàn
Người vượt quá phân biệt
Không tưởng không phân biệt
Ở trong đại đạo nầy
Do đây mà hướng đến
Thắng đạo của chư Thánh
Người ngu đều rời xa
Nếu người hành pháp nầy
Ðạo nầy là vô thượng
Ðại đạo thối thắng nầy
Hay đến chỗ vô thượng
Trong ấy không ưu não
Không sợ không tai nạn
Ðạo đạo vô thượng nầy
Không sắc không hình tướng
Chẳng thể dùng sắc tướng
Mà có thể hiện bày
Ðạo đạo an ổn nầy
Chánh trực vô sở úy
Do đạo nầy hướng đến
Ðại Niết Bàn rốt ráo
Ðại đạo thanh tịnh nầy
Dường như thái hư không
Tất cả không chướng ngại
Hướng đến đại Niết Bàn
Nếu đến được Niết Bàn
Ðến rồi không còn lui
Ðại Niết Bàn như đây
Tối thượng thắng an lạc
Niết Bàn đại cung điện
Không tịch chẳng lường được
Nên gọi đại Niết Bàn
Cũng gọi đại cung điện
Trong đại Niết Bàn nầy
Diệt tam độc phiền não
Nếu ai đến trong ấy
Không lui không thọ sanh
Niết Bàn đại không tịch
Dường như thái hư không
Vì rộng lớn không tịch
Trong đó kjhông chướng ngại
Niết Bàn đại cung điện
Liàa hẳn khổ ưu não
Chỗ cảnh giới vô biên
Gọi đó là Niết Bàn
Niết Bàn không số luợng
Số lượng chẳng thể được
Tánh trong mát tịch diệt
Gọi đó là Niết Bàn
Niết Bàn không thi thiết
Ðạo về cũng vô thuợng
Vô lượng vô phân biệt
Phân biệt chẳng thể được
Ta vì chư Bồ Tát
Khai thị đại đạo nầy
Nếu ai ở đạo nầy
Thì gần đến Niết Bàn
Nếu an trụ đạo nầy
Thắng an lạc trong đời
Tất cả đều sẽ được
Gọi là bực vô úy
Khéo an trụ đạo nầy
Lòng họ không ô nhiễm
Do đạo nầy thanh tịnh
Gọi là bực vô úy
Vì thấy đạo bình chánh
Hay giác ngộ tất cả
Trong tất cả tư cụ
Chẳng tham trước tất cả
Chỗ Bồ Tát dựa nhờ
Ðạo chơn thiệt thù thắng
Lợi ích các chúng sanh
Dũng mãnh mà hướng đến
Nếu được đạo vô thượng
Ðạo trang nghiêm tối thượng
Khiến chúng đều hoan hỉ
Do đạo nầy hướng đến
Ðạo nầy rất thù thắng
Hay khiến ý thanh tịnh
Tùy theo chỗ ưa cầu
Tất cả sẽ hướng đến
Nếu được ngôi Thánh Vương
Chuyễn luân oai đúc lớn
Hay bỏ ngôi vua lớn
Xuất gia đi học đạo
Nếu được ngôi Ðế Thích
Ngôi Ðại Phạm Thiên Vương
Không ham những ngôi ấy
Người nầy khéo thuận đạo
Các chỗ học th61 gian
Hay biết rõ tất cả
An trụ trong đạo nầy
Mới là người thiệt ngữ”.
Ðức Phật phán tiếp:” Nầy Vô Biên Huệ! Lúc ở trong đạo nầy mà hướng đến, đại Bồ Tát vì muốn nhiếp thủ bát chánh đạo nên tu hành một pháp, đó là chẳng làm các bất thiện. Lại tu hành hai pháp, một là nơi trong theo pháp lành tư duy đúng lý, hai là nơi ngoài theo pháp lành thỉnh hỏi đúng lý. Lại tu hành hai pháp, một là biết rõ các pháp đúng sự, hai là biết rõ không có sự, không có trụ, không có phân biệt. Laị tu hành hai pháp, một ở trong tùy thuận trí huệ, hai là ở ngoài không chỗ chấp trứơc. Laị tu hành hai pháp, một là tự tin không chỗ phân biệt, hai là nếu chúng sanh chưa có lòng tin thì tôi làm cho họ an trụ trong đạo nầy. Lại tu hành hai pháp, một là ở nơi việc đã làm có thể thấy biết như thiệt, hai là ở nơi việc được làm không cháp trước. Lại tu hành ba pháp, một là nơi khổ thủ uẩn biết rõ từng uẩn một, hai là nơi thủ uẩn không khổ thì siêng cầu và rất thích, ba là ở nơi các pháp hòa hiệp thì chuyên tu rời xa. Lại tu hành ba pháp, một là tuyên nói pháp tối thượng, lời chẳng sai trái, tùy nói pháp nghĩa lòng không có niệm tranh luận, hai là chẳng chấp trước tất cả văn tự, ba là nhiếp lấy tất cả các pháp. Lại tu hành bốn pháp, một là dùng chánh phương tiện ở nơi nghĩa, hai là dùng chánh phương tiện tùy theo nghĩa mà làm tương ưng, ba là dùng chánh phương tiện thuận theo pháp để quan sát, bốn là dùng chánh phương tiện chẳng khởi tất cả chấp trước. Lại tu hành bốn pháp, một là có thể dùng thệ nguyện kiên cố để tự giữ gìn tu hành đúng như lời, hai là có thể dùng sáu căn khôn khéo hướng đến nơi đạo, ba là có thể làm cho ý lạc thanh tịnh, bốn là có thể an trụ hạnh chẳng phóng dật. Vì nhiếp thủ bát chánh đạo mà chư đại Bồ Tát tu hành những pháp như vậy.

– Nầy Vô Biên Huệ! Chư Ðại Bồ Tát dùng pháp hành nầy để nhiếp thủ chánh đạo mới được gọi là người tùy thuận đạo, vì quán tất cả pháp tánh rỗng không, vì không tên, vì không tướng, vì không nguyện, vì không sanh, vì không tác, vì nàm chán, vì rời lià, vì tịch diệt, vì xuất ly. Lúc được ánh sáng pháp quán sát sanh được đứt hết thì chẳng ở nơi vô sanh mà khởi cảm tưởng sanh, liền ở lúc ấy siêu thăng ly sanh ra khỏi phi pháp mà được đạo thanh tịnh và vô sanh nhẫn. Vì đạo thanh tịnh nên vượt quá tất cả tưởng niệm, chẳng còn có phi tưởng, diệt đạo tưởng, rời pháp tưởng, ra khỏi lưới vô minh, dùng minh để tu tập. Những pháp đáng được đều có thể được cả.

Dùng minh để tu tập thì được những pháp gì?Dùng minh tu tập thì được thọ tưởng diệt, được tất cả pháp quyết định thiện xảo, được tùy bí mật thuận với pháp tánh.

Lúc hành đạo nầy, chư Ðại Bồ Tát chẳng trụ ở xứ, chẳng bị tướng làm hại, biết tất cả pháp đồng với hư không, sanh như hư không sanh, tánh như tánh hư không, không có chút tướng làm chướng ngại.

Ðạo nầy thanh tịnh chẳng sợ tai hoạ.

Mặc đại giáp trụ chẳng bị bắt trói.

Ngồi nơi Ðại thừa không chỗ mê lầm.

Rời các chướng nạn dường như hư không.

Ở trong đạo nầy, Ðại Bồ Tát hướng đến Vô thượng Bồ Ðề, vì các chúng sanh mà làm ánh sáng lớn.

– Nầy Vô Biên Huệ! Ðây là đạo thù thắng của đại Bồ Tát, chẳng phải chỗ sở hành của hàng Thanh Văn và Duyên Giác”.

Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:

“Vì nhiếp bát chánh đạo
Diễn nói các pháp hành
Nếu trụ trong đạo nầy
Ðây là đại tinh tiến
Người tu hành pháp lành
Ðược tất cả thời gian
Chẳng làm pháp bất thiện
Hạnh ấy nhiếp nơi đạo
Bồ Tát người tu tập
Trong thì suy đúng lý
Ngoài thì cầu thỉnh hỏi
Hạnh ấy nhiếp nơi đạo
Bồ Tát người quan sát
Như sự chánh liễu tri
Như lý trụ đúng pháp
Hạnh ấy nhiếp nơi đạo
Bồ Tát người dựa nhờ
Ở trong thì biết rõ
Ở ngoài thì chẳng chấp
Hạnh ấy nhiếp nơi đạo
Bồ Tát người vô úy
Tự tin không phân biệt
Khiến người phát lòng tin
Hạnh ấy nhiếp nơi đạo
Bồ Tát người tư duy
Sạch các nghiệp đã làm
Với nghiệp không chỗ chấp
Hạnh ấy nhiếp nơi đạo
Bồ Tát người không trói
Thường biết khổ thủ uẩn
Cầu thủ uẩn không khổ
Hạnh ấy nhiếp nơi đạo
Bồ Tát người thiện trí
Tu hạnh rời hòa hiệp
Rời được các hòa hiệp
Hạnh ấy nhiếp nơi đạo
Bồ Tát người tư nghị
Tùy nghĩa hay biết rõ
Diễn thuyết không trái cãi
Hạnh ấy nhiếp nơi đạo
Bồ Tát người đủ huệ
Chẳng chấp ở văn tự
Nhiếp trì tất cả pháp
Hạnh ấy nhiếp nơi đạo
Bồ Tát người hành pháp
Hay tương ưng với pháp
Cũng tương ưng với nghĩa
Hạnh ấy nhiếp nơi đạo
Bồ Tát người thuận đạo
Thị kiên cố giữ vững
Tu hành đúng như lời
Hạnh ấy nhiếp nơi đạo
Bồ Tát đạo thanh tịnh
Khéo sạch các ý lạc
Trụ pháp chẳng phóng dật
Hạnh ấy nhiếp nơi đạo
Bồ Tát tất cả thời
Siêng tu các hạnh ấy
Thân tâm được an lạc
Hạnh ấy nhiếp nơi đạo
Bồ Tát người chánh niệm
Trụ ở đạo thanh tịnh
Biết rõ tất cả pháp
Rỗng không chẳng có tướng
Bồ Tát người quan sát
Hay khiến nguyện thanh tịnh
Cũng chẳng trụ vô nguyện
Rời xa tất cả tướng
Bồ Tát quán đúng lý
Lý thú đều bình đẳng
Với các pháp vô sanh
Không có chút nghi hoặc
Bồ Tát người diệu trí
Hay quán sát các pháp
Nhàm lìa và tịch diệt
Thấy rõ mà hướng đến
Bồ Tát người quan sát
Như lý thấy pháp sanh
Chẳng ở sanh thấy sanh
Chẳng ở diệt thấy diệt
Bồ Tát người tinh tiến
Lúc quán sát như vậy
Do rời nơi phi pháp
Siêu thăng trong chánh vị
Bồ Tát người diệu trí
Ðạo nầy là thanh tịnh
Mau đến an ổn lớn
Thành tựu nhẫn vô thượng
Bồ Tát người diệu trí
Tùy thuận quán các pháp
Vượt quá tất cả tưởng
Thường trụ ở vô tưởng
Bồ Tát người diệu trí
Ðạo nầy hay trị sạch
Rời xa cảm tưởng đạo
Cũng chẵng trụ pháp tưởng
Bồ Tát người diệu trí
Vì đạo này trị sạch
Ra khỏi lưới vô minh
Mà được ánh sáng pháp
Bồ Tát người diệu trí
Hay tu tập nơi minh
Truyền dạy các chúng sanh
Do đây mà hướng đến
Bồ Tát người tu minh
Vì được tất cả pháp
Quyết định nghĩa thậm thâm
Ðại phương tiện thiện xảo
Bồ Tát người tu minh
Phương tiện rời các tưởng
Tùy thuận pháp bí mật
Hay biết nghĩa quyết định
Bồ Tát người diệu trí
Dùng ánh sáng pháp lớn
Diệt được các thọ tưởng
Do đây mà hướng đến
Bồ Tát người diệu trí
Chẳng trụ ở đạo ấy
Vì chẳng trụ đạo ấy
Nơi đạo mà hướng đến
Bồ Tát người vô úy
Hay biết tất cả pháp
Dường như tịnh hư không
Không bị tướng chi phối
Bồ Tát biết các pháp
Tánh nó đồng hư không
Vì các pháp như không
Thanh tịnh mà không nhơ
Bồ Tát trụ như vậy
Chẳng bị tướng làm ngại
Mau vì các chúng sanh
Diễn thuyết để truyền dạy
Bồ Tát người diệu trí
Tất cả đạo thanh tịnh
Nơi đạo không tai hoạn
Vô ngại mà hướng đến
Ðạo thanh tịnh như vậy
Chóng đến đại Bồ Ðề
Có thể chứng vô vi
Bình đẳng mà hướng đến
Bồ Tát đại giáp trụ
Ðại thừa vì đại đạo
Như hư không vô ngại
Thanh tịnh mà hướng đến
Ðến thừa nầy đạo nầy
Như đến thái hư không
Rời xa tất cả tướng
Vô tướng mà hướng đến
Ðại thừa bình đẳng thừa
Rộng lớn dường hư không
Nơi đạo thanh tịnh này
Thừa ấy sẽ hướng đến
Tất cả các Bồ Tát
Tôn trọng nơi pháp nầy
Vì tất cả chúng sanh
Dũng mãnh mà hướng đến
Nếu đến đại Bồ Ðề
Trụ đạo thù thắng nầy
Chẳng phải hàng Nhị thừa
Ở đây hướng đến được
Bồ Tát chánh ức niệm
Hay khiến đạo thanh tịnh
Dùng đạo thanh tịnh nầy
Mà hướng đến vô thượng”.
Ðức Phật phán tiếp:”Nầy Vô Biên Huệ! Lúc hướng đến như vậy, chư Ðại Bồ Tát hay dùng phương tiện khéo để chánh liễu tri vô lượng niệm xứ, chánh cần, căn, lực, giác chi giải thoát, đẳng trì đẳng chí, thần túc chỉ quán, vô lượng công đức thù thắng trang nghiêm.

Vì muốn hàng phục các thế gian nên Ðại Bồ Tát mặc giáp trụ. Vì siêu xuất tam giới nên đại Bồ Tát ngồi nơi Ðại thừa. Vì nhiếp thọ Trời, Người, A Tu La nên đại Bồ Tát an trụ đạo ấy mà hướng đến Vô thượng Bồ Ðề.

– Nầy Vô Biên Huệ! Lúc chư Ðại Bồ Tát mặc đại giáp trụ, ngồi nơi Ðại thừa, an trụ nơi đạo ấy nếu chẳng dùng từ bi hỉ xả soi khắp chúng sanh, chẳng yêu chúng sanh như mình, thì giáp trụ Ðại thừa đại đạo ấy cả đại địa chẳng kham chịu được, tất cả chúng sanh thân cận được.

Nếu đại Bồ Tát dùng từ bi lợi ích chúng sanh mà mặc đại giáp trụ ngồi Ðại thừa an trụ đạo ấy, thì giáp trụ Ðại thừa đại đạo ấy, tất cả thế gian Trời, Người, A Tu La chẳng thể làm được. Tất cả hàng ngu phu tham luyến thế gian ở mãi thế gian cũng chẳng thấy được.

Vì thương xót tất cả chúng sanh mà chư Ðại Bồ Tát mặc đại giáp trụ, có thể dùng giáp trụ gia trì địa giới và thủy hỏa phong giới, làm cho địa giới nầy chẳng nghiêm úp, tất cả chúng sanh khỏi kinh sợ, lại có thể làm cho thủy giới hỏa giới và phong giới tùy theo chỗ thích ứng mà phát khời hiệu năng.

Chư đại Bồ Tát từ lúc sơ tâm hướng đến giáp trụ tới nay mặc đại giáp trụ ấy ngồi Ðại thừa ấy dùng đạo thanh tịnh mà hướng đến nhứt sanh bổ xứ.

Lúc đại Bồ Tát đến cội Bồ Ðề ngồi đạo tràng, trong cõi Ðại Thiên nầy, chỗ đạo tràng kiên cố do kim cương làm thành, nếu chẳng gia trì thì tất sẽ rúng động nghiêng úp. Dầu là làm thành bằng kim cương kiên cố nhưng không kham chịu đựng được đại giáp trụ Ðại thừa đại đạo ấy.

Thuở xưa, vì chư Ðại Bồ Tát thệ nguyện khởi tâm từ bi đối với chúng sanh, vì mười phương chư Phật chư Ðại Bồ Tát đồng khen ngợi, nên dầu là núi Kim Cương, núi Tu Di, các bửu sơn cùng các núi lớn nhất, nếu chẳng gia trì, thì đều cũng chẳng kham chịu đựng được đại giáp trụ Ðại thừa đại đạo ấy.

Lại vì bổn nguyện lực của chư đại Bồ Tát, bổn nguyện lực của chư Phật, đối với tất cả chúng sanh chẳng làm não, chẳng làm hại, chẳng làm tổn, chẳng làm oán, chẳng làm thù, chẳng lấn hiếp, chẳng bức ngặt, vì muốn cho chúng sanh được an lạc, nên mặc đại giáo trụ ngồi Ðại thưà an trụ trong đạo ấy mà hướng đến Vô Thượng Bồ Ðề.

– Nầy Vô Biên Huệ! Lúc mặc giáp trụ, chư đại Bồ Tát mặc giáp trụ trí huệ, cầm dao gậy trí huệ, hồi hướng đại trí huệ, ngồi hồi hướng thừa, hướng ánh sáng trí huệ, an trụ đạo quang minh, dùng con mắt trí huệ sáng suốt quan sát các pháp mà hướng đến nhứt thiết chủng trí. Vì muốn nhiếp thủ nhứt thiết chủng trí, vì tất cả chúng sanh mà tu hành Bát Nhã Ba la mật, Bố thí Ba la mật, Trì giới Ba la mật, Nhẫn nhục Ba la mật, Tinh tiến Ba la mật và Thiền Ba la mật.

Tất cả đều dùng huệ làm tiên đạo, dùng huệ làm tu tập, dùng huệ làm nhiếp trì, mà hồi hướng Vô Thượng Bồ Ðề”.

Ngài Vô Biên Huệ bạch rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Chư Ðại Bồ Tát có bao nhiêu là trí huệ đều có thể nhiếp trì khắp tất cả chỗ thành tựu vô lượng chư Phật pháp”.

Ðức Phật phán:” Ðúng như vậy. Nầy Vô Biên Huệ! Ðúng như lời ông vừa nói. Chư Ðại Bồ Tát có bao nhiêu là trí huệ khắp tất cả chỗ nhiếp tất cả pháp, mặc đại giáp trụ ngồi Ðại thừa an trụ đại đạo ấy, mỗi mỗi đều dùng huệ làm tiên đạo mà hướng đến.

– Nầy Vô Biên Huệ! Dầu có trí huẽ mà không dùng huệ làm tiên đạo thì ở trong đạo ấy chẳng thể hướng đến được. Nếu có trí huệ dùng huệ làm tiên đạo, khắp tất cả chỗ tùy đi tùy làm, dùng huệ để nhiếp trì, dùng huệ để phòng ngự, mới được gọi là mặc đại giáp trụ ngồi ở Ðại thừa an trụ đại đạo ấy, dùng pháp an ổn làm lợi ích cho thế gian, có thể khai huệ nhãn, dùng huệ nhãn quan sát, huệ thân chiếu sáng phóng ánh sáng lớn mà hướng đến Vô thượng Bồ Ðề.

– Nầy Vô Biên Huệ! Ðó là chư Ðại Bồ Tát mặc giáp trụ thì giáp trụ trang nghiêm, ngồi Ðại thừa thì Ðại thừa trang nghiêm, thật hành đại đạo thì đại đạo trang nghiêm mà hướng đến Vô Thượng Bồ Ðề.

– Nầy Vô Biên Huệ! Chư Ðại Bồ Tát giáp trụ trang nghiêm, Ðại thừa trang nghiêm và đại đạo trang nghiêm, tất cả công đức nhiều thứ trang nghiêm, nếu ta nói cho đủ, dầu đến vô lượng kiếp cũng nói không hết được.

Nay vì làm cho các ông được biết rõ, cũng vì chư Bồ Tát vị lai, giáp trụ trang nghiêm, Ðại thừa trang nghiêm, đại đạo trang nghiêm, vô lượng công đức tư lương trang nghiêm, mà ta lược nói một phần ít.

Chư Bồ Tát ấy nếu nghe pháp của ta cũng nên mặc đại giáp trụ, ngời ở Ðại thừa, an trụ đại đạo ấy, dùng công đức trang nghiêm mà hướng đến Vô Thượng Bồ Ðề”.

Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:

“Ta nói tứ chánh cần
Cũng nói tứ niệm trụ
Tất cả thiện phương tiện
Do nơi chẳng phóng dật
Ðầy đủ chánh ức niệm
Khéo tương ưng với pháp
Dũng tiến để xuất ly
Do nơi chẳng phóng dật
Căn, lực, Bồ Ðề phần
Mặc giáp ngồi Ðại thừa
Dùng đây làm thị vệ
Bồ Tát sẽ hướng đến
Thiền định chánh giải thóat
Ðẳng trì và đẳng chí
Dùng dây làm thị vệ
Bồ Tát sẽ hướng đến
Ðại từ bi hỉ xả
Mặc giáp ngồi Ðại thừa
Dùng dây làm thị vệ
Bồ Tát sẽ hướng đến
Thành tựu các chỉ quán
Thần túc và thần biến
Dùng dây làm thị vệ
Bồ Tát sẽ hướng đến
Vô lượng các công đức
Mặc giáp ngồi Ðại thừa
Nơi đạo không mỏi nhọc
Bồ Tát sẽ hướng đến
Tinh tiến chẳng phóng dật
Mặc giáp ngòi Ðại thừa
Biết rõ các niệm xứ
Bồ Tát sẽ hướng đến
Ánh sáng đại giáp trụ
Hàng phục các thế gian
Mặc giáp trụ nầy rồi
Mới gọi là trí giả
Hướng đến nhứt thiết trí
Ra khỏi hẳn tam giới
Ngồi Ðại thừa nầy rồi
Mới gọi là trí giả
Ðại đạo thanh tịnh đạo
Chói che các thế gian
Trời, Người, A Tu La
Mới gọi là rtí giả
Chư Bồ Tát như vậy
Khắp vì các chúng sanh
Trong tất cả thời gian
Tinh tiến mặc giáp trụ
Bồ Tát chẳng tu tập
Ðại từ và đại bi
Ðại hỉ và đại xả
Ðại địa chẳng chịu nổi
Bồ Tát chẳng to tập
Sự lợi ích đúng lúc
Cho các chúng sanh kia
Ðại địa chẳng chịu nổi
Bồ Tát chẳng tu tập
Thương yêu các chúng sanh
Như thương yêu chính mình
Ðại địa chẳng chịu nổi
Bồ Tát chẳng tu tập
Từ bi ngồi Ðại thừa
Các núi và biển cả
Ðại địa chẳng chịu nổi
Bồ Tát chẳng tu tập
Từ bi với chúng sanh
Ngồi nơi Ðại thừa này
Chúng sanh chẳng thân cận
Nếu mặc giáp trụ nầy
Từ quang chẳng chiếu sáng
Với đại giáp trụ ấy
Chúng sanh chẳng thân cận
Nếu mặc giáp trụ nầy
Biển công đức vô biên
Gia trì bốn đại chủng
Nó mới kham chịu nổi
Vì nhiếp thủ chúng sanh
Dùng từ quang chiếu khắp
Gia trì bốn đại chủng
Nó mới kham chịu nổi
Vì nhiếp thủ chúng sanh
Thành tựu đại Bồ Ðề
Gia trì bốn đại chủng
Nó mới kham chịu nổi
Chẳng khinh hại chúng sanh
Mặc giáp đại trụ nầy
Ðại thừa mà xuất ly
Ðây gọi là trí giả
Ðại phương tiện khôn khéo
Tất cả đều gia rtì
Vô thượng mà xuất ly
Ðây gọi là trí giả
Do đây nên đại địa
Chẳng úp cũng chẳng nghiêng
Thủy hỏa phong đại chủng
Phát hiệu năng thích ứng
Nhưng chư Ðại Bồ Tát
Mặc giáp lại vô biên
Ngồi nơi Ðại thừa nầy
Dùng đạo mà hướng đến
Thành nhứt sanh bổ xứ
Ðến bực tối hậu thân
Trải tòa dưới thọ vương
Ngồi trên đất kiên cố
Ở chỗ đạo tràng nầy
An trụ như kim cương
Thân tâm chẳng mỏi nhọc
Hiện chứng nhứt thiết rtí
Bồ Tát người vô úy
Nếu người chẳng gia trì
Ðất ấy sẽ nghiêng úp
Hư hoại chẳng còn thành
Tất cả cõi đại địa
Nếu chẳng được gia trì
Dầu bằng chất kim cương
Ðều phải nghiêng úp cả
Thuở xưa Ðại Bồ Tát
Thệ nguyện lớn trang nghiêm
Ðối với các chúng sanh
Ðã khởi niệm đại từ
Hiện tại mười phương cõi
Trong quốc độ chư Phật
Ðấng Lưỡng Túc Biến Tri
Ðều hộ niệm tất cả
Giả sử các núi đá
Núi Tu Di núi báu
Núi Kim Cương luân vi
Kiên cố đứng sừng sững
Bồ Tát người trí huệ
Nếu người chẳng gia trì
Ðối với đại giáp trụ
Các núi chẳng chịu nổi
Chư Phật chư Bồ Tát
Dùng thần lực gia trì
Chúng sanh và đại địa
Kham gần kham chịu nổi
Mặc đại giáp trụ nầy
Chẳng làm não chúng sanh
Giáp trụ nầy vô thượng
Dùng nương sẽ hướng đến
Mặc đại giáp trụ nầy
Chẳng làm hại chúng sanh
Giáp trụ bất tư nghị
Dùng nương sẽ hướng đến
Mặc đại giáp trụ nầy
Chẳng làm thù chúng sanh
Ðể trị bịnh chúng sanh
Dùng nương sẽ hướng đến
Ðầy đủ đạo thù thắng
Tối thanh tịnh vô thượng
Chẳng não hại oán thù
Chơn chánh mà an trụ
Mặc giáp trụ trí huệ
Ngồi thừa huệ hồi hướng
Giáp trụ chẳng bị hư
Hồi hường đạo vô thượng
Bồ Tát người dựa nhờ
An trụ ánh sáng huệ
Dùng huệ xem các pháp
Mà hướng đến vô thượng
Bồ Tát đạo thù thắng
Giáp trụ và Ðại thừa
Ðây do huệ quang khởi
Thế nên tâm thanh tịnh
Nương các Ba la mật
Hướng đến đại Bồ Ðề
Huệ nhiếp huệ thanh tịnh
Dùng huệ làm tiên đạo
Tất cả Ba la mật
Dùng huệ nầy làm trước
Huệ nhiếp huệ thanh tịnh
Hay truyền trí vô thượng
Bồ Tát chẳng nghĩ bàn
Hay phát ánh sáng huệ
Hay thắp đèn trí huệ
An lạc mà hướng đến
Vì phát ánh sáng huệ
Do đó huệ nhãn khai
Nơi Phật vô thượng trí
Thấy rõ mà hướng đến
Bồ Tát người dũng mãnh
Giáp trụ lại vô biên
Vì vô biên trang nghiêm
Gọi là đại giáp trụ
Bồ Tát người đại trí
Ðại thừa đại trang nghiêm
Nơi Phật nhứt thiết trí
Vô nhiễm mà hướng đến
Bồ Tát người đại trí
Ðại đạo đại trang nghiêm
Thù thắng chẳng nghĩ bàn
Thanh tịnh mà hướng đến”.
Ðức Phật phán tiếp:” Nầy Vô Biên Huệ! Chư đại Bồ Tát ở nơi cảnh giới vô biên giáp trụ, cảnh giới vô biên Ðại thừa và cảnh giới vô biên đại đạo mà hướng đến.

Tại sao vậy?Vì có thể tùy nhập tất cả xứ vậy. Vì chư Ðại Bồ Tát muốn tùy nhập tất cả pháp vậy. Vì mặc đại giáp trụ là muốn tùy nhập tất cả pháp vậy. Vì ngồi nơi Ðại thừa là muốn tùy nhập tất cả pháp vậy. Vì an trụ đại đạo nầy ở nơi tất cả pháp đươc bình đẳng mà hướng đến vậy.

Nhưng ở giáp trụ nầy chẳng có được chút ít pháp nào hoặc trong hoặc ngoài, hoặc thô hoặc tế, hoặc xa hợc gần, hoặc quá khứ hiện tại vị lai, hoặc hữu vi vô vi, hoặc tru. hoặc chẳng trụ.

Nơi tất cả pháp, nếu giáp trụ nầy chẳng tuyển trạch được, chẳng quyết liễu được chẳng biết khắp được, chẳng tùy nhập được, chẳng tác chứng được, chẳng siêu quá được, thì chẳng thể gọi là mặc đại giáp trụ.

Nơi tất cả ppháp, nếu giáp trụ nầy tuyển trạch được, quyết liễu được, biết khắp được, tùy nhập được, tác chứng được, siêu quá được thì mới được gọi là mặc đại giáp trụ.

Lại Ðại thừa nầy không có chút pháp nào hoặc trong hoặc ngoài, nhẫn đến hồi hướng nhứt thiết chủng trí, biết khắp, tùy nhập tác chứng và siêu quá được nên gọi thừa nầy là Ðại thừa, là Pháp thiện xảo thừa, là Niết Bàn thừa, la Vô thượng thượng thừa, la Vô đẳng đẳng thừa.

Lại đại đạo nầy cũng không có chút pháp nào hoặc trong hoặc ngoài, nhẫn đến có thể ở nơi tất cả pháp hình chánh đại đạo mà hướng đến.

Ðạo bình chánh nầy không có chút pháp nào mà chẳng biết khắp, thế nên đạo nầy gọi là vô thượng đạo, vô số lượng đạo, vô đẳng đẳng đạo.

– Nầy Vô Biên Huệ! Chư Ðại Bồ Tát mặc đại giáp trụ, các Ngài có thể khắp tùy nhập trong hiện hành tâm và tâm sở của tất cả chúng sanh, có thể khắp làm sạch hết tạp nhiễm phiền não của tất cả chúng sanh.

Các Ngài ngồi nơi Ðại thừa làm thêm lớn căn lành cho tất cả chúng sanh.

Các Ngài an trụ đại đạo nầy khuyến hóa chúng sanh với tất cả pháp lành.

– Nầy Vô Biên Huệ! Vì mỗi mỗi chúng sanh mỗi mỗi tâm hành cùng tận mé sanh tử mãi mãi lưu chuyển, nên chư Ðại Bồ Tát cầu thuốc trí huệ, chẳng rời bỏ giáp trụ mà có thể kiên cố mặc đại giáp trụ, mặc vô lượng giáp trụ, mặc nan tư giáp trụ, mặc thanh tinh giáp trụ, mặc vô biên giáp trụ, mặc vô thủ giáp trụ, mặc giáp trụ biết tâm tưởng của chúng sanh, mặc giáp trụ biết không có chúng sanh, mặc giáp trụ biết không có ngã, mặc giáp trụ biết tự tánh của chúng sanh, mặc giáp trụ tùy giác tự tánh của chúng sanh, mặc giáp trụ biết tự tánh của ngã, mặc giáp trụ tùy giác tự tánh của ngã, mặc giáp trụ biết tự tánh bên trong, mặc giáp trụ tùy giác tự tánh bên trong, mặc giáp trụ biết tự tánh bên ngoài, mặc giáp trụ tùy giác tự tánh bên ngoài, mặc giáp trụ biết tự tánh trong ngoài, mặc giáp trụ tùy giác tự tánh rtong ngoài, mặc giáp trụ biết tự tánh các pháp, mặc giáp trụ tùy giác tự tánh các pháp, mặc giáp trụ biết tất cả pháp vô sở đắc, mặc giáp trụ biết tự tánh các pháp vô sở đắc, mặc giáp trụ biết rõ tất cã pháp, mặc giáp trụ vô biên, mặc giáp trụ vô trung, mặc giáp trụ vô trung biên, mặc giáp trụ chẳng quá khứ, mặc giáp trụ chẳng vị lai, mặc giáp trụ chẳng hiện tại, mặc giáp trụ vô tác, mặc giáp trụ không tác giả.

– Nầy Vô Biên Huệ! Với giáp trụ ấy, chư đại Bồ Tát cũng không có mặc, cũng chẳng tùy giác, cũng chẳng quyết liễu, cũng chẳng xuất ly, cũng chẳng hiện chứng. Vì không giáp trụ mà mặc giáp trụ. Vì chẳng tùy giác mà hay tùy giác. Vì chẳng quyết liễu mà hay qưyết liễu. Vì chẳng xuất ly mà hay xuất ly. Vì chẳng hiện chứng mà hay hiện chứng.

Vì không có thừa mà ngồi Ðại thừa. Chẳng ở nơi Ðại thừa mà có thi thiết. Không có chỗ thi thiết mà làm thi thiết. Nhưng ở nơi Ðại thừa không có chút thi thiết.

Nếu có thi thiết thì là chẳng phải thi thiết vì nơi thi thiết kia bất khả đắc vậy.

Vì bất khả đắc nên cũng không có thừa. dùng thừa để an trụ, dùng vô sở đắc mà an trụ Ðại thừa, rời xa hướng đến, chẳng tới cứu cánh, chẳng tới Niết Bàn.

Vì bất khả đắc nên chẳng phải đạo làm đạo, hướng đến nơi đạo do vì bình chánh. Ðạo bình chánh ấy không chỗ thi thiết, ai làm thi thiết, chỗ nào thi thiết, từ đâu thi thiết. Cũng không có tác, không có tác giả. Cững chẳng phải hòa hiệp, chẳng phải chẳng hòa hiệp. Tất cả đều nhàm rời, tất cả đều chẳng cầu.

Tại sao vậy? Ðạo bình chánh ấy với tất cả pháp chẳng dị chẳng đồng. Vì chẳng tương ưng nên chẳng sanh khởi cảm tưởng pháp, rời tất cả pháp, không cấu không tịnh. Pháp tánh cũng vậy không cấu không tịnh.

Vì thế nên đạo ấy gọi là đạo vô nhiễm. Dùng bất khả tiến mà làm tiến lên, dùng bất khả nhiếp mà làm nhiếp thủ.

Ðạo ấy thậm thâm: không sanh không khởi, không xuất không tác, không đắc không hành, không xứ không trụ, không chướng không sự. Nơi tất cả sự mà có thể hiển hiện rõ ràng. Nơi tất cả sự m2 không sai biệt. Chẳng xoay chuyển theo sự. Do vì vô sự mà đến chỗ vô thượng.

– Nầy Vô Biên Huệ! Nơi giáp trụ ấy, thừa ấy, đạo ấy, chư Ðại Bồ Tát phải biết như vậy. Nhưng giáp trụ ấy, thừa ấy và đạo ấy không chỗ thấy được, không chỗ biết được. Vì bất khả đắc vậy. Ai mặc giáp trụ, ai ngồi thừa ấy, ai làm đạo ấy, cũng chẳng thấy được, cũng chẳng biết được, cũng chẳng thể được.

– Nầy Vô Biên Huệ! Nếu chư Ðại Bồ Tát nghe pháp ấy rồi mà chẳng kinh chẳng sợ, đọc tụng tuyên nói, nơi pháp lý thú không có sai trái, tùy thuận tu hành mà sanh lòng ưa thích, nhập vào thắng giải. Vì pháp ấy mà phải siêng năng tinh tiến.

Nếu ở nơi pháp ấy mà quyết định lý thú phương tiện khôn khéo có kham năng, thì là mặc giáp trụ ấy, ngồi nơi thùa ấy, hành ở đạo ấy.

Vì ở nơi thâm pháp vô sở đắc ấy mà hướng đến, nên hết bờ sanh tử, là bực chánh giác, có thể dùng vô biên công đức trang nghiêm để xuất hiện ở thế gian.

– Nầy Vô Biên Huệ! Ở trong pháp ấy, chư Ðại Bồ Tát phải sanh lòng ưa thích phát khởi đại tinh tiến mà không phóng dật.

Ở nơi pháp sâu xa nầy, nếu có chúng sanh nào vừa sanh lòng ưa thích, ta bảo người ấy được lợi, ích rất lớn. Huống là người có thể siêng năng tinh tiến chẳng phóng dật giới hạnh thanh tịnh mà hướng đến.

– Nầy Vô Biên Huệ! Ông xem pháp ấy bao nhiêu là rộng lớn, bao nhiêu là thù thắng, bao nhiêu là thanh tịnh!

Ta ở nơi pháp ấy ân cần khen ngợi muốn khiến chúng sanh phát lòng ưa thích, họ sẽ được mãi mãi an ổn khoái lạc lợi ích. Vì là nhàm lìa, vì là tịch diệt, vì là biết khắp vậy.

– Nầy Vô Biên Huệ! Ông lại nên xem pháp ấy có thể trao cho đầy đủ sự an lạc thế gian và xuất thế gian.

Có bao nhiêu chúng sanh thiếu thốn, vì họ ở nơi thâm pháp ấy mà thối thất, nên họ rời xa tất cả sự đầy đủ an vui thế gian và xuất thế gian vậy.

– Nầy Vô Biên Huệ! Ông lại xem nơi Ðức Như Lai hiện tiền pháp bửu thậm thâm ấy, bao nhiêu là đầy đủ lợi ích, bao nhiêu là dễ được!

Nay ở nơi pháp thậm thâm ấy ông phải siêng tu tập.

Lúc ta diễn nói pháp bửu ấy, có những hạng ngu phu còn chẳng muốn nghe huống là có thể thọ trì.

Ðức Như Lai hiện tiền pháp bửu đầy đủ lợi ích, họ chẳng thích lắng nghe, chẳng muốn thưa hỏi.

Nếu ở thời kỳ mạt thế năm trăm năm sau, lúc chánh pháp diệt, Ðức Phật và pháp bửu cùng người trì pháp cả ba ngôi báu đều chẳng còn, họ làm sao có thể thích nghe muốn hỏi được.

– Nầy Vô Biên Huệ! Mặc dầu vậy nhưng lúc sau ấy, nếu người được Ðức Như Lai khéo gia trì, cũng làm cho họ được pháp bửu thậm thâm ấy.

– Nầy Vô Biên Huệ! Thời kỳ bố úy kia, pháp bửu thậm thâm ấy thiệt không có tổn giảm cũng không diệt tận, chỉ vì ở nơi pháp ấy không có ai lắng nghe, không có ai thọ trì. Ngoại trừ những người ở trước Ðức Phật khát ngưỡng lắng nghe mặc giáp trụ, đến thời kỳ ấy họ sẽ có thể ưa thích lắng nghe thọ trì pháp bửu ấy.

Thời kỳ sau ấy, chúng sanh nào nghe pháp ấy rồi có thể sanh lòng tin thanh tịnh, ta bảo người ấy sẽ được thành tựu pháp bửu quảng đại ấy. Huống là những người hiê(n nay ở trong pháp bửu ấy mà có thể sanh lòng tin thanh tịnh siêng tu hành.

– Nầy Vô Biên Huệ! Lúc mặc giáp trụ vô thượng vô lượng tối đại, chư Ðại Bồ Tát phải nghĩ rằng: Tôi vì tất cả chúng sanh thiếu thốn, đó là những kẻ thiếu giới, thiếu nghe, thiếu huệ, thiếu giải thoát, thiếu giải thoát tri kiến, nên đem pháp bửu lớn nầy để làm cho họ được đầy đủ.

Do vì pháp bửu lớn nầy làm cho đầy đủ, nên tất cả chỗ thiếu thốn của họ đều được rời bỏ. Làm cho họ được đầy đủ những tài sản giới, văn, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến. Làm tắt hết những lửa tham sân si. Làm lành tất cả bịnh tật. Thuốc hay vô thượng làm cho họ được uống. nhờ uống thuốc ấy mà các bịnh đều tiêu trừ được đại an lạc, rời hẳn hữu dư mà chứng thanh lương tánh vô thượng Niết Bàn. Không còn thừa những tư duy quán sát, chẳng cầu tất cả hữu vi vô vi.

Tại sao vậy?

Bởi Niết Bàn nầy là tối thượng an lạc, tất cả chỗ đáng cầu đều không còn thừa vậy. Chỗ cầu đã thôi hẳn đã dứt hết vậy.

– Nầy Vô Biên Huệ! Chư Ðại Bồ Tát mặc đại giáp trụ như vậy rồi lại vì thương xót nhiếp thủ tất cả các chúng sanh mà ngồi Ðại thừa ấy.

Với Ðại thừa ấy, chư Phật quá khứ đã ngồi mà xuất ly, chư Phật vị lai sẽ ngồi mà xuất ly, chư Phật hiện tại hiện đang ngồi mà xuất ly, không có người đi, cũng không có thừa, cũng không có xuất ly.

Tại sao vậy?

Vì là không, là vô tướng, là vô nguyện, là vô sanh, là không tác giả vậy.

Chẳng phải đã xuất ly, chẳng phải nay xuất ly, chẳng phải sẽ xuất ly.

Người ngồi thừa ấy xuất ly như thế, là khéo xuất ly mà không chấp trước, với tất cả pháp chẳng phải có hòa hiệp, chẳng phải không hòa hiệp, không lai không khứ.

Lúc thừa ấy ở nơi đạo mà xuất ly cũng chẳng phải hòa hiệp chẳng phải chẳng hòa hiệp, không lai không khứ.

Lúc thừa ấy, đạo ấy ở nơi đại giáp trụ mà xuất ly, cũng chẳng phải hoà hiệp chẳng phải chẳng hòa hiệp, không lai không khứ, vì bất khả đắc vậy.

– Nầy Vô Biên Huệ! Chư Ðại Bồ Tát dùng giáp trụ ấy, thừa ấy và đạo ấy mà hướng đến Vô Thượng Bồ Ðề.

Lại lúc dùng giáp trụ ấy, thừa ấy, đạo ấy mà hướng đến, Ðại Bồ Tát chẳng nghĩ hoặc pháp phàm phu, hoặc pháp Thanh Văn, hoặc pháp Duyên Giác, hoặc pháp chư Phật, những pháp ấy đối với tôi hoặc xa hoặc gần. Ðại Bồ Tát cũng chẳng nghĩ hoặc pháp không, hoặc pháp vô tướng, hoặc pháp vô nguyện, hoặc pháp vô sanh, hoặc pháp vo tác, những pháp ấy đối với tôi hoặc xa hoặc gần. Ðại Bồ Tát cũng chẳng nghĩ hoặc pháp yểm, hoặc pháp ly, hoặc pháp diệt, nhẫn đến Ðại bát Niết Bàn, những pháp ấy đối với tôi hoặc xa hoặc gần.

– Nầy Vô Biên Huệ! Ðại giáp trụ ấy, thừa ấy và đạo ấy, tất cả Bồ Tát, tất cả Duyên giác, tất cả Thanh Văn và tất cả chúng sanh chẳng làm động được mà hướng đến Vô Thượng Bồ Ðề.

– Nầy Vô biên Huệ! Chư Phật Thế Tôn ở nơi giáp trụ ấy, thừa ấy và đạo ấy được bất động rồi các Ngài bát Niết Bàn.

Tại sao vậy?

Vì tất cả các pháp chẳng thể động được. Vì tất cả pháp tánh, tướng của pháp tánh, tướng của viễn ly vậy, tướng thanh tịnh vậy, khắp thanh tịnh vậy.

Chẳng thể dùng tướng mà làm quan sát, làm thắng quan sát, làm khắp quan sát.

Tất cả pháp tướng, tánh của pháp tướng, chẳng thể dùng tánh mà làm quan sát, làm thắng quan sát, làm khắp quan sát.

Tất cả các pháp không tánh không tướng chẳng hiển bày được, chẳng nói phô được. Ðây là tánh tướng chơn thiệt của các pháp.

– Nầy Vô Biên Huệ! Cũng vậy, giáp trụ ấy, thừa ấy, đạo ấy, tướng chơn thiệt của nó chẳng thể hiện bày chẳng thể nói phô được.

Vì khiến chúng sanh sẽ biết rõ để tăng trưởng ánh sáng tất cả pháp, nên ở nơi giáp trụ ấy, thừa ấy, đạo ấy, ta giả thi thiết mà nói lược.

Nay nếu ông muốn ở nơi giáp trụ ấy, thừa ấy, đạo ấy theo nghĩa mà thật hành, ông chớ dùng thi thiết, chớ dùng hiển bày, chớ dùng nói phô, mà phải tùy theo nghĩa để thật hành.

Theo nghĩa để thật hành ấy không có chút gì phải thật hành cũng không có chút gì tùy theo thật hành.

Nếu là phi nghĩa thì chẳng nên tùy theo thật hành. Nếu là thị nghĩa thì phải tùy theo thật hành.

Lúc tùy theo nghĩa thâ(t hành, chẳng theo tiếng sẽ thật hành, chẳng theo chữ để thật hành, chẳng theo lời để thật hành, chẳng theo hành giả, cũng chẳng theo nó mà chuyển.

Những gì là nghĩa?

Ðó là bí mật thuyết vậy.

Ở nơi bí mật thuyết phải theo đó mà tỏ ngộ, phải dùng lòng tin mà thật hành.

Dùng lòng tin thật hành thì ở trong thị nghĩa không có phân biệt. Nơi vô phân biệt mới nên tùy theo thật hành.

Nên tùy theo thật hành đây chính là chẳng thật hành cũng chẳng tùy theo thật hành.

Tại sao vậy?

Ở trong thị nghĩa không có chút thật hành, không có chút tùy theo thật hành, không có chút khắp thật hành. Vì rời xa thật hành nên chẳng nên tùy theo thật hành:

Chẳng tùy theo chỗ tương ưng với Bồ Ðề mà thật hành, chẳng tùy theo chỗ tương ưng với lưu chuyển mà thật hành.

Ở nơi tương ưng và chẳng tương ưng ấy đều chẳng phải tác ý, đều chẳng phải chánh niệm, vi niệm thanh tịnh vậy.

Vì thế nên chẳng nên tùy theo thật hành.

– Nầy Vô Biên Huệ! Ở trong thị nghĩa, ông nên tùy hành chớ có tùy hành khác.

Nếu tùy hành khác thì la quên mất mà theo dõi âm thanh, theo dõi văn tự, theo dõi ngôn ngữ. Nơi ngôn ngữ ấy chẳng rời bỏ được.

Biết khắp âm thanh, siêu quá văn tự, giác ngộ ngôn ngữ thì chẳng theo nó mà hành, thì chẳng lưu chuyển.

Ở trong thị nghĩa, tùy hành như vậy, tùy nhập như vậy thì không có chút hành, vì hành đã dứt hết vậy.

– Nầy Vô Biên Huệ! Lúc ở nơi thị nghĩa mà hành thì chớ có lấy hành mà hành nơi nghĩa.

Nếu chẳng lấy hành mà hành nơi nghĩa thì là chẳng đến cũng chẳng lui về.

Nếu được chẳng đến chẳng lui thì ở nơi giáp trụ ấy, thừa ấy, đạo ấy được tùy thuận hướng đến Vô Thượng Bồ Ðề mà làm lợi ích lớn cho chúng sanh.

– Nầy Vô Biên Huệ! Nếu ở nơi pháp ấy nói như vậy, tùy theo nghĩa mà hành, có thể tùy nhập được thì tâm chẳng điên đảo không có nghi hoặc, thành tựu thắng giải. Ở nơi giáp trụ ấy, thừa ấy, đạo ấy, nếu chưa nhiếp thủ thì được nhiếp thủ chóng sẽ hưóng đến. Nếu có ai chưa mặc giáp trụ ấy thì sẽ chóng đuợc mặc. Nếu có ai chưa ngồi nơi thừa ấy thì sẽ chóng được ngồi. Nếu có ai chưa an trụ nơi đạo ấy thì se chóng được an trụ.

Vô Biên Huệ! Những chúng sanh ấy sẽ nhiếp lấy phước đức tư lương rộng lớn, được chư Phật Thế Tôn hộ niệm, với Pháp không sai trái, đồng hàng với chư Tăng.

– Nầy Vô Biên Huệ! Ông đã nhiếp thủ vô lượng thiện căn, ở thuở mạt thế sau, ông sẽ dùng pháp ấy nhiếp lấy chúng sanh, ông sẽ vì chúng sanh mà gánh vác lấy gánh nặng, được phước đức vô lượng, khó nói kể được”.

Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:

“Bồ Tát người vô úy
Lúc mặc giáp trụ ấy
Vì lợi ích chúng sanh
Mà mặc vô biên giáp
Chúng sanh nếu nghèo thiếu
Khổ sở không pháp tài
Không giới không đa văn
Không huệ không giải thoát
Mặc giáp vô biên ấy
Khiến pháp được đầy đủ
Vì pháp đươc đầy đủ
Tất cả được an lạc
Vì bỏ những nghèo khổ
Diễn thuyết pháp vô thượng
Người nghe đều sạch trần
Ðược ở đạo an lạc
Giới tụ được sung túc
Ða văn như biển cả
Bèn được huệ tối thượng
Do đây dứt được trói
Giải thoát khắp chiếu sáng
Giải thoát chánh tri kiến
Nếu người hiện chứng được
Tất cả được an lạc
Lửa lớn tham sân si
Thường đốt cháy hừng khắp
Do đó chúng sanh khổ
Tôi làm tắt lửa ấy
Trao thuốc cho chúng sanh
Trừ hết tất cả bịnh
Nếu bịnh đã tiêu trừ
Ðến được cõi Niết Bàn
Bỏ hẳn tất cả dư
Thẳng đến chỗ an lạc
Từ trong an lạc ấy
Không có ai lui về
Tất cả vui hữu vi
Ở đó không còn cầu
Ðại an lạc vô thượng
Ở đó đểu sẽ chứng
Dùng pháp không hí luận
Thành thục các chúng sanh
Tất cả đều sẽ được
Ðại an lạc cứu cánh
Người hướng đến như vậy
Thẳng qua không trở lại
Ra khỏi nơi hướng đến
Thường được thắng an lạc
Ở trong đại an lạc
Ua muốn hay chẳng muốn
Hướng đến hay chẳng hướng
Tất cả đều sẽ dứt
Mặc giáp như vậy rồi
Sẽ ngồi nơi thừa ấy
Vì thương các chúng sanh
Ðều nhiếp thủ tất cả
Quá khứ Phật Thế Tôn
Thừa ấy đã xuất ly
Vị lai Phật Thế Tôn
Thừa ấy sẽ xuất ly
Hiện tại Phật Thế Tôn
Thừa ấy nay xuất ly
Thế nên Ðại thừa ấy
Không Phật nào chẳng ngồi
Tất cả đấng Tối Thắng
Dựa nương lớn của đởi
Do thừa ấy xuất ly
Chẳng sanh cảm tưởng thừa
Chẳng phải thừa làm thừa
Chẳng phải đạo làm đạo
Chẳng phải xuất làm xuất
Xuất ly nên vô thượng
Lúc thừa ấy xuất ly
Chưa có chút xuất ly
Vì rỗng không, vô tướng
Vì vô nguyện, vô tác
Chẳng thừa chẳng xuất ly
Mới gọi là Ðại thừa
Tất cả đều bình đẳng
Do đây mà hướng đến
Thừa ấy không hòa hiệp
Cũng không chẳng hòa hiệp
Hướng đến đạo vô thượng
Hiện chứng đại an lạc
Thừa ấy không tương ưng
Cũng không chẳng tương ưng
Không xứ không chỗ ở
Do đây mà hướng đến
Ðạo ấy không có lai
Ðạo ấy cũng không khứ
Ðược chánh đạo ấy rồi
Tịch tịnh mà hướng đến
Ta nói nơi đạo ấy
Thừa ấy giáp trụ ấy
Nơi pháp không chỗ ở
Tịch tịnh tối vô thượng
Tất cả pháp phàm phu
Tất cả pháp Thanh Văn
Tất cả pháp Duyên Giác
Tất cả bất khả đắc
Nơi tất cả pháp Phật
Pháp ly cấu vô thượng
Chẳng xa cũng chẳng gần
Tất cả bất khả đắc
Pháp rỗng không, vô tướng
Pháp vô nguyện, vô tác
Chẳng xa cũng chẳng gần
Tất cả bất khả đắc
Các pháp yểm, ly, diệt
Pháp Niết Bàn tịch tịnh
Chẳng xa cũng chẳng gần
Tất cả bất khả đắc
Thừa ấy giáp trụ ấy
Ðạo ấy vô sở thủ
Vô thượng bất khả động
Rốt ráo bất khả đắc
Tự tánh tất cả pháp
Tướng chơn thiệt hi hữu
Chẳng đem thi thiết được
Vì pháp tánh không vậy
Thừa ấy giáp trụ ấy
Ðạo ấy không hiển bày
Như tự tánh các pháp
Tánh ấy cũng như vậy
Trong tất cả các pháp
Tướng tánh bất khả đắc
Nơi pháp không tánh tướng
Ta lược khai thị cho
Trong tất cả các pháp
Tất cả tự tánh tướng
Nơi ta nói như vầy
Rốt ráo vô sở hữu
Thừa ấy và đạo ấy
Giáp ấy tự tánh tướng
Ở đó cầu ngôn thuyết
Rốt ráo cũng chẳng có
Vì ngôn thuyết chẳng có
Ðó là tướng hi hữu
Ở trong ngôn thuyết ấy
Lời lẽ cũng chẳng có
Các pháp chẳng lường được
Vô thắng vô biên lượng
Tất cả chẳng thể lường
Thế nên pháp vô thượng
Thừa ấy giáp trụ ấy
Ðạo ấy cũng như vậy
Ở trong vô tướng ấy
Phải tùy nhập như vậy
Vì khiến các chúng sanh
Biết khắp siêng tu tập
Chóng được ánh sáng pháp
Nên ta nói như vầy
Các pháp không ngôn ngữ
Tất cả chẳng nói được
Ở trong các pháp ấy
Tất cả phải tùy nhập
Vì pháp không ngôn thuyết
Nơi ấy phải tùy hành
Hành không có chút hành
Tất cả pháp không hành
Không cầu mà thích cầu
Không hành mà tùy hành
Người tùy hành như vậy
Chẳng quan sát nơi nghĩa
Nay ông nơi thiệt nghĩa
Tất cả phải tùy hành
Âm thanh và ngôn ngữ
Nơi ấy chớ tùy chuyển
Trong âm thanh ngôn ngữ
Nếu được chẳng tùy chuyển
Mới tùy hành nơi nghĩa
Ðây klà người cầu nghĩa
Những gì gọi là nghĩa
Phải biết thuyết bí mật
Bởi tin vô phân biệt
Nghĩa ấy mới tùy hành
Biết rõ nghĩa như vậy
Ðược nơi thuyết bí mật
Không trước không chỗ chấp
Chẳng hành chẳng tùy chuyển
Nếu là có tùy hành
Thì là tùy chấp trước
Nếu là không tùy hành
Tất cả chẳng tùy chuyển
Do đây chánh ức niệm
Rời xa nơi tùy chuyền
Bồ Ðề và sanh tử
Chẳng tương ưng cả hai
Nơi ấy cũng vô niệm
Vô niệm là chánh niệm
Vì nơi niệm thanh tịnh
Gọi là người thanh tịnh
Nếu tu hành khác đây
Rời xa pháp vô thượng
Ông phải ở nghĩa ấy
Như lời mà tu tập
Nếu là tùy ngôn ngữ
Thì là tùy âm thanh
Chẳng vượt quá nơi ấy
Ðồng với pháp thế gian
Âm thanh và văn tự
Chẳng nên tùy nó chuyển
Phải biết nghĩa chơn thiệt
Không hành để tùy hành
Thiệt nghĩa không âm thanh
Cũng không có văn tự
Vì vượt quá ngôn ngữ
Mới gọi là thiệt nghĩa
Nghĩa ấy nên tùy hành
Tùy hành vô sở hữu
Vì hành đã dứt hết
Mới gọi là thiệt nghĩa
Ở trong chơn thiệt nghĩa
Chẳng hành dùng làm hành
Ðây thời chẳng thối chuyển
Chẳng rời bỏ giáp trụ
Tùy thuận đại giáp trụ
Ðại thừa và đại đạo
Hướng đến chỗ an lạc
Lợi ích các chúng sinh
Những pháp an ổn ấy
Nay ta nói cho ông
Ông phải tùy nghĩa hành
Ông dứt được nghi hoặc
Nếu người ngồi thừa ấy
Ngồi rồi sẽ hướng đến
Chóng đến đại Bồ Ðề
Hiện chứng vô thượng giác
Nơi tối thượng thừa ấy
Chẳng thừa là chóng thừa
Nơi đạo nơi giáp trụ
Nghĩa ấy cũng như vậy
Nơi pháp vô thưỡng ấy
Người siêng năng tu tập
Các chúng sanh như vậy
Ðược chư Phật hộ niệm
Thời kỳ bố úy sau
Ông phải khai pháp ấy
Rộng vì các chúng sanh
Mà làm họ lợi ích
Thời kỳ bố úy sau
Nếu khai được pháp ấy
Phát sanh phước vô thượng
Số ấy chẳng lường được”.
Ðức Phật phán tiếp:” Nầy Vô Biên Huệ! Giáp trụ của Ðại Bồ Tát mặc gọi là đại thắng, cũng cọi là vô biên thắng, cũng gọi là đại trang nghiêm.

Thừa của các Ngài ngồi gọi là Ðại thừa, cũng gọi là vô biên quang, cũng gọi là diệu trang nghiêm.

Ðạo của các Ngài hành gọi là vô lượng trang nghiêm tư lương, cũng gọi là vô luợng phương tiện tư lương.

Do nơi đạo ấy mà chư Ðại Bồ Tát hướng đến Vô thượng Bồ Ðề.

– Lại nầy Vô Biên Huệ! Thuở xưa quá vô lượng kiếp, lại gấp bội số kiếp ấy, có Ðức Phật xuất thế hiệu là Chiên Ðàn Hương Quang Minh Như Lai, Ứng cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn, kiếp ấy tên là Ðiện Quang, quốc độ tên là Quang Minh.

Cõi nước ấy, mặt đất bằng phẳng không có những nhơ uế ngói sạn gai góc. Hoàng kim và bạch ngân làm cát đống bày hàng ngăn ranh rất đẹp mắt.

Trong quốc độ ấy, mỗi châu trong tứ châu thiên hạ rộng hai ức do tuần. Trong mỗi châu lại có bốn vạn tám ngàn thành lớn. Mỗi tòa thành ấy rộng mười do tuần, dài hai mươi do tuần, tường hào trang nghiêm tráng lệ rất cao.

Trong mỗi thành có tám câu chi người ở, chia ra mười ngàn khu vườn bao vòng rất đẹp. Trong quốc độ ấy lại có nhiều thứ cây hoa, cây trái, cây hương, cây y phục, cây thượng vị và cây kim cương xen lẫn nghiêm sức. Những ao hồ ven bờ ngay thẳng đầy nước bát công đức, đủ bốn màu hoa sen thường đua nở.

Ðức Chiên Ðàn Hương Quang Minh Như Lai ấy thọ sáu mươi tám câu chi na do tha tuổi.

Lại có sáu mươi câu chi na do tha chúng Thanh Văn làm quyến thuộc.

Thuở ấy, nhơn dân trong nước Quang Minh dung nhan xinh đẹp an ổn sung sướng, tham sân si nhẹ mỏng dễ giáo hóa. Dạy bảo chút ít họ liền biết rõ tánh tướng các pháp.

– Nầy Vô Biên Huệ! Thuở ấy có Chuyển Luân Thánh Vương tên là Nhứt Thiết Nghĩa Thành đầy đủ bảy báu, bốn phương thần phục.

Trong châu Diêm Phù Ðề ấy có một tòa thành lớn rộng bốn mươi do tuần, nhơn dân đông đúc an ổn giàu vui. Nội thành cung điện rộng năm do tuần dùng bảy báu để trang sức, cây đa la đẹp rũ những linh lạc, trùm với lưới chơn kim.

Chánh điện của nhà vua thuần bằng lưu ly biếc rộng một do tuần, bốn mặt có ngàn trụ. Trên cung điện ấy lại có ngàn từng lầu cao lớn nghiêm đẹp, trang sức với những châu báu. Trước điện có ao nước thơm trong vắt, bên cạnh lại có mười sáu ao nhỏ thơm sáng làm bằng bảy báu. Trong mỗi mỗi ao nước chảy xao động vang ra âm thanh vi diệu như trổi nhạc. Mỗi mỗi ao nhỏ có mười sáu bực thềm, ao lớn có ba mươi hai bực thềm. Mỗi mỗi bực thềm thuần bằng chơn kim. Cây báu bày hàng, lưới báu giăng che, mùi thơm thượng diệu phất khắp cả thành, nên gọi ao nước ấy là ao hương quang.

– Nầy Vô Biên Huệ! Luân Vương ấy có bốn phu nhơn: bà thứ nhứt tên Vô Biên Âm, bà thứ hai tên là Hiền Thiện Âm, bà thứ ba tên là Chúng Diệu Âm, bà thứ tư tên là Nga Vương Âm.

Mỗi phu nhơn đều riêng có hai con trai: người thứ nhứt tên Bất Không Thắng, người thứ hai tên Hiền Thắng, người thứ ba tên Long Thắng, người thứ tư tên Thắng Âm, người thứ năm tên Diệu Âm, người thứ sáu tên Phạm Âm, người thứ bảy tên Thắng Vân và người thứ tám tên Vân Âm.

Thể nữ có sáu ức người, con trai họ có mười ngàn người.

Thuở ấy, Luân Vương Nhứt Thiết Nghĩa Thành ở trong nội cung đang vui chơi với quyến thuộc, bỗng thấy trên hư không có một Ðức Như Lai nhan sắc vi diệu xuất hiện bảo Luân Vương rằng:

Ðại Vương nên mặc giáp trụ vô thượng, ngồi thừa vô thượng mà hướng đến Vô thượng Bồ Ðề, trao thuốc trí huệ cho các chúng sanh. Chớ nên say đắm ngũ dục Nhơn Thiên.

Ðại giáp trụ ấy có thể nhiếp thọ vô thượng an lạc. Vô thượng thừa ấy có thể đưa vào vườn hoa vô thượng. Ðã vào trong ấy thì chẳng còn lui về.

Tất cả những thứ dục lạc của Trời của Người đều là những pháp vô thường biến đổi hư hoại, thế của nó chẳng còn lâu giây lát thì biến đổi tiêu diệt.

Luân Vương Nhứt Thiết Nghĩa Thành nghe lời trên đây rồi, bạch cùng Ðức Như Lai hiện trên hư không rằng:

Ai là người chỉ dạy được đại giáp trụ ấy, như giáp trụ ấy mà mặc vào?

Ai là người chỉ dạy được Ðại thừa ấy, như Ðại thừa ấy mà ngồi ngự đó?

Ai là người chỉ dạy được đại đạo ấy, như đại đạo ấy mà hướng đến vậy?

Ðức Như Lai ấy bảo rằng:

– Nầy Ðại Vương! Có đức Chiên Ðàn Hương Quang Minh Như Lai đang ngự nơi đạo tràng. Ðại Vương nên đến chỗ ấy. Ðức Thế Tôn ấy sẽ vì Ðại Vương mà chỉ dạy cho pháp mặc đại giáp trụ, ngồi nơi Ðại thừa, đến nơi đại đạo.

Dạy bảo xong, Ðức Như Lai ấy bỗng nhiên chẳng còn hiện.

– Nầy Vô Biên Huệ! Thấy việc ấy rồi, Luân Vương Nhứt Thiết Nghĩa Thành kính sợ sửng sốt phát tâm hi hữu chẳng còn thích các thứ dục lạc của Trời cùa Người. Nhàm bỏ tất cả các hành hữu vi mà cầu đại giáp trụ Ðại thừa đại đạo.

Luân Vương cùng tám Vương Tử, bốn Phu Nhơn cùng các Thế Tử, các thể nữ đồng đi đến chỗ đức Chiên Ðàn Hương Quang Minh Như Lai.

Khi đã đến trước Ðức Phật, Luân Vương với quyến thuộc cung kính cúi lạy chưn Ðức Phật, đem một rtăm hoa đẹp thất bửu rải trên Ðức Phật, và đem vô lượng chi bà la dưng lên Ðức Phật và chúng Thanh Văn. Lại suốt mười ngàn năm dâng cúng tất cả đồ cần dùng.

Sau đó Luân Vương rời bỏ ngôi vua, cùng các quyến thuộc xuất gia trong chánh pháp của đức Chiên Ðàn Hương Quang Minh Như Lai.

– Nầy Vô Biên Huệ! Lúc ấy đức Chiên Ðàn Hương Quang Minh Như Lai biết lòng chí thành ưa thích của Tỳ Kheo NhứT Thiết Nghĩa Thành và các quyến thuộc của ông ấy, liền vì họ mà khai thị giáp trụ trang nghiêm và Ðại thùa trang nghiêm.

Tỳ Kheo ấy được nghe pháp rồi phát tâm kiên cố vì pháp thậm thâm mà trọn đời ngồi ngay ngắn để tư duy siêng năng chẳng thối thất, thường gần gũi Ðức Như Lai, với tất cả sự dục lạc thế gian được không động niệm.

– Nầy Vô Biên Huệ! Thuở ấy đức Chiên Ðàn Hương Quang Minh Như Lai hỏi Tỳ Kheo Nhứt Thiết Nghĩa Thàng rằng: Nầy thiện Nam tử! Nay ông mặc đại giáp trụ, ngồi ở Ðại thừa hướng đế đạo ư! Do nơi đạo ấy có thể thành tựu nhứt thiết chủng trí, vô đẳng đẳng trí. Ông phải tinh tiến siêng năng đúng theo lý mà tu tập.

Tỳ Kheo ấy bạch rằng:

Bạch Ðức Thế Tôn! Nay tôi chẳng thấy cópháp gì gọi là giáp trụ, cũng chẳng thấy có ai mặc giáp trụ, cũng chẳng thấy từ đâu mặc giáp trụ, cũng chẳng thấy có chỗ mặc giáp trụ.

Bạch Ðức Thế Tôn! Nay tôi chẳng thấy có pháp gì gọi là thừa, cũng chẳng thấy có ai ngồi Ðại thừa, cũng chẳng thấy từ đâu có Ðại thừa, cũng chẳng thấy có chỗ ngồi Ðại thừa.

Bạch đứx Thế Tôn! Nay tôi chẳng thấy có pháp gì tên là đạo, cũng chẳng thấy có người do đạo nầy mà đã hướng đến hay nay hướng đến, cũng chẳng thấy từ đâu có đạo, cũng chẳng thấy có xứ sở của đạo.

Bạch Ðức Thế Tôn! Tôi đối với Vô thượng Bồ Ðề, hoặc xa hoặc gần, hoặc quá khứ vị lai hiện tại đều không có được không có thấy.

Hiện nay lúc tôi quan sát như vậy, thiệt không có chút pháp nào để thân cận và chứng nhập.

Bạch Ðức Thế Tôn! Nếu tôi không chứng, có nên hỏi tôi rằng: ông mặc giáp trụ, ngồi Ðại thừa và hướng đến đạo ư!

Ðức Thế Tôn là đấng biết tất cả, là đấng thấy tất cả. Ngang bằng chỗ tôi theo pháp tu hành, chỉ có Ðức Thế Tôn mới biết rõ được, mà chẳng phải là cảnh giới của hàng Thanh Văn và Duyên Giác.

– Nầy Vô Biên Huệ! Lúc ở trước Ðức Như Lai kia bạch như vậy, Tỳ Kheo Nhứt Thiết Nghĩa Thành và quyến thuộc của ông chứng được vô sanh pháp nhẫn của Bồ Tát. Vì được vô sanh pháp nhẫn nên đều được bất thối chuyển.

Ðức Chiên Ðàn Hươnh Quang Minh Như Lai đều thọ ký cho họ, quá năm trăm a tăng kỳ kiếp tất cả đều chứng Vô Thượng Bồ Ðề.

Họ nghe Ðức Phật thọ ký vui mừng hớn hở bay vọt lên hư không cao bảy cây đa la nói kệ ca ngợi Ðức Phật:

Tiếng tăm lớn vô lượng
Vững vàng như Tu Di
Ðức Phật Nhứt thiết trí
Hay diễn các công Đức Phật nhãn đều thấy rõ
Dường như mặt trời sáng
Tôn nghiêm giửa đại hội
Tôi lạy chưn Thế Tôn
Vô lượng đức tư lương
Phật trí đã viên mãn
Chúng tôi cũng sẽ được
Thế Tôn vô thượng trí
Áng sáng lớn vô thượng
Chiếu khắp cõi Trời Người
Khai thị các pháp tạng
Biển công đức vô biên
Trí huệ thường không mất
Chánh giác rời phiền não
Huệ quang đại tinh tiến
Tôi lễ công đức sâu
Ðại long đại trang nghiêm
Tướng tốt để nghiêm thân
An trụ như Tu Di
Nhiếp chúng không ai sánh
Làm Ðạo Sư cho đời
Chói che hàng Trời Người
Diễn thuyết vô sở úy
Tôi lễ thắng trượng phu
Thế Tôn đại tịch mặc
Biển vô biên công đức
Khai pháp nhãn cho tôi
Khiến tôi mặc giáp trụ
Nhưng tôi tất cả lúc
Là người ngồi Ðại thừa
Thường ở nơi đạo nầy
Hướng đến không còn thừa
Ðức Mưu Ni dũng mãnh
Biết rõ tất cả pháp
Trong đời không ai hơn
Chúng tôi đều quy mạng.
– Nầy Vô Biên Huệ! Lúc đức Chiên Ðàn Hương Quang Minh Như Lai nói pháp ấy thành thục vô lượng vô số chúng sanh.

Từ đó về sau, Tỳ Kheo Nhứt Thiết Nghĩa ThàNh và quyến thuộc cúng dường phụng thờ vô lượng vô số chư Phật, quá năm trăm a tăng kỳ kiếp chứng Vô Thượng Bồ Ðề hiệu là Siêu Vô Biên Cảnh Giới Vương Như Lai. Quốc độ của Ðức Phật ấy, từ công đức đến rộng lớn đều đồng với thế giới Qaung Minh của đức Chiên Ðàn Hưong Quang Minh Như Lai. Chúng Thanh Văn cũng số vô lượng.

Các Phu Nhơn và các Vương Tử quyến thuộc cũng quá năm trăm a tăng kỳ kiếp chứng Vô Thượng Bồ Ðề.

– Nầy Vô Biên Huệ! Chư Ðại Bồ Tát mặc đại giáp trụ ngồi Ðại thừa ở trong đạo ấy cầm đuốc đại pháp, làm ánh sáng đại pháp, phóng tia sáng đại pháp, dựng tràng đại pháp, đánh trống đại pháp, ngồi thuyền đại pháp đễ nhiếp đại pháp mà hướng đến, đi chỗ đi của Ðại Bồ Tát, tuôn pháp vũ để nhuần ướt chúng sanh đều làm cho vui mừng, dũng mãnh tinh tiến hướng đến Vô Thượng Bồ Ðề.

– Nầy Vô Biên Huệ! Lúc an trụ đạo ấy, đại Bồ Tát được ánh sáng pháp. Do ánh sáng ấy nên thấy được duyên khởi của tất cả pháp tự tánh vốn không, tự tánh không có tướng, tự tánh không có khởi. Chẳng ở trong sắc mà thấy có sắc, chẳng ở trong thọ tưởng hành thức mà thấy có thọ tuởng hành thức. Chẳng ở trong thức mà thấy có thức khác với duyên khởi của thức. Biết rõ tướng của thức, tự tánh vốn không, tự tánh không có tướng, tự tánh không có khởi chỉ thuộc các duyên, thấy duyên hòa hiệp, các duyên cũng là không, là vô tướng, là vô khởi.

Lúc thấy như vậy, chẳng ở trong nhãn căn mà thấy có nhãn căn, tỷ, thiệt, thân và ý căn cũng vậy.

Chẳng ở trong ý căn thấy có ý căn khác với duyên khởi của ý căn. Biết rõ tướng của ý căn, tự tánh vốn không, tự tánh vô tướng, tự tánh vô khởi.

Nhẫn đến địa giới, hỏa giới, phong giới, không giới, Dục giới, Sắc giới và Vô

Sắc giới không có tác giả, không có thọ giả. Chẳng ở chút pháp nào thấy có chút pháp khác với duyên mà sanh khởi. Ðều thuộc các nhơn duyên tự tánh không có tướng, tự tánh không có khởi. Tánh của nhơn duyên cũng là không, là vô tướng, là vô khởi.

– Nầy Vô Biên Huệ! Ðó là lúc an trụ nơi đạo ấy, chư Ðại Bồ Tát quan sát duyên khởi.

Quan sát như vậy rồi có thể dùng trí huệ ở trong duyên khởi chứng được chơn thiệt tế.

Do nơi ánh sáng tất cả pháp ấy mà mười Phật trí lực, bốn vô sở úy, mười tám pháp bất cộng, đại từ đại bi đại hỉ đại xả, nhẫn đến tất cả Phật pháp đều được chóng viên mản”.

Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:

“Bồ Tát người vô úy
Hay an trụ như vậy
Làm ánh sáng đại pháp
Diệu trí để hướng đến
Dựng cao tràng đại pháp
Tràng nầy không có trên
Trong tất cả Phật pháp
Chánh niệm để hướng đến
Trí huệ khéo du hí
Pháp thí cho chúng sanh
Tuôn trận mưa đại pháp
Vô úy để hướng đến
Ðem pháp nhuần chúng sanh
Ðều làm cho vui mừng
Do đây các Bồ Tát
Diệu thiện để hướng đến
Chư Bồ Tát như vậy
Ðược ánh sáng đại pháp
Hay ở trong chánh pháp
Dũng mãnh khéo an trụ
Do ánh sáng pháp nầy
Biết rõ tất cả pháp
Do các duyên sanh khởi
Tất cả không cứng chắc
Các pháp tự tánh không
Tự tánh không có tướng
Tự tánh không có sanh
Tự tánh không có thể
Các pháp do các duyên
Hòa hiệp mà chúng khởi
Vì các duyên hòa hiệp
Tự tánh vô sở hữu
Bồ Tát hay quan sát
Rõ các duyên cũng không
Các duyên tự tánh không
Tự tánh không có tướng
Cũng không có sanh khởi
Cũng chẳng có sở tác
Người quan sát như vậy
Siêng tu tập nơi pháp
Vì duyên khởi không thể
Các duyên chẳng phải duyên
Ðúbg lý quán như vậy
Hay biết tất cả pháp
Quán những sắc thọ tưởng
Hành thức cũng như vậy
Ðều do các nhơn duyên
Mà các uẩn sanh khởi
Các uẩn không có thiệt
Vì tánh bổn lai không
Tánh không nên không tướng
Tất cả không có khởi
Các uẩn xa rời tướng
Rời tướng thì vô sanh
Không sanh thì không diệt
Tướng các uẩn như vậy
Không tướng vọng có tướng
Tướng ấy từ đâu có
Vì các pháp không thể
Uẩn ấy cũng không tánh
Giới và xứ cũng vậy
Tất cả do duyên khởi
Tự tánh bổn lai không
Không tướng không có thể
Trong tất cả các pháp
Pháp thể bất khả đắc
Biết rõ tất cả pháp
Người tư duy danh nghĩa
Cõi Dục Sắc Vô Sắc
Tất cả do duyên khởi
Tự tánh bổn lai không
Không tướng cũng không thể
Xem trí năng quán ấy
Ðâu biết được cảnh ấy
Trí ấy và cảnh ấy
Thường xa rời tự tánh
Sở khởi và các duyên
Hai thứ đều vô tác
Có thể biết như vậy
Ðây là tướng chơn thiệt
Không tướng đem tướng nói
Bồ Tát do đây chứng
Mà cũng chẳng phân biệt
Là tướng hay vô tướng
Người thiện trí như vậy
Thấy được tướng chơn thiệt
Ở trong các pháp giới
Chẳng thấy chút pháp tướng
Các pháp và pháp giới
Cả hai đều vô tướng
Các pháp rời xa tướng
Gọi đó là pháp giới
Nói tên là pháp giới
Không giới không phi giới
Dầu gọi là pháp giới
Nhưng thiệt bất khả đắc
Lúc tư duy nghĩa ấy
Chẳng nhớ bất khả đắc
Vì rời các phân biệt
Ðược ánh sáng đại pháp
Vì các pháp không tánh
Ánh sáng cũng không tánh
Vì quán sát như vậy
Lại được ánh sáng pháp
Chẳng thấy trí năng quán
Thấy ấy cũng chẳNg thấy
Vì thấy pháp hư vọng
Gọi đó là chánh quán
Ánh sáng bất tư nghị
Vô biên và vô lượng
Thấy các pháp đều không
Gọi là chẳng phân biệt
Nếu thấy pháp có tướng
Người thường không chứng nhập
Nghe tịnh pháp âm nầy
Phải sanh lòng vui mừng
Nếu thấy pháp không sanh
Người được không phân biệt
Nghe tịnh pháp âm nầy
Vắng lặng được an lạc
Nếu người thuở mạt thế
Ðược nghe pháp vô thượng
Nên biết chúng sanh ấy
Chứa công đức đã lâu
Người thuở mạt thế sau
Ðược nghe pháp vô thượng
Phải ở trong pháp ấy
Mau chóng để hướng đến.
– Lại nầy Vo§ Biên Huệ! Lúc chư Ðại Bồ Tát quan sát tất cả pháp như vậy, thì ở nơi các pháp được ánh sáng pháp. Chẳng ở trong không mà thấy không, cũng chẳng rời ngoài không mà thấy không, chẳng thấy có chút pháp tương ưng với không. Nếu đã chẳng tương ưng, thì chẳng đem không để không, chẳng thấy không cũng chẳng thấy chẳng không, cũng chẳng dùng thấy để quan sát tất cả pháp.

Lúc thấy như vậy, thì chẳng ở vô tướng mà thấy vô tướng, chẳng ngoài vô tướng mà thấy vô tướng, cũng không có chút pháp cùng vô tướng tương ưng hoặc chẳng tương ưng. Chẳng ở vô tướng dùng vô tướng để thấy. Chẳng ở hữu tướng dùng hữu tướng để thấy. Chẳng phải hữu tướng để thấy, chẳng phải vô tướng để thấy.

Vô sanh và vô tác cũng như vậy.

Chẳng ở trong tận mà thấy tận, cũng chẳng khác tận mà thấy tận. Chẳng thấy có chút pháp cùng với tận tương ưng hoặc chẳng tương ưng. Cũng chẳng ở nơi tận mà dùng tận để thấy. Cũng chẳng ở nơi tận mà dùng vô tận để thấy. Chẳng tận để thấy, chẳng phải vô tận để thấy.

Lúc quan sát như vậy, chư Ðại Bồ Tát không có chút pháp hoặc thấy được hoặc chẳng thấy được, hoặc hiển rõ được hoặc chẳng hiển rõ được, hoặc hướng đến được hoặc chẳng hướng đến được, hoặc biết rõ được hoặc chẳng biết rõ được.

– Nầy Vô Biên Huệ! Ðó là Ðại Bồ Tát an trụ nơi ánh sáng đại pháp của đạo ấy.

Vì ánh sáng đại pháp nên thấy tất cả pháp đều không có ngằn mé, đối với mé với giữa cung không có chấp kiến.

Vì không chấp kiến nên ở trong Phật pháp mà hướng đến vậy”.

Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:

“Chẳng nơi không thấy không
Chẳng khác không thấy không
Người thấy được như vậy
Gọi đó là thấy không
Chẳng an trụ chút pháp
Cũng chẳng thấy chút pháp
Tương ưng với không ấy
Hoặc là chẳng tương ưng
Không do tự tánh không
Nơi không vô sở thủ
Do vì vô sở thủ
Biết được tất cả pháp
Nơi thấy vô sở thủ
Nơi quán vô sở thủ
Biết được thấy và quán
Cả hai đều chẳng thọ
Nơi thấy đều thanh tịnh
Nơi quán bất khả đắc
Quán các pháp như vậy
Rốt ráo vô sở chấp
Chẳng dùng vô tướng thấy
Chẳng dùng vô tường quán
Cũng chẳng ở vô tướng
Mà quán là vô tướng
Vô tướng vô sở hiển
Vô nguyện bất khả đắc
Không có chút pháp thể
Ðể mà tu tập được
Chẳng niệm nơi vô tướng
Cũng chẳng niệm vô nguyện
Vô phân biệt như vậy
Hiển rõ tướng vô tướng
Chẳng hướng đến vô tướng
Cũng chẳng vào vô tướng
Không đến không chỗ vào
Hiển rõ bình đẳng trụ
Người trí chẳng thấy tướng
Cũng chẳng thấy vô tướng
Chẳng thấy chẳng tư duy
Tất cả không hiển rõ
Nếu người thường tư duy
Không tư không hiển rõ
Nơi tư và hiển rõ
Mà an trụ bình đẳng
Như ở nơi vô tướng
Vô tác cũng như vậy
Dầu hiển không chỗ hiển
Vì tư duy biết rõ
Vô sanh cũng như vậy
Không có chút pháp sanh
Tự tánh vô sở hữu
Hiển rõ mà không thể
Hoặc sanh hoặc vô sanh
Hoặc tác hoặc vô tác
Cũng không chút chấp kiến
Người trí chẳng phân biệt
Niệm huệ không động lay
Hiển rõ không nghĩ chọn
Là có hay không thể
Bình đẳng rời các tánh
Chẳng nơi tận thấy tận
Cũng chẳng thấy vô tận
Hiển rõ không chỗ thấy
Tận trí không gì trên
Hoặc tận hoặc vô tận
Cả hai chẳng phân biệt
Do vì vô phân biệt
Trụ vô niệm bình đẳng
Nơi tận thấy vô tận
Cũng không thấy vô tận
Như vậy lúc thấy tận
Chẳng chấp tận vô tận
Nếu nơi tận vô tận
Tất cả không chỗ chấp
Do vì không chổ chấp
Nên tận trí thường tỏ
Cảnh giới của tận trí
Sở đắc của vô úy
Vì hiển rõ pháp ấy
Bồ Tát khéo an trụ”.
Lúc ấy đại chúng lại có Ðại Bồ Tát tên là Thắng Huệ từ chỗ ngồi đứng dậy trịch y vai hữu, gối hữu chấm đất chắp tay hướng lên bạch Ðức Phật rằng:”Bạch Ðức Thế Tôn! Chư đại Bồ Tát vì muốn nhiếp lấy nhứt thiết trí mà khởi công tu hành. Vì khởi công tu hành nên được ánh sáng đại pháp. Ở nơi ánh sáng đại pháp không có chút pháp ấy được.

Vì ánh sáng pháp ấy nên biết rõ tất cả pháp, nào là hữu vi vô vi, thế gian xuất thế gian, hoặc thuận hoặc nghịch, hoặc hí luận hoặc không hí luận.

Bạch Ðức Thế Tôn! Ánh sáng pháp ấy, đâu phải chư Ðại Bồ Tát chẳng tu hành mà sẽ được”.

Ðức Phật phán:” Nầy Thắng Huệ! Chư đại Bồ Tát không có chút tu hành, không có thắng tu hành, chẳng tùy tu hành, chẳng biến tu hành mà có thể được vô biên ánh sáng đại pháp.

Chư đại Bồ Tát còn bất khả đắc, còn bất khả kiến thay, huống là Bồ Tát hạnh sẽ có được sẽ thấy được ư! Thế sao lại thấy bao nhiêu kiếp tu hành có thể được ánh sáng đại pháp.

Tất cả hành huệ của Ðại Bồ Tát, sở hành thanh tịnh được ánh sáng pháp. Công hạnh của ánh sáng pháp chẳng phải công hạnh số lượng, chẳng phải công hạnh tùy tướng thì từ đâu thi thiết tất cả các công hạnh. Nhưng chỗ tu hành dầu chẳng phải thi thiết công hạnh mà cũng chẳng rời lìa.

– Nầy Thắng Huệ! Lúc an trụ nơi hạnh ấy, chư đại Bồ Tát xả bỏ tất cả hạnh không chỗ chấp lấy. Người đủ công hạnh ấy, chẳng phải công hạnh số lượng, chẳng phải công hạnh tùy tướng, không có tướng không có hành mới có thể được ánh sáng đại pháp ấy”.

Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:

“Bồ Tát không chổ hành
Mà cũng không có hạnh
Ðược không có sở hành
Thì vô úy hướng đến
Chưa từng có thắng hạnh
Cũng không có biến hạnh
Không hạnh không thắng hạnh
Thì bìNg đẳng hướng đến
Hạnh ấy không thị hiện
Cũng không có các tướng
Không có tướng không hành
Ðây là tướng của hành
Bồ Tát vô tướng hành
Chẳng trụ ở các sự
Không hành không chỗ trụ
Người trí mới thành tựu
Không hành thì không động
Hạnh ấy là vô thượng
Làm được hạnh bất động
Dũng tiến mà hướng đến
Bồ Tát bất khả đắc
Hạnh cũng bất khả kiến
Cũng chẳng thấy sắc thân
Ðây là người thiện thuận
Không sắc không hình tướng
Nên không tất cả hạnh
Nơi thấy không sở thủ
Ðây là vô tỉ hạnh
Bồ Tát vô thượng hạnh
Chẳng tùy theo thi thiết
Cũng không có dời đổi
Trong ấy không sở chấp
Vì hạnh không thi thiết
Mới là hạnh vô thượng
Nếu được hạnh như vậy
Thì được ánh sáng pháp
Bồ Tát chỗ tu hành
Không lời không kiếp lượng
Hay dùng vô lượng kiếp
Nói rõ các công hạnh
Bồ Tát hạnh thanh tịnh
Thanh tịnh diệu an trụ
Xả bỏ tất cả hạnh
Không có người nhiếp thủ
Bồ Tát trụ nơi xả
Thủ hộ nơi các hạnh
Ðã bỏ tất cả hạnh
Diệu an trụ nơi xả
Bồ Tát vô biên hạnh
Rời biên và vô biên
Hạnh kia không bị động
Gọi là vô thượng hạnh
Bồ Tát vô tướng hạnh
Hạnh ấy là vô thượng
Lúc tu hành hạnh ấy
Siêu việt các ma giới
Bồ Tát vô tướng hạnh
Sáng tỏ nơi vô tướng
Hoặc tướng và vô tướng
Ðều không có sở y
Bồ Tát trụ trí ấy
Hạnh ấy khéo thành tựu
Không có chút sở hành
Gọi là người chẳng làm
Bồ Tát thường thanh tịnh
Nơi hạnh không e sợ
Chánh niệm mà hướng đến
Ðây là khéo an trụ”.
Ngài Thắng Huệ Ðại Bồ Tát lại bạch rằng:” “Bạch Ðức Thế Tôn! Chư Ðại Bồ Tát bao nhiêu sự tu hành rất là thậm thâm. Chẳng phải là chỗ tu hành của những kẻ ngu phu hữu tướng hữu vi mà có thể tu hành chút ít được.

Bạch Ðức Thế Tôn! Không có chút pháp nào trong hạnh ấy, nên hạnh ấy là hạnh bình đẳng của đại Bồ Tát.

Công hạnh của Ðại Bồ Tát, chẳng phải số lượng biên tế mà lường được”.

Ngài Thắng Huệ Ðại Bồ Tát nói kệ khen Ðức Phật rằng:

“Ðấng Ðại Hùng Chánh Giác
Vô thượng Lưỡng Túc Tôn
Diễn thuyết hạnh thậm thâm
Lợi ích chư Bồ Tát
Thế Tôn diệu biện tài
Lượng ấy thiệt khó luờng
Ðấng biện tài vô biên
Ðại trượng phu tối thắng
Pháp Vương dứt nghị luận
Ðây do Chánh Biến Tri
Vì chư đại Bồ Tát
Nói hạnh vô thượng ấy
Thế Tôn hay diễn thuyết
Về phương tiện diệt hành
Nơi hành đều vượt qua
Người trí sẽ hướng đến
Thế Tôn bất tư nghị
Cảnh giới trí vô biên
Chánh giác Lưỗng Túc Tôn
Khéo khai diệu hạnh ấy
Thế Tôn chỗ khai thị
Hạnh bất động tịch mặc
Hạnh ấy không động được
Nên gọi hạnh vô tỉ
Ðại Hùng Ðại Mâu Ni
Chỗ tu hành thuở xưa
Nói do nhiều kiếp hành
Không ai có thể đến
Bồ Tát nghe pháp ấy
Dầu ở tại thế gian
Mà ở nơi chủng trí
Chẳng bao lâu sẽ chứng
Chúng tôi thương chúng sanh
Sẽ ở trong mạt thế
Nơi pháp vô thượng ấy
Hay làm người hộ trì
Chúng tôi nghe pháp ấy
Sẽ ở trong mạt thế
Vì tất cả chúng sanh
Mà hay làm hay nói
Chúng tôi dùng ánh sáng
Sẽ ở trong mạt thế
Vì các người cầu pháp
Mà làm lợi ích lớn
Chúng tôi phát thệ nguyện
Sẽ ở trong mạt thế
Vì tất cả chúng sanh
Hộ trì mà kiến lập
Chúng tôi thường nghĩ nhớ
Sẽ ở trong mạt thế
Cúng dường biển chư Phật
Nguyện trì pháp vô thượng
Chúng tôi nơi pháp tạng
Sẽ làm thắng trượng phu
Nguyện trì pháp môn ấy
Thủ hộ khiến còn lâu
Chúng tôi nơi pháp thủy
Thệ nguyện đều uống hết
Mà với pháp môn ấy
Sẽ làm người thủ hộ
Chúng tôi nghe pháp rồi
Sẽ ở trong mạt thế
Nguyện làm đại trượng phu
Thọ trì Phật chánh pháp
Chúng tôi thà mất mạng
Chẳng bỏ pháp vô thượng
Nguyện ở trong pháp ấy
Mà làm người trì pháp
Chúng tôi trì pháp ấy
Chưa từng mừng là đủ
Khát ngưỡng nghe pháp ấy
Những thế kinh quyết định
Chúng tôi ở mạt thế
Vì những người cầu pháp
Sẽ diễn chánh pháp ấy
Khiến họ đều hoan hỉ
Pháp Vương chẳng nghĩ bàn
Hay làm nương dựa lớn
Xin thương gia hộ tôi
Nhớ tôi người trì pháp”.
Ðức Thế Tôn phán: “Này Thắng Huệ Lành thay, lành thayÔng có thể ở trong đời mạt thế sau, vì muốn hộ trì các háp ấy mà mặc đại giáp trụ. Cũng không khác thuở xưa chư đại Bồ Tã ở chỗ đấng Tối Thắng cúng dường phụng thờ trồng các cội lành, lâu dài tu phạm hạnh mặc đại giáp trụ hộ trì chánh pháp của chư Phật Thế Tôn”.

Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:

“Ðời bố úy thuở sau
Ông sẽ trì pháp ấy
Vì lợi ích chúng sanh
Ðem pháp ấy khai thị
Ðời mạt thế thuở sau
Ông trì pháp tối thắng
Nếu ai nghe pháp này
Sd’ sanh lònh ưa thích
Trong đời mạt thế sau
Ông làm người trì pháp
Ta nói pháp thậm thâm
Ông sẽ đều thọ trì
khế kinh bí mật ấy
Ông nghe phải ghi nhớ
Ở trong lý thú ấy
Chớ có lại nghi hoặc
Nghĩa quyết địng thậm thâm
Ông nghe phải ghi nhớ
Lợi ích các chúngsanh
Làm người trì pháp tạng
Ðem pháp thí tất cả
Khắp nhuần các chúng sanh
Nghe xong khiến mừng vui
Khắp thân tâm hoan hỉ
Vì các đạo Bồ Tát
những lý thú sở hành
Và Tu Ða la ấy
Mà thọ trì trọn vẹn
Ông sẽ rộng độ được
Vô lượngc các chúng sanh
Trong tất cả thế gian
chẳng có thể độ được
Ông vì trì pháp ấy
Lợi ích các thế gian
Ðược những phước thù thắng
Do đây mà hướng đến
Nay ta nói pháp ấy
Ông đẻu phải thọ trì
Trong đời mạt thế sau
Vì người trí diễn nói
Ðời nay và đời sau
Người trì được pháp ấy
Thì có thể thọ trì
Chánh pháp của ngàn Phật
Vì tất cả chúng sanh
Hộ trì pháp môn ấy
Ở đời mạt thế sau
Mà làm lợi ích lớn
Nếu người ở đời sau
Mà làm lợi ích lớn
Nếu người ở đời sau
Hộ trì được pháp ấy
Họ chẳng ở một Phật
Gần gủi mà cúng dường
Nếu người ở đòi sau
Hộ trì được pháp ấy
Họ đã phụng thờ nhiều
Ðấng khéo nói pháp ấy
Ðược ở trong pháp ấy
Không có chút nghi hoặc
Mạt thế hộ trì pháp
Ðây là người trí huệ
Mặc giáp lớn vô biên
Ðấu chiến là thù thắng
Mà ở trong mạt thế
Mới trì được pháp ấy
Họ ở nơi chánh pháp
Lưới nghi đều đã trừ
Nghe pháp không chỗ sợ
Mới trì được pháp ấy”.
Ðức Phật phán tiếp:

“Này Thắng Huệ Nếu có thiện nam thiện nữ, người siêng cầu công đức lớn tối thắng, ở trong thời kỳ mạt thế vì pháp thậm thâm, phải mặc giáp trụ thọ trì đọc tụng giải thuyết nghĩa ấy.

– Lại này Thắng Huệ! Ta nhớ thuở xưa quá vô lượng kiếp ấy, có Ðức Phật xuất thế hiệu là biến chiếu Như Lai, Ứng cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian giải, Vô thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn. Kiếp ấy tên Siêu Thắng. Quốc độ ấy tên là Ly Cấu, mặt đất bằng phẳng rộng lớn trang nghiêm.

Trong các khu vườn ấy trần thiết nhiều đài ghế trang nghiêm, ao hồ đầy nước, bờ bực bằng các chất báu vòng quanh bỉnh chỉnh ra vào an ổn. Bên các bờ ao hồ, những cây thơm đẹp như trầm thủy, chiên đàn và đa mala rậm rợp ngay hàng.

Trongmỗi mỗi thành ấy, đều có mười ngàn câu chi nhơn dân. Vì tất cả nhơn dân ấy đều đã thành tựu mười nghiệp lành nên tất cả đều đã thành tựu mười nghiệp lành nên tất cả đều hưởng thọ sự an lạc ấy.

Thuở ấy đức Biến Chiếu Như Lai ban đầu từ sơ kiếp siêu việt hai trăm kiếp mà xuất hiện trong ấy, vì thê nên kiếp ấy có tên là Siêu Thắng.

Trong kiếp ấy có năm trăm Ðức Như Lai thứ đệ xuất hiện, mỗi mỗi quốc độ, chánh pháp trụ thế đều mười ngàn năm.

Năm trăm Ðức Như Lai như vậy xuất hiện giáo hóa thế gian, có rất đông pháp hội Thanh Văn và Bồ Tát.

Mỗi mỗi pháphội đều có số câu chi na do tha vô lượng Bồ Tát hướng đến nhứt thừa đạo, được vô sanh pháp nhẫn.

Trong kiếp ấy có Chuyển Luân Vương tên là Dũng Mãnh Quân, trọn vẹn bảy báu trị bốn châu thiên hạ?

Ở Châu Diêm Phù Ðề có một tòa thành ớn rộng sáu mươi do tuần, có tám mươi câu chi nhơn dân sống an ổn sung sướng giàu có đông đủc.

Ðại thành ấy có bảy lớp tường hào, bảy lớp hanég câyn bảy lớp lâu đài, bảy lớp linhvõng, một ngàn khu vườn trangnghiêm bao quanh đại thành.

Mỗi mỗi khu vườn ngang rộng hai mươi do tuần, đểu có bảy lớp tường rào, bảy lớp mành lưới, nhiều thứ trang nghiêm, tất cả đều xinh đẹp, những trân ngoạn châu báu như thiên cung.

Mỗi khu vườn lại có một trăm ao hồ, bờ ao bằng báu tỳ lưu ly, thềm bực bằng ngọc mã não, tong ao nhiều hoa đẹp, trên ao cây báu bày hàng.

Trong đại thành, chánh điện của Luân Vương lớn bảy do tuần, xây bằng hoàng kim và ngọc màu xanh, bao bọc băng trụ báu, trang sức bằng ngọc lưu ly, che trùm dùng lưới ma ni châu. Những cây đa la rậm rạp ngay thẳng. Trong ấy có hai mươi ao nước, đáy lót chơn kim, trên che lưới vàng, báu tạp lưu ly làm cầu, thềm đường thuần bằng hoàng kim, trong ao bốn màu hoa sen đua nở.

Chuyển Luân Vương Dũng Mãnh Quân có hai ngàn thể nữ, sáu vạn con trai.

Trong lúc cùng quyến thuộc hưởng vui ngũ dục nơi khu vườn ấy, Luân vương tự nghĩ rằng: những dục lạc đều vô thường sẽ mau biến hoại. Tôi phải quyết chí cầu Phật pháp. Nếu được nghe pháp rồi, tôi sẽ y theo tu hành để được lợi ích an vui mãi mãi.

Luân Vương vừa suy nghĩ xong, trên hư không bỗng có Thiên Tử hiện ra bảo rằng:

Lành thay, này Chuyển Luân Vương! Hiện nay có Biến Chiếu Như Lai xuất thế diễn thuyết chánh pháp, sơ trung hậu đều lành. Ðại Vương nên đến chỗ Ðức Như Lai ấy sẽ được nghe chánh pháp và sẽ mãi mãi được an lạc lợi ích, thành tựu trọn vẹn Phật Pháp.

Nghe lời chỉ bảo của Thiên Tử, Luân Vương vui mừng hớn hở; liền đem quyến thuộc cùng đến chỗ đức Biến Chiếu Như Lai đảnh lễ chưn Phật mà bạch Phật rằng:

Bạch Ðức Thế Tôn! Dùng những pháp gì có thể nhiếp được chư pháp thiện xảo phương tiện, có thể làm cho phạm hạnh được viên mãn, tôi sẽ tu hành.

Ðức Biến Chiếu Như Lai vì Luân Vương mà khai thị rộng rãi các pháp.

Nghe pháp xong, Luân Vương và quyến thuộc cung kính cúng dường Ðức Phật và đại chúng suốt hai muôn năm. Sau đó Luân Vương xuất gia trong chánh pháp của đức Biến Chiếu Như Lai.

Do vì nghe pháp, Tỳ Kheo Dõng Mãnh Quân được thiện căn thọ pháp, thiện căn trì pháp, thiện căn thuyết pháp. Có được nghe pháp gì đều ghi nhớ suy gẫm chẳng quên. Siêng năng tu tập vô lượng công đức phát nguyẹn rằng:

Nguyện thọ trì ba thời kỳ chánh pháp của Ðức Như Lai, vì các hàng chúng sanh mà tuyên thuyết.

Ðối với chư Như Lai trong kiếp Siêu Thắng, Tỳ Kheo Dũng Mãnh Quân đều thân cận cúng dường thờ phụng, đều có thể thọ trì hiện tiền chánh pháp, trung thời chánh pháp và hậu thời chánh pháp của Như Lai ấy, giáo hóa thành thục bốn muôn tám ngàn câu chi na do tha chúnhg sanh hướng đến Vô Thượng Bồ Ðề, phương tiện điều phục vô lượng chúng sanh an trụ Thanh Văn thừa và Bích Chi Phật Thừa.

Trong kiếp ấy, Ðức Như Lai tối Thắng hiệu là Ðiện Quang.

Lúc nghe đức Ðiện Quang Như Lai thuyết pháp, Tỳ Kheo Dũng Mãnh Quân được vô sanh nhẫn.

Ðiện Quang Như Lai thọ ký rằng:

Ở đời vị lai, Ông Dũng Mãnh Quân cúng dường vô lượng ngàn Phật Thế Tôn, thọ trì ba thời chánh pháp của chư Như Lai, làm lợi ích vô lượng vô số chúng sanh, an lập trăm ngàn câu chi na do tha chúng sanh nơi vô thượng bồ đề, vô lượng chúng sanh nơi Thanh Văn thừa.

Như vậy quá a tăng kỳ kiếp chứng Vô Thượng Bồ Ðề hiệu là Vô Biên Tinh Tiến Quang Minh Công Ðức Siêu Thắng Vương Như Lai. Cõi nước của Ðức Phật ấy chứa họp vô lượng công đức thanh tịnh, an ổn giàu vui, nhơn dân đông nhiều, có đông chúng Thanh Văn và Bồ Tát. Ðức Phật ấy thọ đến năm tiểu kiếp, giáo pháp lưu truyền khắp nơi được Trời Người thọ trì. Xá lợi, tháp miếu khắp các quốc độ.

– Nầy Thắng Huệ! Thế nên chư Ðại Bồ Tát ở nơi pháp thanh tịnh thậm thâm ấy phải tôn trọng thọ trì tu tập, dùng pháp trang cụ để trang nghiêm thân mình. Vì dùng pháp để trang nghiêm nên chứng được thân na la diên kiên cố do kim cương tạo thành của Ðức Như Lai.

Giả sử khắp cõi Ðại Thiên, tất cả chúng sanh tận lực muốn phá hoại thân kiên cố ấy cũng không thể xô ngã được.

Ở trong chúng Trời, Người, A Tu La diễn tả ánh sáng pháp, không có địch luận được.

Nếu có chúng sanh nào ở trong thâm pháp ấy thọ trì đọc tụng siêng năng tu tập, tùy theo ý thích của họ mà thọ sanh nơi nhà vọng tộc lớn thanh tịnh, nhẫn đến ngồi dưới cội Bồ Ðề, đầy đủ tiếng danh, quốc độ đẹp lạ chẳng xen dị đạo. Còn không có tên phạm chí giá la ca, huống là có bọn ác kiến cầu tà. Các điều bất thiện cũng chưa từng nghe, đâu có người tập làm căn chẳng lành.

Có thể dùng ngón chưn phóng ánh sáng lớn chiếu khắp vô biên tất cả thế giới. Các chúng sanh gặp ánh sáng ấy đều được an lạc sẽ chứng Vô Thượng Bồ Ðề.

– Nầy Thắng Huệ! Thế nên chư Ðại Bồ Tát nếu ở trong pháp của ta mà siêng tu hành thì sẽ được công đức thù thắng như vậy?. Nếu ta nói cho đủ, dầu cùng kiếp cũng chẳng nói hết được”.

Ðức Thế Tôn lại phán với Ngài Vô Biên Huệ đại Bồ Tát rằng: “Này Vô Biên Huệ! Nếu có người an trụ nơi Bồ Tát đạo ấy, siêng tu thâm pháp thanh tịnh như vậy, tương ưng với không, tương ưng với tịch tịnh, thì được ánh sánh pháp.

Dùng ánh sáng pháp thấy tất cả pháp tự tánh không có khác.

Vì tánh không khác nên chỗ thấy thanh tịnh. Vì chỗ thấy thanh tịnh nên không có pháp kiến, cũng không có pháp rời lìa tự tánh để thấy. Pháp kiến thanh tịnh, cũng không có thanh tịnh, không có người thanh tịnh, không có thời gian thanh tịnh. Có thể được cảnh giới thanh tịnh trí. Thấy các pháp giới: Chẳng phải giới, chẳng phải phi giới? Giới kiến thanh tịnh xa rời các thứ tánh tưởng của các giới.

Vì rời tánh tưởng nên ở nơi giới lý thú bí mật ngôn từ có thể hiễu rõ, lại có thể biết khắp các pháp phi giới. Vì thấy pháp giới không sai biệt, bất khả hoại, bất biến dị nên được phương tiện thiện xảo nơi lý thú của tất cả pháp giới.

Do thiện phương tiện biết khắp được lý thú của pháp giới. Dùng sức đẳng trì ở nơi lý thú sai biệt của các pháp giới tùy thuận thẳng vào.

Lúc an trụ công hạnh ấy, dùng phương tiện thiện xảo đối với tất cả các pháp không trụ không trước.

Vì vô sở trước nên có thể ở nơi tất cả pháp giới lý thú, tùy chỗ thích ứng mà khai thị.

Vì sức đẳng trì lại có thể xuất sanh những tịnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí, du hí thần thông biến một làm nhiều, biến nhiều làm một, với núi đá tường vách bay qua tự tại không vướng ngại.

Phương tiện thiện xảo biết được bốn giới hòa hiệp, chẳng ở nơi giới mà biết tất cả giới hiệp cùng không giới. Nơi không giới chẳng trước chẳng hệ.

Do trí thiện xảo giới hòa hiệp ấy mà ở nơi tất cả giới phương tiện tu tập.

Do tu tập mà quyết liễu thủy giới. Có thể ở nơi thủy giới hoặc làm cho lên khói hoặc phát lửa. Hoặc ở trong ấy làm cho khói lửa cháy phừng. Nhẫn đến nhiều thứ biến hiện để làm lợi ích cho các chúng sanh.

Vì có thể an trụ pháp giới lý thú thiện xảo phương tiện nên không động lay, tùy ý thích nơi Phật độ nào đó, có thể ở nơi các cõi chuyển hình thai tạng, thọ thân hóa sanh, thường thấy mười phương tất cả thế giới chư Phật Như Lai. Chư Như Lai ấy, danh hiệu như vậy, dòng họ như vậy, chúng hội như vậy, thuyết pháp như vậy đều biết rõ ràng”.

Lúc đó trong chúng hội lại có Ðại Bồ Tát tên Vô Biên Thắng tiến lên bạch Ðức Phật rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Chư đại Bồ Tát an trụ pháp gì mà có thể được công đức tối thắng như Ðức Thế Tôn vừa nói?”.

Ðức Phật phán với Ngài Vô Biên Thắng Ðại Bồ Tát:” Này Vô Biên Thắng! Chư Ðại Bồ Tát đối với đối với tất cả pháp không chỗ an trụ thì có thể được công đức tối thắng như ta đã nói.

– Nầy Vô Biên Thắng! Chư Ðại Bồ Tát nếu an trụ sắc thọ tưởng hành thức, nếu trụ nơi địa giới, thủy giới, phong Giới, không giới, nếu trụ nơi Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới, ở kinh này, ta chẳng nói được các công đức ấy.

Nhưng chư Ðại Bồ Tát, ở nơi các pháp không chỗ trụ, chẳng vào chẳng ra, nên ta nói họ sẽ được biển lớn vô biên công đức.

Tại sao vậy?

Chư đại Bồ Tát không chút pháp có thể được có thể trụ. Cũng không có chút pháp vào đdược ra được. Ngài khéo an trụ được nơi lý thú của các pháp mà không chỗ đdộng lay.

Tại sao vậy?

Vì chư đại Bồ Tát không an trụ không động lay vậy.

Vì không động lay nên không có cao không có hạ.

Vì không cao hạ nên rời xa nơi cao, chẳng an trụ nơi hạ.

Vì chẳng an trụ nên gọi là khéo an trụ.

Người khéo an trụ thì không có chỗ an trụ thì không có an trụ. Người không có chỗ an trụ thì chẳng an trụ nơi chỗ.

Chư đại Bồ Tát chẳng ở nơi chút pháp nào hoặc có an lập, hoặc có tích tập, không xứ không trụ, không khởi không tác.

Tại sao vậy?

Vì nơi chỗ bất khả đắc. Vì không có nơi chỗ nên không có phân biệt. Vì không có phân biệt nên bất động xứ mà an trụ, như pháp giới mà an trụ. Không có xứ mà an trụ thì không có an trụ. Với xứ và không có xứ đều không có chấp trước. Gọi đó là thiện trụ.

– Nầy Vô Biên Thắng! Chư Ðại Bồ Tát ở nơi pháp lý thú mà an trụ. An lập như vây là an trụ nơi vô trụ, không có chỗ an trụ mà an trụ, thấy tất cả pháp không có phân biệt.

An trụ nơi hạnh vô phân biệt như vậy, dùng hạnh như vậy thấy tất cả pháp không có chỗ động thì an trụ nơi chơn như lý, thì tương ưng với chơn như lý động, thì tương ưng với chơn như lý bất thu.

Ðức Thế Tôn:

“Bồ Tát chánh ức niệm
Nơi nghĩa khéo tư duy
Chẳng trụ trong các pháp
Gọi đó là người trí
Chưa từng có chút pháp
Làm được chỗ an lập
Vô úy mà hướng đến
Chẳng an lập nơi sắc
Cũng chẳng lập nơi thọ
Nơi các tưởng các hành
Bà nơi thức cũng vậy
Chẳng an trụ nơi uẩn
Các giới và các xứ
Hoặc xứ hoặc phi xứ
Cũng thường không chỗ trụ
Chẳng an trụ địa giới
Cũng chẳng an trụ thủy giới
Hỏa giới và phong giới
Cũng thường không chỗ trụ
Chẳng an trụ Dục giới
Sắc giới, Vô sắc giới
Vì được không an lập
Nên chẳng trụ tam giới
Và ở hư không giới
Nơi ấy không chỗ trụ
Vì không có chỗ trụ
Bình đẳng mà hướng đến
Vẫn không có chút pháp
Trong ấy an trụ được
Nếu được không chỗ trụ
Ðây là người diệu trí
Diệu trí không chỗ trụ
Không trụ là thiện trụ
Ðược an trụ như vậy
Thì trụ trong pháp giới
Vì tương ưng vô trụ
Kia thường hay thiện trụ
Không trụ không y chỉ
Nơi pháp được an trụ
Nếu được không y chỉ
Thí thường không sở động
Chẳng nhập cũng chẳng xuất
Bình đẳng khéo an trụ
Nơi pháp trụ như vậy
Ðây là người dũng mãnh
Tất cả pháp không cao
Tất cả pháp không tháp
Không sở động như vậy
Khéo an trụ pháp giới
Vì an trụ chẳng động
Thành tựu vô trụ xứ
Mà được thiện an trụ
Hoặc xứ hoặc phi cứ
Tất cả không sở động
Trụ ở bất động xứ
Mới gọi là bất động xứ
Nếu trụ bất đọng xứ
Tất cả không chỗ trụ
chẳng niệm xứ phi xứ
Thường trụ vô phân biệt
Vì chẳng trụ nơi xứ
Thì không có sở động
Nơi xứ không sở động
Tất cả được vô trụ
Nếu được vô trụ xứ
Xứ phi xứ chẳng động
Nếu nơi xứ chẳng động
Là thiện trụ nơi xứ
Thiện trụ xứ an trụ
Thì trụ vô sở trụ
Hay thấy tất cả pháp
Trụ tương ưng trụ pháp
Thấy các pháp như vậy
Các thứ vô sở trụ
Vô trụ không an trụ
Thiện xảo nơi pháp trụ
Thường trụ ở các pháp
Mà không có phân biệt
Vì rời các phân biệt
Ðây là người bất động
Nếu hay trụ bất động
Nơi hành vô phân biệt
Rời xa xứ phi xứ
Ðây là người quan sát
Nếu hay quán bất động
Tất cả không sở động
Các pháp thường bình đẳng
Như vậy mà hướngđến
Trụ tương ưng chơn như
Chơn như mà bất động
Người đươc vô động xứ.
Thường trụ nơi vô xứ

Ngài Vô Biên Thắng Ðại Bồ Tát lại bạch rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Rất là hy hữu, Ðức Thế Tôn có thể an lập chư đại bồ Tát ở nơi pháp lý thú không có hệ phược, không có giải thoát.

Bạch Ðức Thế Tôn! Chư Ðại Bồ Tát ở nơi pháp lý thú khéo an lập chẳng cùng với chút pháp hoặc tương ưng hoặc chẳng tương ưng, hoặc hòa hiệp hoặc chẳng hòa hiệp, hoặc nhiếp thủ hoặc chẳng nhiếp thủ, hoặc có sở quy hoặc không có sở quy, hoặc tham hoặc ly tham, hoặc sân hoặc ly sân.

Bạch Ðức Thế Tôn! Chư Ðại Bồ Tát ở trong tất cả pháp lý thú thiện xảo an lập.

Giả sử có chúng sanh dúng dường cung kính, Ðại Bồ Tát ấy chẳng có lòng tham ái. Chúng sanh hủy nhuc bức não, Ðại Bồ Tát ấy cũng chẵng sân hận.

Chư đại bồ tát ấy không có các thứ tưởng, rời tất cả pháp, chẳng thấy có chút pháp có thể cùng với chút pháp tương ưng hoặc chẳng tương ing, vì siêu quá tương ung và chẳng tương ưng vậy.

Các Ngài rời xa tưởng tương ưng chẳng tương ung, biết rõ tương tương ưng chẳng tương ưng, siêu quá biết rõ, chắng ở nơi chút pháp hoặc tiến hoặc thối hoặc có chỗ hướng đến hoặc không có chỗ hướng đến mà làm tương ưng.

Ở trong tất cả pháp lý thú, các Ngài không có vọng niệm cũng không có sở thủ, dùng thiện phương tiện chẳng hoại pháp tánh.

Bạch Ðức Thế Tôn! Lúc an trụ nơi tất cả pháp như vậy, chư Ðại Bồ Tát có thể dùng thiện xảo tuyên nói tất cả pháp giới lý thú, tất cả Phật Pháp mau được viên mãn”.

Ðức Thế Tôn phán với Ngài Vô Biên Huệ Ðại Bồ Tát rằng: “Này Vô Biên Huệ! Ở trong Phật Pháp, lúc chư Ðại Bồ Tát không chỗ an lập không chỗ an trụ thì thấy Phật Pháp, không có an lập không có sở trụ, cũng không thắng trụ, cũng không biến trụ, thấy Phật Pháp trụ. Tại sao vậy? Vì chẳng khuynh động, vì chẳng lưu chuyển vì chẳng biến dị vậy.

Tương ưng với tất cả pháp giới mà an trụ mới gọi là tất cả pháp giới lý thú thiện xảo an lập.

– Nầy Vô Biên Huệ! Ở trong Phật pháp, chư đại Bồ Tát không trụ, không thắng trụ, không biến trụ, không phi xứ trụ, cũng không sở động, không biến phân biệt, mới gọi là tất cả pháp giới lý thú thiện xảo an lập.

– Nầy Vô Biên Huệ! Chư Ðại Bồ Tát chẳng thấy chút pháp có thể cùng chút pháp mà làm an lập, cũng chẳng thấy có tất cả pháp xứ làm thắng an lập, cũng không phân biệt, không thắng phân biệt, không biến phân biệt, mới gọi là tất cả pháp giới lý thú thiện xảo an lập.

– Nầy Vô biên Huệ! Chư Ðại Bồ Tát chẳng thấy chút pháp hoặc trụ hoặc khứ, cũng không phân biệt, không thắng phân biệt, không biến phân biệt. Các Ngài thấy tất cả pháp như tịnh hư không ánh sáng chiếu suốt rời xa phiền não, vì ánh sáng chiếu tất cả pháp, nên mới gọi là được thiện xảo phương tiện nơi tất cả pháp giới lý thú, chẳng dùng an lập để quán pháp giới. Tại sao vậy? Vì chẳng ở nơi pháp giới có chút an lập vậy.

Ví như hư không và phong giới không có xứ sở cũng không thấy được, không chỗ an lập không chỗ y chỉ, không hiện bày được.

Pháp giới cũng như vậy, không chỗ vào được, không chỗ thấy được, không chỗ an lập, không chỗ y chỉ, không hiện bày được.

Pháp giới cũng như vậy, không chỗ vào đươc, không chỗ thấy được, không chỗ an lập, không chỗ y chỉ, cũng không liễu tri cũng không hiện bày.

Chư đại Bồ Tát vì không hiện bày nên tương ưng với như như giới mà an trụ.

– Nầy Vô Biên Huệ! Tất cả pháp giới không sanh không mạng, không lão không tử, không thăng không trầm, không hiện bày giới đó là pháp giới, không biến dị giới đó là pháp giới, mà pháp giới ấy khắp tất cả chỗ.

– Nầy Vô Biên Huệ! Pháp giới không khứ, cũng không chỗ khứ? Vì không chỗ khứ nên mới gọi là tương ưng với pháp giới mà an trụ.

Trong như như pháp giới không có xứ cũng không có phi xứ. Tại sao vây? Vì như như pháp giới như như tự tánh vô sở hữu vậy.

– Nầy Vô Biên Huệ! chư Ðại Bồ Tát nghe ta nói đây thì ở nơi tất cả pháp giới lý thú được vô biên ánh sáng đại pháp. Do ánh sáng pháp được vô sanh nhẫn, chóng viên mãn Phật thập lực mười tám pháp bất cộng.

Vì muốn thành thục tất cả chúng sanh thiện căn rộng lớn tư lương thù thắng vì muốn chủng tánh Như Lai không đoạn tuyệt nên mau đến đạo tràng chuyển pháp luân, che khuất cung ma, xô dẹp dị luận, làm đại sư tử hống mà vì chúng sanh diễn thuyết diệu pháp tùy theo sở thích của họ, tùy theo chí nguyện của họ, tùy theo chỗ hướng đến chánh giải thoát của họ, đếu làm cho tất cả đều đến Vô Thượng Bồ để.

Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:

“Tất cả chư Bồ Tát
Chẳng trụ ở các pháp
Ở nơi trong Phật Pháp
Không có chỗ an lập
Tất cả chư Bồ Tát
vì không chỗ an lập
Nên ở trong phật pháp
Vô úy mà hướng đến
Tất cả chư Bồ Tát
Thấy tất cả Phật Pháp
không có trụ không xứ
Là diệu thiện an lập
tất cả chư bồ tát
chẳng an trụ ở xứ
có thể thấy các pháp
không an trụ không thối
tất cả chư bồ tát
thấy pháp không an trụ
nơi phật pháp chẳng động
nơi phật pháp chẳng cầu
tất cả chư bồ tát
thấy pháp không biến dị
nơi phật pháp chẳng động
cũng chẳng có suy tầm
Tất cả chư Bồ Tát
thấy các pháp như vậy
Ở nơi pháp thiện xảo
Phương tiện mà an trụ
Tất cả chư Bồ Tát
thấy pháp thường bình đẳng
Nơi phật pháp chẳng trụ
cũng chẳng phải chẳng trụ
Thường không có trụ xứ
cũng chẳng phải không xứ
thường chẳng có phân biệt
chẳng phải chẳng phân biệt
Tất cả những phân biệt
Thường là vô sở hữu
Tất cả chư Bồ Tát
tương ưng với vô trụ
nơi những thời những xứ
Mà khôngcó sở động
tất cả chư Bồ Tát
ở trong pháp lý thú
lúc an trụ bình đẳng
thì gọi là thiện trụ
tất cả chư Bồ Tát
ở trong pháp lý thú
chẳng thấy có chút pháp
có thể bình đẳng trụ
tất cả chư bồ tát
có thể thấy các pháp
đều không có xứ sở
cũng chẳng rời xứ
được không có sở động
cũng chẳng có thân cận
tất cả chư bồ tát
ở trong tất cả pháp
lý thú được thiện xảo
phương tiện mà an trụ
thì gọi là bồ tát
tất cả chư bồ tat
chẳng ở nơi chút pháp
hoặc khứ hoặc là lai
phân biệt mà an trụ
bấy giờ mới an trụ
tất cả pháp lý thú
tất cả chư bồ tát
nơi các pháp lý thú
Tất cả thứ an trụ
Có thể khởi vô biên
Những ánhsáng đại pháp
Do ánh sáng đại pháp
An trụ bình đẳng kiến
Thấy tất cả các pháp
và các pháp lý thú
như hư không trong sạch
như bóng cũng như tượng
Bình đẳng không cấu nhiễm
Tất cả chư bồ tát
Ở nơi thấy biết rõ
Cũng không có biết rõ
Xa rời nơi tự tánh
Tất cả chư Bồ Tát
Hay quán sát như vậy
Ở trong tất cả pháp
Lý thú mà an trụ
Có thể ở pháp giới
kiên cố siêng tu tập
Thì gọi là pháp giới
Lý thú thiện phương tiện
Tấ cả chư Bồ Tát
Chẳng an trụ pháp giới
Quan sát các pháp giới
Rốt ráo chẳng phải có
Tất cả chư Bồ Tát
Quyết liễu nơi các pháp
Thấy tất cả các pháp
Như hư không như phong
Dầu không có an lập
Mà khắp tất cả chỗ
Pháp giới cũng như vậy
Khắp ở tất cả chỗ
Pháp giới khó nghĩ bàn
không thể hiện bày được
Ở nơi các người trí
Chẳng có làm thân cận
Giới không có thị hiện
Mới gọi là pháp giới
Không có chỗ trụ xứ
Mới gọi là an trụ
Pháp giới không có sanh
Không mạng không lão
không tử không thăng trầm
Cũng không có xuất ly
Pháp giới chẳng nghĩ bàn
không lai không có khứ
pháp giới chẳng phải uẩn
Chẳng phải giới và xứ
Cũng chẳng rờu giới xứ
Mà không có sở động
Pháp giới thường như như
Tự tánh chẳng phải có
Tất cả chư Bồ Tát
Hay biết rõ như vậy
pháp giới khó nghĩ bàn
Ðược ánh sánh đại pháp
Do đây mà hướng đến
Qua đến tại đạo tràng
Mà ở nơi các pháp
Không còn có nghi hoặc
Chẳng có bị sở động
Dùng ánh sáng đại pháp
Làm cho các chúng sanh
Ðều được đại an lạc”.
Ðức Thế Tôn phán tiếp: “Này Vô Biên Huệ! Chư đại Bồ Tát có thể ở nơi pháp thậm thâm như vậy mà siêng tu tập, thì được ánh sáng đại pháp như vậy. Dùng trí huệ ấy hướng đến Vô Thượng Bồ Ðề.

– Lại này Vô Biên Huệ! Ta nhớ thuở xưa quá hai a tăng kỳ kiếp, lúc ấy có Ðức Phật xuất thế hiệu là Nguyệt đăng vương như lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh hạnh túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Kiếp ấy tên Cam Lộ, Quốc Ðộ tên Thanh Tịnh.

Cõi nước ấy bằng pha lê thường có ánh sáng chiếu khắp nơi. Nếu có chúng sanh nào gặp ánh sáng ấy thì được sạch sẽ đẹp đẽ đoan nghiêm, vì thế nên cõi nước ấy có tên là Thanh Tịnh, Không có tên thành ấp tụ lạc riêng. Trong nước ấy đường sá rất đẹp, dây vàng ngăn lối. Khoảng cách giữa các con đường tất cả đều đồng nửa câu lô xá. Trụ báu sáng chói, cây đa la đẹp đều số tám mươi bốn bày hàng trong mỗi khoảng cách ấy. Trong đó lại có bốn ao nước, quanh ao có lâu đài bảy báu là chỗ ở của nhơn dân. Che trên thì có linh võng, treo rũ thì xó dải lụa. đồ trân ngoạn đẹp lạ như Thiên cung.

Chúng sanh ở nước ấy tịch tịnh an lạc, đều đã thành tựu mười nghiệp đạo lành, dung mạo đoan nghiêm, thọ mạng dài lâu, tham sân si mỏng dễ khai ngộ, dùng chút ít phương tiện đã biết rộng các pháp.

Ðức Phật Nguyệt Ðăng Vương trụ thế mười câu chi tuổi. Sau khi Ðức Phật ấy diệt độ, chánh pháp trụ thế một câu chi năm.

Có mười hội thuyết pháp. Mỗi pháp hội đếu có hai mươi câu chi na do tha chúng Thanh Văn ở bực học địa, các chúng Bồ Tát hướng đến Nhứt thừa số đến vô lượng.

– Nầy Vô Biên Huệ! Cây Bồ Ðề báu của đức Nguyệt Ðăng Vương Như Lai cao một trăm do tuần, chu vi năm mươi do tuần, góc bằng ngọc san hô, thân bằng ngọc lưu ly, nhánh bằng hoàng kim, lá bằng ngọc mã não. Ðạo tràng dọc ngang đều một trăm do tuần, khắp vòng có bệ nền, bao quanh có lan can. Cây đa la đẹp bày ngay thẳng, linh vàng lưới báu giăng che trang nghiêm.

Tòa đại Bồ Ðề cao ba do tuần trải nệm êm nhuyễn, trăm ngàn diệu y xen rũ, hai mươi tràng phan dựng bày một bên.

Ðức Phật Nguyệt Ðăng Vương ngồi trên tòa đại bồ đề ấy mà chứng Vô Thượng Bồ Ðề.

Thuở ấy nước Thanh Tịnh không có ba ác đạo và tên ác đạo, cũng không có các nạn và tên các nạn.

Ðức Phật Nguyệt Ðăng Vương thường ở trong tất cả các thế giói hóa hiện thân Phật chuyển chánh pháp luân.

– Nầy Vô Biên Huệ! Ðức Phật Nguyệt Ðăng Vương có hai vị Bồ Tát: Một tên là Vân Âm, một tên là Vô biên Âm.

Hai vị Bồ TÁt ấy bạch Ðức Phật Nguyệt ÐăngVương rằng:

Bạch Ðức Thế Tôn! Thế nào chư đại Bồ Tat ở trong các tất cảpháp lý thú mà được thiện xảo phương tiện an lập?

Vì muốn chư Ðại Bồ Tát ở trong tất cả pháp lý thú mà được thiện xảo phương tiện an lập nên Ðức Phật Nguyệt Ðăng Vương vì hai vị Bồ Tát mà nói rộng pháp ấy.

Chư đại Bồ Tát nghe pháp ấy xong, ở trong tất cả pháp lý thú được thiện xảo phương tiện an lập.

Hai vị Bồ Tát Vân Âm và Vô Biên Âm sau đó hai muôn năm không ngủ nghỉ, không tham dục, không sân não, chẳng tưởng đến ăn đến nằm, cũng không tưởng đến bịnh hoạn thuốc thang, chẳng thích vui chơi du ngoạn trong thế gian.

Lúc Ðức Phật Nguyệt Ðăng Vương thuyết pháp, liền trên pháp tòa, hai vị Bồ Tát ấy được Vô sanh nhẫn.

Ðức Như Lai ấy hỏi hai vị Bồ Tát rằng: “Này thiện nam tử! Ở trong tất cả pháp lý thú thiện xảo phương tiện an lập như vậy, các ông có cầu chăng?

Hai vị Bồ Tát ấy bạch rằng: Bạch Ðức Thế Tôn! Con còn chẳng thấy có danh từ tất cả pháp lý thú thiện xảo an lập, huống là tất cả pháp lý thú thiện xảo phương tiện an lập.

Bạch Ðức Thế Tôn! Con cũng chẳng được tất cả pháp, con cũng chẳng được tất cả pháp an lập. Nơi tất cả pháp không có trụ không có chẳng trụ.

Bạch Ðức Thế Tôn! Con thấy như vậy đâu còn nên hỏi rằng: Ở trong tất cả pháp lý thú thiện xảo phương tiện an lập nhu vây, ông có cầu chăng? Hay là chẳng cầu chăng?

Bạch Ðức Thế Tôn! Con cũng chẳng thấy ở trong tất cả pháp lý thú thiện xảo phương tiện an lập như vậy mà làm người cầu. Con cũng chẳng thấy có hoặc trong hoặc ngoài, hoặc trung gian, hoặc tất cả pháp, hoặc pháp lý thú thiện xảo phương tiện mà an lập, con cũng chẳng thấy có pháp hoặc trong hoặc ngoài, hoặc trung gian, hoặc tất cả pháp, hoặc pháp lý thú thiện xảo phương tiện mà có thể an lập được.

Bạch Ðức Thế Tôn! Con cũng chẳng thấy nhẫn đến có chút pháp trong ngoài trung gian lý thú thiện xảo phương tiện an lập mà có thể thân cận được.

Bạch Ðức Thế Tôn! Ðã không có chút pháp hướng đến được thân cận ở trong ấy con sẽ an lập cái gì?

Bạch Ðức Thế Tôn! Vì không có an lập nên chẳng phải tương ưng với an trụ hay chẳng an trụ, chẳng phải tương ưng với vô tận, vô sanh.

Bạch Ðức Thế Tôn! Con cũng chẳng thấy từ ai do ai chỗ nào lúc nào tâp ý thức của con hoặc sanh hoặc diệt. Sao lại còn nói rằng dùng tâm ý thức ở nơi tất cả pháp lý thú thiện xảo phương tiện an lập?

– Nầy Vô Biên Huệ! Lúc hai vị Bồ Tát Vân Âm và Vô Biên Âm ở trước đức Nguyệt Ðăng Vương Như Lai bạch như vậy, có một ngàn Bồ Tát được vô sanh nhẫn, một ngàn câu chi Bồ Tat phát tâm Bô Ðề.

Lúc ấy Ðức Phật Nguyệt Ðang Vương lại bảo hai vị Bồ Tát rằng: “Này thiện nam tử! Ông dùng vô trụ mà trụ, vô xứ mà trụ, ở nơi tất cả pháp lý thú, thiện xảo phương tiện an lập.

– Nầy thiện nam tử! Tất cả các pháp cũng lại như vậy. Vì tùy thuận thế tục đạo mà Ðức Như Lai hiện chứng Vô thượng Bồ Ðề. Nếu là ở nơi Ðức Như Lai thì chẳng theo thế tục đế cũng lại như vậy.

– Nầy thiện nam tử! Các pháp không có xứ cũng chẳng phải không có xứ. Nếu là xứ và không có xứ đều là theo thế tục. Nếu theo thế tục thì ở trong ấy không có chút pháp để có thể sanh, để có thể thấy được.

– Nầy thiện nam tử! Vì thế nên phải siêng năng tu tập ở nơi các pháp được chứng giải thoát.

Hai vị Bồ Tát ấy ở trước đức Nguyệt Ðăng Vương Như Lai nghe pháp ấy rồi, hai Ngài bay lên hư không nói kệ khen ngợi Ðức Phật:

Pháp vương bất tư nghì
Ðượcpháp vị tằng hữu
Ðấng Biến Tri Lưỡng Túc
Phật pháp không quá trên
Do vì pháp vô thượng
Như Lai đời không bằng
Tất cả pháp vô sanh
Nay con được nhẫn ấy
Con thường chẳng phân biệt
Hoặc sanh hoặc vô sanh
Cũng chẳng niệm như vậy
Tất cả vô phân biệt
Pháp Vương Ðại Mâu Ni
Công đức rời ngôn niệm
Xin nói pháp thanh tịnh
Khiến chúng đều hoan hỉ
Nơi thắng đức của Phật
Muốn biết vi tế ấy
Dầu trải vô lượng kiếp
Cũng chẳng thể biết được
Vì công đức vô biên
Tối thắng không quá trên
Tất cả pháp vô sanh
Con cũng chẳng phân biệt
Con ở trong Phật pháp
chưa từng có hủy hoại
chẳng nói các thiện căn
Thế nào có thể được
Các pháp không thị hiện
Không sanh cũng không tướng
Vô tướng nhẫn như vậy
Ở đây cũng đều chứng
Nay nhẫn của con được
rốt ráo không thối chuyển
Nên ở nhứt thiết trí
Do đây sanhoan hỷ
Nơi pháp của Như Lai
con quyết định không nghi
Cũng nơi tất cả pháp
Rời xa những nghi hoặc
Trong Phật Pháp Vô Thượng
Nay con được nhẫn ấy
Con cũng chẳng phân biệt
Cũng không chẳng phân biệt”.
Hai vị Bồ Tát ấy nói kệ xong, đi nhiễu bên hữu đức Nguyệt Ðăng Vương ba vòng, đem hoa trời hương trời rải trên Ðức Phật.

Ðức Nguyệt Ðăng Vương Như Lai liền thọ ký rằng: Các ông Vân Âm và Vô Biên Âm quá hai muôn kiếp sẽ chứng Vô Thượng Bồ Ðề.

Hai vị Bồ Tát ấy nghe Ðức Phật thọ ký vui mừng hớn hở qua sát kỹ Ðức Phật rồi nhập các thiền định du hí thần thông ẩn hiện tự tại khói lửa phát sáng. Hai Ngài lại vì chúng sanh thuyết pháp khai thị khiến hai muơi bốn câu chi Nhơn Thiên hướng đến Vô Thượng Bồ Ðề.

Hai vị Bồ Tát ấy trọn đời siêng tu phạm hạnh, ở nơi trung thời và hậu thời chánh pháp của đức Nguyệt đăng Vương đều có thể hộ trì. Trong thời kỳ ấy lại giáo hóa thành thục bốn câu chi chúng sanh hướng đên Vô Thượng Bồ Ðề.

Quốc độ của Bửu Tràng Như Lai thanh tịnh, không có hàng Thanh Văn chỉ có những bực nhứt sanh bổ xứ Bồ Tát.

Lúc Bửu Tràng Như Lai sắp nhập diệt mới thọ ký cho Vân Âm Bồ Tát kế sẽ thành Phật hiệu là Nhựt Ðăng Vương Như Lai, cõi nước thành tựu trang nghiêm chứa nhóm vô lượng vô biên công đức, Bồ Tát Thanh Văn đại chúng viên mãn. Sau khi đức Nhựt Ðăng Vương Như Lai diệt độ, Vô Biên Âm Bồ Tát kế sẽ thành Phật”.

Ðức Phật phán tiếp: “Nầy Vô Biên Huệ Do vì pháp môn nầy vô sở đắc, vô ngôn thuyết nên chẳng thể hiển bày được, không sanh không diệt. Chư Ðại Bồ Tát phải đúng như lý chuyên cần tu tập.

Nếu có Bồ Tát an trụ nơi tất cả pháp lý thú thiện xảo phương tiện an lập, dùng vô sở đắc được vô sanh nhẫn viên mãn Phật pháp. Dùng vô lượng công đức để làm trang nghiêm mà hướng đến Vô Thượng Bồ Ðề.

– Nầy Vô Biên Huệ! Ta chẳng bao giờ nói chư đại Bô Tát rời ngoài pháp ấy mà có riêng chút pháp nào có thể mau thành tựu nhứt thiết chủng trí.

Nếu có ai ở nơi pháp không thậm thâm vô sanh vô diệt ây mà siêng tu tập thì chóng được Bồ Tát pháp giới lý thú thiện xảo phương tiện và đà la ni, đầy đủ vô ngại biện tài vô thượng nhiếp hóa, được chư phật Thế Tôn đều khen ngợi, dùng pháp nghiêm cụ để trang nghiêm, có thể viên mãn bố thí, an trụ thanh tịnh trì giới, được thanh tịnh nhẫn, vô thượng tinh tiến, vô duyên thiền định, dùng đại trí huệ hướng đến Vô Thượng Bồ Ðề, ở trong những thắng pháp là tối thù thắng, chóng được gọi là bực nhứt thiết trí, ngồi nơi đạo tràng, bốn Ðại Thiên Vương mang lọng báu đến thỉnh chuyễn pháp luân, làm ánh sáng lớn cho hàng Nhơn Thiên, đều làm cho họ hướng đến Vô Thượng Bồ Ðề.

– Lại nầy Vô Biên Huệ! Nếu chư Ðại Bồ Tát có thể ở nơi nhứt thiết pháp hải ấn tam muội mà siêng tu tập, thấy tất cả pháp đồng với pháp giới. Lúc thấy như vậy, chẳng ở nơi pháp giới thấy tất cả pháp, chẳng ở nơi tất cả pháp thấy pháp giới mà tinh tiến tu tập. Do tất cả pháp các giới hòa hiệp, thiện xảo phương tiện ở nơi tất cả pháp các giới hòa hiệp mà không chấp trước, cũng không sở động nơi tất cả pháp các giới hòa hiệp, thiện xảo phương tiện cũng không chấp trước cũng không phân biệt. Có thể ở trong tất cả pháp hòa hiệp mà thấy một pháp hòa hiệp. Chẳng ở trong một pháp hòa hiệp mà thân cận tất cả pháp hòa hiệp. Vì có thể biết rõ một pháp ấy nên cũng có thể biết rõ tất cả các pháp. Vì có thể biết tất cả pháp nên ở nơi một pháp ấy chỗ đáng được biết rõ cũng có thể biết rõ. Chẳng đem các pháp thân cận một pháp. Ở nơi trong các thủ uẩn hòa hiệp đều có thể biết rõ. Chẳng ở nơi các thứ tánh tướng của các thủ uẩn, hoặc có hòa hiệp hoặc không hòa hiệp mà sanh chấp trước.

Lúc thật hành như vậy, nếu có các pháp do các nhơn duyên hòa hiệp mà sanh, nếu có các pháp do các nhơn duyên hòa hiệp mà thành, nơi các pháp ấy đều có thể biết rõ. Nếu có các pháp nhơn duyên hòa hiệp do nhiều thứ tánh tương ưng nhau mà khởi, nơi các pháp ấy cũng có thể biết rõ, cũng không chấp trước mà tùy thuận biêt rõ. Tướng thi thiết của tất cả pháp cũng có thế biết rõ, hoặc là tướng hoặc là vô tướng cũng biết rõ

Các giới sai biệt, các giới nhiều thứ tánh tướng sai biệt cũng có thể biết rõ lấy gì làm nhơn.

Chẳng dùng phiền não để thân cận hướng đến các pháp duyên khởi.

Ở nơi pháp thế gian, pháp xuất thế gian, chẳng có chống trái mà tùy thuận biết rõ.

Tất cả pháp thế gian và pháp xuất thế gian, tướng ấn thế gian, đều khắp biết rõ.

Dùng một pháp môn mà có thể biết rõ tất cả pháp môn. Dùng tất cả pháp môn lại có thể biết rõ một pháp môn.

Chẳng dùng các pháp môn để thân cận một pháp môn, cũng chẳng dùng một pháp môn để thân cận các pháp môn. Pháp môn như vậy đều có thể tịnh trị cả.

– Nầy Vô Biên Huệ! Ở trong các phap ấy, chư đại Bồ Tát siêng tu tập, dùng một môn lý thú ngôn giáo mà có thể biết rõ tất cả các pháp tánh đồng một vị, ở nơi các pháp được thắng vô tránh như lý tịch tịnh, chẳng còn chống trái, có thể ở giữa đại hội khen nói pháp ấy, siêng năng tu tập được nhứt thiết pháp hải ấn tam muội. Tu tập như vậy, hoặc có tránh luận hoặc không tránh luận đều làm cho tịch tịnh, như lý mà an trụ, tùy thuận dứt trừ kiêu mạn và phóng dật, ở nơi giáo thuyết quyết định có thể khéo thọ trì, những danh ngôn sai biệt cũng có thể biết rõ, với pháp giới lý thú thì phương tiện siêng tu, nơi các pháp môn khéo yên lặng gẫm nhớ sẽ dùng pháp gì tương ưng với pháp gì hoặc là chẳng tương ưng, có thể dùng phương tiện nơi nghĩa quyết định an trụ thanh tịnh niệm.

– Nầy Vô Biên Huệ! Ở nơi pháp môn ấy, chư đại Bồ Tắt an trụ như vậy, dùng chút ít gia hạnh được nhứt thiết pháp hải ấn tam muội. Dùng vô lượng pháp hải ấn tam muội ấy để hướg đến Vô thượng Bồ để “.

Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:

“Ông xem tất cả pháp
Chảy vào trong pháp giới
Các pháp đồng pháp giới
Lý thú đều bình đẳng
Lại xem nơi pháp giới
Chảy vào trong pháp giới
Pháp giới đồng các pháp
Lý thú cũng bình đẳng
Chẳng ở trong pháp giới
Quan sát tất cả pháp
Cũng chẳng rời pháp giới
Mà thấy tất cả pháp
Chằng ở trong các pháp
Quan sát nơi pháp giới
Cũng chẳng rời các pháp
Mà thấy nơi pháp giới
Biết rõ các thứ giới
Pháp giới các thứ tánh
Tất cả pháp hòa hiệp
Thiện xảo không chổ trụ
Tất cả thời và xứ
Các thứ tánh hòa hiệp
Không trụ không sở y
Cũng không có sở thủ
Hòa hiệp tánh sai biệt
Phân biệt chẳng phân biệt
Nơi hai ấy đều không
Người trí thấy bình đẳng
Vì biết một hòa hiệp
Nên biết các hòa hiệp
Vì biết các hòa hiệp
Nên biết một hòa hiệp
Hòa hiệp chẳng hòa hiệp
Một tánh sai biệt tánh
Chẳng thân cận phân biệt
Cũng không chấp không trước
Biết rõ tất cả pháp
Pháp ấy không hòa hiệp
Cũng chẳng niệm hòa hiệp
Không chấp không sở trước
Biết rõ tất cả chủng
Tướng thi thiết của nó
Cũng chẳng niệm thân cận
Không chấp không sở trước
Nghiệp và nghiệp quả báo
Tất cả đều biết được
Nơi ấy chẳng chống trái
Ðây là người tinh tiến
Nghiệp và kẻ tác nghiệp
Tướng hòa hiệp của hai
Biết tướng vô tướng ấy
Ðây là người tinh tiến
Nơi các giới hòa hiệp
Các giới tánh sai biệt
Biết nó thường bình đẳng
Ðây là người tinh tiến
Tướng nhơn quả hệ thuộc
Tất cả đều biết được
Nơi các duyên pháp ấy
Mặc giáp như lý trụ
Biết được pháp xuất thế
Nơi các pháp thế gian
Không có chút trái nhau
Trụ bình đẳng như vậy
Cũng biết pháp thế gian
Nơi các pháp xuất thế
Cũng không chút trái nhau
Trụ bình đẳng như vậy
Thế gian chỗ nên làm
Tất cả các tướng ấn
Tùy thuận hay quan sát
Trụ bình đẳng biết khắp
Hay dùng một pháp môn
Biết rõ các pháp môn
Cũng dùng các pháp môn
Biết rõ một pháp môn
Chẳng dùng một pháp môn
Thân cận các pháp môn
Chẳng dùng các pháp môn
Thân cận một pháp môn
Trong tất cả pháp môn
Bình đẳng khắp thanh tịnh
Nơi pháp không dị tướng
Ðây là người quan sát
Nơi các pháp ngôn giáo
Mà hay bình đẳng nói
Thường trụ tánh bình đẳng
Ðây là người quan sát
Nơi các pháp ngôn giáo
Như lý hay thấy biết
Bèn được khéo tương ưng
Ðây là người phương tiện
Chẳng phát khởi tránh luận
Chẳng làm duyên tránh luận
Tất cả chẳng trái nhau
Ðây là người tương ưng
Thường phát khởi vô tránh
Vô tránh được tương ưng
Bình đẳng chẳng trái nhau
Ðây là người trí huệ
Ở trong pháp lý thú
Dứt hẳn các tránh luận
Mặc giáp như lý tu
Ðây là người dũng mãnh
Khắp quan sát như vậy
Thuần một không trái cãi
Ðược ở trong pháp hội
Khen nói pháp vô thượng
Chư Bồ Tát nhu vậy
Thành tựu tất cả pháp
Ðại hải ấn tam muội
Ðây là người chánh niệm
Siêng tu tập như vậy
Thuần một không trái cãi
Dứt tránh luận tương ưng
Thành tựu tam muội ấy
Như lý mà an trụ
Hăy biết thuyết bí mật
Biết ngã và ngã mạn
Dứt mạn tuyệt căn cao
Trong ngôn giáo quyết định
Thành tựu thiện phương tiện
Cũng biết danh sai biệt
Ðây là người có trí
trong các pháp lý thú
Như lý siêng tu tập
Hay thấy các pháp môn
Ðây là người thấy pháp
Siêng tu tập như vậy
Hay biết tất cả pháp
Pháp gì cùng tương ưng
Pháp gì chẳng tương ung
Trong tất cả các pháp
Người niệm nghiệp thanh tịnh
Ðược ở nghĩa quyết đinh
Mà được thiện phương tiện
trong tất cả các pháp
Người tinh tiến tư duy
Biết rõ tất cả pháp
Mới được tam muội ấy”.
Ðức Phật phán tiếp: “Lại nầy Vô Biên Huệ Ở trong pháp ấy, chư Ðại Bồ Tát siêng tu tập lại có pháp năng nhiếp tam muội.

Lắng nghe lắng nghe! Ông phải khéo suy nghĩ. Ta sẽ giải thuyết cho”.

Ngài Vô Biên Huệ Ðại Bồ Tát bạch: “Vâng! Bạch Ðức Thế Tôn! Con xin muôn được nghe.

Ðức Phật phán: “Nầy Vô Biên Huệ! Chư đại Bồ Tát có môn pháp quang minh có thể xuất sanh chư pháp lý thú thiện xảo phương tiện, cũng hay xuất sanh tất cả pháp ấn, hay nhập môn tất cả pháp ấn. Nơi tất cả pháp chỗ đáng được làm thì có thể biết có thể vào. Nơi pháp quang minh có thể được có thể nói. Dùng pháp quang minh tùy thuận thẳng vào môn chư pháp cú.

Gì gọi là môn pháp quang minh mà có thể xuất sanh thiện xảo quang minh?

Ðó là hay biết rõ giáo môn dị danh, giáo môn bí mật, sự môn dị danh, sự môn nhiếp thủ, các môn sai biệt.

Thế nào ở nơi đó mà được biết rõ thì có thể xuất sanh môn tam muội, môn tất cả pháp giới lý thú, nhập vào nơi một nghĩa có thể tùy theo biết rõ các pháp quang minh.

– Nầy Vô Biên Huệ! Nơi các pháp lý thú thiện xảo phương tiện thâm thâm ấy, chư đại Bò Tát hoặc hiện nay tu hành, hoặc sẽ tu hành, hoặc hiện nay cầu, hoặc sẽ cầu, nghe pháp môn ấy dùng chút ít gia hạnh được đại quang minh nhập vào các pháp môn. Từ pháp môn ấy lại phát khởi quang minh. Dùng quang minh ấy tùy theo pháp môn nào, tùy theo sở hành nào đáng vào đáng làm. Như pháp môn ấy, dùng sức tam muôị quan sát các pháp môn, nơi môn tam muội xuất sanh trí huệ mà có thể biết rõ lý thú như thiệt. Vì sức tam muội, vì quan sát pháp môn, vì sanh trí huệ, dùng môn tam muội biết rõ pháp giới an trrụ thiện phương tiện hay phát khởi quang minh tất cả pháp môn, được tất cả pháp hải ấn tam muội.

– Nầy Vô Biên Huệ! Thế nào là pháp môn?

Ðó là ấn chữ A, ấn tất cả pháp vô minh làm ra. Công hạnh được viên mãn, chữ A làm đầu.

Vì ngăn dứt vô minh không có sở tác, nên chư đại Bồ Tát phải nhập vào ấn môn vô tướng.

Dùng ấn chữ Ả, ấn tất cả pháp nghiệp dị thục quả, nghiệp chỗ làm ra nghiệp quả hòa hiệp, vì biết rõ nghiệp quả hòa hiệp duyên, nên chư Ðại Bồ Tát phải nhập vào ấn môn vô duyên không nghiệp không quả không hòa hiệp.

Dùng ấn các hành ấn tất cả pháp, vì phát khởi tất cả pháp trí quang minh nơi các thứ nghiệp, nghiệp chỗ làm ra, nên chư đại Bố Tát phải nhập vào ấn môn tất cả các hành thiện xảo, dùng ấn chữ NẢ ấn tất cả pháp.

Dùng chữ MẠ trợ giúp thi thiết danh môn, dùng các thứ pháp mà làm tương ưng, vì biết rõ NẢ và MẠ trợ giúp lẫn nhau nên chư Ðại Bồ Tát phải nhập vào ấn môn vô hiệp vô trợ vô danh.

Dùng ấn vô biên ấn tất cả pháp, tất cả phân biệt là bất khả đắc, vì rời phân biệt, nên chư Ðại Bồ Tát phải nhập vào ấn môn vô phân biệt.

Dùng ấn vô tế ấn tất cả pháp tế chẳng hòa hiệp, vì tận nơi tế, nên chư đại Bồ Tát phải nhập vào ấn môn vô tầm vô từ vô ngôn thuyết.

Dùng ấn không các thứ tự tánh ấn tất cả pháp, vì dùng tướng khởi tác của một tự tánh dứt trừ các thứ tự tánh tưởng, nên chư đại Bồ Tát phải nhập vào ấn môn chủng chủng tự tánh.

Dùng ấn muốn tương ưng hòa hiệp ấn tất cả pháp, vì hiện khởi hữu vi các công hạnh viên mãn ly dục tịch tịnh không hòa hiệp, nên chư Ðại Bồ Tát phải nhập vào ấn môn trí tận tham dục thấy không hòa hiệp.

– Nầy Vô Biên Huệ! Ðó là ấn môn đại Bô Tát ấn tất cả pháp. Do ấn môn nầy mà phải nhập vào trong tất cả pháp.

– Nầy Vô Biên Huệ! Lại còn có môn vô chướng ngại, môn vô hòa hiệp, mà chư Ðại Bồ Tát phải tùy theo ngộ nhập.

Thế nào là môn vô chướng ngại, môn vô hòa hiệp? Dùng hư không ấn ấn tất cả pháp, nên chư đại Bồ Tát phải nhập vào ấn môn vô trước.

Dùng ấn không nhàn ấn tất cả pháp, nên chư đại Bồ Tát phải nhập vào ấn môn vô nhị.

Dùng ấn tịch tịnh ấn tất cả pháp, nên chư Ðại Bồ Tát phải nhập vào ấn môn chỉ tức.

Dùng ấn vô môn ấn tất cả pháp, nên chư Ðại Bồ Tát phải nhập vào ấn môn bất động.

Dùng ấn vô xứ ấn tất cả pháp, nên chư đại Bồ Tát phải nhập vào ấn môn vô nhiễm.

Dùng ấn tánh không ấn tất cả pháp nên chư đại Bồ Tát phải nhập vào ấn môn vô đắc.

Dùng ấn vô tướng ấn tất cả pháp, nên chư Ðại Bồ Tátphải nhập vào ấn môn thiện xảo tu tập phương tiện.

Dùng ấn vô nguyện ấn tất cả pháp, nên chư đại Bồ Tát phải nhập vào ấn môn thiện tịch tịnh nguyện quang minh.

Dùng ấn vô tham ấn tất cả pháp, nên chư đại Bồ Tát phải nhập vào ấn môn khắp biết phân biệt như thiệt.

Dùng ấn vô sanh ấn tất cả pháp, nên chư đại Bồ Tát phải nhập vào ấn môn sanh chánh trí thấy vô sanh.

Dùng ấn tịch diệt ấn tất cả pháp, nên chư Ðại Bồ Tát phải nhập vào ấn môn ly uẩn.

Dùng ấn tận tướng ấn tất cả pháp, nên chư Ðại Bồ Tát phải nhập vào ấn môn sanh tận.

Dùng ấn pháp giới ấn tất cả pháp, nên chư đại Bồ Tát phải nhập vào ấn môn hiển hiện pháp giới thiện xảo.

Dùng ấn vô niệm ấn tất cả pháp, nên chư đại Bồ Tát phải nhập vào ấn môn thiệt vô phân biệt bình đẳng.

Dùng ấn ly tánh ấn tất cả pháp, nên chư Ðại Bồ Tát phải nhập vào ấn môn biết khắp tất cả tự tánh.

Dùng ấn Niết Bàn ấn tất cả pháp, nên chư đại Bồ Tát phải nhập vào ấn môn như thiệt tịch tịnh thuận diệt.

– Nầy Vô Biên Huệ! Ðó là chư Ðại Bồ Tát ở nơi môn tất cả pháp vô chướng ngại, môn chẳng hòa hiệp, môn vượt quá tất cả đọan kiến thường kiến, môn vô biên tế, môn tiền hậu tế, vì yểm ly vậy, vì tịch diệt vậy, vì chỉ tức vậy, vì thanh lương vậy.

Chư đại Bồ Tát ở nơi ấn môn tất cả pháp ấy tùy học tùy nhập. Vì khéo tu hành các pháp môn ấy mà được nhứt thiết pháp hải ấn tam muội.

Tam muội ấy tương ưng với ly như thiệt có thể nhiếp trí chư pháp thiện phương tiện.

Vì thế nên với ấn môn ấy, chư Ðại Bồ Tát phải khéo tu hành, an trụ nơi nhứt thiét pháp hải ấn tam muội quan sát tất cả pháp mà có thể xuất sanh vô lượng vô biên ánh sáng đại pháp.

– Nầy Vô Biên Huệ! Ví như biển lớn, nước nhiều vô lượng, không ai có thể lường được dung lượng ấy.

Tất cả pháp cũng như vậy, trọn không có ai đo lường được.

Lại như biển lớn, tất cả các dòng nước đều chảy vào trong ấy.

Tất cả các pháp vào trong pháp ấn cũng như vậy. Thế nên gọi là hải ấn, ấn tất cả pháp đều vào trong tất cả pháp hải ấn, ở trong ấn ấy thấy tất cả pháp đồng pháp ấn.

Lại như đặi long và các chúng rồng, các chúng thân to lớn có được biển lớn vào được biển lớn, nơi biển lớn ấy dùng làm chỗ ở.

Cũng vậy, chư Ðại Bồ Tát ở nơi vô lượng trăm ngàn kiếp khéo tu các công hạnh mới nhập được ấn môn tam muội ấy, dùng ấn môn ấy làm trụ xứ, vì muốn chứng được các Phật pháp, vì khéo viên mãn Nhứt thiết trí nên thành tựu các pháp ấn môn như vậy.

Lúc chuyên cần tu học pháp môn ấy, chư Ðại Bồ Tát có thể tu học tất cả pháp môn và thấy tất cả pháp môn.

Vì ở tại pháp môn ấy nên có thể phát khởi ánh sáng các pháp, vào trong biển tất cả pháp.

Vì thế nên pháp ấy gọi là nhứt thiết pháp hải ấn tam muội.

Lại như biển lớn là chỗ chứa họp những trân bửu lớn.

Cũng vậy, tam muội ấy là chỗ chứa họp tất cả pháp và pháp thiện xảo.

– Nầy Vô Biên Huệ! Nếu có chúng sanh nào vì được tri kiến vô thượng của Phật, với tam muội ấy, hoặc đã cầu, hoặc sẽ cầu, hoặc hiện nay cầu, thì người ấy có thể cầu trí huệ nhứt thiết pháp hải viên mãn.

Do nghĩa ấy nên ta đem pháp ấn ấy phó chúc nơi ông.

Ðời mạt thế năm trăm năm sau, lúc chánh pháp diệt, ông dùng pháp ấn ấy để ấn các chúng sanh.

Vì chúng sănh nào được pháp ấn ấy ấn cho thì đều được chẳng thối chuyễn nơi Vô Thượng Bồ Ðề, thành tựu Phật pháp chóng ngồi đạo tràng chuyễn pháp luân vô thượng nối thạch giống Phật, tùy thuận an trụ nơi bực nhứt thiết trí, có thể ở nơi Ðại bát Niết Bàn vô thượng mà bát Niết Bàn, khiến hàng Trời, Người thọ trì chánh pháp.

– Nầy Vô Biên Huệ! Nếu chư Ðại Bồ Tát muốn nhiếp lấy vô lượng công đức thù thắng như vậy, thì ở nơi pháp thậm thâm ấy phải chuyên cần ưa thích và không phóng dật.

– Lại nầy Vô Biên Huệ! Ta nhớ thuở xưa quá vô lượng a tăng kỳ kiếp, lại quá bội số ấy, có Ðức Phật ra đời hiệu là Siêu Quá Tu Di Quang Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn.

Kiếp ấy tên là Thiện Trụ. Quốc độ tên là Duyệt Ý.

Trong kiếp ấy, chúng sanh thọ mạng chẳng hạn lượng được, an ổn giàu đủ, đều an trụ nơi thiện pháp. Vì thế mà kiếp ấy có tên là Thiện Trụ.

Cõi nước ấy rộng rãi nghiêm sức nhiều thứ đẹp lạ, người thấy đều vui hòa đẹp dạ, hương thơm lan khắp mọi nơi. Vì thế nên quốc độ ấy có tên là Duyệt Ý.

Trong bốn châu thiên hạ, ba châu đồng rộng tám muôn do tuần, trong mỗi châu có hai vạn thành. Mỗi thành rộng mười do tuần.

Chỉ có châu Diêm Phù Ðề rộng một câu chỉ do tuần, có tám vạn thành, mỗi thành rộng hai mươi do tuần, những lâu đài tường rào khắp nơi, các thứ y thọ, vị thọ, hoa thọ, quả thọ, bửu đa la thọ trang nghiêm thành ấp.

Trong nước ấy lại có tòa đô thành rộng rộng trăm do tuàn, hai muôn khu vườn bao bọc quanh thành. Trong các khu vườn có những đầm ao đầy nước trong mát, hoa đẹp trái ngọt sum suê, hương thơm la µn khắp làm đẹp ý mọi người, chim muông hót kêu hòa nhã.

Thuỡ ấy Ðức Phật Siêu Quá Tu Di Quang Vương Như Lai ngụ trong một khu vườn thuyết pháp cho đại chúng.

– Nầy Vô Biên Huệ,! Ðức Siêu Quá Tu Di Quang Vươong Như Lai thọ mười tiểu kiếp. Sau khi Ðức Phật ấy diệt độ, chánh Pháp trụ thế mãn một tiễu kiếp.

Thuở ấy, Ðức Phật Siêu Quá Tu Di Quang Vương thuyết pháp bốn hội. Mỗi pháp hội các chúng Thanh Văn trụ bực hữu học đều cớ năm trăm câu chi na do tha. Chư a la hán và chư Bồ Tát đều có năm mươi câu chi na do tha.

Ðức Như Lai ấy có hai vị Bồ Tát tên Dũng Mãnh Quân và Dũng Mãnh Lực.

Hai vị Bồ Tát ấy đầy đủ thần thông, được vô sanh nhẫn. Hai vị tiến lên bạch Ðức Phật ấy rằng:

Bạch Ðức Thế Tôn! Dùng những pháp gì để thành tựu nhứt thiết pháp hải ấn tam muội của Ðại Bồ Tát?

Ðức Phật ấy đem cú môn này mà rộng tuyên thuyết. Lúc nói pháp ấy, có mưòi ngàn Bồ Tát được vô sanh nhẫn. Hai vị Bồ Tát Dũng Mãnh Quân và Dũng Lực chứng nhất thiết pháp hải ấn tam muội và chứng nhứt tam muội và chứng tất cả tam muội của Bồ Tát. Do chứng như vậy, hai vị Bồ Tát ấycó thể ở trong tất cả Phật độ hiển hiện thần thông biến hóa, phóng ánh sáng lớn, phát diệu âm thanh tịnh thuyết pháp cho chúng sanh và thành thục được tám câu chi người hứơng đến Vô Thượng Bồ Ðề.

Ðức Siêu Quá Tu Di Quang Vương Như Lai thọ ký cho hai vị Bồ Tát ấy quá một trăm kiếp ấy, mỗi mỗi kiếp đều cúng dường phụng thờ năm trăm Như Lai. Nơi chánh pháp của chư Như Lai ấy, sơ thời, trung thời và hậu thời đều có thể thọ trì làm lợi ích lớn cho chúng sanh. Trong thời gian ấy thường nhứt tâm bất loạn, mỗi đời đều thọ hóa sanh, chẳng thối thất tam muội thần biến thuyết pháp độ các chúng sanh.

Quá trăm kiếp, hai vị Bồ Tát ấy lại gặp đức Vô Biên Công Ðức Như Lai, cúng dường thân cận, khéo hay du hí vô lượng tam muội thần biến giải thóat. Ở chỗ đức Vô Biên Như Lai, hai vị Bồ Tát ấy có tên là Ly Ưu và Thiện Trụ, theo Ðức Như Lai chuyển chánh pháp luân, giáo hóa vô lượng vô số chúng sanh cho an trụ bực tam thừa. Ðức Như Lai ấy lại thọ ký rằng:

Sau khi ta diệt độ, Ly Ưu sẽ chứng Vô thượng Bồ Ðề hiệu là Tối Thắng Quang Minh Như Lai. Hai Ðức Như Lai ấy đồng thọ một kiếp. Quốc độ chứa họp vô lượng công đức.

– Nầy Vô Biên Huệ! Nếu chư Ðại Bồ Tát nhứt thiết pháp hải ấn tam muội thì phải phát tâm lòng ưa thích, khởi đại tinh tiến chẳng tiếc thân mạng, dùng chẳng pháong dật để tu hành”.

Lúc đó trong đại chúng lại có Ðại Bồ Tát tên là Huệ Nghĩa rờichỗ ngồi tiến lên bạch rằng:”Bạch Ðức Thế Tôn! Rất hi hữu, Ðức Thế Tôn vì muốn chư đại Bồ Tát được nhứt thiết pháp trí thiện xảo và được Như Lai Nhứt thiết trí, mà nói nhứt thiết pháp tam muội.

Bạch Ðức Thế Tôn! Nếu Ðại Bồ Tát được nhứt thiết pháp hải ấn tam muội thì quyết định sẽ được chư pháp lý thú thiện xảo phương tiện, mau đến đạo tràng dùng biển lớn vô biên công đức ấy mà hướng đến Vô Thượng Bồ Ðề, cùng tăng đồng hàng. Có thể tiêu được sự cúng dường Như Lai tối thượng, vượt quá bực Thanh Văn, Bích chi Phật.

Ðức Thế Tôn phán bảo Huệ Nghĩa Ðại Bồ Tát: ” đúng như lời ông nói. Nầy Huệ Nghĩa! Chư Ðại Bồ Tát được nhứt thiết hải ấn tam muội thì được vô lượng công đức thù thắng. Nếu an trụ ở nhứt thiết pháp hải ấn tam muội, thì có thể dùng chư pháp lý thú thiện xảo phương tiện quyết định hướng đến Vô Thượng Bồ Ðề.

– Nầy Huệ Nghĩa! Ví như núi Tu Di Vương do các chất báu hiệp thành, mọc lên từ đại hải, cao tám muôn bốn ngàn do tuần đứng sừng sững chói sáng.

Cũng vậy, chư Ðại Bồ Tát do tam muội ấy khéo hướng đến phát xuất từ biển lớn tạng nhứt thiết pháp chói che tất cả, an trụ vô thượng, trong Trời Người thế gian rất tột sáng chói.

Lại như mặt trăng tròn sáng, tinh tú bao quanh.

Cũng vậy, chư Ðại Bồ Tát có thể ở trong tất cả đại chúng Trời Người thế gian làm ánh sáng lớn.

– Nầy Huệ Nghĩa! Ông xem pháp ấy có ai là chẳng ưa thích, chẳng phát khởi tinh tiến mà lại phóng dật! Chỉ trừ những chúng sanh hạ liệt phước bạc. Nếu các chúng sanh có đại trí huệ thì có thể thành tựu pháp rộng lớn ấy. Pháp rộng lớn ấy đầy đủ công đức được chư Ðại Bồ Tát nhiếp thủ như ta đã nói. Nếu có thể nhiếp được pháp tài rộng lớn ấy thì được sự thị vệ của hàng Trời và Người, và sự hộ niệm của mười phương chư Phật, chư Ðại Bồ Tát “.

Ðức Thế Tôn bảo ngài Vô Biên Huệ Ðại Bồ Tát: ” Nầy Vô Biên Huệ! Nếu siêng tu học pháp ấy, chư Ðại Bồ Tát có thể làm lợi ích lớn cho chúng sanh, trừ hết tất cả sự nghi hoặc, giải tất cả kiết sử, dứt bỏ các tập khí, đọan trừ các phiền não, vượt những tham ái, qua khỏi biển sanh tử, diệt hẳn tối tăm, rời hẳn kinh sợ, mau dùng thiện xảo biết được tâm của tất cả chúng sanh “.

Nói lời ấy xong, Ðức Thế Tôn phóng ánh sáng lớn. Ánh sáng ấy chiếu khắp vô số thế giới, sáng hơn cả ánh sáng của tất cả mặt trời mặt trăng.

Phóng ánh sáng ấy rồi, Ðức Phật lại phán: “Nầy Vô Biên Huệ! Chư Ðại Bồ Tát nếu có thể siêng tu hải ấn tam muội, cũng hiện đại thần biến, phóng đại quang minh, làm đại su tử hống diễn thuyết pháp ấy, vượt quá tam giới làm đại chiếu minh như ta ngày nay không khác”.

Ngài Vô Biên Huệ Ðại Bồ Tát bạch rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Ngưỡng mong Ðức Như Lai gia trì pháp ấy. Ðời mạt thế, nếu có chúng sanh nào nghe tên pháp ấy sẽ được vô lượng vô biên công đức.”

Bấy giờ vì muốn gia trì pháp môn ấy, Ðức Thế Tôn lại phóng quang minh, lấy một ngón tay làm chấn động khắp cõi Ðại Thiên khiến các chúng sanh được an lạc. Liền dó trong pháp hội, hàng Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già rãi hoa trời, y trời. Các kỹ nhạc trời đồng thời hòa tấu. Vô lượng chư Thiên tay cầm y trời phất phới đầy trong hư không đồng thanh xướng rằng: Lạ thay, lạ thay! Cảnh giới chư Phật chẳng thể nghĩ bàn. Nếu có ai thọ trì pháp ấy thì kham thọ sự cung kính lễ lạy của tất cả chúng sanh.

Bấy giờ Ðức Thế Tôn lại phán rằng: “Nầy Vô Biên Huệ! Thời kỳ mạt pháp, chúng sanh bạc phước chẳng được nghe giáp trụ trang nghiêm và tam muội trang nghiêm ấy. Nếu có chúng sanh nào có thiện phương tiện nhiếp đại tư lương mới được nghe.

Nếu ở nơi pháp ấy, ai siêng tu hành thì được tam thế chư Phật Thế Tôn nhiếp thọ.

– Nầy Vô Biên Huệ! Thời kỳ đại bố úy thuở mạt thế, pháp môn nầy ta phó chúc các ông. Ta ở trong vô số câu chi na do tha kiếp chứa họp các tạng pháp bảo vô thượng đầy đủ công đức vô biên an lạc, hiện nay các ông đều đã được, tất cả khổ uẩn các ông đều đã xả bỏ. Các ông dùng biển lớn vô biên công đức để chóng đến Vô Thượng Bồ Ðề.”

Ngài Vô Biên Huệ Ðại Bồ Tát cùng năm trăm đại Bồ Tát và các cư sĩ Hiền Hộ thương chủ làm thượng thủ đồng đảnh lễ chưn Ðức Phật, bạch rằng: ” bạch Ðức Thế Tôn! Chúng tôi tùy theo năng lực mà thọ trì pháp đại Bồ Ðề của Ðức Như Lai để làm lợi ích lớn cho các chúng sanh đời mạt thế .”

Chư đại Bồ Tát đều rời chỗ ngồi đem những hoa đẹp rãi trên Ðức Phật, cởi diệu y trên thân dâng lên cúng dường mà bạch rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Chúng tôi đem thiện căn nầy hồi hướng cho tất cả chúng sanh. Nguyện cho tất cả chúng sanh đều được viên mãn pháp Bồ Ðề phần thành tựu nhứt thiết chủng trí của Như Lai. Nguyện cho chúng sanh đời mạt thế đều thành tựu tât cả thiện căn”.

Vì muốn tất cả Ðại Bồ Tát hoan hỷ, Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:

“Vì tất cả chúng sanh
Phát khởi lợi ích lớn
Trì Phật Bồ Ðề pháp
Pháp Vương sư tử hống
Trong đời mạt thế sau
Nếu những người cầu pháp
Nghe pháp rộng lớn ấy
Tất cả được an lạc
Như ta đã từng nói
Nếu người thấy pháp ấy
Nghe được khế kinh ấy
Thì được tùy ý thích
Nếu có người trí huệ
Tu tập thiện phương tiện
Nghe pháp tối thượng ấy
Thân tâm rất vui mừng
Nếu ở pháp hội nầy
Hiện tiền thấy ta nói
Ðược nghe pháp ấy rồi.
Khéo có thể ưa thích
Trong đời mạt thế sau
Sanh phước lớn cho ông
Vô số vô biên lượng
Rộng lớn không ngằn mé
Trong đời mạt thế sau
Nếu ai thọ trì được
Pháp của Pháp Vương nói
Ðược Ðức Phật nhiếp thọ
Trong đời mạt thế sau
Trì pháp Phật Bồ Ðề
Chính là người tối hậu
Trì pháp vô lượng Phật”.
Lúc đức Thê Tôn nói pháp ấy rồi, có vô lượng Bồ Tát được vô sanh nhẫn, vô lượng chúng sanh thành thục thiện căn.

Ngài Vô Biên Huệ Ðại Bồ Tát và chư đại Bồ Tát, tất cả thế gian, Trời, Người, A Tu La v. v…nghe lời dạy của Ðức Phật đều rất vui mừng tín thọ phụng hành

TẬP 1 – I. Pháp Hội Tam Tụ Luật Nghi Thứ Nhất TẬP 2 – VI. Pháp Hội Bất Động Như Lai Thứ Sáu 1. Phẩm Thọ Ký Trang Nghiêm TẬP 3 – XII. Pháp Hội Bồ Tát Tạng Thứ Mười Hai 1. Phẩm Khai Hóa Trưởng Giả TẬP 4 – XIII. Pháp Hội Phật Thuyết Nhân Xử Thái Thứ Mười Ba TẬP 5 – XVII. Pháp Hội Phú Lâu Na Thứ Mười Bảy 1. Phẩm Bồ Tát Hạnh TẬP 6 – XXVI. Pháp Hội Thiện Tý Bồ Tát TẬP 7 – XLI. Pháp Hội Di Lặc Bồ Tát Vấn Bát Pháp TẬP 8 – LII. Pháp Hội Bửu Nữ TẬP 9 – LVII. Pháp Hội Bất Khả Thuyết Bồ Tát